3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Hãy Hiển Dung Hình Ảnh Chúa Cho Anh Em

Cái quý nhất của con nguời là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm người của mình. Và điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi ngừơi là nhận ra tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.

Thế nhưng, nhiều người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ không tin rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm người của mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới của họ là một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và “cá lớn nuốt cá bé”. Họ không nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa, cần phải tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao qúy là hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau. Thế giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si mà làm hại lẫn nhau.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.

Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
-Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó”. Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng: “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”
-Thỏ trả lời: Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi: Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu. . .

Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.

Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.

Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.

Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Biến Hình

Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Mầu tím buồn để đến cuộc sống mong manh chóng tàn nơi cõi thế. Mầu tím buồn đưa ta đi theo bước Chúa Giêsu trên đường khổ nạn. Mầu tím buồn nhắc ta nhớ đến cái chết đau khổ của Người trên thánh giá.

Giữa bầu khí ảm đạm của mùa Chay, hôm nay bỗng bừng lên làn ánh sáng chói chang từ đỉnh núi Ta bo. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng dưng đổi khác. Thần tính phát lộ khiến dung mạo Người trở nên sáng láng, ánh sáng rực rỡ làm say mê tâm hồn các môn đệ. Được sống trong khung cảnh thần thiêng thánh thiên, các ông không muốn rời bỏ đỉnh núi nữa.

Ta hãy nhớ lại, trước đó 8 ngày, khi Chúa Giêsu loan báo Người đi lên Giêrusalem để chịu khổ và chịu chết, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã phản đối. Ông không muốn chấp nhận thánh giá. Ông không muốn Thầy mình dấn thân vào con đường chịu chết khổ nhục. Thế mà hôm nay, đứng trước vinh quang của Thầy, ông đã say mê và đề nghị Thầy trò cùng ở lại trên ngọn núi hạnh phúc. Trốn khổ tìm sướng vẫn là cái thường tình của con người. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ xuống núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem chịu chết.

Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi như thế là có chủ đích. Người hé lộ thần tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho các ông thấy vinh quang của thần tính để các ông chấp nhận con đường đau khổ Người sắp trải qua.

Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm hy vọng. Hy vọng đó là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục Sinh hân hoan. Thiếu niềm hy vọng không ai có thể sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hy vọng vào mùa gặt bội thu. Người học sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc sách, vì hy vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hy vọng tương lai con cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng vào vinh quang Phục Sinh sẽ giúp các môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi nhục của Thầy chí thánh.

Việc Chúa Giêsu biến hình đã biến đổi cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong thân xác phàm nhân của Chúa Giêsu có ẩn chứa bản tính Thiên Chúa. Bên trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục Sinh vinh quang. Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Bên trong những thửa ruộng khổ đau có gieo sẵn hạt mầm hạnh phúc. Trong những vất vả nhọc nhằn tăm tối hôm nay đã hứa hẹn thành công tươi sáng của ngày mai.

Việc Chúa biến hình giúp các môn đệ hiểu biết định mệnh con người. Bản tính Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu đã chiếu sáng trên xác phàm con người. Con người được rạng ngời vinh quang Thiên Chúa. Đó là điềm báo trước: mang sẵn trong mình mầm mống thần linh, con người sẽ trở về với Thiên Chúa. Cuộc trở về phải vượt qua những đớn đau, những gian nan, những thử thách. Nhưng đã biết được đích đến, ta sẽ vui lòng đón nhận tất cả. Vì thế, đạo Công giáo tuy đề cao đau khổ, nhưng không rơi vào yếm thế, bi quan. Đau khổ chỉ là phương tiện. Chấp nhận thánh giá, vì đó là nhịp cầu cần thiết để con người vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ tủi nhục đến vinh quang.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Những đau khổ góp phần rèn luyện bạn nên người. Bạn có kinh nghiệm gì về điều đó?
2. Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào? Qua diện mạo bên ngoài, hay qua giá trị bên trong?
3. Qua thập giá tới vinh quang. Bạn có quyết tâm gì để thực hiện điều đó trong mùa Chay năm nay?

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Tín hữu bị cám dỗ cách riêng về điều gì?

Đức Giêsu khởi đầu cuộc rao giảng Tin Mừng về tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa; rồi trong tư cách một người phàm, qua kinh nghiệm ‘cám dỗ’ nơi chính bản thân mình, Người cho thấy phải tiếp nhận Tin Mừng cứu độ đó như thế nào. Kinh nghiệm chiến đấu với cám đỗ này mang tính phổ quát, cách riêng có giá đối với Kitô mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh, không chỉ dưới khía cạnh luân lý nhưng nhất là trong thái độ tiếp nhận Tin Mừng. Càng là Kitô hữu, dầu là các linh mục – tu sĩ đã được tu luyện nhiều năm tháng, ai trong chúng ta cũng cần liên tục vượt thắng các cơn cám dỗ đánh trực tiếp vào niềm tin của mình.

Nói tới ‘cám dỗ’ thông thường ta nghĩ ngay tới điều gì đó cấm kỵ, thuộc lãnh vực luật lệ hay luân lý mà mọi người phải xa tránh; vì thế cho nên nhiều người cắt nghĩa trình thuật Đức Giêsu chịu cám dỗ như sau: Người bị ma quỉ cám đỗ về mê ăn uống, về tính khoe khoang hay tự tôn tự đại; nhất là sự hiện diện của ‘con quỷ’ lại càng làm cho vấn đề thêm vẻ ‘luân lý’. Đã sống trên đời thì phàm ai cũng bị ‘cám dỗ’ như thế thôi, chẳng cứ gì Đức Giêsu hay Kitô hữu; và như thế thì bài học của Đức Giêsu về chống trả cám đỗ càng ít giá trị khi mà ta muốn giới thiệu Người như ông thầy dạy luân lý (moralist). Điều này chắc chắn không đánh trúng trọng tâm, vì trước Người, đã có rất nhiều bậc thánh hiền thuộc nhiều tôn giáo và triết thuyết khác đã từng dạy và phổ biến những nền luân lý và đạo đức còn cao đẹp và cặn kẽ hơn, cũng như đưa ra các phương thế chế ngự hữu hiệu hơn nhiều. Họ không những giải thích bản chất của cám dỗ (tham, xâm, xi) mà còn dạy các phương pháp chế ngự vượt thắng (diệt dục, tự kỷ) rất căn cơ và bài bản. Nếu thế thì Kitô hữu chúng ta rút ra được điều gì qua bài học ‘chiến thắng cám đỗ’ của Đức Giêsu, khi mà Người không chỉ bị cám dỗ ‘luân lý’ về mê ăn uống, khoe khoang hay thống trị, mà sâu sắc hơn, Người đang cho thấy một kinh nghiệm chống trả thách thức đối với đức tin trong tư cách Kitô hữu?

Tôi thiết nghĩ mọi ‘tín hữu’ – bất luận thuộc tôn giáo nào (miễn là không thuộc hạng vô đạo) vẫn cho rằng đời mình được xây dựng trên niềm tin vào một đấng vô hình; có một điều họ cần làm, nhưng lại rất ít khi thực hiện, đó là duyệt xét xem mình thực sự mong đợi điều gì nơi đấng đó. Họ coi như chuyện đương nhiên, ‘niềm tin’ là chờ đợi Chúa (hoặc Trời, hoặc Phật, hoặc Thần Thánh) chu cấp cho cuộc sống mình được đầy no, sung túc; cao hơn thế nữa, để đời mình được thăng hoa trong thành đạt và danh vọng, được danh thơm tiếng tốt… và cao thượng hơn nữa là được đắc đạo, là đạt tới nhân đức thánh thiện, trọn lành. Niềm tin ‘kỳ vọng’ này hình như rất phổ biến nơi người ‘có đạo’ thuộc mọi tôn giáo, trong đó có cả Kitô hữu chúng ta. Điều được coi như tất yếu, như lẽ thường tình này thì hôm nay lại bị Lời Chúa liệt vào loại ‘cám dỗ’, mà Đức Kitô trước nhất, rồi tới mọi Kitô hữu chúng ta, phải thắng vượt. Trong tư cách một con người đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu đã nêu gương chiến đấu và chiến thắng cơn cám dỗ tinh vi này như thế nào? Thường tình ta sẽ nghĩ rằng, Thiên Chúa phải (truyền) biến những hòn đá thành lương thực để nuôi sống tôi… vì tôi đã tin vào Ngài, phải gìn giữ tôi “kẻo chân vấp phải đá”… vì tôi đã cậy trông nơi Ngài, phải ban cho tôi thành công, quyền lực, vinh quang, phúc lộc… vì tôi đã ”bái lạy, thờ phượng Ngài”.

Đối với Đức Giêsu, tin vào Thiên Chúa trước hết phải là lắng nghe, phó thác và qui về Thiên Chúa nhân ái cách trọn vẹn và vô điều kiện! Đặt bất cứ điều gì khác lên trên niềm tin phó thác tuyệt đối đó, cho dầu có là nhu cầu cuộc sống, là thăng tiến nhân bản, là trọn lành đạo đức…, thì đều bị coi là cám dỗ đối với đức tin. Trước lời cầu cứu khẩn thiết rất chính đáng của các môn đệ trong cơn bão táp: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi!” (Mc 4:38), hay của Phê-rô trong lúc bị chìm xuống nước: “Thầy ơi, cứu con” (Mt 14:30) thì Đức Giêsu vẫn luôn quở trách các ông là đã ‘sa ngã’ vào cơn cám đỗ đức tin: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”

Vì thế, vào đầu mùa chay thánh, thời gian mà Hội Thánh mời gọi con cái mình duyệt xét và củng cố niềm tin vào một Thiên Chúa đã tự hiến, đã chết và phục sinh để cứu độ, bài tường thuật về các cám đỗ Đức Giêsu đã trải qua khi khởi sự cuộc rao giảng Tin Mừng về Chúa Cha nhân ái cứu độ thật có ý nghĩa và đánh rất trúng trọng tâm; trong số các điều cần chấn chỉnh trong Mùa Chay thánh này, các Kitô hữu chúng ta (ngay cả các linh mục, tu sĩ) cần phải đặt việc chấn chỉnh đức tin lên hàng đầu:

– Phải chăng tương quan giữa tôi với Thiên Chúa (của Đức Kitô) vẫn chủ yếu là cầu xin cho được no đủ, được che chở, được thăng tiến trong nhân đức, trong tông đồ…?

– Niềm tin và phó thác tuyệt đối vào một Thiên Chúa từ nhân và hay thương xót, đã cho Con Một Người xuống thế để sống và chết cho tôi, đang ở mức độ nào?

– Trong cuộc sống Tin Mừng của tôi, giữa cầu xin các ơn huệ và phó thác tin tưởng cho tình yêu nhân ái, điều nào nổi trội hơn?

Mùa chay là thời gian để tôi suy nghĩ và trả lời các vấn nạn trên, nếu tôi thật sự muốn chân thành hoán cải!

Lạy Chúa! Mùa Chay là thời gian hồng phúc, là thời gian thuận tiện để con tiến xa hơn trong niềm tin vào lòng Chúa yêu thương. Xin cho con hằng biết chiêm ngưỡng Đức Kitô Cứu Chúa tự hiến trên Thập Giá, để không bao giờ con rơi vào cám dỗ đặt tin tưởng vào tình Chúa yêu thương chỉ thông qua các ân huệ mình nhận được. Qua Mùa Chay thánh này, xin cho con có được niềm xác tín vững chắc như Phao-lô: “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của đức Giêsu Kitô, cho dầu là…” A-men.

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

CĂN TÍNH THẦN LINH VINH QUANG CỦA CHÚA KITÔ

Trong trình thuật Tin Mừng của thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu biểu lộ thiên tính của mình cho các môn đệ thân thiết nhất. Chúa Giêsu cho thấy Ngài là Đấng vinh quang, vượt trội hơn cả Môsê và Êlia, vốn là những nhân vật vĩ đại trong lịch sử của dân Israel thời Cựu Ước. Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là để xác định lời công bố trước đó của Ngài về cuộc khổ nạn, cái chết và trên hết là Sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9:22). Cuộc biến hình của Chúa Giêsu cũng là để các môn đệ được chọn của Ngài biết rằng Ngài chính là Thiên Chúa vinh quang. Nhờ đó họ có thể từ bỏ ước mơ về một Đấng cứu thế chính trị, cùng với tham vọng trần tục cá nhân của họ, để kiên trung bước theo Ngài trong cuộc khổ nạn mà Ngài sắp trải qua. Cũng nhờ cuộc biến hình đó họ sẽ được củng cố trong những thử thách mà chính họ cũng sẽ trải qua sau này khi theo bước Thầy mình loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Thầy Giêsu của họ thực sự là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu thế được Chúa Cha sai đến để cứu rỗi toàn thể nhân loại. Chúa Cha đã mặc khải điều đó qua những lời này: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Ngài” (Lc 9: 35).

  1. Ngắm nhìn và lắng nghe Chúa Giêsu, Đấng biến hình

Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Ngài.” Đây cũng  là lời Chúa Cha đã công bố ngay từ đầu về Chúa Giêsu, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả ở sông Giođan, mở đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Ngài: “Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Chúa Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Ngài cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Ngài dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3: 21-22). Vâng nghe lời Chúa Giêsu là lắng nghe Lời Ngài để Lời đó trở nên sống động trong cuộc sống chúng ta. Để được như vậy, chúng ta phải suy ngẫm Lời của Ngài, làm theo Lời của Ngài, ngày càng trở nên gần gũi với Ngài, đem lại niềm hứng khởi cho mọi việc chúng ta làm, giúp chúng ta trở thành những môn đệ thân tín của Ngài. Bài đọc thứ nhất cho chúng ta mẫu gương của Abraham được biến đổi thành người thân tín của Thiên Chúa: “Chúa phán với ông Abram: Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi… Ông Abram ra đi, như Chúa đã phán với ông” (St 12: 1,4). Abraham trở thành người được Thiên Chúa ký kết giao ước vì vâng nghe lời Thiên Chúa: “Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Hôm đó, Chúa lập giao ước với ông…” (St 15: 17-18). Đó là giao ước đầu tiên mà Thiên Chúa ký kết với con người, với dòng giống Abraham, như một phần thưởng cho lòng tin và việc ông vâng nghe lời Thiên Chúa: “Chúa phán với ông Abram trong một thị kiến rằng: Hỡi Abram, đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn… Chúa đưa ông ra ngoài và phán: Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không…Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó! Ông tin Chúa, và vì thế, Chúa kể ông là người công chính” (St 15:1,5).

Chúng ta ngày nay cũng vậy, vâng nghe lời Thiên Chúa là đồng ý thay đổi cách suy nghĩ của chúng ta, vốn có xu hướng quy về cái tôi ích kỷ của mình, của gia đình riêng tư, của đoàn thể, của phe nhóm, đảng phái của mình…Vâng nghe lời Thiên Chúa là cắt tỉa, thay đổi lối sống, hoán cải tâm hồn, bước theo Ngài trong “cuộc xuất hành mà Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem” để làm cho cuộc sống của chúng ta tỏa sáng, trong ánh sáng “rạng ngời vinh hiển…vinh quang của Chúa Giêsu” (Lc 9: 31-32). 

Ánh sáng rạng ngời tỏa ra từ khuôn mặt Chúa Giêsu cho thấy căn tính thần linh của Ngài, không chỉ trong cuộc Biến hình, mà mọi lúc, mọi nơi, ngay cả khi Ngài ẩn mình trong bánh thánh. Khi chúng ta tham dự Thánh lễ, ở trước Mình Thánh Chúa, chúng ta có ý thức mình đang ở trước Thiên Chúa hiển vinh không?

  1. Cùng Chúa Kitô biến đổi mỗi ngày

Môsê và Êlia xuất hiện cùng với Chúa Giêsu, rất sống động: “Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Ngài, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9: 30-31). Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, và Sự Phục Sinh - sự sống đời sau - là có thật! Điều này quan trọng vì vào thời Chúa Giêsu, nhiều người, như nhóm Xa đốc, không tin vào sự phục sinh. Tất nhiên các tông đồ chưa thể hiểu điều này, do vậy các ông có phản ứng hoàn toàn trần tục, hoàn toàn con người: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9: 33).

Chúng ta đón nhận Chúa như thế nào trong cuộc sống hằng ngày? Liệu chúng ta có tin Ngài thực sự là Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta đến Sự Phục Sinh - sự sống vĩnh cửu - không, hay chúng ta chỉ muốn Ngài là người giúp đỡ chúng ta giải quyết những vấn đề trước mắt, những nhu cầu cụ thể hằng ngày? Nếu chúng ta chỉ cầu xin Chúa ban những của cải thế gian này, thì chúng ta cũng giống như Phêrô muốn bám víu vào cõi trần này, “dựng ba lều…chúng con ở đây, thật là hay” (Lc 9: 33). Đây là phản ứng của phàm nhân, của thế gian. Ngược lại, nếu chúng ta đón nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa, và chúng ta đặt niềm tin cậy vào Ngài, thì ân sủng của Đấng mà “dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói loà” (Lc 9: 29) sẽ có thể hoạt động trong chúng ta và làm cho cách cư xử hằng ngày của chúng ta đổi khác, trở nên trắng tinh, được sự hiện diện của Thiên Chúa như “đám mây bao phủ” (Lc 9: 34), đưa vào cõi đời đời “rạng ngời vinh hiển… nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu” (Lc 9: 31-32).

Trong mỗi Thánh lễ, bánh và rượu chúng ta dâng trên bàn thờ được “biến hình”, biến đổi thành Mình và Máu sống động của Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chết và phục sinh vinh hiển. Cũng như Cuộc biến hình của Chúa Giêsu đã củng cố các tông đồ trong thời gian thử thách, thì mỗi Thánh lễ, nhất là trong Mùa Chay thánh này, là nguồn sức mạnh từ trời cao dành cho chúng ta để chống lại những cám dỗ và đổi mới chúng ta.

  1. Được biến đổi nhờ cầu nguyện và năng lãnh nhận các bí tích

Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, chính “Đang khi Ngài cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Ngài” (Lc 3: 21-22) và hôm nay cũng vậy, chính “Đang lúc Ngài cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác” (Lc 9:29). Đức Giáo Hoàng Phanxicô chỉ rõ: “Cầu nguyện, cầu nguyện luôn thay đổi thực tại, chúng ta đừng quên rằng: cầu nguyện có thể thay đổi mọi thứ hoặc thay đổi trái tim chúng ta, nhưng cầu nguyện luôn thay đổi” (Vatican - 9 tháng 1 năm 2019)

Khi chúng ta cầu nguyện và đón nhận Chúa Kitô làm Đấng Cứu Độ của mình, chúng ta được biến đổi nhờ sự sống thần linh của Ngài trong chúng ta, chúng ta được trở thành con cái của Thiên Chúa. Sự sống này hoạt động trong chúng ta và biến đổi chúng ta theo hình ảnh của Chúa Kitô. Được biến đổi nên giống hình ảnh Chúa Kitô có nghĩa là được đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô phục sinh và vinh hiển, trở nên giống Ngài: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài, tức là cho những kẻ được Ngài kêu gọi theo như ý Ngài định. Vì những ai Ngài đã biết từ trước, thì Ngài đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài” (Rm 8: 28-29).

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói ngài đã được dạy “cầu nguyện như một người con chứ không phải tìm kiếm viên kẹo an ủi... Cầu nguyện mở lòng với Chúa, và khi Chúa Thánh Thần ngự vào, Ngài thay đổi cuộc sống của bạn từ bên trong. Đó là lý do tại sao chúng ta phải cầu nguyện: mở lòng và tạo không gian cho Chúa Thánh Thần…Chính Chúa Thánh Thần là Đấng thay đổi trái tim chúng ta, ngự vào trái tim chúng ta và biến đổi nó” (www.vaticannews.va/en/pope/news/2024-10).

Cụ thể hơn, mỗi ​​lần chúng ta lãnh nhận Bí tích, chúng ta được biến đổi. Bí tích Rửa tội biến đổi chúng ta thành con cái của Thiên Chúa và là người thừa kế Nước Trời. Bí tích Thêm sức biến đổi chúng ta thành đền thờ của Chúa Thánh Thần và là chiến binh của Thiên Chúa. Bí tích Hòa giải, nhất là trong mùa Sám hối và chay tịnh này, Thiên Chúa đưa tội nhân trở lại con đường thánh thiện. Sự Biến hình của Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một thông điệp khích lệ và hy vọng. Trong những lúc nghi ngờ và trong những khoảnh khắc đen tối tuyệt vọng đường cùng, suy ngẫm về sự biến đổi của chính chúng ta trên Thiên đàng sẽ giúp chúng ta vươn tới Thiên Chúa như lời an ủi của thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Chúa Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Ngài có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3:20-21).

Chúng ta có thể có  kinh nghiệm “lên núi cầu nguyện” trong cuộc sống của mình, như kinh nghiệm của Phêrô, Giacôbê và Gioan, khi chúng ta dành nhiều thời gian hơn để cầu nguyện trong Mùa Chay thánh này. Chay tịnh có thể giúp chúng ta tích trữ sức lực tâm linh, thay đổi cách nghĩ, lối sống và có được mối tương giao thân tình, cao cả, quý giá với Chúa Giêsu, Đấng đã hứa: “Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” (Ga 1: 50), đó là: “Thành Thánh Giêrusalem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa” (Kh 21: 10).

                                                                                        

Phêrô Phạm Văn Trung

 

Cám dỗ trong cuộc đời

Khi bàn về thân phận con người, triết gia Platon nhận định rằng: “Con người như một cỗ xe có hai ngựa kéo về hai chiều đối nghịch.” Có một thế lực cao cả lôi kéo người ta về hướng tốt và một quyền lực đen tối kéo người ta về hướng xấu; và như thế, bản thân con người bị giằng co, xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau!

Cảnh xung đột nội tâm nầy nhiều khi trở nên hết sức gay gắt và ác liệt đến độ thánh Phao-lô phải đau lòng than lên: “Điều lành tôi muốn, tôi không làm; trong khi điều dữ tôi gớm ghét, tôi lại làm… Vô phúc thay con người tôi!” (Rm 7, 19.24).

Các xung đột nội tâm hay các chước cám dỗ không buông tha bất cứ ai và sẽ bám riết con người cho đến chết.

Ngay cả Chúa Giê-su cũng không thoát khỏi những cơn cám dỗ. Mặc dầu Ngài thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Ngài cũng hoàn toàn là con người như chúng ta, nên “Ngài cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Do-thái 4,15).

Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến không phải một mà là đến ba cơn cám dỗ của Chúa Giê-su.

Cám dỗ thứ nhất là sử dụng quyền lực thần linh để biến đá thành cơm bánh (Lc 4,3). Nếu Chúa Giê-su thực hiện điều nầy để cung cấp cho những ai tin theo Ngài được dư đầy cơm bánh mà chẳng phải lao nhọc vất vả kiếm ăn thì hy vọng cả thế giới đều thần phục Ngài. Nhưng Chúa Giê-su bác ngay phương án nầy vì đó không phải là đường lối cứu chuộc của Thiên Chúa Cha.

Cám dỗ thứ hai là trở thành vua của thế giới, “toàn quyền cai trị các nước thiên hạ cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này” (Lc 4, 5-7).  Cám dỗ nầy còn được lặp lại khi dân chúng muốn tôn Chúa Giê-su làm vua (Gioan 6,15). Giả sử Chúa Giê-su chấp nhận làm vua thì hy vọng Ngài sẽ sớm chinh phục muôn dân nước về cho Thiên Chúa Cha. Nhưng Chúa Giê-su lập tức từ chối vì cách đó không phải là đường lối cứu độ của Thiên Chúa Cha.

Cám dỗ thứ ba là dùng quyền phép để thu phục nhân tâm, chẳng hạn như đứng trên “nóc Đền Thờ Giê-ru-sa-lem rồi gieo mình xuống” an toàn, khiến cho mọi người khâm phục và tin theo (Lc 4, 9-11). Chúa Giê-su từ khước phương án nầy, vì dùng phép lạ để lôi kéo người ta tin thờ Thiên Chúa cũng chẳng phải là kế hoạch của Thiên Chúa Cha.

Ngoài ra, Thánh sử Lu-ca cũng tiên báo rằng: Sau ba cơn cám dỗ nói trên, Chúa Giê-su còn phải đương đầu với nhiều cơn cám dỗ khác trong đời. Thánh Lu-ca viết: “Ma quỷ rút lui để chờ dịp khác” (Lc 4, 13).

Lần khác, Sa-tan còn dùng miệng lưỡi của người môn đệ thân tín là Phê-rô để cám dỗ Chúa đừng lên Giê-ru-sa-lem chịu khổ nạn. Ngay lúc ấy, Chúa Giê-su quát lại: “Sa-tan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm” (Mt 16,23).

Ngay cả khi Chúa Giê-su hấp hối trên thập giá, Sa-tan cũng chưa chịu buông tha Ngài. Lần nầy Sa-tan dùng miệng lưỡi những kẻ qua lại để cám dỗ Ngài xuống khỏi thập giá: “Nếu Ông Ki-tô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 32).

Thế là trong suốt cuộc đời dương thế, trong thân phận giòn mỏng của kiếp người, Chúa Giê-su đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ và Ngài đã chiến thắng rất vẻ vang. Không một cám dỗ, một thách thức nào có thể khiến Ngài lùi bước.

Xưa kia, Sa-tan tìm mọi cách cám dỗ Chúa Giê-su từ bỏ đường lối của Thiên Chúa Cha để đi theo đường lối ma quỷ, thì hôm nay, Sa-tan cũng luôn tìm mọi cách để lôi kéo chúng ta đi trệch ra khỏi đường Chúa như vậy.

Tàu chạy theo đúng đường rầy sẽ được an toàn vô sự, nhưng nếu tàu chạy trật đường rầy, nó sẽ lao vào chỗ chết và gây ra tang tóc đau thương. Vì thế, ma quỷ luôn tìm mọi cách lôi kéo chúng ta đi trệch ra ngoài đường lối của Thiên Chúa, để xô đẩy chúng ta vào cõi trầm luân.

Mỗi người chúng ta như người leo núi đang chênh vênh giữa lưng chừng sườn núi cao. Tiếng Chúa luôn kêu gọi chúng ta leo lên cao để chung hưởng hạnh phúc thiên đàng; trong khi đó, tiếng gọi của Sa-tan và sức nặng của tính xác thịt lôi kéo chúng ta xuống vực để phải trầm luân muôn đời.

Thắng được những cơn cám dỗ, thắng được bản năng hư hèn yếu đuối của mình thật khó biết bao! Danh tướng Napoléon là người từng chiến thắng vang dội ở Châu Âu cũng phải thú nhận rằng: “Chiến thắng cả Châu Âu không bằng chiến thắng chính bản thân mình.”

 

Lạy Chúa Giê-su,

Xác thịt chúng con rất ươn hèn và yếu đuối trong khi sức mạnh của ma quỷ thật lớn lao. Xin Chúa thông ban Thánh Thần trợ lực, để chúng con không lùi bước, không thua trận, không chìm đắm trong tội lỗi nhưng được chiến thắng vẻ vang và chung hưởng vinh quang với Chúa muôn đời.

 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

 

Tin mừng Lu-ca (Lc  4, 1-13)

1Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về. 2 Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói.   3Bấy giờ, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi !”  4Nhưng Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.”

5Sau đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ.   6Rồi nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý.   7Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.”  8Đức Giê-su đáp lại: “Đã có lời chép rằng : Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.”

9Quỷ lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi!   10Vì đã có lời chép rằng : Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn.   11Lại còn chép rằng : Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”   12Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại : “Đã có lời rằng : Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”

13Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.

 

Subcategories