3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

LỄ CHÚA BA NGÔI: DUY NHẤT

(Chn 8, 22-31; Rm 5, 1-5; Ga 16, 12-15)

Sách Phương Ngôn còn gọi là Châm Ngôn (Proverb) nói về sự Khôn Ngoan. Người Do-thái ví sự khôn ngoan như người phụ nữ cố gắng kiên trì dẵn dắt mọi người ra khỏi con đường gian tà và tội lỗi. Trong đoạn sách Châm Ngôn hôm nay, sự Khôn ngoan được diễn tả như một nhân vật đã hiện diện với Thiên Chúa trước khi tạo dựng vũ trụ. Sự khôn ngoan ở cùng Thiên Chúa qua mọi công trình sáng tạo. Tiến trình lịch sử cứu độ được hé mở một cách rất tiệm tiến. Dân Do-thái tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và độc thần. Mầu nhiệm về Ngôi Ba Thiên Chúa được mạc khải từ từ từng bước. Hình bóng Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần còn được ẩn giấu.

Nguồn Kinh Thánh mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi. Thuở xưa, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách phán dạy cha ông qua các ngôn sứ, nay Chúa dạy chúng ta qua chính Con Một của Người. Chúa Giêsu đã mạc khải về ngôi vị Thiên Chúa: Tôi và Chúa Cha là một (Ga 10, 30). Chúa Giêsu là hiện thân và là Ngôi Lời của Thiên Chúa, khi chúng ta biết Chúa Giêsu, là biết Chúa Cha. Thánh Luca diễn tả hình ảnh Thiên Chúa trong ngôi vị khác nhau qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Chính Chúa Giêsu đã dùng cách tuyên xưng Ba Ngôi Vị Thiên Chúa khi sai các tông đồ ra rao giảng Tin Mừng: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt 28, 19).

Giáo Hội tin kính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm vì sự giới hạn của ngôn ngữ, sự hiểu biết và trí khôn con người. Qua sự tìm hiểu và kinh nghiệm, chúng ta cũng chỉ học biết một chút về cơ cấu của các sự vật hiện hữu. Chúng ta bị giới hạn mọi thứ từ thời gian, không gian, kiến thức hẹp hòi và sự hiểu biết nông cạn. Tin vào lời Chúa. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta đòi hỏi hiểu thấu về Thiên Chúa, tôi sợ rằng đó chỉ có thể là chúa do con người nắn nên. Dựa vào lời mạc khải, Kinh Thánh không bao giờ dùng từ Chúa Ba Ngôi. Khoảng năm 115-120, thời Giáo Hội sơ khai, một triết gia tin đạo là Tertullian đã dùng từ ‘Chúa Ba Ngôi’ (Trinity) để cố gắng tìm cách đưa đức tin vào ngôn ngữ của loài người. Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa Cha là ‘Abba’, thánh Tôma tông đồ khi nhận diện ra Chúa đã thưa: Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi. Chúa Giêsu là Chúa và Ngài gọi Thiên Chúa là Cha.

Chúng ta nhận biết được tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự hy sinh của Chúa Giêsu chết trên cây thánh giá. Mỗi lần chúng ta ghi dấu thánh giá trên thân mình, tuyên xưng rằng: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi kết hợp trong tình yêu. Trao ban tình yêu và hiến mình vì tình yêu. Chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm tình yêu vì tình yêu như biển trời mênh mông có thể dung chứa mọi thứ. Chúng ta được ngụp lặn trong biển tình yêu của Thiên Chúa. Tình Chúa lan tỏa như khí trời. Tình Chúa bao la hơn biển cả. Mỗi tâm hồn đều được mời gọi để mở đón tình yêu, sống tình yêu và trao ban tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ vơi cạn.

Qua Bí Tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta được tham dự vào sứ vụ làm nhân chứng cho Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta trở nên con cái và được tháp nhập vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chúng ta là những người được thừa kế ân sủng cứu độ. Mỗi người đều phải chu toàn sứ vụ Kitô hữu của mình. Đời sống người Kitô hữu phải gắn bó với tình yêu Chúa Kitô thập giá. Tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu. Chúng ta đặt niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu của ơn cứu độ. Hãy trông cậy vào nguồn ân sủng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ nhận biết ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống này. Tất cả qui về sự thật là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đã chịu chết và sống lại để chuộc tội cho nhân loại.

Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mọi nơi và mọi lúc. Mỗi khi làm dấu thánh giá trên thân xác, xin cho chúng con ý thức và nhận biết tình yêu tuyệt vời Thiên Chúa đã dành cho loài người chúng con. Chúng con tôn thờ, ca ngợi và cảm tạ hồng ân Chúa đến muôn muôn ngàn đời.

 

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

BA NGÔI THIÊN CHÚA TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ

Tín điều Ba Ngôi là nền tảng sâu xa nhất của đức tin Kitô giáo: một Thiên Chúa duy nhất trong ba ngôi vị – Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi không tách biệt, nhưng hiệp nhất hoàn hảo trong bản thể và khác biệt trong ngôi vị.

Sách Châm Ngôn hé mở điều kỳ diệu ấy qua hình ảnh của Sự Khôn Ngoan – tượng trưng cho Lời Thiên Chúa, là tiên trưng của Ngôi Hai: “Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Ngài, trước mọi công trình của Ngài từ thời xa xưa nhất... Ta hiện diện bên Ngài như tay thợ cả. Ngày ngày ta là niềm vui của Ngài” (Cn 8: 22-30)

Chúa Con – Lời của Thiên Chúa – hiện diện từ trước khi vũ trụ hình thành, ở trong lòng Chúa Cha và cùng với Chúa Cha thực hiện công trình sáng tạo. Còn Chúa Thánh Thần, như sách Sáng Thế mô tả: “Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2), biểu trưng cho hơi thở sự sống và tình yêu được tuôn trào từ nơi Chúa Cha và Chúa Con.

  1. Thiên Chúa Cha, nguồn ơn cứu độ

Thiên Chúa Cha là Đấng sáng tạo, và cai quản muôn loài: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (Stk 1: 1), và là nguồn cội của quyền làm người cha. Ngài là hình mẫu hoàn hảo của tình phụ tử, nơi đó con người được tham gia vào và có được tình phụ tử của chính mình: “Khi gọi Thiên Chúa là “Cha”, ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc thứ nhất và là Đấng uy quyền siêu việt trên hết mọi sự, đồng thời là Đấng nhân hậu và yêu thương chăm sóc mọi con cái của Ngài. Tình phụ tử này của Thiên Chúa cũng có thể được diễn tả qua hình ảnh tình mẫu tử . Hình ảnh tình mẫu tử nói lên rõ hơn sự gần gũi của Thiên Chúa và sự thân mật giữa Thiên Chúa với thụ tạo của Ngài. Như vậy, ngôn ngữ đức tin múc nguồn nơi kinh nghiệm phàm nhân về cha mẹ, các vị này một cách nào đo, là những đại diện đầu tiên của Thiên Chúa đối với con người” (GLHTCG, số 239).

Thiên Chúa Cha là Đấng khởi xướng kế hoạch cứu độ nhân loại, một sáng kiến của Thiên Chúa, một dự án yêu thương và thương xót đối với loài người: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4: 4-5). Kế hoạch này bao trùm toàn bộ lịch sử thế giới, nhằm mục đích khôi phục lại mối tương quan giữa Thiên Chúa và loài người đã bị tội lỗi của Adam và Eva phá vỡ. Ngài là nguồn cứu độ tối thượng, được thực hiện qua sự nhập thể, cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, Con của Ngài, được Ngài sai đến để hoàn thành kế hoạch cứu độ và khôi phục mối tương quan tình yêu của loài người với Thiên Chúa.

Thiên Chúa Cha là Đấng nhận được mọi lời ngợi khen và vinh quang, qua công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu Kitô: “Sau đó, tôi nghe như có tiếng hô lớn của đoàn người đông đảo ở trên trời vang lên: Halêluia! Thiên Chúa ta thờ là Đấng cứu độ,

Đấng vinh hiển uy quyền!... Nào ca ngợi Thiên Chúa chúng ta, hỡi tất cả tôi trung của Chúa, hỡi những ai lớn nhỏ hằng kính sợ Ngài!... Halêluia! Đức Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng đã lên ngôi hiển trị. Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ dâng Chúa lời tôn vinh” (Kh 19: 1,5-7). Thiên Chúa Cha là trung tâm của kế hoạch cứu độ với tư cách là Đấng sáng tạo, Đấng hoạch định và là nguồn gốc ơn cứu độ của mọi người. Ngài là Đấng, trong tình yêu vô hạn của mình, khởi xướng, thực hiện và đón nhận vinh quang của kế hoạch này.

  1. Chúa Con, tình yêu Thiên Chúa nhập thể và cứu độ

Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại ở tạo dựng, nhưng đã lên tới đỉnh điểm khi Ngôi Hai nhập thể để cứu độ nhân loại. Như thánh Gioan khẳng định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16)

Chúa Giêsu chính là tình yêu cứu độ mặc lấy xác phàm, trở nên người phàm, sống giữa con người, cảm thông mọi khổ đau, gánh lấy tội lỗi và ban ơn tha thứ qua cái chết trên thập giá. Chính Chúa Giêsu “là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Qua cái chết và sự phục sinh, Chúa Giêsu đưa nhân loại vào sự sống mới. Ngài mở ra cánh cửa cho con người tham dự vào mối tương quan Ba Ngôi. Thánh Phaolô diễn tả điều ấy trong thư gửi tín hữu Rôma: “Nhờ đức tin, chúng ta được nên công chính, được bình an với Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô... vì lòng mến của Thiên Chúa đã được đổ tràn vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Ngài đã ban cho chúng ta” (Rm 5,1.5)

  1. Chúa Thánh Thần – tình yêu tuôn trào vào lòng nhân loại

Sau khi Chúa Giêsu lên trời, Chúa Thánh Thần được ban xuống để tiếp tục công trình cứu độ trong Hội Thánh. Thánh Gioan mô tả vai trò này cách rõ ràng: “Khi Thần Khí sự thật đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Ngài không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Ngài nghe, Ngài sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến...” (Ga 16,13-14).

Chúa Thánh Thần là “tình yêu được nhân vị hóa” (Thánh Tôma Aquinô, bàn về “Danh Chúa Thánh Thần”, Summa Theologiae, I, q.37, a.1). Ngài là sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con, và là quà tặng mà Đức Kitô phục sinh ban cho Giáo Hội (Ga 20,22). Thánh Augustinô nói: “Chúa Thánh Thần là tình yêu giữa Cha và Con” (De Trinitate – Quyển XV, chương 17)

Trong Công đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium dạy rằng: “Thánh Thần sống trong Giáo Hội và trong tâm hồn các tín hữu như trong đền thờ... Ngài hướng dẫn Hội Thánh trong chân lý toàn vẹn và hiệp thông” (Công đồng Vatican II, 1964, Lumen Gentium, số 4). Chính Ngài là Đấng ban sự sống, nâng đỡ những ai yếu đuối, khai sinh những đặc sủng, làm nảy nở hoa trái như thánh Phaolô liệt kê: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23).

  1. Hội Thánh – nơi tình yêu Ba Ngôi tiếp diễn

Tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là khái niệm trừu tượng, mà là một mô hình sống cho mỗi Kitô hữu. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết: “Ba Ngôi là sự hiệp thông của tình yêu. Tình yêu ấy không khép kín, nhưng mở ra, chia sẻ và mời gọi. Chúng ta, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, chỉ thực sự sống đúng nghĩa khi sống trong tương quan tình yêu.” (ĐTC Bênêđictô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est, 2005, số 11)

Hội Thánh – với các mối tương quan huynh đệ, với phụng vụ, đời sống bác ái và truyền giáo – chính là không gian sống động của tình yêu ấy. Từng gia đình, từng giáo xứ, từng nhóm nhỏ đều có thể là “hình ảnh nhỏ bé” của cộng đoàn Ba Ngôi, khi mọi thành viên sống yêu thương, lắng nghe, phục vụ và hiệp nhất: “Trong sứ điệp của Tin Mừng và trong mọi hình thức truyền giáo của Kitô giáo, người ta không thể bỏ qua sự hiệp nhất này giữa chúng ta mà Chúa Giêsu kêu gọi, bước theo sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: người ta không thể bỏ qua sự hiệp nhất này. Vẻ đẹp của Tin mừng - sự hiệp nhất - đòi hỏi phải được sống và được chứng kiến ​​trong sự hiệp nhất giữa chúng ta, những người rất đa dạng!” (ĐGH Phanxicô, Kinh Truyền tin, Quảng trường Thánh Phêrô, Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi, 30 tháng 5 năm 2021).

Tình yêu là ngôn ngữ vượt tôn giáo. Nhưng nơi một Kitô hữu, tình yêu ấy có nguồn gốc – chính là Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ mạng của mỗi người Kitô hữu: phản chiếu tình yêu Ba Ngôi bằng đời sống bác ái, tha thứ, hiệp thông. Giữa nhịp sống hiện đại và đôi khi khô khan, tình yêu của Ba Ngôi vẫn âm thầm hiện diện qua những hành động lặng lẽ nhưng đầy ý nghĩa.

Khi thành phố Hồ Chí Minh bị phong tỏa nghiêm ngặt giữa đại dịch COVID-19, các nữ tu thuộc Dòng Mến Thánh Giá đã tình nguyện tham gia hỗ trợ tại các bệnh viện dã chiến và khu cách ly. Dù đối mặt với nguy cơ lây nhiễm cao, các nữ tu đã dành thời gian chăm sóc bệnh nhân, cung cấp thực phẩm, nước uống, và hỗ trợ tinh thần cho những người đang tuyệt vọng. Một nữ tu chia sẻ: “Chúng tôi cảm nhận Chúa Thánh Thần thúc đẩy, ban sức mạnh để chúng tôi vượt qua nỗi sợ hãi, mang tình yêu Chúa đến với những người đau khổ.” Hành động này không chỉ giúp hàng trăm bệnh nhân được an ủi mà còn khơi dậy tinh thần đoàn kết trong cộng đồng, lan tỏa niềm hy vọng giữa khủng hoảng. (Nguồn: bài viết “Các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá và sứ vụ giữa đại dịch COVID-19”, trang web tgpsaigon.net, ngày 15/09/2021).

Một linh mục dòng Tên kể lại rằng: trong đợt dịch COVID-19 năm 2021, tại một giáo xứ ở Đồng Nai, một bác sĩ trẻ – không phải là người Công giáo – đã tình nguyện túc trực ở khu cách ly suốt hơn 3 tuần, không về nhà. Khi được hỏi lý do, anh trả lời: “Con thấy cha nhà thờ mỗi ngày vẫn vào khu F0 làm phép xức dầu cho bệnh nhân, nên con nghĩ: nếu một người tu hành dám liều mình vì đức tin, thì con cũng phải sống yêu thương và phục vụ như vậy.”

Là người cha trong gia đình, bạn phản chiếu tình yêu của Chúa Cha. Là người con biết vâng phục và yêu thương, bạn sống như Chúa Con. Là người biết nâng đỡ và hiệp nhất mọi người, bạn làm việc cùng Chúa Thánh Thần.

Cuối cùng, mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là để suy gẫm một cách trừu tượng, mà là để sống: sống trong ơn gọi làm con cái Chúa, sống hiệp thông với Hội Thánh, sống yêu thương và phục vụ người khác.

Mỗi khi chúng ta làm dấu Thánh Giá và đọc: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”, hãy nhớ rằng chúng ta đang bước vào trong vòng tay của một tình yêu – khởi đi từ muôn đời, đi qua Đức Giêsu, và được đổ tràn trong Thánh Thần – để rồi trở lại và biến đổi chính cuộc sống thường ngày của ta.

 

Phêrô Phạm Văn Trung

KHÔNG CÓ LUẬT TRỪ

Thứ Bảy Tuần 10 Thường Niên C

"Có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ!”.

“Sự trung thực là chương đầu tiên trong cuốn sách trí tuệ!” – Thomas Jefferson.

Kính thưa Anh Chị em,

Không ít Kitô hữu cho rằng, ngày nay, giới răn thứ Tám “Chớ làm chứng dối” không còn ràng buộc. Tin Mừng hôm nay cho biết – nó vẫn ràng buộc – với Chúa Giêsu, ‘không có luật trừ’ nào trong giới răn này; Ngài nói, “‘Có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không!’”. Bởi lẽ “Sự trung thực là chương đầu tiên trong cuốn sách trí tuệ!”.

Nền tảng của giới răn thứ Tám chính là ‘phẩm giá con người’ vốn là hình ảnh Thiên Chúa, Ðấng tốt lành chân thật. Vì thế, tính cách căn bản nhất của nó là chân chính, tốt lành như Thiên Chúa, Đấng tạo thành nó. Với Ngài, không có ‘cách quãng’ giữa lời nói và việc làm; Cựu Ước cho biết, Thiên Chúa là Đấng giữ lời đã hứa. Cũng thế, Chúa Giêsu đến trần gian, không chỉ nói, Ngài làm và sống những gì Ngài dạy. Vì vậy, đức tính thật thà – nhất là trong lời nói – phải là đức hạnh đầu tiên của các Kitô hữu, con cái Ngài!

Điều răn thứ Tám kêu gọi chúng ta trở thành những con người trung thực và chính trực trong mọi hoạt động hàng ngày. Chúng ta không cần phải nhân danh Chúa mà thề thốt điều này, điều kia; cũng không cần cảm thấy nên thuyết phục người khác rằng, chúng ta đang nói thật trong tình huống này, tình huống nọ. Thay vào đó, nếu là người trung thực và chính trực, lời của chúng ta ‘tự nó’ sẽ đủ uy tín để thuyết phục người khác; và điều chúng ta nói sẽ đúng đắn, chỉ vì ‘chúng ta đã nói!’. “Chính trực là nói sự thật với chính mình; trung thực là nói sự thật với người khác!” – Spencer Johnson.

Chắc chắn, có một số lời thề mang tính trang trọng như lời thề hôn nhân hoặc khấn hứa. Đúng thế, một số Bí tích có một vài hình thức khấn hứa long trọng; tuy nhiên, bản chất của những lời này vẫn là một sự ‘thể hiện đức tin công khai’ hơn là để giữ cho người đó có trách nhiệm với lời khấn, lời thề. Những lời thề hoặc khấn hứa này – một lần nữa – tái khẳng định họ thuộc về Chúa Kitô và hoàn toàn thuộc về Ngài. “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới!” – bài đọc một. Mà với Đức Kitô, mọi sự đều là “có”; nơi Ngài, không thể vừa ‘có’ lại vừa ‘không!’, ‘không có luật trừ!’.

Anh Chị em,

“‘Có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không!”. Bạn và tôi hãy ghi khắc, nói sự thật và làm người của sự thật là cách thức loan báo Tin Mừng mạnh mẽ nhất. Hãy cam kết và Chúa sẽ làm những điều tuyệt vời thông qua những gì bạn nói, và tha nhân sẽ được hưởng nhờ khi họ ngày càng tin tưởng bạn hơn. “Hãy học cách gọi trắng là trắng, đen là đen, ác là ác và tốt là tốt. Học cách gọi tội lỗi là tội lỗi, và không gọi đó là sự ‘giải thoát và tiến bộ’ cả khi mọi thời trang và tuyên truyền đều chống lại nó. Đó là nền tảng sự hiệp nhất của vợ chồng và của gia đình, đó là sức mạnh của xã hội!” – Gioan Phaolô II.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con u mê khi thêm thắt điều điều kia; và như thế, con sẽ không thuyết phục được ai!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

GIA ĐÌNH - CỘNG ĐỒNG TÌNH YÊU PHẢN CHIẾU TÌNH YÊU BA NGÔI

Trong lịch sử, người ta thường dùng những hình ảnh khác nhau để trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chẳng hạn hình ảnh ngọn lửa. Trong lửa luôn luôn có ba yếu tố: lửa – ánh sáng – sức nóng. Ba yếu tố đó không lẫn lộn vào nhau: ánh sáng là ánh sáng, lửa là lửa, sức nóng là sức nóng. Ba yếu tố phân biệt rõ ràng, nhưng cũng không bao giờ tách biệt khỏi nhau, ngược lại gắn chặt vào nhau. Có lửa là có ánh sáng, có sức nóng.

Từ hình ảnh ngọn lửa, người ta áp dụng để giải thích mầu nhiệm Thiên Chúa ba Ngôi. Ba Ngôi chỉ là một Chúa duy nhất, nhưng phân biệt rõ ràng: Chúa Cha – Chúa Con – Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi nhưng cũng chỉ là một. Và một Thiên Chúa nhưng vẫn cứ là Ba Ngôi.

Không thể lấy đi ánh sáng khỏi lửa và bảo rằng lửa cứ cháy mà không cần ánh sáng. Cũng vậy, vì Ba Ngôi vẫn chỉ là một Thiên Chúa, nên mọi hoạt động nơi Thiên Chúa đều quy về Ba Ngôi…

Dẫu sao mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi vẫn luôn là huyền nhiệm lớn đối với con người. Đi tìm câu trả lời cho huyền nhiệm ấy, con người làm một sự cố gắng vượt trên sức hiểu biết của mình. Bởi thế, những hình ảnh mà con người cố gắng suy nghĩ để giải thích, dù có hay đến mấy, vẫn chỉ là cố gắng đầy khiếm diện và bất toàn mà thôi.

Điều hay nhất chúng ta cần làm có lẽ không phải là khám phá tới cùng mầu nhiệm Thiên Chúa cho bằng quay về với chính mình để sống làm sao cho xứng đáng với tình yêu của Chúa Ba Ngôi.

Bởi vậy, tôi muốn mời bạn cùng tôi suy nghĩ về gia đình vì gia đình là một cộng đồng tình yêu, phản chiếu tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.

Từ xưa, trong Hội Thánh đã có thói quen áp dụng hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa Ba ngôi là kiểu mẫu của tình yêu cha – mẹ – con cái. Ngay từ trong cung lòng mình, tình yêu Thiên Chúa đã là một tình yêu trao ban, tình yêu mở ra, vì thế một mà lại là ba: Trao ban giữa Cha, Con, Thánh Thần.

Nếu Ba Ngôi là kiểu mẫu của gia đình thì mọi thành viên trong gia đình cũng phải yêu nhau bằng tình yêu trao ban, tình yêu hiến thân, tình yêu mở ra đối với người mà mình yêu.

Tình yêu gia đình đòi hỏi có nhau, cho nhau và vì nhau. Nếu một thành viên nào trong gia đình chỉ biết có bản thân, yêu nhưng chỉ yêu chính mình, tình yêu đó đang phản lại kiểu mẫu của tình yêu Ba Ngôi.

Không thể chấp nhận một người làm chồng, làm cha quên trách nhiệm của mình, chỉ biết có say xỉn, còn vợ con có khổ, có đói không đoái hoài tới.

Cũng không ai có thể chấp nhận được một người làm vợ, làm mẹ tệ cho đến mức quên hết vai trò của mình, chỉ biết bài bạc, có khi thức thâu đêm suốt sáng chỉ để thỏa đam mê thấp kém này.

Chúng ta cũng không thể chấp nhận hình ảnh một đứa con trả treo với cha mẹ. Có khi bất chấp cha mẹ có khả năng hay không, nó đòi cho bằng được điều mà nó muốn có.

Tất cả những hình ảnh trên đều đi ngược lại tình yêu Ba Ngôi. Vì đó chỉ là một thứ ích kỷ, vụ lợi cho bản thân. Trên hết mọi sự, hãy bắt chước tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa: Yêu là cho đi, là rộng ban, là mở ra.

Hãy sống làm sao để gia đình trở thành cộng đồng tình yêu, phản chiếu tình yêu Ba Ngôi.

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

Tác động của Thánh Thần trong mỗi tín hữu hôm nay

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG

Cv 2,1-11 ; 1 Cr 12,3b-7.12-13 ; Ga 20,19-23

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Ga 20,19-23

(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.

2. Ý CHÍNH: CHÚA PHỤC SINH TRAO BAN THẦN KHÍ

Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện đến mang lại cho các môn đệ sự bình an (c.19) và niềm vui (c.20). Sau đó Người sai các ông đi (c.21a), cũng như chính Người đã được Chúa Cha sai (c.21b). Cuối cùng, để giúp các ông chu toàn sứ vụ, Người đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông (c.22). Từ đây các ông được hiệp thông quyền năng gây sự sống của Thánh Thần để tha tội hay cầm giữ tội của người ta tùy theo họ tin hay không tin vào lời rao giảng của các ông (c.23).

3. CHÚ THÍCH:

- C 19-20: +Vào chiều ngày ấy, ngày thứ Nhất trong tuần: Theo sách Sáng thế, ngày thứ Nhất là ngày sau Sa-bát. Đây chính là ngày kỷ niệm Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại. Từ đây, các Kitô hữu sẽ luôn họp nhau vào các ngày thứ nhất trong tuần và gọi là Chúa nhật nghĩa là “Ngày của Chúa”. +Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái: Lý do nhà các môn đệ phải cửa đóng then cài, là vì tinh thần các ông đang hoang mang giao động. Các ông sợ người Do thái sẽ đến bắt các ông như họ đã làm đối với Thầy Giêsu. + Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông: Điều này cho thấy thân xác Chúa Phục Sinh không còn bị không gian và thời gian giới hạn như khi Người còn sống. +“Bình an cho anh em!”: Trong bữa Tiệc ly trước khi nộp mình chịu chết, Đức Giêsu đã hứa ban bình an cho môn đệ (x. Ga 14,27), và động viên các ông can đảm đương đầu với những thử thách sắp đến (x. Ga 16,33). Giờ đây sau khi sống lại, Người đã thực hiện lời hứa ấy bằng việc hai lần chúc ban bình an cho các ông (x. Ga 20,19.21). +Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Chúa Giêsu cho môn đệ xem các dấu đinh bị đóng nơi hai bàn tay (x. Ga 19,23) và vết thương bị lưỡi đòng đâm thâu nơi cạnh sườn (x. Ga 19,34). Điều này chứng tỏ thân xác Chúa Phục Sinh cũng chính là thân xác đã từng trải qua cuộc khổ nạn trước đó.

- C 21-23: +Như Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em: Việc hiện ra và sai các môn đệ sau khi sống lại, cho thấy mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng của ơn gọi và sứ vụ loan Tin mừng của Hội thánh. Như Chúa Giêsu đã được Chúa Cha sai xuống trần gian, thì giờ đây, sau khi phục sinh được siêu tôn làm “Chúa” (x. Pl 2,11) và được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18), Người lại sai các môn đệ ra đi để làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người (x. Mt 28,19), và trở thành chứng nhân của Người (x. Cv 1,8). +Người thở hơi vào các ông +và nói: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần: Xưa khi sáng tạo lòai người, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào hình nhân bằng đất sét, để trở thành một người sống động là ông A-dam (x. St 2,7). Thì nay, Chúa Phục Sinh cũng thổi Thần Khí để biến đổi các môn đệ nên con người mới, đầy ân sủng sự sống của Thánh Thần. Tuy nhiên ngay lúc này các ông chưa đón nhận được ơn Thánh Thần ban, vì còn thiếu đức tin. Vì thế Chúa Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần và dùng nhiều cách để tăng cường đức tin cho các ông. Đến ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần được Chúa Phục Sinh ban đã phát huy tác động trên các ông (x. Cv 2,1-4). +Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ: Đức Giêsu đã được Gioan Tẩy giả giới thiệu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Sứ vụ của Người là tẩy xóa tội lỗi loài người bằng việc tha thứ cho những tội nhân thực lòng sám hối và đã đặt trọn niềm tin nơi Người (x. Lc 23,40-43). Giờ đây các môn đệ cũng được Người trao quyền tha tội với  quyền năng Thánh Thần.

4.CÂU HỎI:

1) Sau khi sống lại, tại sao Chúa Giêsu lại cho môn đệ xem tay và cạnh sườn ? 2) Người đã sai các ông đi rao giảng Tin mừng khi nào ? 3) Đức Giêsu đã làm gì để ban Thánh Thần cho các ông ? 4) Các ông chỉ thực sự được ơn Thánh Thần tác động lúc nào ? Tại sao ? 5) Chúa Phục Sinh đã ban quyền tha tội cầm buộc cho các ông qua câu nói nào?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ tội ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).

2. CÂU CHUYỆN:

1) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG TRONG CUỘC ĐỜI MẸ TÊRÊSA CANQUÝTTA.

Trên một toa tàu chợ phát xuất từ thành phố Can-quýt-ta Ấn Độ, giữa đám hành khách nghèo khổ đang ngồi la liệt trên sàn tàu, có một phụ nữ tay cầm tràng hạt, mắt nhắm lại và miệng đang lẩm bẩm đọc kinh. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là bà Têrêsa. Về sau người đời đã gọi bà bằng một cái tên thân thương: “Mẹ Têrêsa thành Can-quýt-ta”. Bà là người đã sáng lập dòng Thừa sai Bác ái, với sứ mệnh chuyên lo tìm kiếm những bệnh nhân nghèo khổ đang bị bỏ rơi và bị hấp hối trên các hè phố tại thành phố Can-quýt-ta. Họ thuộc giai cấp cùng đinh trong xã hội nước Ấn. Sứ vụ của chị em nữ tu này là mang những người đó về tu viện chăm sóc và giúp họ chết trong bình an. Về sau mẹ Têrêsa đã kể lại ơn gọi ấy như sau: “Khi nhìn thấy đám người nghèo khổ kia đang nằm ngồi ngổn ngang trên sàn tàu, đột nhiên có một sức mạnh đã đổ ập xuống trên tôi, làm cho tôi tự nhiên cảm thấy họ chính là những Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi. Tôi sẽ phải làm gì để giúp đỡ họ đây?”. Sau đó bà đã quyết định lập một dòng nữ với sứ vụ chuyên lo phục vụ những người nghèo khổ này. Rồi bà bắt tay vào công việc đầu tiên là đi tìm mướn nhà để có nơi phục vụ họ, đang khi trong túi chỉ còn đúng ba đồng bạc Ấn! Nhưng nhờ ơn Chúa giúp mà ngày nay dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêsa Canquýtta đã lan đi khắp thế giới. Quả thực, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và họat động nơi mọi thành phần dân Chúa trong Hội thánh.

2) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG TRONG MỘT CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ:

Tại một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu xuống trên vai hay đầu ai thì người ấy không được tránh né hoặc đuổi đi, vì đó là dấu chỉ được Chúa Thánh Thần tác động và phải quyết tâm thực hiện một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng, để chứng tỏ đã làm theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.

Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một số sự kiện điển hình như sau:

- Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả là ông đã quyết tâm thực hiện được một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị dành cho học sinh.

- Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một vị công tước trong vùng, khiến ông mở lòng xây dựng một hệ thống dẫn nước phục vụ công cộng gọi là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần”.

- Có một linh mục trẻ được sai đến làm chính xứ thay thế cha xứ già về hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ tập tục đã thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để tung cánh vào bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây? Sau khi suy nghĩ, cha xứ mới đã tuyên bố sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ của mình để phục vụ giáo xứ. Và sau đó ngài đã giữ đúng lời đã hứa.

3. THẢO LUẬN:

1) Phân biệt Thánh Thần và thiên thần giống và khác nhau thế nào ? 2) Ngày nay các tín hữu nhận được ơn Thánh Thần khi nào ? 3) Mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì để được Thánh Thần tác động noi gương các Tông đồ trong lễ Ngũ Tuần ?

4. SUY NIỆM:

1) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG THẾ NÀO TRONG CUỘC ĐỜI ĐỨC GIÊSU ?:

Về việc đầu thai của Đức Giêsu, Hội thánh đã tuyên xưng đức tin như sau: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Maria đồng trinh” (x. Lc 1,35). Nghĩa là chính nhờ quyền năng Thánh Thần, Đức Maria đã thụ thai Hài Nhi Giêsu mà vẫn còn trinh khiết vẹn toàn. Rồi khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Người đã đến xin Gioan làm phép rửa bằng nước tại sông Giođan. Vừa chịu phép Rửa xong, Thánh Thần như chim bồ câu từ trời ngự xuống và lưu lại trên Người (x. Mt 3,16b). Sau đó, Thánh Thần đã hướng dẫn Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày và chịu ma quỉ thử thách cám dỗ. Chính nhờ sức mạnh của Thánh Thần mà Đức Giêsu đã chiến thắng ba cơn cám dỗ của ma quỷ (x. Mt 4,1-10). Rồi trong quyền năng của Thánh Thần, Người đi rao giảng Tin mừng Nước Trời bắt đầu từ Galilê (x. Lc 4,14-15). Cũng nhờ Thánh Thần mà Người đã xua trừ ma quỷ (x. Mt 12,28) và chữa lành các bệnh họan tật nguyền trong dân (x. Mt 4,23). Khi được Thánh Thần tác động, Ngừơi đã hớn hở vui mừng thốt lên lời ngợi khen Chúa Cha (x. Lc 10,21). Rồi sau khi phục sinh và được đầy Thánh Thần, Người đã hiện ra chúc bình an (x. Ga 20,19), rồi sai các ông đi rao giảng Tin mừng (x. Ga 20,21), tiếp tục sứ vụ của Ngừơi (x. Mt 28,19-20). Người thổi hơi ban Thánh Thần để giúp các ông chu toàn sứ vụ ấy (x. Ga 20,22). Cuối cùng, Người còn ban cho các ông quyền tha tội hay cầm buộc tội người ta nữa (x. Ga 20,23).

2) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG THẾ NÀO TRONG HỘI THÁNH ? :

Thời Hội thánh sơ khai, Thánh Thần đã tác động biến đổi các Tông đồ (x. 1 Cr 12,4-11): Từ tình trạng nhút nhát sợ hãi trở nên can đảm công khai làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt đám đông (x. Cv 2,14-36); Từ tình trạng kém hiểu biết Lời Chúa, trở nên khôn ngoan, hiểu thấu mọi điều Chúa đã dạy trước đó (x. Ga 16,12-13); Từ tình trạng buồn chán thất vọng muốn thối lui, trở nên nhiệt thành yêu mến Chúa, tràn đầy niềm vui và hy vọng (x. Lc 24,32-35). Nhờ Thánh Thần mà các Tông đồ đã thâu nạp được nhiều người có lòng sám hối đến xin chịu phép Rửa nhân danh Đức Giêsu (x. Cv 2,41). Cũng nhờ ơn Thánh Thần mà cộng đoàn tín hữu đầu tiên luôn sống hiệp thông, siêng năng tham dự lễ Bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Nhờ đó số tín hữu gia nhập Hội thánh ngày một gia tăng (x. Cv 2,42-47).

Ngày nay Chúa Thánh Thần tiếp tục giúp Hội thánh chu toàn sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu. Đặc biệt Thánh thần soi sáng cho các vị chủ chăn để có khả năng chu toàn ba sứ vụ do Đức Giêsu trao: Một là sứ vụ Ngôn sứ để công bố Tin mừng Nước Trời. Hai là sứ vụ Tư tế để thánh hóa các tín hữu bằng các phép bí tích do Chúa Giêsu thiết lập. Ba là sứ vụ Vương đế để chăn dắt và phục vụ đòan chiên Hội thánh. Do đó, khi Đức Giáo hòang triệu tập Công Đồng mà công bố điều gì về đức tin và luân lý thì sẽ được ơn bất khả ngộ không thể sai lầm, vì ngài luôn được Thánh Thần soi sáng, như Công đồng Giêrusalem vào năm 49 đã ra quyết nghị với câu mở đầu khẳng định như sau: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định” (Cv 15,28).

3) THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG THẾ NÀO NƠI CÁC TÍN HỮU HÔM NAY ? :

Khi lãnh nhận phép Rửa Tội, và nhất là khi chịu phép Thêm Sức, Chúa Thánh Thần sẽ tác động nơi các tín hữu như sau.

+ Thánh Thần ban 7 ơn để soi sáng, hướng dẫn và giúp các tín hữu nên tốt lành thánh thiện giống như Chúa Giêsu. Thánh Phaolô đã kể ra bảy ơn Thánh Thần ban như sau : khôn ngoan, hiểu biết, thông minh, biết lo liệu, sức mạnh, đạo đức và kính sợ Thiên Chúa (x. 1 Cr 12,8-11).

+ Thánh Thần sẽ ban sự sống của Thiên Chúa, biến các tín hữu nên trưởng thành về đức tin, thể hiện qua việc kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và can đảm làm chứng cho Người (x Ga 6,63). Thực vậy, nhờ ơn Thánh Thần, các tín hữu chúng ta sẽ có thể hiểu biết đầy đủ về đức tin và thực hành theo lời Chúa Giêsu day, như Người đã hứa với các môn đệ: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,25).

+ Thánh Thần sẽ cho các tín hữu chúng ta tham phần vào ba sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu là ngôn sứ, tư tế và vương đế để rao giảng Tin Mừng, thánh hóa và phục vụ dân Chúa. Chúng ta sẽ được tham phần vào sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô bằng lời nói việc làm và bằng lối sống bác ái quên mình, quảng đại chia sẻ cụ thể và khiêm nhường phục vụ tha nhân vô vụ lợi… nhờ những việc lành đó, anh em lương dân sẽ dễ dàng nhận biết, tin thờ Thiên Chúa như lời Đức Giêsu đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

4) CẦN PHẢI CỘNG TÁC VỚI ƠN THÁNH THẦN:

Sở dĩ nhiều tín hữu tuy đã chịu phép rửa tội và thêm sức, nhưng vẫn sống theo tính xác thịt là do họ mới chỉ chịu phép rửa bằng nước mà chưa được ơn tái sinh bời Thánh Thần. Điều chúng ta cần phải làm là tránh xúc phạn đến Thánh Thần và biết mở lòng để Ngài tác động thánh hóa:

+ Tránh tội xúc phạm đến Thánh Thần: Cần tránh thói kiêu ngạo cứng lòng tin như các kinh sư Do thái xưa (x Mc 3,30). Đó cũng là tội của ma quỷ muốn chống lại ơn cứu độ của Thiên Chúa như lời Đức Giêsu đã quở trách dân Do thái như sau: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành" (Mt 13,14-15; Is 6,9-10). Do cố tình từ chối ơn cứu độ của Thiên Chúa ban qua Chúa Giêsu, nên họ đã xúc phạm đến Thánh Thần và sẽ không bao giờ được tha (x Mc 3,29).

+ Các hành động thuộc về xác thịt đối nghịch Thánh Thần và hoa trái của Thần Khí: Ngày nay khi chịu phép rửa tội, các tín hữu đã nhận được sự sống của Chúa Giêsu. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn bị tội lỗi ngăn cản chúng ta đón nhận ơn Thánh Thần do các dục vọng, đam mê xác thịt, tham vọng cá nhân, tinh thần thế tục… Chúng giống như những con vi trùng len lỏi vào linh hồn làm mất dần sự sống thần linh trong chúng ta. Khi ấy, linh hồn chúng ta trở nên suy nhược, không còn sức chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ, không còn tha thiết làm các việc tốt lành. Thánh Phaolô đã liệt kê 14 hành động xấu làm băng hoại con người chúng ta như sau: "Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ say sưa" (Gl 5,19-21). Mỗi người chúng ta cần phải xin ơn Thánh Thần, giúp chúng ta loại bỏ lối sống tội lỗi theo xác thịt, lối suy nghĩ ích kỷ tự mãn thuộc về thế gian, để có thể sống hy sinh quên mình, nhiệt thành dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô đã gọi những điều này là “hoa trái của Thần Khí” và được liệt kê như sau: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5,22-23).

+ Mở lòng đón nhận ơn Thánh Thần: không ai có thể nắm bắt được Thần Khí, cũng không ai có thể mua chuộc được Thánh Thần. Tin Mừng Gioan viết “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu tới và thổi đi đâu” (Ga 3,8). Muốn nhận được ơn Thánh Thần, mỗi tín hữu chúng ta cần noi gương các Tông đồ khi xưa: tĩnh tâm cầu nguyện kết hiệp với Đức Maria như sau: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,14). Mỗi ngày hãy năng cầu xin Thánh Thần mau ngự đến thánh hóa chúng ta như sau: “Lạy Chúa Thánh Thần. Xin hãy ngự đến canh tân lòng trí chúng con”.

+ Xin được ơn đổi mới trong Chúa Thánh Thần: Từ khi đón nhận được Chúa Thánh Thần trong lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã được ơn đổi mới: Trước đó các ông còn nhút nhát sợ hãi, thì nay đã nên mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ông ít học, u mê vì không hiểu rõ Lời Chúa dạy, thì nay các ông đã được hiểu rõ ý nghĩa của Lời Chúa và nhiệt tình loan báo Tin Mừng cho tha nhân thuộc mọi thành phần, dân tộc với ngôn ngữ khác biệt… đang tề tựu tại Thủ đô Giêrusalem. Trước kia lòng các ông còn chứa đầy thói ích kỷ tự ái cao, “tham lam, sân giận, mê si”, hay tranh giành địa vị cao thấp… thì nay các ông chỉ nghĩ đến việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Chúa “tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất”. Chính nhờ ơn Thánh Thần mà các ông đã được đổi mới để chỉ sống vì Chúa và cho Chúa mà thôi. Mỗi người chúng ta cũng hãy xin Chúa Thánh Thần đến canh tân lòng trí chúng ta, để giúp chúng ta nên chứng nhân của Người, chu toàn được sứ vụ mà Người đã trao cho Hội thánh trước khi lên trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều khi chúng con cảm thấy Thánh Thần xa lạ, đang khi Ngài thật là Bạn, là Thầy của chúng con. Ngài luôn ở bên và ở trong chúng con. Ngài cần cho đức tin của chúng con, giống như hơi thở cần cho sự sống. Chúng con chỉ có thể gọi Thiên Chúa: “Áp-ba! Ba ơi!” nhờ Thánh Thần, Đấng làm cho chúng con trở nên nghĩa tử (x. Rm 8,15). Chúng con chỉ có thể gọi Đức Giêsu là “Chúa” khi chúng con ở trong Thánh Thần (x. 1 Cr 12,3). Chính nhờ có Thánh Thần hướng dẫn, chúng con mới dám cầu nguyện và mới cảm nghiệm được sự ngọt ngào của Lời Chúa. Cũng chính nhờ Thánh Thần mà Hội thánh không ngừng canh tân đổi mới.

- LẠY CHÚA GIÊSU PHỤC SINH. Xin ban Thánh Thần như cơn gió mạnh, thổi đi mọi nỗi lo âu sợ hãi cùng những rụt rè khép kín trong tâm hồn chúng con. Xin thắp sáng ngọn lửa tin yêu của Thánh Thần trong lòng chúng con, để chúng con có thể chu toàn sứ vụ được sai đi, với một trái tim bừng cháy lửa mến yêu. Xin ban cho chúng con sự sống của Thánh Thần để chúng con luôn mến Chúa và yêu tha nhân. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa và tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin mừng cứu độ của Hội Thánh.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH- HHTM

Subcategories