3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

MÙI ĐẤT, MÙI TRỜI

Thứ Bảy Tuần 31 TN C

“Thiên Chúa thấu biết lòng các ông!”.

“Tôi làm hết sức những gì có thể. Nếu kết thúc của nó tốt đẹp, tôi an lòng, những lời chống đối sẽ không là gì cả. Nếu tôi sai, thì dẫu mười thiên thần cho rằng, ‘Tôi đúng’, điều đó vẫn không tạo nên một sự khác biệt. Chúa biết mọi sự!” - A. Lincoln.

Kính thưa Anh Chị em,

“Chúa biết mọi sự!”, xác tín của Lincoln được gặp lại qua Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói với các biệt phái, “Thiên Chúa thấu biết lòng các ông!” - những người sống theo ‘thói đất’, đánh bóng chính mình. Ngài muốn họ thanh thoát - rũ ‘mùi đất’, ngát ‘mùi trời!’.

Trong cuộc sống, có những sai lầm khi chúng ta nghĩ về người khác, và cũng bao điều không đúng khi người khác nghĩ về chúng ta. Kết luận của Chúa Giêsu nhắm đến một khuynh hướng chung của nhiều người - tô hồng một bản ngã giả tạo - một ảo tưởng khiến con người khép kín trước chân lý, tha nhân và Thiên Chúa. Ai không dám nhìn vào lòng mình dưới ánh sáng của Ngài, người ấy chỉ lệt đệt ‘ngang đất’. “Nếu không biết mình, bạn sẽ chẳng đâm rễ nơi bản thân; bạn có thể chịu đựng một thời, nhưng khi gặp đau khổ hay bách hại, đức tin của bạn sẽ lung lay!” - Henry Newman.

Chúa Giêsu ‘biết tỏng’ lòng dạ các biệt phái, Ngài cũng ‘biết tỏng’ lòng dạ bạn và tôi! Chúng ta thường tự đề cao, tạo nên một hình ảnh lệch lạc về bản thân. Nhiều đổ vỡ khởi đi từ đó! Vì thế, mấu chốt của đời sống thiêng liêng chính là “biết mình trong ánh nhìn của Thiên Chúa” - cũng là cánh cửa nơi ân sủng đi vào. ‘Biết mình’ giúp chúng ta không còn bận tâm điều Thiên Chúa không bận tâm, nhưng bận tâm những gì Ngài nghĩ về tôi, cuộc sống tôi, linh hồn tôi. “Một khi dám để Thiên Chúa đi vào toàn bộ bản thân run rẩy của mình, bạn càng cảm nhận được rằng, Tình Yêu Ngài - tình yêu hoàn hảo - đuổi hết mọi sợ hãi!” - Henri Nouwen.

Phaolô hiểu rõ điều ấy, ngài nhận ra sự yếu hèn của mình và biết ơn những người đã nâng đỡ ngài trong sứ vụ, “Họ đã liều mất đầu để cứu mạng tôi. Không chỉ mình tôi, mà còn các Hội Thánh!” - bài đọc một. Nhờ sự cộng tác đó, danh Thiên Chúa được chúc khen, “Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Chúa biết mọi sự!”. Ngài biết chúng ta ‘từ đất’, ‘thuộc về đất’ và lòng luôn ‘dính đất’; vì thế, với những tiêu chí ‘ngang đất’, chúng ta luôn tìm cho mình những ‘trọng vọng’ theo ‘thói đất’. Không được như vậy, chúng ta chắp vá, vay mượn… chỉ để tạo nên một ‘giá trị rẻ tiền’ nào đó trước người đời. Kết quả, cuộc sống chúng ta đượm ‘mùi đất’ - nặng nề, giả tạm - hơn là toả ‘mùi trời’ - thanh thoát, chân thật. Nhưng ân sủng - không phá huỷ tự nhiên, mà kiện toàn nó - có thể thánh hoá đất ấy. Chính từ ‘phận đất’, Chúa muốn làm bừng dậy ‘hồn trời’; Ngài mơ về chúng ta luôn nhìn vào Chúa Kitô, nên giống Ngài, Đấng sẽ chỉ cho mỗi người cách sống tư cách con trai, con gái của Trời; phần còn lại, Ngài lo!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con sống theo thói đất, đượm mùi đất; cho con vương hương mùi trời, xứng với phẩm tính con cái Vua Trời!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

ĐỨC GIÊSU – NGƯỜI QUẢN LÝ BẤT LƯƠNG

Thứ Sáu Tuần 31 TN C

Dụ ngôn “Người Quản Lý Bất Lương” được đặt trong Bối Cảnh Phụng Vụ của Thứ Sáu Tuần 31 Thường Niên Năm Lẻ, cho ta thấy gương mặt của Đức Kitô – Người Tôi Trung của Thiên Chúa, được sai đến chỉ để thi hành ý muốn của Chúa Cha. Đức Giêsu nói: Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy (Ga 5,19). Đức Giêsu có một Người Cha phung phí: Người phung phí khi gieo hạt giống cả trên vệ đường, sỏi đá và bụi gai; Người phung phí khi đối xử nhân hậu với người con hoang đàng phung phá hết tài sản; Người phung phí đến nỗi, hiến cho nhân loại cả Người Con Một Yêu Dấu, tài sản quý giá nhất của Người.

Ơn cứu độ chính là kho tàng, là sản nghiệp Chúa dành cho ta. Tất cả là của Chúa, ta chỉ là người quản lý, ta hãy bắt chước và nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Người Quản Lý bất lương hoang phí nguồn ơn cứu độ của Chúa Cha, đến nỗi, phí luôn giọt Máu cuối cùng trên thập giá để cứu độ ta, như cây hương mộc vẫn tỏa hương thơm cho chiếc rìu chặt nó, tình yêu, lòng thương xót của Đức Giêsu vẫn tuôn đổ dạt dào trên những kẻ chống đối, bách hại và đóng đinh Người. Đức Kitô, Người Quản Lý bất lương, đã phung phí hết tài sản của Chúa Cha, là chính mình, cho một nhân loại bất lương, bất hiếu, bất trung; Người đã phung phí đến hơi thở cuối cùng, để cứu sống, và chữa lành một nhân loại phung hủi nhơ uế vì tội lỗi. Ước gì ta biết nên giống Đức Kitô, để cũng được Chúa Cha khen là “người quản lý bất lương”.

Tung hô Tin Mừng: Ai giữ lời Đức Kitô dạy, thì nơi kẻ ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Lời Chúa phán là lời chúc bình an cho Dân Người, lời Đức Kitô là lời cứu độ, là lời ban sự sống; tình yêu của Thiên Chúa thực sự nên hoàn hảo nơi chúng ta, khi lời hứa cứu độ được thành toàn nơi chúng ta và nơi tất cả mọi người. Chúng ta là người quản lý kho tàng ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì thế, chúng ta phải làm cho mình và cho người khác được hưởng ơn cứu độ của Chúa, như Đáp Ca, Thánh Vịnh 97: Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát. Trong Bài đọc 1 Thánh Lễ, thánh Phaolô tự nhận: Thiên Chúa đã cho tôi làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô, để các dân ngoại trở nên lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa, để những kẻ đã không được loan báo về Người, sẽ thấy; những kẻ đã không được nghe nói về Người, sẽ hiểu.

Chúng ta, không chỉ, lo cho những người đang sống được hưởng ơn cứu độ của Chúa, mà còn, phải cầu nguyện cho những người đã chết, như trong Bài đọc 1 Kinh Sách, ông Giuđa Macabê đã quyên tiền gửi về Giêrusalem xin dâng lễ đền tội cho những chiến binh tử trận. Cầu nguyện cho kẻ chết được thứ tha tội lỗi, quả là việc thánh thiện và tốt lành. Ai làm như vậy sẽ được một phần thưởng vô cùng quý giá. Trong Bài đọc 2 Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Nadien cũng nói: Cầu nguyện cho người quá cố là một ý tưởng lành thánh, Đức Kitô là Chúa và Thiên Chúa chúng ta, Người sẽ đón nhận những anh chị em chúng ta đã qua đời, vì Người đã đổ máu đào cứu chuộc họ.

Tất cả đều do bởi ơn Chúa, vì thế, tự sức mình, chúng ta không thể tin nhận Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, chúng ta rất cần ơn Chúa, để có thể hưởng ơn cứu độ của Người, như Lời Tổng Nguyện: Chỉ nhờ Chúa ban ơn, các tín hữu Chúa mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, xin giúp đỡ chúng con thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa mà không bị vấp ngã trên đường. Ca Nhập Lễ: Lạy Chúa, xin đừng bỏ mặc, đừng nỡ xa con, xin Ngài mau phù trợ. Ca Hiệp Lễ: Lạy Chúa, Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: Trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề.

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.

 

LỜI CHÚA VÀ SUY NIỆM LỄ CÁC THÁNH

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 5,1-12a): Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. – Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. – Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. – Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. – Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. – Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. – Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. – Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. “Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời…” Ðó là Lời Chúa

- Tin Mừng Matthêu 5, 1-12a là bài giảng của Chúa Giêsu về Tám Mối Phúc Thật, là những phẩm tính, lối sống để trở nên thánh thiện và hưởng Nước Trời. Suy niệm bài này giúp ta hiểu rằng sự thánh thiện không chỉ dành cho những người đặc biệt, mà là con đường cho mọi người, những ai sống nghèo khó trong tâm hồn, hiền lành, sầu khổ, khao khát sự công chính, hay thương xót, có lòng trong sạch, mang lại hòa bình và sẵn sàng chịu bách hại vì Chúa.

  1. Nội dung Tám Mối Phúc Thật.
  • Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ: Nhấn mạnh sự từ bỏ, khiêm nhường, phó thác hoàn toàn vào Chúa, không bám víu vào tiền bạc và danh vọng.
  • Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp: Người hiền lành là người không dùng sức mạnh, bạo lực để đạt được điều mình muốn, mà sống thuận theo ý Chúa.
  • Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an: Không phải là buồn sầu vì những chuyện trần tục, mà là nỗi buồn chân thành của người biết nhận ra tội lỗi và thương xót những khổ đau của người khác.
  • Phúc thay ai khao khát và đói khát sự công chính, vì họ sẽ được no thỏa: Khao khát và làm mọi cách để sống công chính theo ý Chúa và giúp đỡ người khác cũng được sống công chính.
  • Phúc thay ai hay thương xót, vì họ sẽ được xót thương: Sống tình thương và lòng trắc ẩn với mọi người, nhất là những người gặp khó khăn.
  • Phúc thay ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa: Sống trong sạch trong tư tưởng, lời nói và hành động, tâm hồn không vướng bận điều gì ngoài Chúa.
  • Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa: Sống và làm mọi cách để mang lại hòa bình và hòa giải cho mọi người.
  • Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ: Chấp nhận hy sinh, đau khổ vì giữ vững niềm tin và sống ngay lành.
  1. Suy Niệm cho ngày Lễ Các Thánh. Sự thánh thiện là lời mời gọi cho mọi người: Lễ Các Thánh Nam Nữ (1/11) là dịp tôn vinh tất cả những người đã hoàn thành cuộc sống theo Chúa, thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, không chỉ riêng các thánh đã được Giáo Hội công nhận. Mối Phúc Thật là con đường nên thánh: Chúng ta được mời gọi sống theo những giá trị của Mối Phúc Thật, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, để dần trở nên thánh thiện, giống như Chúa. Sống thánh thiện là trở về bản chất được tạo dựng: Chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, nên thánh thiện là sống đúng với bản chất cao quý này. Thánh thiện là hy vọng và sự chắc chắn: Khi đặt hy vọng nơi Chúa và sống thánh thiện, chúng ta tự thánh hóa mình để trở nên giống như Người.
  2. Suy Niệm Thêm. Lễ Các Thánh đến, ta lại nhớ tới câu nói của thánh Augustino: “Ông này bà nọ hay anh ấy chị kia làm thánh được thì tôi cũng làm thánh được”.

- Các thánh không là ai xa lạ, mà là tất cả những ai minh nhiên hay mặc nhiên đón nhận ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô, đã giặt sạch áo mình trong Máu Con Chiên là thông dự vào Mầu Nhiệm Thập Giá và Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô.

- Bắt đầu từ Thánh Mẫu Maria đến hàng hàng lớp thánh nhân thuộc đủ mọi tầng lớp trong xã hội, thuộc mọi màu da và mọi ngôn ngữ mà thánh Thánh Gioan trong sách Khải Huyền được nhìn thấy trong thị kiến, với con số tượng trưng một trăm bốn mươi bốn ngàn người (x. Kh 7,9).

- Các thánh đã từng sống kiếp người như chúng ta trong từng thân phận, hoàn cảnh, địa vị. Từ vua quan đến nô lệ, từ hoàng tước đến bần cố nông, từ ông chủ xí nghiệp đến công nhân thợ thuyền; từ giáo hoàng đến tín hữu, từ tu sĩ đến bậc sống gia đình, từ đồng trinh đến goá phụ, vân vân, tất cả đã nên thánh ngay trong chính kiếp người và bậc sống của mình, biến những sự bình thường thành phi thường, thánh hoá đời sống thường nhật thành cuộc sống thiên thần, qua các mối phúc, được gọi là

 “Hiến Chương Nước Trời mà Chúa Giêsu dạy qua bài Tin Mừng hôm nay.

Những mối phúc này xem ra không hợp với những quan niệm của cuộc sống thông thường. Nhưng đó lại là một nghịch lý mà không vô lý. Nghĩa là trong khi thế gian chạy theo mọi thứ có giá trị tạm thời, thì người theo Chúa dám đi ngược dòng, là tìm những giá trị vĩnh cửu ngay trong những thứ trần thế.

+/ Trong lịch sử Hội Thánh, từ thế kỷ thứ 4, các thánh tử đạo đã được Hội Thánh tôn vinh. Đến thế kỷ thứ 7, đức giáo hoàng Bonifaciô 4 đã cho thu lượm những hài cốt các thánh và chôn cất lại bên trong ngôi đền Pantheon. Từ ngày đó đền thờ này đã được thánh hiến trở thành đền thờ kính các Thánh Nam Nữ của đạo Công Giáo.

- số lượng các thánh giáo hội công giáo đã tôn phong hiển thánh? Các ước tính khác nhau đã được đưa ra. Một nguồn tin ước tính số lượng các thánh đã được chính thức phong thánh tăng lên đến hơn 20.000 nếu tính cả các vị chân phước và các vị thánh được tôn kính tại địa phương.

- bao gồm 81 vị Giáo hoàng, hàng trăm vị tử đạo tại Trung Hoa và Việt Nam, và nhiều vị thánh khác. Việc phong thánh là một quá trình lâu dài, với các quy trình xét duyệt và phê duyệt phức tạp tại Vatican.

- Các nhóm thánh được tôn phong. Giáo hoàng: 81 trong số 266 vị Giáo hoàng đã qua đời được công nhận là thánh, bao gồm 35 vị đầu tiên (trong đó có 31 vị tử đạo). Tử đạo Việt Nam: 117 vị tử đạo Việt Nam được phong thánh vào năm 1988. Tử đạo Trung Hoa: 120 vị tử đạo tại Trung Hoa đã được phong thánh từ năm 1633 đến 1930. Ngoài ra, có rất nhiều vị thánh khác được phong thánh trong các giai đoạn khác nhau, bao gồm 10 vị thánh mới được phong thánh vào tháng 10 năm 2024.

- Theo Giáo hội Công giáo, tiến trình chính thức phong thánh của Tòa thánh chỉ được thiết lập từ thế kỷ 10. Cần ghi nhớ là tất cả các linh hồn trên Thiên đàng đều là thánh, Giáo hội tin rằng tất cả những ai đã về với Chúa đều là các thánh. Việc tôn phong hiển thánh chỉ là sự công nhận chính thức của Giáo hội rằng một người đã sống một đời sống thánh thiện anh hùng và xứng đáng được toàn thể Giáo hội kính nhớ và noi gương.

- Các vụ phong thánh gần đây: Giáo hoàng Phanxicô: Trong những năm đầu triều đại giáo hoàng của ngài, đã có những vụ phong thánh với số lượng lớn, bao gồm 800 vị tử đạo ở Otranto, Ý, trong một lần phong thánh năm 2013. Một số giáo hoàng gần đây: Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong 482 vị thánh, Giáo hoàng Biển Đức XVI phong 45 vị và Giáo hoàng Phanxicô đã phong 893 vị (tính đến giữa năm 2019).

- Nên thánh là bổn phận của người tín hữu, như lời thánh Phêrô nói với chúng ta trong 1 Pr 1, 15-16: Bởi vì Đấng kêu gọi anh em là Đấng Thánh, anh em cũng vậy, anh em hãy nên thánh trong mọi hành động của anh em, như đã được viết: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh.

- Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã viết: Đã có rất nhiều vị thánh, bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh.

+/ Sau hết, để kết thúc, ta hãy nghe những lời bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ về các thánh như sau: Các thánh không cần chúng ta tôn vinh và lòng tôn kính của chúng ta cũng chẳng thêm gì cho các ngài…nhưng khơi lên hoặc thôi thúc mãnh liệt hơn trong ta niềm khát vọng đầu tiên này: đó là mong được họp đoàn với các ngài, được xứng đáng làm người đồng hương và làm bạn hữu với các thánh, được liên kết với chư vị tổ phụ, với hàng ngôn sứ, với bậc tông đồ, với hàng hàng lớp lớp các vị tử đạo, với cộng đoàn các vị tuyên xưng đức tin, với đoàn trinh nữ. Amen

Linh Mục G.B Nguyễn Ngọc Nga

Thắp lên niềm tin – Nhắc nhở ngày 2/11

Khi những cơn gió se lạnh đầu mùa khẽ lướt qua, mang theo chút hơi sương bảng lảng của đất trời đang chuyển mình, lòng người dường như cũng lắng lại trong một cõi tâm tư sâu thẳm. Phụng vụ của Mẹ Giáo hội, trong sự khôn ngoan thiêng liêng, đã sắp đặt một cách tuyệt vời khi dành trọn tháng Mười Một để mời gọi con cái mình hướng lòng về cõi vĩnh hằng, đặc biệt với việc khởi đầu bằng ngày Lễ Các Thánh (1/11) và ngay sau đó là ngày Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời (2/11). Đây không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, mà là một bài giáo lý sâu sắc về mầu nhiệm Các Thánh Thông Công. Ngày 2/11, bầu khí của toàn thể Giáo hội dường như chùng xuống trong sự tưởng niệm, nhưng không phải là một sự bi lụy hay tuyệt vọng, mà là một sự tưởng niệm được thắp sáng bởi niềm tin Phục Sinh. Chúng ta không chỉ nhớ về những người đã khuất, mà chúng ta còn chủ động "thắp lên niềm tin" – niềm tin vào sự sống lại, niềm tin vào sự hiệp thông, và niềm tin vào sức mạnh của lời cầu nguyện có thể xuyên thấu bức màn ngăn cách giữa cõi sống và cõi chết. Ngày hôm nay nhắc nhở chúng ta về một món nợ ân tình, một mối dây liên kết không thể bị cắt đứt bởi sự chết thể lý, đó là mối liên kết giữa chúng ta với ông bà, cha mẹ, và những người thân yêu đã đi trước chúng ta vào cõi vĩnh hằng.

Bước vào Tháng Linh Hồn, bắt đầu từ ngày mồng 2/11, là chúng ta bước vào một cuộc hành hương của trái tim. Cuộc hành hương này không cần phải đi đâu xa, mà là một cuộc hành hương trở về với cội nguồn, với ký ức, và với chân lý đức tin căn bản nhất của người Kitô hữu. Các nghĩa trang, vốn thường ngày tĩnh lặng, bỗng trở nên ấm áp hơn bởi ánh nến lung linh, rực rỡ hơn bởi muôn ngàn sắc hoa tươi thắm, và thơm ngát hương trầm bay quyện trong gió. Những hình ảnh đó không chỉ là một nét văn hóa, một truyền thống tốt đẹp, mà còn là một biểu hiện sống động của đức tin. Mỗi ngọn nến được thắp lên là một lời tuyên xưng: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen." Ngọn nến ấy là biểu tượng của chính Chúa Kitô, Ánh Sáng Phục Sinh đã chiến thắng bóng tối tử thần. Nó cũng là biểu tượng cho niềm hy vọng của chúng ta, rằng những người thân yêu, dù đang trong đêm tối của sự thanh luyện, cũng sẽ sớm được Ánh Sáng Vĩnh Cửu của Thiên Chúa chiếu soi. Mỗi nén hương được đốt lên là một lời kinh nguyện thầm lặng, một sự hiệp thông chân thành, mang theo lòng hiếu thảo và tình yêu thương của con cháu gởi đến các bậc tiền nhân. Chúng ta đến nghĩa trang không phải để tìm một sự ủy lị, nhưng để tìm thấy sự bình an, để củng cố niềm tin, và để nhắc nhở chính mình về thân phận lữ hành của cuộc đời này.

Tháng Mười Một mời gọi chúng ta sống "trọn hiếu thảo thiêng liêng". Lòng hiếu thảo của người Kitô hữu không dừng lại ở bờ bên này của sự chết. Khi cha mẹ, ông bà còn sống, chúng ta phụng dưỡng, chăm sóc, yêu thương. Khi các ngài đã qua đời, lòng hiếu thảo ấy được thăng hoa, được chuyển hóa thành một hình thức cao đẹp hơn: đó là lòng hiếu thảo thiêng liêng. Chúng ta không còn có thể mang đến cho các ngài những bữa ăn vật chất, nhưng chúng ta có thể mang đến cho các ngài "bữa ăn" thiêng liêng quý giá hơn vạn bội: đó chính là Thánh Lễ Misa. Mỗi Thánh Lễ chúng ta tham dự, mỗi lần chúng ta dâng ý lễ cầu nguyện cho các linh hồn, là chúng ta đang trao cho các ngài chính Máu Thịt cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Đó là hành động bác ái cao cả nhất, là sự giúp đỡ thiết thực nhất mà chúng ta có thể làm cho những người đã khuất. Ngoài Thánh Lễ, còn có biết bao phương thế khác: chuỗi Mân Côi, những lời kinh nguyện tắt, những việc hy sinh hãm mình, những việc bác ái tông đồ. Mỗi lời kinh, mỗi việc lành chúng ta làm với ý hướng cầu nguyện cho các linh hồn, đều trở thành "nhịp cầu nối dài yêu thương", bắc từ trần thế lên cõi vĩnh hằng, rút ngắn thời gian thanh luyện và đưa các linh hồn mau chóng về hưởng nhan thánh Chúa.

Trong dòng chảy của tình yêu thương và sự tưởng nhớ ấy, chúng ta không thể không chạnh lòng nghĩ đến "các linh hồn mồ côi". Đó là những linh hồn, vì một lý do nào đó, không còn ai trên trần thế này nhớ đến để dâng lễ, cầu kinh cho họ. Có thể họ là những người đã sống một cuộc đời âm thầm, cô độc; có thể dòng dõi của họ đã không còn ai giữ đạo; hoặc đơn giản là thời gian đã xóa nhòa mọi ký ức. Những linh hồn này đang khao khát lòng thương xót của Chúa biết bao, và họ cũng đang mong chờ lòng bác ái của chính chúng ta. Giáo hội, trong tình mẫu tử, luôn khuyến khích con cái mình hãy quảng đại cầu nguyện cho "các linh hồn được mồ côi". Khi chúng ta dâng một lời kinh, một Thánh lễ cho họ, chúng ta đang hành động như chính lòng thương xót của Thiên Chúa. Và chúng ta có thể tin chắc rằng, những linh hồn "mồ côi" ấy, khi được giải thoát nhờ lòng bác ái của chúng ta, sẽ trở thành những người bạn, những người bầu cử tri ân và đắc lực nhất cho chúng ta trước tòa Chúa. Đây là một sự đầu tư thiêng liêng khôn ngoan nhất, một sự "cho đi" mà chắc chắn sẽ "nhận lại" gấp bội phần, không chỉ ở đời này mà nhất là ở đời sau.

Vậy, khi chúng ta bước vào những ngày đầu tiên của Tháng Linh Hồn, với tâm điểm là ngày 2/11, chúng ta được mời gọi hãy làm mới lại đức tin của mình. Đừng để tháng này trôi qua như một thói quen, một tập tục văn hóa rỗng tuếch. Hãy biến nó thành một cơ hội thực sự để lớn lên trong tình mến Chúa và yêu người, cả người sống lẫn người đã khuất. Hãy gọi tên những người thân yêu đã ra đi trong lời kinh tối nay của gia đình. Hãy thắp lên một ngọn nến trong góc phòng nguyện, không chỉ như một dấu chỉ của sự tưởng nhớ, mà còn là dấu chỉ của sự hiệp thông và hy vọng. Ngọn nến ấy sẽ nhắc nhở chúng ta rằng, dù đang sống ở hai cõi khác nhau, chúng ta vẫn là một trong mầu nhiệm Giáo hội hiệp thông. Sự chết không phải là dấu chấm hết, mà chỉ là một cánh cửa mở ra một cuộc sống mới, cuộc sống vĩnh cửu trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mỗi lời kinh, mỗi việc bác ái của chúng ta trong tháng này là một hành động cụ thể để thắp lên niềm tin cho chính mình, cho gia đình, và để chiếu dọi ánh sáng hy vọng vào cõi thanh luyện, nơi các linh hồn đang mong chờ ngày được giải thoát. "Tôi tin hằng sống vậy" – ước gì lời tuyên xưng đức tin này không chỉ dừng lại trên môi miệng, nhưng thực sự trở thành kim chỉ nam cho mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta trong suốt Tháng Linh Hồn này và trong cả cuộc đời.

Lm. Anmai. CSsR

KHÔNG AI BỊ THIÊN CHÚA LOẠI RA TRỪ KHI HỌ MUỐN THẾ

Niềm hy vọng Kitô giáo không phải là một sự mong chờ mơ hồ hay một ước muốn viển vông, mà là một sự đảm bảo chắc chắn, được neo bám vào tình yêu thương vững bền của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tình yêu thương này được biểu lộ qua kế hoạch cứu độ hoàn hảo của Ngài, trong đó, mỗi tín hữu được mời gọi sống trọn vẹn sự công chính và bền đỗ trong hy vọng, ngay cả khi phải bước qua “thung lũng tối tăm” của đời sống.

  1. Ý muốn tối thượng của Chúa Cha

Trong lời tuyên bố mang tính căn cốt về bản chất sứ vụ của Chúa Giêsu và ý muốn tối thượng của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu khẳng định: “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài…tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6: 37-39).

Lời Chúa Giêsu “ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài” là nền tảng của ơn cứu độ. Lời đó khẳng định tính phổ quát và không giới hạn của ơn gọi làm con cái Thiên Chúa. Đó là sự đảm bảo tuyệt đối về lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngay cả những người tội lỗi nhất, nếu họ thực lòng ăn năn và đến với Chúa Kitô, đều được Ngài đón nhận và bảo đảm sự sống đời đời. Ý muốn của Chúa Cha đạt đến đỉnh cao nơi lời hứa về sự sống lại: “Cho họ sống lại trong ngày sau hết” và “được sống muôn đời” (Ga 6, 39-40). Lời hứa này là trung tâm của niềm hy vọng Kitô giáo. Sức mạnh phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô trở nên sự bảo đảm vững chắc cho sự phục sinh và niềm hy vọng Kitô giáo của những người tin vào Ngài.

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nhấn mạnh rằng: “Thánh ý Chúa Cha là nâng loài người lên, cho họ được dự phần vào sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa thực hiện điều này bằng cách quy tụ người ta quanh Con của Ngài, là Chúa Giêsu Kitô. Cộng đồng được quy tụ này, chính là Hội Thánh, là hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Thiên Chúa trên trần gian” (GLHTCG, số 541).

Chúa Kitô, Đấng không giới hạn lòng thương xót, sẽ mở rộng vòng tay ôm ấp những người đã sa ngã trong đời sống trần thế, nhưng đã biết thực lòng ăn năn và hướng về Chúa, ban cho họ sự sống đời đời và sự bảo đảm mà chỉ Ngài mới có thể ban.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, trong Thông điệp Spe Salvi - Hy Vọng Cứu Độ - đã tập trung vào sự sống vĩnh cửu này. Ngài giải thích rằng: “Đức tin và niềm hy vọng trong Tân Ước và trong thời kỳ Kitô Giáo tiên khởi…không chỉ quá khứ mà thôi, nó cũng liên quan đến chúng ta nơi đây và hiện nay…Đức tin là chất liệu của hy vọng” (số 10). Đức Thánh Cha chỉ ra một nghịch lý trong tâm khảm của mỗi người: “Chúng ta không biết điều chúng ta thực sự muốn; chúng ta không biết “sự sống” thật này; nhưng chúng ta biết rằng chắc chắn có một điều chúng ta không biết mà chúng ta vẫn cảm thấy bị lôi cuốn về đó” (số 11). Ngài giải thích rõ ràng: “Chúng ta muốn chính sự sống, sự sống thật, không bị động chạm đến ngay cả bởi cái chết… giống như là nhào vào đại dương của tình yêu vô hạn, một thời khắc trong đó thời gian - trước và sau - không còn hiện hữu nữa. Chúng ta chỉ có thể nghĩ một thời khắc như vậy là một cuộc sống đầy đủ ý nghĩa, một sự nhận chìm mới mẻ chưa từng có vào trong cõi bao la của nhân sinh, trong đó chúng ta ngập tràn niềm vui như Chúa Giêsu đã diễn tả trong Tin Mừng theo Thánh Gioan 16: 22: “Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Spe Salvi, số 10-12).

Giáo hội Việt Nam thể hiện niềm hy vọng cứu độ mạnh mẽ qua các hoạt động bác ái xã hội, đặc biệt là chăm sóc và giúp đỡ người nhiễm HIV/AIDS hoặc người nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng. Nhiều cộng đoàn tu sĩ, linh mục đã mở các mái ấm để đón nhận những người bị kỳ thị, ruồng bỏ. Tại đây, những người này được chăm sóc y tế, yêu thương, và phục hồi phẩm giá, giúp họ tìm lại niềm tin và mục đích sống. Những hành động này cụ thể hóa ý muốn của Chúa Cha: “Tôi sẽ không để mất một ai” (Ga 6: 39).

  1. Tình yêu vô điều kiện và giao hòa

Để đảm bảo không mất một ai, Thiên Chúa đã chọn một con đường cứu độ không ai nghĩ ra được: Con Ngài đã chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là thù nghịch. Thánh Phaolô đã diễn tả mầu nhiệm này một cách mạnh mẽ phi thường: “Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5: 8). Tình yêu của Thiên Chúa không phải là đền đáp sự thánh thiện của chúng ta, mà là một sáng kiến đi trước của Ngài, được “tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần” (Rm 5: 5). Tình yêu này là tình yêu agape, tình yêu hoàn toàn vô vị lợi, tự hiến và chết cho người khác ngay cả khi người ấy chống nghịch Ngài.

Thánh Augustinô đã dạy rất sâu sắc rằng ngay cả hành động muốn đến với Chúa Kitô (Ga 6: 37) cũng là do ân sủng tác động trước - gratia praeveniens - của Chúa Thánh Thần. Sự công chính hóa không đến từ công trạng của con người, mà đến từ cái chết tự hiến của Chúa Kitô, là ơn ban của tình yêu hoàn toàn cho không: “Ân sủng của Chúa không được ban theo công phúc của chúng ta. Sự thật là, chúng ta thấy ân sủng được ban không chỉ khi không có điều tốt lành, mà thậm chí khi có nhiều điều xấu xa đi kèm: và chúng ta thấy ân sủng được ban cho như vậy hàng ngày. Nhưng rõ ràng là khi ân sủng được ban cho, những công việc tốt lành của chúng ta cũng bắt đầu xuất hiện - nhưng chỉ nhờ ân sủng. Vì vậy, ngay khi bắt đầu có công phúc, đừng gán chúng cho chính mình, mà phải qui chúng cho Thiên Chúa, như tác giả Thánh vịnh đã thưa lên rằng: Xin hãy giúp đỡ con, xin đừng bỏ rơi con” (Thánh Augustinô, De gratia et libero arbitrio, chương 13).

Như vậy, cái chết của Chúa Kitô ban cho con người: 1/ Ơn công chính hóa: nhờ máu Chúa Kitô, chúng ta được tẩy sạch tội lỗi, xóa bỏ án phạt và được Thiên Chúa chấp nhận: “Chúng ta đã nên công chính trong máu của Ngài” (Rm 5: 9). 2/ Ơn giao hòa và cứu độ: “Khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô” (Rm 5: 10). Đây là sự đảm bảo tuyệt đối của ơn cứu độ (Rm 5: 10).

Cuộc đời của Donald Calloway khởi đầu đầy bất ổn: từ năm 13 tuổi, sau khi cha mẹ ly hôn, cậu lao vào cuộc sống nổi loạn, nghiện ngập ma túy, rượu, và liên tục bỏ nhà đi. Cậu phạm nhiều tội lỗi, bao gồm ăn cắp, buôn bán ma túy, và bị bắt giữ nhiều lần ở nhiều quốc gia, sống trong bế tắc và không còn niềm tin.

Năm 20 tuổi, sau một đêm hỗn loạn, Calloway tình cờ đọc một quyển sách về Mẹ Fatima. Tình yêu của Mẹ Maria đã mang lại bình an, giúp cậu cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa. Cậu ăn năn, xưng tội sau 10 năm xa cách Bí tích, và thay đổi hoàn toàn cuộc đời, trở thành một Kitô hữu Công giáo nhiệt thành.

Sau đó, Donald Calloway gia nhập Dòng Tu Sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm và được thụ phong linh mục. Hiện nay, Cha Calloway là một tác giả và diễn giả quốc tế, chuyên rao giảng về lòng Thương Xót Chúa và vai trò của Mẹ Maria. (Calloway, Donald H., MIC. No Turning Back: A Witness to Mercy. Marian Press, 2011).

Không có tội nhân nào ngoài tầm với của ơn cứu độ. Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ ba, ngày 19/01/2016, tại nhà nguyện thánh Mátta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ rằng: “Chẳng vị thánh nào không có một quá khứ, cũng chẳng tội nhân nào không có một tương lai. Thiên Chúa không bao giờ dừng lại ở dáng vẻ bề ngoài mà luôn nhìn sâu vào tận tâm tư cõi lòng của con người.”

  1. Thử thách và vinh hiển muôn đời

Sách Khôn Ngoan trong bài đọc thứ nhất lại đưa ra bối cảnh thực tế của hành trình đức tin: đó là sự thử thách: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Đối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. ... vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.”

Đây là một lời an ủi sâu sắc cho những ai chịu đau khổ vì đức tin hoặc vì sự công chính. Đau khổ và cái chết chỉ là vẻ bề ngoài của sự thất bại “hình như các ngài đã chết”, nhưng thực tế, các ngài “sống trong bình an” và “lòng cậy trông của các ngài cũng không chết.”

Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường xuyên nhắc nhở rằng Giáo hội luôn đồng hành với những người đang đau khổ, đặc biệt là những người “bị loại ra” khỏi xã hội: “Thiên Chúa đã có sáng kiến, Ngài đã yêu chúng ta trước (xem Ga 4:19), và vì thế chúng ta có thể dấn bước, mạnh dạn có sáng kiến, đến với người khác, tìm kiếm những người sa ngã, đứng ở các ngả đường để đón mời những người bị gạt ra bên lề” (Evangelii Gaudium, 2013, số 24). Ngài mời gọi các Kitô hữu nhìn vào đau khổ với ánh mắt của Khôn Ngoan: “Là người rao giảng Tin Mừng tuyệt hảo và là hiện thân của Tin Mừng, Chúa Giêsu đặc biệt tự đồng hoá mình với những người hèn mọn (Mt 25:40). Sự kiện này nhắc nhớ người Kitô hữu chúng ta rằng chúng ta được kêu gọi chăm sóc những người dễ bị tổn thương trên thế giới này…Điều cơ bản là phải tiếp cận các hình thức mới của tình trạng nghèo khó và dễ tổn thương mà chúng ta được kêu gọi đi vào để nhận ra Chúa Kitô chịu đau khổ, cả khi việc này có vẻ như không mang lại cho chúng ta lợi ích cụ thể và tức thời nào” (số 209-210).

Đó là một cuộc thử thách để thanh luyện, để “sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa”. Sự bền đỗ của người công chính là kết quả của tình yêu đã được tuôn đổ: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5: 5). Chính sức mạnh của Thánh Thần giúp chúng ta trung thành với Chúa trong tình yêu. Vinh dự cuối cùng của người công chính là được tham dự vào vương quyền của Thiên Chúa: “Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời.”

Đó cũng là vinh dự của mọi tín hữu đã ly trần, vốn đã “thấy Người Con và tin vào Người Con”, cũng sẽ “được sống muôn đời…và sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6: 40) trong ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa Ba Ngôi và trong niềm vui bình an vĩnh cửu.

 

Phêrô Phạm Văn Trung

Subcategories