3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Đức Tin

Maurice là một người nghiện rượu. Khi một linh mục đến thăm anh thì anh sống trong tầng hầm với con chó trong khi vợ anh sống trên căn gác. Về pháp lý, họ đã ly dị và chờ bán xong căn nhà để rồi chia tay.

Anh ta đã có một cuộc sống gian khổ. Hầu hết những rối loạn của anh bắt nguồn từ việc uống rượu mạnh. Anh nói hiện giờ anh uống chừng mực – nhưng nhiều người nghiện rượu vẫn nói thế. Có lần trong một cơn tuyệt vọng, anh đặt đầu súng vào miệng mình, nhưng khi nhìn thấy trên ngón tay mình chiếc nhẫn Mân Côi mà em gái anh cho anh, anh không thể bóp cò.

“Con vẫn còn tin Thiên Chúa” anh nói. Rồi nước mắt chảy trên khuôn mặt, anh nói tiếp “Nhưng con ao ước có được đức tin mà con đã có khi còn trẻ”.

“Điều gì làm cho đức tin ấy đẹp đến thế?”linh mục hỏi.

“Khi con còn trẻ, con đã tin tưởng mọi việc – rất nhiều việc. Con đã chắc chắn về mọi sự. Nhưng thứ đức tin ấy không kéo dài. Giờ đây, con không tin chắc điều con phải tin. Con tra hỏi mọi việc. “ Anh ngừng lại sau đó buồn bã nói tiếp: “Có thể vợ con và con sẽ sống chung trở lại. Nhưng con đã làm mất tình cảm mà con đã có với cô ấy”.

“Anh đã đau khổ nhiều phải không Maurice?” linh mục nói.

“Cha khỏi phải nói điều đó”, anh đáp.

“Anh có cảm thấy Thiên Chúa ở với anh trong suốt những năm anh say sưa?” linh mục hỏi.

“Con cảm thấy điều đó, có lẽ trừ lúc con định tự tử. Con đã cảm thấy bị bỏ rơi đến tận cùng”.

Ở đây, người ta có thể cảm nhận phần nào nỗi cô đơn và đau buồn xé ruột nằm sâu trong mỗi con người mà đức tin đã mất. Tuy nhiên, đức tin của Maurice không hoàn toàn mất. Một vài sự vật bên ngoài đã bị cắt xén. Nhưng vẫn còn cái lời bên trong, đó là niềm xác tín rằng Thiên Chúa hiện hữu và chăm sóc anh ta.

Vì thế, anh bám chặt lấy đức tin thời niên thiếu. Bấy giờ, mọi vật đơn giản, rõ ràng và chắc chắn. Anh không nhận thấy rằng những thay đổi lớn lao đã xảy ra trong anh. Một vực thẳm đã ngăn cách anh với tuổi thơ của anh ngày trước.

Chúng ta không thể không cảm thấy có thiện cảm với anh. Nhiều người bám chặt lấy đức tin có khi còn thơ ấu. Và cũng đúng thôi – nó là cái gì đẹp. Nhà thơ Emily Dickinson nói:

Chúng ta bắt đầu hiểu rằng chúng ta đã tin có một lần và trọn vẹn.

Niềm tin không hợp lắm khi thường hay biến đổi.

Chúng ta thẹn đỏ mặt, nếu chúng ta thực hiện được thiên đàng, một biến cố khôn tả.

Chúng ta hẳn đã tránh xa, thậm chí xấu hổ và nhận được phép lạ.

Chúng ta cứ mãi nắm lại ý nghĩa tôn giáo của thế giới thơ ấu đã qua của chúng ta. Nhưng tất cả chúng ta phải để lại tuổi thơ đàng sau mình và cùng với nó một thế giới của những điều chắc chắn. Đức tin tuổi thơ đi qua hoặc ít nhất đã đổi thay. Tuy nhiên, không phải Thiên Chúa đổi thay mà chính chúng ta thay đổi. Tuy nhiên, cảm thấy như Maurice cảm thấy không có nghĩa là chúng ta đã mất đức tin. Tất cả điều ấy có nghĩa là chúng ta đang chiến đấu với đức tin.

Đức tin thơ mộng của tuổi thơ không thể bám giữ mãi được. Đức Giêsu nói chúng ta phải vào Nước Trời như một trẻ nhỏ, nhưng Người không nói chúng ta phải có đức tin của đứa trẻ. Đức tin của chúng ta phải là một đức tin trưởng thành, một đức tin đã vượt qua những sự phức tạp và mơ hồ của đời sống.

Mọi người chúng ta có thể lấy lại lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lạy Chúa, xin tăng thêm đức tin cho chúng con”, bởi vì giữ gìn đức tin chưa đủ; chúng ta phải trưởng thành trong đức tin. Đức tin trưởng thành khi nó thực hành. Đức tin cũng trưởng thành nhờ được nuôi dưỡng đều đặn. Chúng ta nuôi dưỡng đức tin như thế nào? Bằng việc cầu nguyện và tiếp xúc với cộng đoàn đức tin.

McCarthy

LỜI FIAT CỦA MẸ VÀ LỜI XIN VÂNG CỦA CON

Con người bắt đầu cuộc hành trình đến với ơn cứu độ khi dùng ý chí tự do đáp lại ý định vĩnh cửu của Thiên Chúa. Khuôn mẫu là lời của Mẹ Maria: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc138), qua đó Ngôi Lời nhập thể. Mục đích cuối cùng là con người nhận được ơn làm nghĩa tử, cho phép họ kêu lên với Thiên Chúa: “Ábba, Cha ơi!” (Gl 4: 6). Tất cả được củng cố trong tinh thần đồng tâm nhất trí và chuyên cần cầu nguyện của cộng đoàn tiên khởi, nơi đó Mẹ Maria là mẫu gương trung tín.

  1. Lời xin vâng trong đức tin của Mẹ Maria

Mầu nhiệm Nhập Thể được khai mở tại một nơi hẻo lánh của Galilê, làng Nadarét, nơi sứ thần Gabriel đến gặp một trinh nữ tên là Maria. Lời chào của sứ thần: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Chúa ở cùng bà” (Lc 1: 28) đã khiến bà “rất bối rối” (Lc1:29). Sự bối rối của bà là sự kinh ngạc sâu xa trước sự can thiệp của Thiên Chúa vào đời sống riêng tư của mình.

Sứ thần tiếp tục trấn an bà: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Ngài sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao” (Lc 1: 30-32). Lời hứa này không chỉ liên quan đến một đứa trẻ, mà là sự hoàn thành lời hứa về vương quyền vĩnh cửu cho nhà Đavít: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Ngài. Ngài sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Ngài sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1: 32-33). Mẹ Maria được mời gọi trở thành Mẹ của Đấng Mêsia theo cả nhân tính và thần tính. Đó là Ân Sủng và Lời Hứa về Vương Quyền.

Đối diện với lời hứa phi thường này, Maria đã hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (Lc 1: 34). Câu hỏi này không phải là sự ngờ vực như vị tư tế Giacaria đã nghi ngờ (Lc 1: 18), nhưng là ước mong biết được phương cách thực hiện, vì trước đó Maria đã tự nguyện thề hứa sống đời trinh khiết.

Sứ thần đáp lại bằng cách mặc khải vai trò của ngôi Ba Thiên Chúa: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1: 35). Chính quyền năng của Thánh Thần đã biến điều không thể thành có thể, giúp Maria thụ thai mà vẫn giữ trọn sự trinh khiết. Điều này được củng cố bằng dấu lạ của bà Êlisabét: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc1: 37).

Trước sự mạc khải trọn vẹn này, Maria đã đưa ra lời đáp lịch sử, thay đổi vận mệnh nhân loại: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38). Lời Fiat - Xin Vâng này là hành vi tự do, hoàn hảo nhất của đức tin, mở đường cho Chúa Kitô đến với nhân loại. Con Thiên Chúa làm người là bởi Quyền Năng của Thánh Thần và lòng tin vâng phục của Mẹ Maria.

Thánh Augustinô đã nhấn mạnh rằng đức tin của Mẹ Maria còn cao trọng hơn cả sự trinh khiết của Mẹ: “Việc làm Mẹ sẽ chẳng mang lại lợi ích gì cho Mẹ Maria, nếu Mẹ không vui mừng đón nhận Chúa Kitô trong cõi lòng hơn là trong xác thịt” [1]. Đức tin vâng phục của Mẹ chính là cánh cửa để Ngôi Lời đi vào thế giới.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã suy niệm sâu sắc về sự vâng phục của Mẹ Maria: “Mẹ Maria đã hoàn toàn phó thác mình cho Thiên Chúa, với sự quy phục trọn vẹn của trí tuệ và ý chí, thể hiện sự vâng phục của đức tin đối với Đấng đã phán với Mẹ qua sứ giả của Ngài. Do đó, Mẹ đã đáp lại bằng cả bản tính con người và nữ tính của mình, và lời đáp lại đầy đức tin này bao gồm cả sự hợp tác hoàn hảo với ân sủng của Thiên Chúa vốn đi trước hỗ trợ và sự cởi mở hoàn toàn với hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng liên tục hoàn thiện đức tin bằng các ân huệ của Ngài” (Thông điệp Redemptoris Mater, số 13). Mẹ Maria là mẫu mực của lòng tin và sự vâng phục, là cửa ngõ cho ơn cứu độ. 

  1. Sự Viên Mãn Của Thời Gian: Ơn Làm Nghĩa Tử

Thánh Phaolô giải thích ý nghĩa của sự kiện Truyền Tin một cách cô đọng trong Thư gửi tín hữu Galát: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật” (Gl 4: 4).

Thời viên mãn” là sự can thiệp hoàn hảo của Thiên Chúa vào lịch sử theo kế hoạch vĩnh cửu. Ngài sắp đặt mọi sự để khi Mẹ Maria nói “Xin Vâng”, thì Chúa Kitô bước vào trần gian. Ngài Nhập Thể “sinh làm con một người đàn bà” và “sống dưới Lề Luật” với một nhân tính trọn vẹn. Mục đích của thời khắc hoàn hảo này là “chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4: 5). Chúa Kitô trở nên Con Người để chuộc lại địa vị của nhân loại mà Adam đã đánh mất: làm con cái Thiên Chúa.

Thánh Irênê thành Lyons đã diễn tả mầu nhiệm này bằng cách ví Mẹ Maria là Eva Mới: “Eva đã không vâng phục và trở thành nguyên nhân gây ra cái chết, cho cả chính bà và toàn thể nhân loại; còn Mẹ Maria, một trinh nữ, bằng cách vâng phục, đã trở thành nguyên nhân cứu rỗi, cho cả chính bà và toàn thể nhân loại. Và cũng nhờ đó nút thắt bất tuân của Eva đã được tháo gỡ nhờ sự vâng phục của Maria. Điều mà Eva đã trói buộc vì lòng vô tín, thì trinh nữ Maria đã giải thoát nhờ đức tin” [2]. Qua sự vâng phục của Con và Mẹ, nhân loại đã được phục hồi.

Đỉnh cao của ơn cứu độ là việc chúng ta nhận được địa vị nghĩa tử. Đây không chỉ là một danh xưng pháp lý, mà là một thực tại linh thánh, được thực hiện qua Thánh Thần: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Ábba, Cha ơi!” (Gal 4: 6).

“Abba” là một từ trong tiếng Aram, mang ý nghĩa thân mật và trìu mến nhất, tương đương với “Cha ơi!” hay “Bố ơi!” trong ngôn ngữ thường ngày. Việc Thánh Thần ngự trong lòng chúng ta, biến tâm hồn chúng ta thành nơi cư ngụ của Ngài, cho phép chúng ta tham dự vào mối tương quan mật thiết mà Chúa Giêsu đã có với Chúa Cha. Đây là bằng chứng không thể chối cãi về địa vị làm con của chúng ta. Địa vị này đạt đến cùng đích qua việc Thiên Chúa sai Thần Khí của Con mình đến, cho phép chúng ta, những người nô lệ cũ, trở thành con cái thừa kế và kêu lên “Ábba, Cha ơi!”

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nhấn mạnh rằng: “Chúa Giêsu đã mạc khải Thiên Chúa là “Cha” theo một nghĩa chưa từng có: Ngài là Cha không những vì Ngài là Đấng Tạo Hoá, nhưng từ đời đời Ngài là Cha trong tương quan với người Con duy nhất của Ngài, Đấng từ đời đời là Con trong tương quan với Cha của Ngài: Không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (GLHTCG, số 240).

Từ đó, Thánh Phaolô kết luận: “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4: 7). Ơn làm con giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của Lề Luật, của tội lỗi, và trao cho chúng ta quyền thừa kế Nước Trời. Cuộc đời Kitô hữu được biến đổi từ sự sợ hãi của người nô lệ sang sự tự do và tình yêu của người con. 

  1. Đồng Tâm Nhất Trí và Sự Hiện Diện Của Người Mẹ

Sau khi Đức Kitô hoàn tất sứ mạng trên trần gian và lên trời, các môn đệ bước vào một giai đoạn chờ đợi và chuẩn bị. Sự kiện Nhập Thể và ơn làm nghĩa tử phải được sống trong một cộng đoàn được Thần Khí hướng dẫn. Sự chuyển giao này diễn ra tại Căn Thượng Lầu ở Giêrusalem: “Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ…Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Chúa Giêsu, và với anh em của Chúa Giêsu” (Cv 1:13-14).

Sự kiện này đánh dấu sự khai sinh của Giáo hội như một cộng đoàn cầu nguyện và hiệp nhất. Các Tông đồ cùng với những người phụ nữ, anh em của Chúa và đặc biệt là Mẹ Maria, đã tạo thành hạt nhân của Giáo hội “đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện”.

Đồng tâm nhất trí - ομοθυμαδόν” có nghĩa là cùng một tâm hồn, cùng một chí hướng và cùng một mục đích. Đây là điều kiện tiên quyết để đón nhận Thánh Thần vào lễ Ngũ Tuần. Các Tông đồ đã vượt qua thất vọng, quy tụ lại, đặt cầu nguyện và hiệp nhất lên hàng đầu. Việc chuyên cần cầu nguyện chứng minh sự trung tín trong chờ đợi. Sự đồng tâm nhất trí này được củng cố trong Giáo hội, nơi mà sự hiệp nhất trong cầu nguyện là điều kiện đón nhận Thánh Thần, với Mẹ Maria là trung tâm và mẫu gương.

Thánh Bêđa Khả Kính, khi suy niệm về đoạn này, đã nói: “Tất cả những người này đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện. Những ai kiên nhẫn cầu nguyện là những người đang chờ đợi Chúa Thánh Thần đến. Vì Chúa Thánh Thần dạy dỗ tránh xa sự gian dối. Vậy nên, ai muốn nhận được những ân huệ Chúa Thánh Thần đã hứa, thì phải chuyên cần cầu nguyện với tình yêu thương huynh đệ” [3]. Sự hiệp nhất “với bà Maria thân mẫu Chúa Giêsu” là chiếc bình chứa đựng Thánh Thần. Sự có mặt của Mẹ Maria trong cộng đoàn tiên khởi này mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sự hiện diện của Mẹ tại Căn Thượng Lầu đánh dấu khởi điểm của mầu nhiệm Giáo hội. Là Mẫu Gương, Mẹ đồng hành cùng cộng đoàn, dạy họ chuyên cần cầu nguyện và khao khát Thánh Thần. Việc cầu nguyện này là tiếp nối lời Fiat khi xưa, thể hiện một trái tim trung tín trọn vẹn, không phân chia.

Đức Thánh Cha Phaolô VI đã tôn vinh vai trò này của Mẹ Maria trong việc cầu nguyện: “Ở đây Mẹ Maria hiện diện cầu nguyện với Giáo Hội sơ khai cũng như với Giáo Hội qua mọi thời đại, và dù được rước về trời, Mẹ vẫn không bỏ sứ vụ của Mẹ là chuyển cầu xin ơn cứu độ. Danh hiệu Trinh Nữ cầu nguyện cũng hợp với Giáo Hội, vốn ngày ngày dâng lên Chúa Cha các nhu cầu của con cái mình, không ngừng ca tụng Chúa và xin ơn cứu độ cho thế giới” (Tông huấn Marialis Cultus, số 18).

Noi gương Mẹ Maria, chúng ta sống lời Fiat mỗi ngày, chuyên cần cầu nguyện trong sự đồng tâm nhất trí, để Thánh Thần biến đổi chúng ta từ những tôi tớ thành những người thừa kế Nước Trời, trong tinh thần con cái Thiên Chúa, được kêu lên “Ábba, Cha ơi!”.

Phêrô Phạm Văn Trung

[1] De virginitate, No 3, https://www.newadvent.org/fathers/1310.htm

[2] Against Heresies, Book III, Chapter 22, 4. https://www.newadvent.org/fathers/0103322.htm

[3] Bede's Commentary on the Acts of the Apostles https://historicalchristian.faith/by_father.php?file=Bede%2FCommentary%2520on%2520Acts.html

TIN MẠNH MẼ VÀ SỐNG NHỎ BÉ

Cuộc đời Kitô hữu là hành trình được định hướng bởi đức tin, đức cậy và đức ái, nhưng luôn đối mặt với thử thách do những yếu đuối của xác thịt, những dục vọng trong lòng và những tác động của người đời gian ác. Lời các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17: 5), không chỉ là lời cầu xin của các môn đệ khi xưa, mà còn là tiếng kêu của mỗi người chúng ta ngày nay trước những giới hạn của bản thân.

  1. Quyền năng của đức tin hạt cải

Chúa đáp: Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17: 6). “Lòng tin lớn bằng hạt cải” mà Chúa Giêsu nói đến buộc chúng ta chú tâm suy ngẫm. Hạt cải nhỏ bé nhưng lớn lên thành cây to nhất trong vườn. Hình ảnh hạt cải nhỏ bé nhưng chứa đầy sức mạnh này cho thấy rằng quyền năng của đức tin nằm ở phẩm chất, chứ không phải số lượng. Đức tin là sự tín thác trọn vẹn, dù khởi đầu nhỏ bé nhưng có thể phát triển và bén rễ sâu vào Thiên Chúa, làm được những điều phi thường như “bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc.” Chúa Giêsu không nói về đức tin theo kiểu số lượng nhiều ít hay to bé, nhưng Chúa nói về bản chất và sức mạnh của đức tin đó. Cùng với dụ ngôn về người đầy tớ ý thức mình vô dụng, lời dạy này nhấn mạnh sự phục vụ trong khiêm tốn, biết mình nhỏ bé nhưng vẫn sẵn lòng tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, như lời đáp ca: “Bởi chính Ngài là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Ngài lãnh đạo, là đoàn chiên tay Ngài dẫn dắt” (Thánh vịnh 95: 7).

Thánh Clêmentê thành Alexandria suy niệm: “Đức tin đến từ sự dạy dỗ và lời Chúa, để thực hiện các điều răn. Các tông đồ là những người như vậy, có đức tin chuyển núi và dời cây. Bởi vậy, nhận thấy sức mạnh lớn lao của đức tin, các ngài đã cầu xin Chúa tăng thêm đức tin cho họ; một đức tin bén rễ sâu vào đất như hạt cải, và lớn lên mạnh mẽ trong đất, đến mức những điều cao cả đều dựa vào đó… Vì vậy, các tông đồ cũng khuyên nhủ: đức tin của anh em chớ đặt nơi sự khôn ngoan của loài người, những kẻ tự xưng mình là đáng tin, nhưng phải đặt nơi quyền năng của Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể cứu rỗi con người mà không cần bằng chứng, chỉ bằng đức tin” [1]. Điều phi thường không đến từ sức mạnh con người, mà từ sự khiêm tốn phó thác vào Thiên Chúa: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10).

Người đầy tớ làm việc cả ngày, phục vụ chủ nhưng người chủ không cần phải mang ơn, vì đó là bổn phận của người đầy tớ. Tương tự, mọi việc lành chúng ta làm chỉ là bổn phận của thụ tạo đối với Đấng Tạo Hóa. Chúng ta không thể đòi Thiên Chúa “trả nợ” với lý do là chúng ta đã sống đời tốt lành. Khái niệm công trạng trong mối tương quan với Thiên Chúa cần phải loại bỏ.

Qua dụ ngôn này chúng ta mời gọi sống khiêm tốn triệt để. Dù làm được phép lạ hay phục vụ người nghèo cả đời, thái độ cuối cùng phải là: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng.” Chúng ta phục vụ không để được khen thưởng, mà vì được tạo dựng để yêu mến và phụng sự Thiên Chúa.

Thánh Ambrôsiô tóm tắt: “Cũng như chúng ta không những không nói với người hầu của mình hãy nghỉ ngơi đi, mà còn đòi hỏi người ấy phục vụ thêm nữa, mà không cảm ơn người ấy, thì Thiên Chúa cũng không cho phép chúng ta chỉ làm một việc duy nhất, vì ai còn sống thì phải luôn làm việc. Vậy nên, hãy nhìn nhận chúng ta là những người đầy tớ, bằng cách thực hiện nhiều hành động vâng phục theo phận sự. Chúng ta cũng không nên tự đề cao mình chỉ vì chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta đã phục vụ tốt trong những gì mình phải làm thì chúng ta cũng không nên tự hào. Mặt trời vâng lời, mặt trăng phục tùng, các thiên thần phục vụ” [2].

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh: “Rất nhiều Kitô hữu giống như thế này: họ tốt lành, họ đi lễ, nhưng liên quan đến việc phục vụ thì  họ chỉ đi đến một mức độ nào đó. Nói phục vụ, là nói đến tất cả mọi thứ: phục vụ Thiên Chúa trong sự thờ phượng, trong lời cầu nguyện, trong lời ngợi khen, phục vụ người lân cận và phục vụ đến cùng. Chúa Giêsu mạnh mẽ về điều này và khuyên: Cũng vậy, khi đã làm xong mọi điều được truyền dạy, hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Điều quan trọng là phục vụ phải tự nguyện, không đòi hỏi bất cứ điều gì đáp lại” (Suy niệm buổi sáng tại nhà nguyện Thánh Mácta, thứ Ba, ngày 11 tháng 11 năm 2014).

Tại Việt Nam, các Dòng tu, Tu hội Đời và nhóm thiện nguyện Công giáo đang âm thầm phục vụ tại các cơ sở nuôi dưỡng trẻ mồ côi, người khuyết tật, và bệnh nhân AIDS/người già neo đơn. Công việc chăm sóc hàng ngày như tắm rửa, cho ăn là vô cùng khó khăn, đòi hỏi sự hy sinh toàn diện. Khi được hỏi, họ khiêm tốn trả lời: “Chúng tôi chỉ đang làm những gì Chúa muốn” hoặc “Đây là bổn phận của người môn đệ,” coi đó là vinh dự được phục vụ Chúa Giêsu nơi người nghèo khổ nhất.

Tương tự, nhiều giáo dân và nhóm Caritas tổ chức các hoạt động như nấu cháo miễn phí, thăm bệnh nhân, làm việc kín đáo, không phô trương thành tích. Họ dùng thời gian và tài lực cá nhân để giúp đỡ, xem đây là lòng biết ơn đối với ơn cứu độ của Chúa, một mẫu gương sống động của sự khiêm tốn phục vụ vô vị lợi [3].

  1. Trung tín giữa những gian ác

Tuy nhiên, thực tại khắc nghiệt được tiên tri Khabacúc mô tả: “Cho đến bao giờ, lạy Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: Bạo tàn! mà Ngài không cứu vớt?” (Kh 1: 2). Đó là những thử thách đức tin trong sự chờ đợi kiên nhẫn. Tiên tri Khabacúc mô tả thử thách của đức tin: “Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau? Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn, chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ” (Kh 1: 2-3). Tiếng kêu này biểu lộ sự bất công và sự dường như im lặng của Thiên Chúa, một thực tại vang vọng qua mọi thời đại, đặc biệt trong chiến tranh, khủng hoảng, và áp bức. Lời than van của Khabacúc thách thức sự “bình chân như vại” trong sự yên ổn của chính mình, mời gọi chúng ta không chấp nhận bất công như một chuyện đương nhiên, mà kêu cầu Thiên Chúa với lòng tin chân thật.

Thiên Chúa đáp lại: “Hãy viết lại thị kiến và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy. Đó là một thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu” (Kh 2: 2-3). Đây là bài học về đức cậy trông đối thần: dù công lý có chậm đến, nhưng quyền năng vinh quang của Thiên Chúa là chắc chắn.

Chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi Ngài. Câu then chốt của ngôn sứ Khabacúc: “Người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (Kh 2: 4) trở thành nền tảng cho giáo lý Thánh Phaolô về sự công chính hóa bằng đức tin: “Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do thái, sau là người Hy lạp. Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1: 17). “Thành tín” là sự kiên trì sống công chính giữa những gian ác, mang lại ý nghĩa và mục đích cho cuộc sống. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI viết rằng hy vọng Kitô giáo không phải là ý tưởng, nhưng là “một cuộc gặp gỡ với Chúa của các chúa, một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, và qua đó gặp gỡ một niềm hy vọng còn mạnh hơn những cơ cực của kiếp nô lệ, một niềm hy vọng, do đó, thay đổi cuộc sống và thế giới tự bản chất bên trong” (Spe Salvi, 4).

  1. Thần Khí của Thiên Chúa và Kho Tàng Chân Lý

Thánh Phaolô, trong thư gửi Timôthê, chỉ ra con đường vượt qua sự trì trệ và sợ hãi: làm sống lại ơn sủng và gìn giữ kho tàng đức tin. Những lời này hợp thành giáo huấn trọn vẹn: đức tin cao cả cần sự khiêm tốn, kiên nhẫn giữa bất công, và lòng dũng mạnh để làm chứng.

Thánh Phaolô khuyên Timôthê: “Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh” (2 Tm 1: 6). Ơn sủng cần được khơi dậy, vì đức tin là thực tại sống động, đòi hỏi nỗ lực cá nhân. Điều cản trở là nỗi sợ hãi, nhưng “Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1:7). Thần khí sức mạnh giúp làm chứng và chống lại gian ác. Thần khí bác ái để yêu thương, phục vụ, đặc biệt với người nghèo. Thần khí tiết độ để tự chủ, không bị cuốn vào tự mãn hay vật chất.

Phaolô kêu gọi Timôthê không hổ thẹn làm chứng cho Chúa, chấp nhận đau khổ để tuyên xưng đức tin. Thánh nhân hướng dẫn: “Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Chúa Kitô Giêsu, anh hãy lấy những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy làm mẫu mực” (2 Tm 1:13) và “Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta” (2 Tm 1:14). “Giáo lý tốt đẹp” ở đây chính là đức tin tông truyền, không thể bóp méo. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Đức tin Kitô giáo không chỉ đơn thuần là một tập hợp các mệnh đề được chấp nhận với sự đồng thuận về mặt trí tuệ. Đúng hơn, đức tin là một sự hiểu biết sống động về Chúa Kitô, một sự ghi nhớ sống động về các điều răn của Ngài, và một chân lý để sống…Đức tin là một quyết định liên quan đến toàn bộ sự tồn tại của một người. Đó là một cuộc gặp gỡ, một cuộc đối thoại, một sự hiệp thông tình yêu và sự sống giữa người tin và Chúa Giêsu Kitô, là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Ga 14:6). Nó bao hàm một hành vi phó thác tin tưởng vào Chúa Kitô, điều này cho phép chúng ta sống như Ngài đã sống (Gal 2:20), trong tình yêu sâu sắc đối với Thiên Chúa và anh chị em của chúng ta” (Veritatis Splendor, 88).

Qua các bài đọc Kinh Thánh hôm nay, Hội Thánh, theo gương Chúa Giêsu, muốn dạy rằng: sự phục vụ lớn lao nhất nằm trong sự khiêm tốn lớn lao nhất. Khi sống ý thức mình chỉ là “đầy tớ vô dụng”, chúng ta sẽ được giải phóng khỏi nỗi lo lắng về phần thưởng, khỏi sự tự mãn về những công phúc của mình, vốn không đáng gì. Khi đó chúng ta sẽ phục vụ với niềm vui thuần khiết vì vinh quang Thiên Chúa. Sống đức tin mạnh mẽ, kiên nhẫn, can đảm, nhưng mặc lấy sự khiêm tốn của người đầy tớ vô dụng, đó là điều Chúa Kitô muốn nơi mỗi người môn đệ của Ngài.

Phêrô Phạm Văn Trung

 

[1] The Stromata, or Miscellanies, Book V, Chapter I - On faith https://www.earlychristianwritings.com/text/clement-stromata-book5.html

[2] We Are Unprofitable Servants https://catholicism.org/we-are-unprofitable-servants.html

[3] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giai-dap-thac-mac-cho-nguoi-tre-bai-117-nguoi-cong-giao-lam-tu-thien-54569

Đức tin và Phục vụ

Các bài đọc hôm nay đều nói về Đức tin, mỗi bài đề cập đến đức tin dưới một khía cạnh :

– Bài đọc I : Tin là kiên nhẫn chờ đợi chương trình của Thiên Chúa được thực hiện.

– Tin Mừng : Đức tin là nguồn sức mạnh giúp ta làm được những việc phi thường.

– Bài đọc II : Tin là dựa vào sức mạnh của Chúa để hoàn thành sứ mạng Ngài giao.

Ngoài ra, phần thứ hai của bài Tin Mừng cũng đề cập đến thái độ phục vụ khiêm tốn như một người đầy tớ.

 

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Chúng ta vẫn nói rằng mình là tín hữu, nghĩa là người có đức tin. Nhưng thực ra đức tin của chúng ta còn rất yếu, và chúng ta chưa thực sự sống đức tin của mình.

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy thưa với Chúa như các tông đồ xưa “Thưa Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con”.

II. Gợi ý sám hối

– Chúng ta giao động không muốn tin nữa khi gặp phải những khó khăn trong đời sống.

– Chúng ta chưa thể hiện đức tin mình ra bằng một cách sống siêu nhiên phó thác nơi Chúa quan phòng.

– Chúng ta không khiêm tốn phục vụ mọi người như một người tôi tớ.

III. Lời Chúa
  1. Bài đọc I (Kb 1,2-3 ; 2,2-4)

Ngôn sứ Kha-ba-cúc than thở với Chúa về những cảnh bất công cứ tồn tại và những người ác cứ nhởn nhơ. Đáp lại, Thiên Chúa bảo ông hãy giữ vững lòng tin và đừng nản lòng, vì khi đến thời của Ngài, Ngài sẽ ra tay tái lập sự công chính.

  1. Đáp ca (Tv 94)

Tiếp nối tư tưởng của đoạn sách trên, Thánh vịnh 94 kêu gọi đừng khép kín cõi lòng, nhưng hãy biết lắng nghe tiếng Chúa để biết được ý định của Ngài trong những lúc gian truân thử thách.

  1. Tin Mừng (Lc 17,5-10)

Đoạn Tin Mừng này gồm 2 giáo huấn của Chúa Giêsu : a/ Về sức mạnh của Đức tin ; b/ Về việc phục vụ cách khiêm tốn.

  1. Đức tin : Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin của mình. Nếu có lòng tin thì sẽ làm được nhiều điều phi thường.
  2. Phục vụ : Chúa Giêsu dạy muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã tự coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác ta đều là bổn phận.

    4. Bài đọc II (2 Tm 1,6-8.13-14)

Thánh Phaolô kêu gọi Timôtêô đừng ngả lòng trước những khó khăn mục vụ, trái lại hãy củng cố đức tin bằng cách khơi dậy đặc sủng của Thánh Thần mà Timôtêô đã nhận được khi được đặt tay trao sứ mạng, và hãy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa để tiếp tục nhiệm vụ mình.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Đức tin – phục vụ

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca ghi lại 2 điều Chúa Giêsu căn dặn những kẻ muốn làm môn đệ Ngài.

  1. Điều thứ nhất là về đức tin : Câu chuyện khởi đầu với lời xin của các tông đồ “Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con”. Ta hãy chú ý họ là các tông đồ chứ không phải chỉ là môn đệ thường. Họ đã từng sống với Chúa Giêsu một thời gian dài, nghe biết bao điều Ngài giảng dạy, thấy biết bao điều Ngài làm. Họ là thành phần ưu tú được chọn riêng ra trong số 72 môn đệ. Thế mà họ vẫn cảm thấy mình thiếu đức tin.

Các tông đồ mà còn cảm thấy thiếu đức tin, thì huống chi chúng ta ! Nhiều khi chúng ta quỳ chầu trước Thánh Thể mà hình như không tin có Chúa đang ngự trong Nhà tạm. Nhiều khi chúng ta rước lễ mà hình như không tin có Chúa đang thực sự ở trong lòng ta. Và nhiều khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hình như không tin lời Chúa dạy “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”. Mặc dù chúng ta đã học giáo lý nhiều, đã đọc Thánh Kinh nhiều, nhưng tại sao chúng ta không vững đức tin ? Như thế đủ biết Đức tin không phải là kết quả của học hỏi, của kiến thức. Đức tin chính là một ơn ban. Tại sao rất nhiều bậc thông thái không có đức tin, còn chúng ta không thông thái gì, thế mà có đức tin. Rõ ràng vì Chúa thương chúng ta nên ban đức tin cho chúng ta. Và chính vì đức tin là một ơn ban, cho nên chúng ta phải xin như các tông đồ ngày xưa : “Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con”.

Đức tin không phải là kết quả của học hỏi và của kiến thức. Ngược lại nhiều khi càng học biết nhiều thì càng khó mà tin. Tại sao thế ? Thưa tại vì trong đức tin luôn có một phần mờ tối, khi ta tin thì luôn có một phần mạo hiểm. Nếu tất cả đều sáng tỏ hết rồi ta mới tin thì đấy không phải là đức tin. Nếu tất cả đều chắc chắn rồi ta mới dấn thân thỉ đấy cũng không phải là một hành vi đức tin. Đức tin luôn có phần mờ tối, tin luôn đòi ta mạo hiểm dấn thân. Nhưng nói thế không phải là chúng ta tin cách mù quáng, trái lại chính vì chúng ta yêu. Xin lấy một thí dụ trong đời thường : ở một vùng kinh tế mới nọ, có một thanh niên và một thiếu nữ quen nhau. Mỗi người họ đến từ một miền khác nhau. Quen nhau một thời gian rồi họ yêu nhau. Và một hôm người thanh niên ngõ lời xin cưới cô gái. Cô gái ưng thuận ngay. Người thanh niên mới hỏi : Em không biết gốc gác của anh, không biết gia đình anh, em không sợ bị anh gạt hay sao mà dám giao phó cuộc đời cho anh ? Cô gái đáp : không. Anh chàng hỏi thêm : Tại sao ? Và cô gái trả lời rất gọn : vì em yêu anh.

Người con gái ấy vì yêu nên đã tin người thanh niên nọ. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta yêu Chúa thì chúng ta mới tin Chúa được, yêu càng nhiều thì tin càng mạnh. Cho nên ngoài việc xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng yêu mến cho chúng ta.

  1. Điều thứ hai Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là : người môn đệ Chúa phải biết phục vụ, và phục vụ cách vô vụ lợi. Giống như một người đầy tớ, sau khi đã đi cày, sau khi đã chăn chiên rồi về nhà còn phải dọn cơm cho chủ, đứng đó hầu hạ chủ, rồi dọn dẹp. Xong xuôi hết thì nói “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”. Nhiều chuyên viên Thánh Kinh nói rằng dịch chữ vô dụng không được đúng lắm. Ý nghĩa của nó là “Tôi chỉ là một người đầy tớ mà thôi, không hơn không kém”. Người đầy tớ thì đương nhiên phải phục vụ, phục vụ là bổn phận của người đầy tớ. Cho nên dù có phục vụ nhiều thì cũng không có gì là công lao để đòi chủ biết ơn.

Khi Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ để làm bài học cho các môn đệ, Ngài muốn nhắc chúng ta rằng làm môn đệ, làm tông đồ chính là làm đầy tớ. Bởi thế Đức giáo Hoàng xưng mình là “Đầy tớ của các đầy tớ”.

Có một điểm rất sâu sắc về từ ngữ : trong Thánh Kinh, chữ “phục vụ” vừa chỉ việc làm của một người đầy tớ đối với chủ, vừa chỉ việc làm của người tín hữu phụng thờ Chúa. Tế lễ là phục vụ Chúa. Như thế, khi chúng ta phục vụ người ta thì cũng có nghĩa là chúng ta đang phụng thờ Chúa. Và nếu như suốt ngày chúng ta lo phục vụ anh em thì điều đó có nghĩa trọn ngày hôm đó của chúng ta là một Thánh lễ nối dài.

* 2. Chiếc bình trống rỗng

Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.

Một người trong bọn họ nói : “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói : “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói : “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư châm vào : “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi”.

Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi :

Ông có nghe họ ca tụng ông không ?

– Có.

– Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế ?

Vị Rabbi than phiền :

– Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi ?

*

Mong người ta ca ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn ! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.

Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các Tông đồ : “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói : “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10). Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là đức Thánh Cha cũng luôn luôn nhận mình là “đầy tớ của các đầy tớ Chúa”. Đã là đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận “mến Chúa yêu người”, có ai đám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.

Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người chúng ta.

Người khiêm tốn trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu thích những con người khiêm tốn như thế.

Nếu đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé, là “đầy tớ vô dụng”, thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xoá mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.

*

Lạy Chúa, có một ân huệ nào chúng con đã nhận lãnh mà không phải do Chúa thương ban, có một điều thiện nào chúng con thực hiện mà chẳng do Chúa tác thành.

Xin tiếp tục đổ đầy vào tâm hồn nhỏ bé, yếu đuối và bất toàn của chúng con những điều tốt lành mà Chúa đã khởi sự cho chúng con. Amen. (TP)

* 3. Phục vụ trong tình yêu

Nhiều người xem Chúa như một ông chủ thuê người làm việc và con người là những người được thuê ấy. Bởi thế, sau khi làm được một việc gì, họ nghĩ rằng Chúa phải ban ơn cho họ, như một cách trả tiền công.

Suy nghĩ trên hoàn toàn sai. Và rất may là suy nghĩ đó sai, bởi vì nếu Chúa thực sự đối xử với ta như một ông chủ đối xử với người làm thì chắc chúng ta chẳng nhận được bao nhiêu từ tay Ngài, bởi vì công lao của chúng ta chẳng có là bao.

Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy chúng ta biết rằng tương quan của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta là tương quan ân sủng và tình yêu, bởi vì Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con. Con cái làm việc theo ý Cha đâu phải để được Cha trả lương ; và Cha ban gì cho con đâu phải vì trả nợ.

Vả lại Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và ban rất nhiều ơn cho chúng ta trước khi chúng ta làm được việc gì xứng đáng với tình yêu của Ngài. Thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân. Vì thế tất cả những gì chúng ta làm bây giờ chỉ là để đáp lại tình yêu của Ngài.

Còn nữa, chúng ta tuân giữ những điều răn của Chúa không phải để được Ngài yêu thương, nhưng chúng ta tuân giữ các điều răn Chúa bởi vì Ngài yêu thương chúng ta.

Toàn bộ Tin Mừng của Chúa Giêsu có thể được diễn tả thế này : Chúa nhân từ kêu gọi các môn đệ hãy phục vụ Ngài vì tình yêu chứ không phải vì bổn phận. Vì vậy, chỉ đức tin thôi chưa đủ, còn phải có tình yêu nữa. Trong khi đức tin khiến cho mọi sự trở thành có thể, thì tình yêu khiến cho mọi sự trở thành dễ dàng. (FM)

  1. Chuyện minh họa

a/ Đức tin lớn lao

            Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :

– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?

– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.

b/ Tin người đáng tin

            Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên :

– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?

– Phải đó bà.

Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi :

– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?

– Phải đó bà.

Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hoả xa, bà hỏi :

– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?

– Phải, thưa bà.

Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế !

c/ Phục vụ là hạnh phúc

Tại văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự : “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên”. Nhà Cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể : chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ : nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình ; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc”. Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).

  1. Mảnh suy tư

Đức tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa : vì một cuộc đời không có niềm tin cũng giống như một đêm tối không ánh sao.

Đức tin ban cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng : vì chúng ta cần hy vọng cũng như cuộc sống cần lương thực. Nhưng muốn hy vọng thì phải có đức tin, và đức tin sẽ mang đến niềm vui.

Nhưng chúng ta đừng mong rằng đức tin sẽ soi tỏ hết mọi vấn đề, bởi vì đức tin là trông cậy chứ không phải là sự hiển nhiên chắc chắn.

Đức tin không phải là một sự vật mà là một mối tương quan, tương quan với Chúa.

Người ta không nhận được đức tin trọn vẹn trong ngày rửa tội, nhưng phải nuôi lớn đức tin hằng ngày.

Đức tin lớn dần lên qua việc tập sống đức tin.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế : Anh chị em thân mến, đức tin là món quà vô giá Chúa ban tặng cho mỗi người chúng ta. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Tình yêu, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :

  1. Đức Thánh Cha có sứ mạng củng cố đức tin của toàn thể dân thánh Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ân cần săn sóc giữ gìn người / để nhờ người / đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắt son.
  2. Tin là gắn bó với Chúa / là dấn thân theo Người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / nhất là các Kitô hữu trẻ / dám xả thân vì Chúa và vì anh em / hầu mang sứ điệp yêu thương đến cho biết bao người chưa nhận biết Chúa.
  3. Ngày nay / một số thanh niên đánh mất niềm tin của mình vì vốn liếng giáo lý còn quá ít / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết tận dụng thời giờ Chúa ban / để học hỏi sâu rộng giáo lý của Chúa / nhờ đó đức tin của họ ngày càng trưởng thành và vững chắc hơn.
  4. Tin còn là vâng theo thánh ý Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết noi gương Đức Mẹ / vâng theo thánh ý Chúa trong đời sống đức tin thường ngày.

Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con phải luôn tin tưởng vào Chúa giữa muôn vàn thử thách của cuộc đời, nhưng do bản tính yếu đuối, chúng con dễ buồn chán và thất vọng khi gặp khó khăn. Vậy xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con. Chúng con cầu xin :

VI. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta không phải là đầy tớ của Chúa, mà là con của Ngài. Vậy chúng ta hãy hân hoan trìu mến cùng dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha.

VII. Giải tán

Trong Thánh lễ hôm nay, Chúa đã nhắc chúng ta rằng Ngài là Cha của chúng ta và tha nhân là anh em của chúng ta. Vậy trong tuần này chúng ta hãy sống với Thiên Chúa trong tin yêu như con cái đối với Cha, và hãy phục vụ tha nhân như anh em phục vụ nhau.

Sợi Chỉ đỏ

Tin và khiêm hạ

Nói đi nói lại, nói tới nói lui, căn cốt nhất của đời người vẫn là niềm tin. Niềm tin làm cho con người vững sống và vui sống. Khi con người tin vào Chúa, vào Thượng Đế, vào Ông Trời của đời mình thì mọi chuyện êm ả vì có Chúa, có Thượng Đế, có Ông Trời lo. Và vì thế, cũng chẳng lạ gì khi cuộc sống gặp khó khăn, thử thách người ta vẫn thường chạy đến Chúa, đến Thượng Đế, đến Ông Trời của mình.

Tâm tình cầu khẩn Đức Chúa của mình khi gặp thử thách gian nan được tiên tri Khabacuc ghi lại thật dễ thương. Dân chúng lâm vào cảnh khốn cùng và đã than thở với Đức Chúa của mình rằng :

Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa,
con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe,
con la lên: "Bạo tàn! " mà Ngài không cứu vớt?
Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài,
còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau?
Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn,
chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ.

Tiếng kêu cầu ấy đã “thấu tai” Đức Chúa và Đức Chúa trả lời :

"Hãy viết lại thị kiến
và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy.
Đó là một thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định.
Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành,
chứ không làm cho ai thất vọng.
Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ,
vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu.
Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục,
còn người công chính thì sẽ được sống,
nhờ lòng thành tín của mình."

Nghe tiếng kêu than của dân, Đức Chúa đã qủa quyết : Ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục còn người công chính thì sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình.

Lời ai oán, lời chất vấn về Thiên Chúa, về Đức Chúa của mình không chỉ ở thời của vị ngôn sứ Khabacuc mà ở mãi mọi thời.

Thời Khabacuc, Đức Chúa còn ở xa dân chúng thì dân chúng kêu gào Đức Chúa cứu giúp mình khi gặp thử thách gian nan là chuyện hợp lý, là chuyện dĩ nhiên.

Hôm nay, chúng ta được Thánh Luca thuật lại cũng những lời chất vấn về niềm tin nhưng chất vấn một cách trực tiếp với chính Chúa Giêsu. Nghĩ về các môn đệ, ắt hẳn nhiều người sẽ ngạc nhiên và buồn cười khi Thầy Giêsu sống với mình, đồng hành với mình mà lòng tin còn trục trặt, còn lung lay. Có lẽ “cây kim trong bọc có ngày cũng lòi ra” để rồi các môn đệ nói với Chúa Giêsu luôn : "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con." Nghe xong, Chúa Giêsu trả lời : "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em.

Câu trả lời thật bí nhiệm ! Lớn bằng hạt cải là bao nhiêu ? Hạt cải bé xíu xiu ấy vậy mà Chúa Giêsu lại đòi lòng tin lớn bằng hạt cải. Hình ảnh về lòng tin hết sức là trừu tượng và khó hiểu. Hạt cải vô cùng bé và Chúa Giêsu cũng mời gọi các môn đệ “Nếu ảnh em có lòng tin lớn bằng hạt cải” thôi. Hạt cải thật nhỏ bé đấy nhưng lòng tin nhỏ như hạt cải cũng khó khăn lắm để mà có.

Thử thách luôn luôn có trong cuộc đời chúng ta nhưng liệu rằng khi ấy có niềm tin hay không mà thôi.

Một lần vào bệnh viện thăm cha già nọ, trên con đường ra cổng thì thấy một nữ tu quen thuộc. Hỏi thăm thì nữ tu ấy cho biết em mình đang nằm cấp cứu. Em của sơ cũng là người thân quen trong niềm tin kitô giáo thôi.

Vào thăm bệnh nhân đang nằm trong phòng cấp cứu mới niệm thấy những biến cố của cuộc đời. Bệnh nhân đi làm thợ hồ, thứ Bảy, dọn dẹp chuẩn bị về thì bị ngã vào cạnh bàn bằng kính. Thế là toàn thân của anh bị mặt kiếng rạch một đường thật dài và thật sâu. Máu lai láng băng-ca. Uống thuốc cầm máu vô hiệu quả. Bác sĩ thấy nguy kịch nên khâu sống ngay tại chỗ chứ không dám đợi đến lúc đưa vào phòng mổ.
Đau đớn tột cùng khi khâu da, khâu cơ và động mạch !

Bệnh nhân đâu có tội đâu có lỗi gì để mà đón nhận tai nạn quá nghiệt ngã như vậy. Thử hỏi nếu đặt trường hợp này vào niềm tin thì ta có bối rối không ? Tại sao Chúa lại để như thế này ? Trong lúc đau đớn bệnh nhân cũng sẽ hỏi Chúa ở đâu như dân Israel ngày xưa hỏi Chúa. Trong lúc đau đớn như thế này thì bệnh nhân cũng phải thốt lên như các môn đệ là xin thêm lòng tin. Chính lúc đau đớn tột cùng này là lúc thử thách của lòng tin.

Nhìn lại cuộc đời của các môn đệ chúng ta thấy rõ điều này. Giữa biết bao nhiêu phong ba bão táp của cuộc đời, nhiều lần nhiều lúc lòng tin của các Ngài phải nói là đứng bên bờ vực thẳm nhưng may quá, lòng tin khi đứng bên bờ vực thẳm của các ngài vừa đủ lớn như hạt cải để rồi các Ngài đã thành công.

Về lòng tin, Thánh Phaolô đã khuyên nhủ Timôthê môn đệ của Ngài qua đoạn thư mà chúng ta vừa nghe : Vì lý do đó, tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh. Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng. Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta.

Thánh Phaolô đã dặn Timôthê rằng với đức tin và đức mến của một người kết hợp với Đức Kitô thì cuộc đời của anh sẽ tốt đẹp. Nhờ Thánh Thần ngự trong mỗi người thì chúng ta sẽ không nhút nhát, được đầy tình thương và sức mạnh.

Quả thật, ngay cả Thánh Phaolô, các tông đồ và những ai tin và kết hợp mật thiết với Chúa thì cuộc đời sinh viên thành công và sinh viên được hưởng phần phúc Chúa hứa sinh viên ban cho.

Hôm nay, Chúa Giêsu không chỉ mời gọi các môn đệ về niềm tin nhưng Ngài đi một bước xa nữa là lòng khiêm hạ. Niềm tin và lòng khiêm hạ thường vẫn đi đôi với nhau. Hễ đã tin, đã tín thác vào Chúa thì cũng khiêm hạ trao phó cuộc đời của mình trong vòng tay quan phòng của Ngài. Chúa Giêsu dạy các môn đệ : "Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: "Mau vào ăn cơm đi", chứ không bảo: "Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau! ? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao? Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi."

“Những đầy tớ vô dụng” : câu nói hết sức khiêm nhường và dễ thương.
Con người vẫn thường kẹt trong cái giằng co của chủ và tớ. Nhiều người vẫn nghĩ và cho mình là chủ cuộc đời của mình để rồi mình huyên hoang tự cao tự đại. Nghĩ một cách chính xác, nghĩ một cách nghiêm túc thì mỗi người đều nằm trong lòng bàn tay của Chúa thôi. Ấy vậy mà người ta quên đi cái căn tính của mình, người ta đã hoán đổi vị trí của mình để cho mình làm chủ cuộc đời. Người chủ đích thực ấy chính là Chúa chứ không phải là con người.

Đặt mình vào vị trí của ông chủ. Ông chủ sẽ khen, sẽ rất thích những người đầy tớ khiêm hạ. Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta cũng sống tâm tình khiêm hạ cho rằng mình chỉ là những đầy tớ vô dụng mà thôi.

Vẫn còn đó những thử thách về lòng tin. Vẫn còn đó những thử thách về lòng kiêu ngạo của con người. Thế nhưng những thử thách lòng tin, những thử thách về lòng kiêu ngạo sẽ tan biến mất khi ta sống kết hợp mật thiết với Chúa và hoàn toàn tín thác cuộc đời của ta vào trong lòng bàn tay của Thiên Chúa.

"Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con." Chúng ta hãy bắt chước các môn đệ ngày xưa để chạy đến với Chúa Giêsu xin Chúa ban cho ta thêm lòng tin để sống giữa cuộc đời đầy phong ba thử thách này.

Lm. Anmai, CSsR

Subcategories