TIN LÀ SẴN SÀNG SỐNG THEO LỜI CHÚA KÊU GỌI

Đức tin không chỉ là lời tuyên xưng, mà là hành trình sống tỉnh thức và trung tín, trong niềm hy vọng được hứa và kho tàng đích thực nơi quê trời, vì: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Hípri 11: 1)

  1. Đêm của niềm tin

Đêm xuất hành của dân Israel là đêm kỳ lạ: một bên là cái chết của các con đầu lòng của người Ai Cập, một bên là máu chiên bôi trên cửa nhà dân Chúa, dấu hiệu cứu thoát. Nhưng trên tất cả, đó là đức tin. Đó không chỉ là một đêm trong lịch sử, mà là một đêm của niềm tin: “Đêm ấy đã được báo trước cho cha ông chúng con, để khi biết chắc lời hứa mình tin là lời hứa nào các ngài thêm can đảm” (Kn 18: 6).

Chính là đức tin: tin vào Lời hứa của Đấng đã từng thề với Abraham, với Isaác, với Giacóp; tin rằng “đêm cứu thoát người chính trực và tiêu diệt kẻ địch thù” (Kn 18,7). Đức tin ấy không phải là mù quáng. Đó là “bằng chứng cho những điều ta không thấy”, là ánh sáng dẫn lối qua bóng tối dày đặc. Dân Chúa ra đi trong đêm, không vũ khí, không ngựa xe, chỉ có đức tin và lòng phó thác.

Đức tin không ẩn mình trong bóng tối và u ám; nó là ánh sáng soi rọi bóng tối của chúng ta…Đức tin chính là ánh sáng, bởi vì một khi ngọn lửa đức tin lụi tàn, mọi ánh sáng khác cũng bắt đầu lu mờ. Ánh sáng đức tin là độc nhất vô nhị, bởi nó có khả năng soi sáng mọi khía cạnh của sự tồn tại con người. Một ánh sáng không đến từ chính chúng ta nhưng đến từ Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mặc khải tình yêu của Ngài, một tình yêu đi trước chúng ta và là nơi chúng ta có thể nương tựa để được an toàn và xây dựng cuộc sống” (Thông điệp Lumen Fidei của ĐTC Phanxicô, số 4, 2013).

Tác giả thư Do Thái đã khắc họa hành trình đức tin của Abraham như khởi đầu cho mọi người: “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Hípri 11: 8). Đức tin là thế: không thấy rõ nhưng vẫn bước đi, không chắc chắn nhưng vẫn tin tưởng. Abraham sống trong lều, như một lữ hành, vì “Ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng” (Hípri 11: 10).

Abraham không hiểu tại sao Thiên Chúa lại yêu cầu điều ấy. Nhưng ông không dừng lại ở những gì mình hiểu. Ông không hiểu hết ý Chúa, nhưng vẫn bước đi. Đức tin không loại bỏ lý trí, nhưng vượt qua giới hạn của lý trí để đặt trọn niềm tin vào Đấng hằng sống.

Không có đức tin nào không trải qua thử thách. Abraham không chỉ tin lúc ra đi, mà còn tin khi phải hiến tế Isaac: “Nhờ đức tin, khi bị thử thách, Abraham đã hiến tế Isaac; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một” (Hípri 11:17) vì: “Ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy” (Hípri 11:19).

Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ: “Đức tin trở thành lịch sử trong cuộc đời của Abraham. Nghĩa là, bằng cuộc sống và gương mẫu của ông, Abraham dạy cho chúng ta cuộc hành trình này, con đường mà qua đó đức tin làm nên lịch sử. Thiên Chúa của Abraham trở thành “Thiên Chúa của tôi”, Thiên Chúa của lịch sử cá nhân của tôi, Đấng hướng dẫn bước chân tôi, Đấng không bỏ rơi tôi; Thiên Chúa của những ngày đời của tôi, người bạn đồng hành trong những cuộc phiêu lưu của tôi; Thiên Chúa Quan phòng” (Bài giáo lý về cầu nguyện, 03 tháng 6 năm 2020) [1]

Chúng ta, trong đời sống, cũng có những “Isaac”,  những điều quý giá Thiên Chúa mời gọi ta buông bỏ: một ước mơ, một tình cảm, một sự an toàn… Không phải để đánh mất, mà để tìm lại trong vinh quang phục sinh khải hoàn.

  1. Đức tin đã chiến thắng thế gian

Thư Do Thái cũng không quên nhắc đến bà Sara: “Nhờ đức tin, cả bà Sara vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Hípri11: 11). Bà từng cười nhạo ý nghĩ sẽ có con lúc đã già: “Mình đã cằn cỗi rồi, còn hưởng được vui thú nữa sao? Ông nhà mình lại là một ông lão!” (Stk 18:12), nay lại là biểu tượng cho niềm tin phục sinh: “Một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Hípri 11:12). Qua Sara, ta thấy nơi điều tưởng như không thể, Thiên Chúa vẫn hành động. Đức tin làm cho kẻ “đã hết hy vọng” trở nên mẹ của muôn dân.

Chính nơi những gì không thể, Thiên Chúa thực hiện điều phi thường. Và nơi những người tưởng như đã “hết thời”, Chúa vẫn khơi dậy một tương lai. Bà Sara là hình mẫu đức tin của kẻ tưởng như đã hết hy vọng.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nói: “Ai ở lại trong Thiên Chúa, ai được Thiên Chúa sinh ra, ai ở lại trong tình yêu, thì chiến thắng thế gian, và chiến thắng này là đức tin của chúng ta. Đối với chúng ta, đó là đức tin. Đối với Thiên Chúa, chính Chúa Thánh Thần làm cho chiến thắng này trở nên có thể nhờ đức tin. Sức mạnh của đức tin đã chiến thắng thế gian! Đức tin của chúng ta có thể làm được mọi sự!” (Đài phát thanh Vatican, 10 tháng 1 năm 2014) [2]

  1. Đức tin là hành trình

Hành trình đức tin không luôn mang đến thành công chóng vánh. Nhưng những người tin, dù không “nhận lãnh” điều hứa, vẫn vui mừng vì họ đã được thấy từ xa: “Mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy” (Hípri 11:13).

Họ nhìn đời này như “lữ khách”, không bám víu vào quê hương trần thế, vì họ khao khát “Một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời”, và chính điều ấy làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Vì thế, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài” (Hípri 11:16).

Đức tin được nối kết với việc nghe. Abraham không nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng nghe thấy tiếng Ngài…Lời nói với Abraham chứa đựng cả kêu gọi lẫn hứa hẹn. Trước nhất, đó là lời kêu gọi lìa bỏ quê hương, lời mời gọi đi tới một cuộc sống mới, khởi đầu cho một xuất hành sẽ hướng ông tới một tương lai không dự đoán được… Đức tin “thấy” bao lâu nó tiến bước, bao lâu nó quyết định bước vào các chân trời do lời Thiên Chúa mở ra” (Thông điệp Lumen Fidei của ĐTC Phanxicô, số 8, 9)

Darwin Ramos sinh năm 1994 tại một khu ổ chuột ở Pasay, Philippines. Là con thứ hai trong gia đình nghèo 9 người con, và có người cha nghiện rượu, cậu vẫn kiên nhẫn và yêu thương các em. Năm 7 tuổi, Darwin mắc bệnh loạn dưỡng cơ – Duchenne muscular dystrophy – khiến cơ bắp dần teo liệt, không đi học được. Dù không thể đứng vững, cha cậu bắt cậu ra ga xin tiền và cùng em gái nhặt rác kiếm sống. Tuy xấu hổ, nhưng vì muốn giúp gia đình nên Darwin không trách cha.

Năm 2006, Darwin được Quỹ “Tulay ng Kabataan” đưa về trung tâm trẻ khuyết tật. Tại đây, cậu được rửa tội, rước lễ và bắt đầu hành trình đức tin sâu sắc. Cậu gọi bệnh tật là “sứ mạng”, kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Một ngày nọ, cậu nói với vị linh mục của Quỹ: “Cha biết không, con nghĩ Chúa Giêsu muốn con kiên trì đến cùng, giống như Chúa đã làm.”

Darwin đã vun đắp một mối tương quan cá nhân sâu sắc với Chúa Kitô; không một ngày nào trôi qua mà cậu không dành thời gian để phó thác bản thân cho Chúa. Một người chăm sóc từ quỹ đã làm chứng: “Dù Darwin bị sốt, cậu đã nài nỉ được giúp ra khỏi giường để cùng mọi người ở trung tâm cầu nguyện buổi tối. Đối với cậu, Chúa Giêsu là trên hết mọi thứ.”

Cuối tháng 9 năm 2012, Darwin nhập viện vì suy hô hấp. Trên giường bệnh, cậu xin lỗi linh mục vì đã “làm phiền” và để lại lời cuối trong sổ tay: “Con cảm ơn rất nhiều. Con rất hạnh phúc.” Darwin qua đời sáng Chúa nhật, ngày 23.9.2012, ở tuổi 17. Cuộc đời ngắn ngủi của cậu là chứng tá sống động cho đức tin đơn sơ, trung tín và đầy phó thác giữa đau khổ. [3]

Thư Do Thái cho thấy đức tin là hành trình dấn thân dù chưa thấy kết quả. Tin Mừng Luca mời gọi đi xa hơn: sống đức tin trong tỉnh thức và trung tín. Chúa Giêsu nói: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Ngài cho anh em” (Lc 12: 32). Nước Trời không chỉ là phần thưởng, mà là trách nhiệm được trao, là kho tàng cần canh giữ trong tỉnh thức: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” (Lc 12: 35).

Đức tin không dừng lại ở niềm tin, mà là đời sống sẵn sàng đón Chúa trở về bất ngờ. Chúa Giêsu cảnh báo: “Nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín” (Lc 12: 45). Nguy hiểm không phải là lỗi lầm, mà là sống như thể Thiên Chúa không bao giờ trở lại. Đức tin đích thực thúc đẩy hoán cải hôm nay, không trì hoãn.

Đức Giáo hoàng Phanxicô từng đặt cho chúng ta những câu hỏi: “Tôi có bị ràng buộc với những gì mình có không, với những ý tưởng của riêng mình, khép kín vào chính mình không? Hay tôi mở lòng ra với Thiên Chúa của những điều bất ngờ? Tôi là một người đứng yên hay là một người đang bước đi trong cuộc hành trình? Tôi có tin vào Chúa Giêsu Kitô và những gì Ngài đã làm không?, nghĩa là tin rằng Ngài đã chết, đã sống lại không?” (Bài suy niệm buổi sáng tại nhà nguyện Thánh Mátta, thứ Hai, 13/10/2014).

Sống đức tin không phải nắm giữ một mớ kiến thức thuộc lòng, mà là ra đi khỏi lối nghĩ, lối hành xử, kế hoạch, toan tính của riêng mình, nhưng tỉnh thức và phục vụ. Như Abraham sẵn sàng hiến tế con mình, chúng ta được mời gọi dâng chính mình, trong niềm tin vào Thiên Chúa, như của lễ mỗi ngày. Lạy Chúa, xin cho con tin như Abraham, tỉnh thức như người đầy tớ, và sống mỗi giây phút như thời khắc Chúa trở lại. Amen.

Phêrô Phạm Văn Trung

 [1] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-06/dtc-phanxico-tiep-kien-chung-cau-nguyen-apraham.html

[2] https://www.indcatholicnews.com/news/23931?utm_source=chatgpt.com

[3] https://en.wikipedia.org/wiki/Darwin_Ramos?utm_source=chatgpt.com