3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

CÔNG LÝ HAY LÒNG THƯƠNG XÓT

Theo trình thuật Tin Mừng hôm nay, “Các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình” (Ga 8:3). Họ làm như thế là “nhằm thử Ngài, để có bằng cớ tố cáo Ngài” (Ga 8: 6).

  1. Bối cảnh câu chuyện

Đây là cái bẫy ‘tiến thoái lưỡng nan” mà nhóm kinh sư và Pharisêu giăng ra một cách tinh quái nhằm buộc tội và triệt hạ Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu bảo không được ném đá người phụ nữ, Ngài sẽ bị buộc tội là vi phạm Luật Môsê: “Ngươi không được ngoại tình” (Xh 20:14 ) và như thế Ngài sẽ mất uy thế trước mặt dân chúng, bị dân Israel coi là nghịch đạo. Còn nếu Chúa Giêsu đồng ý việc ném đá, Ngài làm ngược với những gì Ngài giảng dạy. Vì Ngài đã từng tuyên bố: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngai, mà được cứu độ” (Ga 3,17). “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). “Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả” (Ga 8,15). Như thế, Ngài không đáng tin vì ngôn hành bất nhất. Những kẻ đem người phụ nữ ngoại tình đến cho Chúa Giêsu là những kẻ có quyền thế: các Kinh sư tinh thông Lề luật, và các Pharisêu nổi tiếng là những người tuân giữ Lề luật cách tỉ mỉ trong cuộc sống hằng ngày. Thực ra, họ không tốt lành gì, ít là trong việc này. Nếu họ thực sự quan tâm đến việc thực thi công lý thì hẳn họ đã đem người phụ nữ này đến những kỳ mục địa phương, chứ không đem đến Chúa Giêsu, vì Ngài không phải là thẩm quyền chính thức giải quyết các vấn đề về Luật Môsê. Hơn nữa, họ đã tự ý thao túng Lề luật theo ý đồ riêng của họ, bởi vì trong trường hợp ngoại tình, Luật Môsê qui định cả người đàn ông và người phụ nữ phải chết: “Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử” (Lv 20,10), và “Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai sẽ phải chết: người đàn ông đã nằm với người đàn bà, và cả người đàn bà” (Đnl 22,22). Vậy mà, họ chỉ đem người phụ nữ đến, không nói gì tới người đàn ông kia. Họ hẳn biết người đàn ông đó là ai chứ? Có gì mờ ám ở đây không? “Bị bắt gặp đang ngoại tình” mà sao không bắt luôn người đàn ông?

  1. Người phụ nữ ngoại tình là ai?

Tác giả sách Tin Mừng Gioan mô tả rõ ràng “Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Ngài: Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8: 3-5).

Tuy nhiên, theo trình thuật này của Gioan, người ta không biết gì về người phụ nữ này. Bà ấy quê ở đâu? Bà ấy tên là gì? Bà ấy không van xin Chúa Giêsu bất cứ điều gì. Người ta có thể khẳng định rằng lúc này bà là một người bất hạnh. Nhưng cuộc sống trước đó của bà như thế nào? Không lẽ bà ấy không biết đến rủi ro to lớn mà bà sẽ phải chịu khi gần gũi một người đàn ông không phải là chồng mình? Bà ấy hẳn phải biết rõ cái giá phải trả nếu bị phát hiện. Nhưng bà ấy vẫn chấp nhận rủi ro này. Để làm gì? Dường như không ai quan tâm đến hoàn cảnh sống riêng của bà. Nếu có ai đó để ý đến bà thì chỉ là mấy ông kinh sư và Pharisêu; họ hẳn đã bàn tán lên kế hoạch theo dõi, rình mò nhiều ngày đêm hòng bắt quả tang bà. Lúc này, gia đình bà đâu rồi, cả người chồng của bà nữa? Vì nếu chồng của bà thực sự yêu bà, bà đã không cần phải đi tìm kiếm tình yêu nơi người đàn ông khác. Người đàn ông đã quyến rũ bà giờ ở đâu? Anh ta không chung tình, không đủ dũng cảm, nên đã bỏ trốn và bỏ rơi bà. Hẳn bà tuyệt vọng khi đối mặt với phán quyết không thể tránh khỏi của Luật Môsê, biết rằng mình không có cơ hội thoát khỏi việc bị ném đá. Sẽ không có ai dám bảo vệ bà. Tất cả dường như chống lại bà. Bà thấy mình đang ở ngõ cụt, không có lối thoát. Chỉ trong vài phút nữa thôi, những viên đá sẽ chấm dứt cuộc sống của bà, một cuộc sống không có tình yêu đích thực.

Người phụ nữ ngoại tình vô danh tính đó là ai? Câu hỏi này có thể dẫn đến một câu hỏi khác: người ngoại tình có thể là ai khác nữa không, kể cả tôi, người đang đọc bài Tin Mừng này? Trong Cựu Ước, lòng chung thủy trong hôn nhân bắt nguồn từ Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài, một mối tương giao trung tín mãi mãi. Do đó, lệnh cấm ngoại tình được nêu rõ trong Mười Điều Răn: “Ngươi không được ngoại tình” (Xh 20:14). Lệnh này nhấn mạnh đến sự thánh thiện của hôn nhân và tầm quan trọng của lòng chung thủy hôn nhân trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người. Trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu đã tái khẳng định lệnh này, mở rộng ý nghĩa ngoại tình không chỉ là hành vi thể xác mà còn cả những suy nghĩ dâm ô dẫn đến hành động: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5:27-28). Điều này chỉ ra rằng, theo quan điểm của Kitô giáo, ngoại tình bắt đầu từ trong cõi lòng và tâm trí, không chỉ là một lỗi phạm về thể xác mà còn là một lỗi phạm về đạo đức và tâm linh. Một trong những hậu quả tâm linh của việc ngoại tình là xa rời Thiên Chúa. Tự bản chất, tội lỗi đã tách con người ra khỏi Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện. Khi một người phạm tội ngoại tình, họ chủ động chống lại lề luật của Thiên Chúa và kế hoạch của Ngài dành cho các mối tương quan giữa con người. Sự bất tuân này tạo ra một rào cản tâm linh trong mối tương quan giữa mỗi người và Thiên Chúa. Bài thánh vịnh ăn năn của Đavít sau khi ông phạm tội với Bétsabê đã cho thấy rõ sự xa rời này và nỗi khao khát được Thiên Chúa phục hồi: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài” (Tv 51:10-11). Như thế, ngoại tình là từ bỏ Thiên Chúa, đi thờ ngẫu tượng, bất trung không chỉ với chồng/vợ của mình mà trước hết là bất trung với Thiên Chúa.

Đối với chúng ta ngày nay, bất trung với Thiên Chúa không nhất thiết phải là ngoại tình thể xác hay tư tưởng, hoặc thờ ngẫu tượng gỗ đá, nhưng là dành thời gian và sức lực của mình cho những thứ khiến người ta từ bỏ Thiên Chúa. Những ngẫu tượng đó chiếm vị trí số một trong cuộc sống của chúng ta và cuối cùng thống trị chúng ta. Những ngẫu tượng đó có thể là tiền bạc, giầu sang, danh tiếng, khao khát người khác biết về mình, khao khát cảm giác mới lạ, thú vui, thèm muốn một người cụ thể nào đó, v.v. Mỗi người chúng ta đều bận tâm đến một điều gì đó trong trần thế này mà chúng ta không muốn bỏ qua, dù điều đó buộc chúng ta phải để lại mọi thứ khác phía sau, kể cả Thiên Chúa.

Ngẫu tượng của chúng ta là gì? Điều gì khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa? Điều gì thu hút chúng ta đến mức chúng ta mạo hiểm sức khỏe, mạng sống và nhất là không cần lắng nghe Lời Thiên Chúa trong tiếng lương tâm cảnh báo?

  1. “Ai trong các ông sạch tội?

Đã hơn một lần các kinh sư và người Pharisêu muốn thử thách Chúa Giêsu để gài bẫy buộc tội Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy, chúng tôi có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Lc 20: 21-22). Nhưng điều khác biệt và xảo quyệt ở đây là họ sử dụng con người, một người phụ nữ cô thân cô thế, như một kế sách, không chỉ trước mắt là đẩy bà vào cái chết, mà còn đẩy chính Chúa Giêsu vào chung một số phận, loại trừ kẻ mà họ coi là nguy hiểm cho uy thế và quyền lực của họ.

Ở đây, Chúa Giêsu giữ im lặng, giống như trước mặt Philatô sau này (Ga 19: 9). Ngài không chấp nhận việc sử dụng con người cho mưu kế gian trá này, cũng như kiểu ăn nói gây hấn và qui kết tội lỗi. Ngài phát biểu bằng cách dùng ngón tay viết trên mặt đất: ngôn ngữ Ngài viết trong trường hợp này không phải là ngôn ngữ của các kinh sư và người Pharisêu. Ở đây, việc Chúa Giêsu dùng ngón tay để viết xuất hiện lần đầu trong sách Tin mừng theo thánh Gioan. Cử chỉ này nhắc tới “Hai tấm bia đá do chính tay Thiên Chúa viết” (Xh 31,18) và câu nói của Chúa Giêsu: “Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11: 20). Chúa Giêsu, với “ngón tay của Thiên Chúa,” đã viết lên một điều luật mới, thiết lập Triều Đại Thiên Chúa, nơi nguồn gốc mọi tội lỗi là quỷ dữ bị trừ khử, và con người tội lỗi được giải thoát khỏi cái chết muôn đời. Chúa Giêsu sắp thực thi luật mới này cho người phụ nữ ngoại tình đang câm lặng và cam chịu giữa vòng vây của những người vin vào lề luật nhưng không biết tinh thần tối thượng của lề luật: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”  (Ga 15: 17). Sự im lặng của Chúa Giêsu như muốn nói với mọi người hãy bỏ đi những qui kết ầm ĩ bên ngoài để có thể im lặng bước vào bên trong đáy sâu tăm tối lòng mình và nhận ra rằng không ai không là người ngoại tình, không là tội nhân đáng chết.

Vì họ cứ hỏi mãi, nên Ngài ngẩng lên và bảo họ: Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8: 7). Lời của Chúa Giêsu “Ai trong các ông sạch tội,…” khiến các kinh sư và người Pharisêu phải có một lối nhìn nhận khác. Thay vì chỉ kêu gọi người ta đứng ra làm chứng về tội ngoại tình của người phụ nữ, Chúa Giêsu kêu gọi bất cứ ai vô tội hãy bắt đầu thi hành án. Như thế, Ngài chỉ ra tình trạng tội lỗi những người buộc tội người phụ nữ và vạch trần sự giả hình của họ: cứ vin vào luật lệ, quy tắc, nhất là chuẩn mực của riêng mình, để bắt lỗi người khác, mà không biết tự xem xét lại lòng dạ, lương tâm và đời sống riêng tư của mình.

Khi không biết xét lại bản thân mình cách trung thực thì người ta rất dễ thấy người khác là kẻ tội lỗi mà quên mất rằng bản thân mình cũng tội lỗi không kém. Chúa Giêsu soi sáng cõi lòng của mỗi người chúng ta và vạch trần những tội lỗi ẩn kín nơi đó. Chúa Giêsu thúc giục mỗi người chúng ta, vốn hay phán xét và kết tội những người khác với thái độ tự cho mình là đúng, hãy xem xét lại cuộc sống của chính mình. Chúng ta hãy bỏ những viên đá xuống và trở về nhà mình, vì biết rằng chính mình cũng đáng bị ném đá như vậy.

Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến thế gian để cứu chúng ta khỏi sự lên án mà chúng ta đáng phải chịu: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ” (Ga 3:17). Sự thật này được diễn tả một cách hoàn hảo trong cung cách Chúa Giêsu thấu hiểu, xót thương và mở ra con đường sự sống mới cho người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình.

Chúng ta cần nhớ rằng không ai trong chúng ta có quyền ném đá người khác vì chính chúng ta đã được Chúa Giêsu tha thứ và mong mỏi chúng ta được sống kết hợp với Ngài nhiều như thế nào. Như thánh Phaolô khẳng định trong bài đọc thứ nhất, Chúa Giêsu muốn chúng ta “được kết hợp với Ngài… cùng được thông phần những đau khổ của Ngài, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong cái chết của Ngài, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết… chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Ngài kêu gọi trong Chúa Kitô Giêsu” (Philípphê 3:8-14).

Phêrô Phạm Văn Trung

 

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung nhân hậu của Chúa Giêsu.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo là các Kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môsê để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài bẫy Người. Tha cho người phụ nữ là Người chống lại luật Môsê. Kết án người phụ nữ là Người mâu thuẫn với chính mình vì Người vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án của người phụ nữ chính là bản án dành cho Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời gian lắng đọng tâm hồn. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu hỏi khác cơ bản hơn.

Người cúi xuống để người phụ nữ khỏi xấu hổ. Người cúi xuống để những Kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn mình. Người cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.

Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Họ mời Chúa Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu kết án người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn đá vào lương tâm họ.

Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp lương tâm họ sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.

Xét xử các Kinh sư và những người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người đã đưa ra lời phán xét: “Tôi không kết án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không sỉ nhục con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho ta một tương lai. Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa không nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Người không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.

Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Lên án và tha thứ, bạn làm điều nào nhiều hơn?
  2. Mỗi khi xét người, bạn có xét mình trước không?
  3. Bạn có cảm nhận được lòng thương xót của Chúa trong đời sống của bạn không?
  4. Khi đã tha thứ cho ai, bạn có hoàn toàn tin tưởng vào thiện chí của người đó không?

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Hãy tập tha thứ trong yêu thương

Thưa quý vị,

Khi chúng ta lâm vòng khổ luỵ, không tự cứu vớt được mình, chúng ta thường rơi vào bàn tay những kẻ vô lại mà bề ngoài xem ra là mạnh thường quân. Thế hệ ông nội tôi di cư từ nước Ý Đại Lợi sang Hoa Kỳ đã rơi vào trường hợp tương tự. Họ cập bến Ellis (New York). Các viên chức hải quan và biên phòng đón tiếp họ, niềm nở giúp đỡ và đổi tiền địa phương cho họ tiêu dùng. Các người mới đến còn lạ lẫm với phong thổ và hệ thống pháp lý, nên đưa cho họ hết gia tài nhỏ bé của mình, tin tưởng họ sẽ đổi thành tiền đôla qui giá. Ai ngờ khi vào đất liền, đem đôla ra dùng thì toàn là giấy giả và các đồng xu cọc cạch chẳng ai thèm nhận. Các nạn nhân không dám hé môi, vì sợ bị đuổi về. Hậu quả là các thế hệ con cháu nghi ngờ lòng tốt của hết mọi người, nhất là khách lạ. Biết đâu dưới bộ điệu nhân hậu lại là những tay vô nhân, cướp bóc không biết nương nhẹ. Một tu sĩ kia vừa mất một số tiền chung của nhà Dòng khi rời phòng không quá mười phút, vì bị gọi đi công tác. Trong nhà dòng toàn người thánh thiện cả. Chẳng kiếm ra thủ phạm. Đây không phải là trường hợp duy nhất. Vô số những người già có số vốn ít ỏi để nuôi dưỡng mình những năm tháng còn lại, đều bị phá sản như thế. Những tay vô lại chẳng biết xót thương ai. Các nạn nhân chỉ còn ‘kinh nghiệm’ sự kiện mà nhủ mình rằng : Một lần dại thì dái (sợ) đến già, hoặc một sự bất tín, vạn sự chẳng tin.

Tất cả những điều này đưa chúng ta đến suy niệm bài đọc 1, Isaia hôm nay.

Khi rơi vào tuyệt vọng cần giúp đỡ thì người ta phải chắc chắn rằng sự giúp đỡ đó là có thật và nhân hậu, chứ không giả vờ rồi lừa dối bóc lột. Dân tộc Israel cũng ở trong tình huống đó: Họ bị đế quốc Babylon hà hiếp, không lối thoát, bị đày đi làm tôi đòi ở thế kỷ thứ 6 TCN. Trăm cay ngàn đắng đè nặng trên vai. Họ kêu cầu Đức Chúa và Ngài ra tay giải thoát. Nhưng lấy gì làm bằng chứng? Isaia phải nhân danh Đức Chúa mà tuyên hứa: “Đây là lời Đức Chúa, Đấng đã vạch một con đường giữa đại dương, một lối đi giữa sóng nước oai hùng, Đấng đã cho xuất trận nào chiến mã, binh hùng tướng mạnh – tất cả đã nằm xuống mà không còn trỗi dậy.” Người phán như sau: “Ta sắp làm một việc mới, việc đó đã manh nha rồi, các người không nhận ra sao?” như thế Đấng giải thoát Israel phải đưa ra bằng chứng làm tin. Đấng phải tỏ ra uy tín của mình là đáng tin cậy và chân thật. Nếu dùng ngôn ngữ cờ bạc thì chúng ta nói Isaia đã đặt tất cả bảo chứng của Chúa lên bàn cân để dân tộc Israel xem xét và quyết định. Đấng là Thiên Chúa đã thực hiện những kỳ công vĩ đại cho tuyển dân khi họ ở trong kiếp nô lệ Ai cập. Ngài đã dẫn đưa họ ra khỏi nước đó, xẻ đôi lòng biển để họ đi qua khô chân, phá huỷ đạo binh Ai cập đuổi theo. Như vậy, Lời Chúa là đáng tin cậy, bảo chứng của Ngài là vững chắc. Tuy nhiên Thiên Chúa không phải là của quá khứ, của thời oai hùng đã qua, mà là Thiên Chúa của thời hiện tại, thời của tuyển dân đang chịu đi lưu đày ở đế quốc babylon. Isaia nói thay Thiên Chúa trong ngôi thứ nhất: “Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện thời xưa, chớ quan tâm về những việc đã qua. Này ta sắp làm một việc mới.” Việc xuất hành lần thứ nhất đã là vĩ đại, xuất hành lần thứ hai vĩ đại hơn. Sự việc đã bắt đầu: “Việc đó đã manh nha rồi, các ngươi không nhận ra sao?” lần xuất hành khỏi kiếp nô lệ Ai cập, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho tuyển dân con đường trong sa mạc, với manna và nước uống thích hợp cho cuộc ra đi. Trong rừng rậm thú dữ không hề làm hại họ. Nước từ trong mạch đá chảy ra dồi dào cho họ uống thoả thuê.

Như vậy Isaia muốn nói với tuyển dân Dothái: quý vị hãy đánh giá bảo chứng của Thiên Chúa. Khi cha ông chúng ta ở Ai cập, khô héo vì lầm than. Thiên Chúa đã đến cứu giúp và dẫn đưa các ngài qua các nẻo đường trong sa mạc và làm nhiều dấu lạ điềm thiêng để họ có thể trở về quê cha đất tổ ở Canaan. Thì bây giờ xin đừng tuyệt vọng trong hoàn cảnh hiện tại. Thiên Chúa sẽ cứu vớt anh em lần nữa. Tội bất trung của anh em đã dìm sâu anh em vào nô lệ Babylon. Nhưng Thiên Chúa đã lãng quên hết những sự dữ đó. Cái chi đã qua thì cho qua luôn (letting bygones be bygones). Thiên Chúa sẽ tái tạo anh em thành dân tộc mới. Xưa kia anh em không phải là dân Ngài. Thì nay Ngài làm cho anh em thành một dân trung thành và thánh thiện. Khi lời hứa, tôi nói với anh em trở thành hiện thực, thì anh em phải nên dấu chỉ cho thiên hạ, một sự công bố cương quyết về lòng trắc ẩn, tha thứ và ưu ái cho muôn dân và con cháu mai sau: “Phải, Ta sẽ mở con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông, từ vùng đất khô cằn, loài dã thú, chó rừng, đà điểu, đều sẽ tôn vinh ta. Vì Ta cho chúng nước chảy từ giữa sa mạc… Ta đã gây dựng cho Ta dân này. Chúng sẽ lên tiếng ngượi khen ta.” Còn lời nào vững chắc hơn? Khi tuyển dân bất trung bị ném vào kiếp sống nô lệ, nay lại được phục hồi thì chẳng thể gán cho ai công lênh ấy, ngoài Thiên Chúa, Đấng cứu vớt họ và là nguồn mạch tự do của họ. Họ chẳng thể nghi ngờ lòng nhân ái và xót thương của Thiên Chúa. Chẳng thể không ngợi khen Ngài. Tiên tri Isaia tuyên sấm rõ ràng như vậy.

Chúng ta đang trong tiến trình đến gần ngày lễ vượt qua của Đức Kitô. Ngài sẽ cứu thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ tội lỗi bằng cái chết và phục sinh. Khi lãnh nhận Phép rửa tội, chúng ta được Thiên Chúa ban khả năng làm cuộc hành trình với Ngài tiến về Thiên đàng. Chúng ta sẽ vượt qua kiếp nô lệ xác thịt để tới bến bờ tự do của con cái Chúa, thì chúng ta cũng tin rằng Thiên Chúa, qua Đức Kitô, bỏ lại tội lỗi chúng ta đằng sau, mà ban cho đời sống mới: “Các ngươi đừng nghĩ lại chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thời trước”. Những chi chúng ta không tự thân làm được thì Thiên Chúa sẽ làm cho chúng ta trong Đức Kitô, giống hệt như lời hứa của Isaia cho tuyển dân: “Này ta sẽ làm một việc mới!” và bảo chứng của Ngài về lời hứa cũng vững chắc như vậy. Ngài sẽ giải phóng chúng ta khỏi kiếp nô lệ ích kỷ, say sưa, đĩ điếm, vô cảm, tức giận, gian dối, giả hình… Còn chi yên ủi hơn? Chúng ta nên cộng tác với ơn Ngài, trở về cùng Thiên Chúa qua trung gian Đức Kitô, lời hứa đã biến thành xác thịt. Đức Kitô sẽ chỉ cho chúng ta hay Thiên Chúa không phải là của quá khứ, tương lai hay tiểu thuyết hư cấu, mà là của hiện tại, sắp làm một việc mới, không ngừng làm những việc mới nơi chúng ta, nơi cộng đoàn giáo xứ, nơi nhân loại trong suốt mùa chay này.

Người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, được dẫn đến cho Chúa Giêsu. Theo luật Môsê, chị ta sẽ bị ném đá chết. Án phạt đã rõ ràng. Nhưng các thần học gia Dothái và cấp lãnh đạo đền thờ còn muốn sử dụng cô ta làm miếng mồi để gài bẫy Chúa Giêsu. Họ biết rõ anh thợ mộc làng Nazareth bỏ nghề đi lang thang vốn to tiếng hô hào lòng thương xót và công lý của Thiên Chúa. Anh ta còn tuyên bố mình là hiện thân của những thứ đó do Thiên Chúa sai đến. Vậy nếu anh ta tha thứ cho dâm phụ, thì công lý của Thiên Chúa nơi anh ta thất bại. Nếu anh ta truyền ném đá thì lòng thương xót mà anh hằng rêu rao biến đi đâu? Dù Chúa Giêsu trả lời thế nào, thì cũng bị sập bẫy. Mưu mẹo quá hiểm độc.

Nhưng giải pháp của Chúa thật bất ngờ, không ai nghĩ tới, nó chính xác và nhanh nhẹn hơn những phát súng của các cao bồi Texas. Ngài cúi xuống viết trên cát bằng ngón tay cho nên chữ lớn lắm, mọi người đều đọc được cả: “Tại sao lại rắc rối vậy?” rồi ngẩng lên Ngài tuyên bố: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Và lại cúi xuống viết tiếp những tội thầm kín trong lòng người ta. Thấy thế, các thượng tế, luật sĩ, pharisêu dần dần rút lui. Như vậy, Người Con của Thiên Chúa tuần này đã cứu sống một phụ nữ hoang đàng, hoà điệu với người Cha đón nhận đứa con hư hỏng tuần trước. Hai cha con giống nhau y hệt: tìm kiếm và cứu vớt những tội nhân.

Người ta kể rằng các phim trường ở Mỹ ưa khai thác bạo lực. Một người hùng chính hiệu phải có phẩm chất: tự tin, độc lập, không biết sợ hãi. Dĩ nhiên anh ta phải dùng đến bạo lực. Nhưng trong một cuốn phim người yêu của kẻ hùng bị nạn, cần cứu thoát, tuy nhiên cô ta từ chối bạo lực. Làm thế nào anh ta hành động nổi? Đạo diễn cuốn phim đành chịu thua không đưa ra được giải pháp thoả đáng làm hài lòng mọi người.

Nhưng trong Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài cứu vớt người yêu mà không cần bạo lực. Ngài đứng đấy một mình với cô ta. Có thể là cô ta nghĩ mình thực sự là người tình giữa nhân loại, dám liều mạng sống vì người yêu. Nhưng sự gì đã xảy ra? Người đàn ông này là ai? Cô ta nhìn thẳng vào mặt Đức Chúa Trời, vào trái tim Ngài và ngộ ra thân phận tội lỗi của mình. Tuy nguy hiểm đã qua, nhưng còn tội lỗi thì sao? Cô ta hết sức ngạc nhiên khi nghe bên tai lời Chúa phán: “Tôi không lên án chị đâu. Cứ đi về bình an và từ nay đừng phạm tội nữa!” Thì ra tấm lòng của Đức Chúa Trời là như vậy. Trái tim cô ta bay bổng trong vui mừng vì cảm nghiệm được Chúa thứ tha và ban hy vọng. Cô thực sự bước vào một thế giới mới của ơn cứu chuộc mà người đàn ông này vừa tuyên bố. Cô ra đi còn mang trong trái tim hình ảnh của người ân nhân, biểu tượng mới của thế giới tình yêu chân thật.

Mùa chay này là thời gian thuận tiện để chúng ta canh tân linh hồn trong Đức Kitô. Câu truyện người đàn bà ngoại tình thật tuyệt vời. Nhiều hay ít, tất cả chúng ta đều mang hình ảnh của cô gái hoang đàng trong nhân cách mình. Và Thiên Chúa cũng nói với mỗi người “Ta không lên án ngươi cứ đi về bình an và từ nay đừng phạm tội nữa”. Giống như người phụ nữ, chúng ta cũng cần nhìn vào mắt Chúa và nhận ra tình yêu thắm thiết của Ngài. Phản ứng của chúng ta cũng là ý thức về các nhơ nhớp của mình: Nhơ nhớp khi không chia sẻ với những người nghèo khổ, nhơ nhớp khi kết án vô cớ, nhơ nhớp khi gian lận giả hình, khi không thứ tha, khi cố ý bảo lưu sai lầm, khi cường điệu, ức hiếp kẻ khác và còn nhiều thứ nhơ nhớp khác nữa.

Chỉ có Đức Kitô mới rửa sạch chúng ta khỏi những nhơ nhớp ấy. Tự bản chất, chúng ta là những kẻ ưa ném đá người khác, như lời nhà văn Nga Dostoyevsky: “No beast could ever be as cruel as man” ( chẳng súc vật nào độc ác như con người). Nên chỉ có Đức Kitô mới khoan dung thương xót như câu truyện hôm nay. Ngài sẽ xây dựng con đường an toàn cho chúng ta trở về cùng Thiên Chúa qua sa mạc khô cằn của cõi lòng con người. Chúng ta chẳng mấy khi tha thứ cho tội nhân, ngược lại, nhất định thanh toán, tẩy sạch cho bằng được. Chúng ta dùng những hình phạt ghê gớm, những thủ đoạn quỷ quyệt, bắt người khác phải khuất phục. Trong khi chúng ta nương nhẹ các lầm lỗi của mình, coi như chuyện nhỏ không đáng để ý. Chúng ta chẳng mấy khi dùng một tiêu chuẩn duy nhất để đo lường lỗi lầm của kẻ khác và của mình. Luôn khắc khe với thiên hạ và dễ dãi với mình. Vậy gương sáng của Chúa hôm nay là một bài học quí giá. Ngài tha thứ và cứu vớt, khác hẳn với thái độ khắc nghiệt của các thần học gia Dothái và thế lực đền thờ. Ném bùn nhơ vào thiên hạ thì tay mình cũng nhuốm bẩn. Cho nên Chúa Giêsu tha bổng cho người thiếu phụ ngoại tình. Chúng ta phải học lấy gương sáng ấy mà đối xử với nhau cho thanh sạch. Một khi đã kinh nghiệm sự tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta phải làm chứng nhân cho lòng thương xót của Thượng Đế. Đừng dùng sự phẫn nộ chính đáng tôn giáo mà kết án thiên hạ. Nhưng hãy rao giảng sự khoan hồng, thứ tha của Đức Chúa Trời cho muôn dân. Được như vậy mùa chay này mới mang ý nghĩa và Phúc Âm hôm nay mới thực là bài học. Amen.

LM Jude Siciliano, OP.

Trở về với nội tâm

Trở về với nội tâm để thấy được tội lỗi của mình là điều kiện tiên quyết để cải thiện bản thân.

Con người có đôi mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Người ta thường nhìn ra ngoại giới nhưng rất ít khi hướng vào nội giới, vào nội tâm mình. Chúng ta có thể nhìn thấy khuôn mặt của những người chung quanh nhưng khuôn mặt duy nhất trên đời chúng ta không bao giờ có thể nhìn thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính mình! Một nốt ruồi nhỏ trên khôn mặt người khác, ta thấy rõ ràng; còn vết sẹo lớn trên trán mình, ta không nhìn thấy được. Lỗi lầm nho nhỏ của người khác, ta thấy tỏ tường; còn những lầm lỗi tệ hại của mình thì lại không hay biết. Thế rồi, chúng ta dành nhiều thì giờ để phê phán người khác mà chẳng mấy khi phê phán bản thân.

Các kinh sư và người Pha-ri-sêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thế. Họ nhìn thấy rõ ràng tội lỗi của người phụ nữ ngoại tình, nhưng không nhìn thấy tội lỗi của họ. Họ bận tâm đến việc kết án người khác, nhưng không quan tâm đến việc sửa chữa lầm lỗi của bản thân. Chính vì thế, Chúa Giê-su muốn dạy cho họ một bài học tâm linh cần thiết là hãy trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi của mình trước, hãy trách mình trước rồi trách người khác sau. Cổ nhân cũng thường dạy như thế: “Tiên trách kỷ hậu trách nhân.”

Bấy giờ, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giê-su. Họ hối thúc Chúa Giê-su đưa ra ngay một phán quyết định đoạt số phận của người đàn bà tội lỗi. Về phần mình, Chúa Giê-su muốn dẫn dắt những người tưởng mình vô tội trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi mình mà hoán cải trước đã.

Thế nên, đứng trước những con người đang lăm le kết án người phụ nữ và mưu toan ám hại mình, Chúa Giê-su im lặng. Người thinh lặng và tạo nên bầu khí tĩnh lặng để tạo cơ hội cho mọi người tự vấn lương tâm. Người muốn kéo dài sự thinh lặng bằng cách ngồi xuống viết trên đất.

Khi người ta cứ hỏi mãi, phá tan sự im lặng cần thiết cho sự rà soát tâm hồn, Chúa Giê-su lên tiếng kêu mời họ hãy xét lại mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”.

Rồi Người lại ngồi xuống thinh lặng, tiếp tục viết, viết trên đất để tạo bầu khí yên tĩnh cho mọi người hồi tâm.

Sau một hồi nhìn lại nội tâm mình trong yên lặng, những con người hăm hở kết tội người phụ nữ giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi của họ, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là những viên đá trên tay họ lụp cụp rơi xuống. Ai nấy xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giê-su và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm lên án người khác, có khi còn ít tội hơn mình!

Trở về với nội tâm để thấy được tội lỗi của mình là điều kiện tiên quyết để cải thiện bản thân.

Nếu tôi biết được mình hôi hám, tôi sẽ đi tắm ngay. Còn nếu tôi không nhận ra mùi hôi của cơ thể mình, thì mãi mãi tôi vẫn là người hôi hám.

Nếu tôi biết khuôn mặt mình dơ bẩn, tôi sẽ lau rửa tức khắc; bao lâu chưa thấy những vết dơ trên mặt, thì không hi vọng có khuôn mặt sạch sẽ hơn.

Nếu tôi thấy được sự xấu xa của nội tâm, sự bê bối của đời sống mình, tôi sẽ cải thiện ngay không trì hoãn.

Sự chuyển hóa bản thân, cải thiện cuộc sống chỉ thực sự bắt đầu lúc ta tự nhận biết tội lỗi mình.

Lạy Chúa Giê-su, trở về với nội tâm để rà soát chính mình, để thấy được tội mình là điều rất khó thực hiện và cũng chẳng được bao người quan tâm. Xin Chúa thương giúp đỡ chúng con thực hiện công việc hệ trọng nầy.

Xin cho Lời Chúa trở nên tấm gương soi tâm hồn, giúp chúng con nhận ra những nết xấu làm vấy bẩn lòng trí, làm suy thoái nhân cách và giúp chúng con cải thiện kịp thời để trở nên người có phẩm chất cao đẹp đáng được Chúa và mọi người mến yêu.

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

ĐỔI MỚI

CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY 

(Is 43, 16-21; Phil 3, 8-14; Ga 8, 1-11). 

Trong chương trình cứu độ, dân Do-thái trở thành dân tộc trung gian và máng chuyển ân lộc của Thiên Chúa. Một dân tộc được tôi luyện đã trải qua nhiều gian nan thử thách. Thiên Chúa luôn hiện diện đồng hành để khuyến khích và thức tỉnh: Người phán như sau: “Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước (Is 43, 18). Đây là một lời khuyến khích yêu thương đổi đời. Cho dù dân từ bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại và quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa, Chúa vẫn giữ mối tình trung kiên.

Thiên Chúa sẽ thực hiện những sự đổi mới và khơi nguồn những phúc lộc chan hòa. Hy vọng chính là nguồn sống. Hy vọng ngày mai tươi sáng hơn, thành công hơn và sinh hoa kết qủa nhiều hơn. Mỗi ngày sống là mỗi cơ hội tốt để hoàn thành những ước mơ. Mong chờ Đấng Cứu Độ đến giải thoát khỏi vòng u mê tội lỗi và sự chết là mơ ước tuyệt đỉnh của dân người. Trong cuộc sống, chúng ta thường có những hy vọng nho nhỏ nối kết từng ngày giúp chúng ta sống vui. Sống là một cuộc lữ hành hoàn thành các ước mơ. Kết thúc dự tính này lại hy vọng ước tính khác. Đời chỉ đẹp khi còn dang dở.

Chính sự dở dang tạo nên uẩn khúc cuộc đời. 

Bài Phúc âm hôm nay kể truyện người phụ nữ không may bị người ta bắt gặp đang khi có những liên hệ tình dục bất chính. Một hành động trái đạo lý luân lý, không đúng lúc và không đúng nơi. Chị ta bị phát hiện khi sự kiện còn dang dở. Chị ta không thể chối cãi và chỉ biết cúi mặt xấu hổ. Một phút giây lầm lỡ đã hủy phá danh dự cả một đời. Chị biết lỗi mình. Đứng đó, không có nơi nương tựa để giấu mặt hay trốn lánh. Sự thể đã rồi, biết làm sao bây giờ. Chúng ta cũng biết chị ta đâu phạm tội gì đến danh dự của các luật sĩ, biệt phái hay ai khác. Họ tố cáo chị với Chúa GiêsuHọ hiểu biết Luật của Môisen, nhưng vẫn muốn thử sự xét đoán của Chúa Giêsu. Đá đã cầm sẵn trong tay và chỉ chờ lời phán quyết kết tội của Chúa là họ ném đá người phụ nữ cho chết. Họ giữ luật vị luật và thiếu lòng nhân ái. Chúa đã cứu chị ta với một câu hỏi tuyệt vời: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.”(Ga 8, 7). Ai là người vô tội. Bằng một lời, Chúa Giêsu dẫn mọi người trở về với lòng mình. 

Những người tố cáo chị vẫn còn chút lương tâm nhậy cảm. Họ nhận ra ý nghĩa lời chỉ dậy của Chúa Giêsu ngay. Tâm phục khẩu phục. Qua vài câu đối thoại với Chúa Giêsu, mọi người đã thức tỉnh và những cục đá thù ghét rơi xuống khỏi lòng bàn tay. Họ đã bỏ đi từ kẻ già đến người trẻ. Có lẽ tâm hồn của họ cũng cảm thấy vơi bớt nỗi hờn ghen. Cuối cùng, Chúa Giêsu đầy lòng thương xót đã lên tiếngMột lời nhắn nhủ rất nhẹ nhàng và thuyết phục. Về đi. Như vậy Chúa đã tha thứ rồi. Chúa có uy quyền trên cả Luật Môisen. Chúa đã cất nỗi tủi hổ và nhục nhã cho người phụ nữ phạm tội. Chúa đã cứu sống người phụ nữ cả thân xác lẫn linh hồn. 

Khi cầm đất hay đá ném người khác thì tay chúng ta đã dơ và lòng đã bẩn. Có biết bao lần chúng ta đã xét đoán và kết tội người khác, trong khi chúng ta chỉ nghe có một chiều và biết một phần rất nhỏ của câu truyện. Vấn đề này xảy ra thường ngày như cơm bữa. Chúng ta nghe truyện xấu và rồi thêm mắm thêm muối cho câu truyện thêm đậm đà ý vị. Truyện xấu giật gân lây lan nhanh chóng như một thứ vi khuẩn xâm nhập. Cục đá kết án đã nằm sẵn trong tay chỉ chờ cơ hội là ném. Ném mạnh, ném nhanh và ném cho chết, thế là hả dạ. Chúng ta chẳng muốn tìm hiểu nguyên nhân, lý do hay hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng thế nào. Chúng ta biết rằng ai cũng có nhiều tâm tư nỗi khổ cần được thông cảm và giãi bầy chia sẻ. Hãy học lời khuyên của Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh, ai trong anh chị em sạch tội, thì ném đá trước đi. 

Chúng ta không nên nghi ngờ và đổ lỗi vội vàng. Có khi sẽ bị bé cái lầm. Truyện kể: Có người mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm. Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa. Nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn cắp búa. Mọi cử động của nó, tỏ rõ là tên đạo tặc. Ông bị yên trí. Sau khi ông tìm thấy búa, thì từ đó lại thấy thằng bé hiền lành, không có vẻ chi là ăn cắp, ăn trộm nữa. Ở đời không nên vội nghi ngờ, kẻo gây chia rẽ hay làm mất thanh danh người khác. Càng nghi kỵ thì càng nhen nhúm sự dữ trong lòng. Sự đời dối trá dễ lôi kéo chúng ta vào cuộc. Giống như câu truyện của chị phụ nữ, có thể chúng ta không dám ném đá người khác trước đâu. Một mình tôi thì chẳng dám ném, nhưng có vài người vào hùa, tôi sẽ hùa theo. 

Thánh Phaolô đã có Chúa Kitô làm gia nghiệp. Ngài có thể hy sinh và từ bỏ tất cả vì danh Chúa. Mối lợi của ngài là chính Chúa Kitô. Đôi khi chỉ vì cái tôi kiêu ngạo và vì tự ái, nhiều người lấy danh nghĩa Chúa Kitô để kết án và loại trừ lẫn nhau. Lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua sự ly khai của các giáo phái và các nhóm trong lòng giáo hội. Niềm tin của chúng ta là chỉ có một Chúa, một phép rửa và niềm hy vọng. Dù sống đạo hay hành đạo cách nào, nếu chúng ta chưa kết hợp được với Chúa Kitô, chúng ta vẫn còn lang thang chưa có đích điểm.

Sau khi gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh, Phaolô đã trở thành một con người hoàn toàn mới. Saulô thay đổi từ một người hăng say bắt bớ và giam tù các Kitô hữu, đã trở thành tông đồ Phaolô rao giảng tin mừng nhiệt tình cho Nước Chúa. Ngài đã cam chịu cực khổ trăm bề để làm cho danh Chúa Kitô cả sáng. Mùa Chay là cơ hội cho mỗi người chúng ta thay đổi cách sống. Học hỏi, lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Gắn bó kết hợp với Chúa qua các Bí tích và việc cử hành phụng vụ. Chúa Kitô là trung tâm của tất cả các sinh hoạt sống đạo.

Lạy Chúa, chúng con đang còn lữ hành dưới trần thế để hướng về quê thật. Xin cho chúng con biết chuẩn bị những hành trang cao quí xứng hợp với cõi thiêng. Niềm hy vọng chính là ánh sao soi đường dẫn chúng con đạt tới sự sống bên Chúa đời đời. Amen.

 

Lm. Giuse Trần Việt Hùng.

Subcategories