- Details
-
Category: 2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa
“Trước mặt Thiên Chúa, con người là kẻ ăn xin” (GLGHCG, số 2559). Những lời này trong Sách Giáo lý của Giáo hội cho thấy chúng ta cơ bản lệ thuộc vào Thiên Chúa. Sự lệ thuộc này có lẽ không nơi nào được minh họa rõ ràng hơn trong câu chuyện của Thánh Luca về tên trộm lành.
- “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Ngài: Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với! Nhưng tên kia mắng nó: Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái! Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi! Và Ngài nói với anh ta: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Luca 23:39-43)
Dismas hay Đích Ma, có nghĩa là Hoàng hôn hoặc Sự chết, tên trộm lành, có nhiều điều để nói với chúng ta. Người ta dệt nên câu chuyện huyền thoại sau đây: 30 năm về trước, trên đường đem Chúa Giêsu Hài nhi sang Ai Cập để tránh khỏi cơn giận của vua Hêrôđê, thánh Giuse và Mẹ Maria đã dừng lại một hàng quán hẻo lánh. Mẹ Maria xin thau nước để tắm cho Hài Nhi Giêsu. Bà chủ quán giữ lại nước đã tắm cho bé Giêsu để tắm cho con trai của bà đang mắc bệnh ghẻ lở. Nước đó chảy tới đâu, bệnh ghẻ lở sạch tới đó. Và đứa trẻ được lành bệnh. Nhưng khi lớn lên, đứa trẻ đó đã trở thành một tên trộm cướp. Tên đứa trẻ đó là Đích Ma (Dismas). Và hôm nay chính Đích Ma lại bị treo trên thập giá bên phải Chúa Giêsu. Dĩ nhiên đây là câu chuyện huyền thoại. Chết trên cây thập tự, bị thế gian chế giễu, và biết tội lỗi của mình, Đích Ma hoàn toàn nghèo nàn trước Chúa Giêsu. Anh ta không có việc tốt lành nào để có thể cậy dựa vào, không có gì đẹp đẽ để thể hiện, không có gì hay ho để nói. Anh ta là một người thực sự chẳng có gì. Nhưng Chúa Giêsu tuyên bố anh ta là người đầu tiên vào thiên đàng, và mãi mãi được biết đến là tên trộm đã đánh cắp được thiên đàng. Nhưng chúng ta có thể tự hỏi, làm sao điều này có thể xảy ra? Vì đâu mà tên trộm Đích Ma nhận ra Ông Giêsu là Vua dù đang bị đóng đinh như anh ta? Làm sao tên trộm biết được điều mà ngay cả các tông đồ cũng chưa hiểu được?
Chúa Giêsu đã nói: “Ta đã bảo các ngươi rằng không ai có thể đến với Ta nếu Chúa Cha không ban ơn cho” (Gioan 6:65). Hẳn Chúa đã sai Thánh Thần của Ngài đến để mở mắt anh ta và giúp anh ta nhìn thấy. Có thể vì nhớ lại chuyện xưa mẹ kể rằng mình được chữa khỏi do nước đã tắm của Vua Hài Nhi mà nay anh ta nhìn Chúa Giêsu bằng con mắt khác? Cũng có thể trong thời gian hành nghề trộm cắp, anh ta đã có lúc len lỏi vào đám đông quanh ông Giêsu, để rình cơ hội móc túi, nhưng lại nghe ông Giêsu giảng về dụ ngôn người Samaritanô rằng: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác. Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? Người thông luật trả lời: Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy. Chúa Giêsu bảo ông ta: Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10:30-37). Dụ ngôn này của Chúa Giêsu khiến một chút lương tâm còn sót lại của Đích Ma ray rứt chăng?
Nhưng có lẽ điều chắc hơn đó là anh ta có đôi mắt nhạy bén của một tên trộm chuyên nghiệp và một kinh nghiệm hành nghề có thể nhận ra ai là người tốt lành và ai là kẻ độc ác. Chỉ cần liếc đôi mắt qua bên trái, tên trộm đọc được tấm bảng ghi dòng chữ – Tên gọi: Giêsu; nguyên quán: Nadarét; tội trạng: Vua dân Do thái. Vua ư? Vương miện đâu? Một vòng gai cắm trên đầu sao? Có biết bao hạng người còn đôi mắt tỏ tường nhưng lại không nhận ra Chúa Giêsu là Vua? Họ là những kẻ qua đường thấy Chúa bị đóng đinh thì cười chê: “Ông này có tiếng làm phép lạ, dám phá đền thờ, ba ngày sau xây lại, sao không tự cứu mình đi” (Mt 27:39-40). Họ là các trưởng tế và luật sĩ thách thức Chúa Giêsu: “Họ thách thức Chúa rằng: Nếu người là vua Israel hãy xuống khỏi thập giá đi, rồi chúng tôi tin” (Mt 27, 42-43). Họ là những binh lính và lý hình thi hành án: “Mấy người lính cũng nghỉnh đầu lên buông lời chế giễu Chúa: Nếu là vua, cứ nhảy xuống xem” (Lc 23, 36-37). Đó là tên trộm đồng nghiệp của Đích Ma: “Một kẻ trộm bên tả quay ra khiêu khích Chúa: Nếu ông là vị Cứu thế hãy cứu ông và cứu cả chúng tôi đi” (Lc 23, 36-37). Đích Ma, dù là tên trộm, nhưng lại không giống như những người đó. Anh ta vẫn còn một tâm trí có thể nhìn ra sự thật và một tấm lòng trắc ẩn trước những nỗi đau của người khác. Điều này biểu lộ trong lời nói công khai với tên trộm đồng bọn của anh: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23: 40-41).
Chúa Giêsu không làm phép lạ hữu hình nào từ trên thập tự giá để thay đổi cái nhìn của anh ta. Anh ta chỉ nghe những lời cầu nguyện tha thiết của Ngài với Chúa Cha và lắng nghe Chúa Giêsu nói về sự tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Khi tên trộm nghe những lời của Chúa Giêsu xin Chúa Cha tha thứ cho tất cả những ai làm hại Ngài, bóng tối của cuộc đời đầy tội lỗi của anh ta bị xuyên thấu bằng ánh sáng của sự thật, cho phép một người từng sống trong tối tăm thấy rằng Chúa Giêsu là tất cả những gì Ngài tuyên bố: tha thứ cho mọi người tội lỗi, trong đó có anh ta. Mọi nghi ngờ bị xóa tan, người đàn ông này xác tín những gì đôi mắt trần gian của mình không thể nhìn thấy: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Gioan 20:29). Anh ta biết rằng cái chết sẽ không giam giữ được Vị Vua này của người Do Thái. Và với một trái tim ăn năn, Đích Ma tuyên bố vương quốc sắp đến của Vị Vua này. Đích Ma đã thấy vinh quang của Đấng đang bị treo trên Thánh Giá.
Thực vậy, Chúa Giêsu trả lời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). Thật không sai khi nói rằng tên trộm Đích Ma đã được chính Chúa Giêsu phong thánh và trực tiếp mở cửa thiên đàng cho vào, không phải lẻn vào qua cổng sau. Đích Ma không đánh cắp thiên đàng như thể đó là thứ gì đó cần phải lấy cắp. Thay vào đó, anh ta đã vào vương quốc cùng Chúa Giêsu, vì vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, anh ta đã được ban cho ân sủng để thú nhận sự bất xứng hoàn toàn của mình trước Chúa. Tên trộm Đích Ma được cứu chính là vì anh ta đã thừa nhận mình là kẻ ăn xin, ăn xin lòng thương xót của Đấng Kitô. Đích Ma đã lấy được điều quý giá nhất mà anh ta chưa bao giờ đánh cắp được. Trong cảnh nghèo hèn cùng cực của mình, anh đã có thể nhận được tất cả lòng thương xót mà Chúa Giêsu muốn ban cho anh.
Chúng ta cũng cần phải học cách chấp nhận ngày càng nhiều hơn sự nghèo khó của mình trước mặt Chúa. Nhưng làm sao chúng ta có thể làm được điều này? Để giúp chúng ta trở thành những kẻ ăn xin trước mặt Chúa, chúng ta có thể cậy dựa vào Thánh Têrêsa Lisieux, là người dạy cho chúng ta một chút về tình yêu đầy tin tưởng và đơn sơ như trẻ thơ. Chị thánh thường so sánh nhu cầu của chúng ta đối với Chúa giống như mối liên hệ giữa một đứa bé và cha mẹ của em. Một đứa bé hoàn toàn lệ thuộc vào cha mẹ mình. Em tìm đến cha mẹ mình để xin mọi thứ và không bao giờ đặt câu hỏi về khả năng giải quyết vấn đề của cha mẹ mình. Thật vậy, đây là cách chúng ta nên nhìn vào Chúa. Chúng ta đã và đang nhận được mọi thứ từ Ngài. Vậy thì, trở nên trẻ thơ là tìm đến Chúa để xin mọi nhu cầu của mình, hoàn toàn tin tưởng vào sự chăm sóc quan phòng của Ngài và yêu Ngài vô điều kiện.
Nhưng tình yêu đầy tin tưởng của Thánh Têrêsa còn đi xa hơn cả việc chỉ thừa nhận sự nghèo khó và yếu đuối của mình. Chị thánh hân hoan trong tình yêu đó và yêu mến Thiên Chúa, Đấng bay đến để bù đắp cho những thiếu sót và lỗi lầm của chị. Giống như Thánh Phaolô, chị tôn vinh sự yếu đuối và những gì Chúa đã có thể làm nơi chị: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2 Cr 12:9). Sự tin tưởng này biết rằng không có vết thương nào quá lớn hay sự gian ác nào quá sâu đến mức Chúa không thể chữa lành nếu chúng ta biết cầu xin sự tha thứ của Ngài. Vì vậy, thay vì cảm thấy xấu hổ vì sự yếu đuối và nghèo khó của mình, chúng ta có cơ hội kêu cầu lòng thương xót của Chúa. Sự tin tưởng vào tình yêu thương xót của Chúa là chìa khóa để phó thác như trẻ thơ và mở ra con đường lên thiên đàng. Bởi vì, khi chúng ta thừa nhận rằng mình không có gì, và cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta thấy mở ra trước mắt mình một kho tàng thực sự đầy tràn Hồng Ân Cứu Độ. Thật vậy, con người là một kẻ ăn xin trước mặt Chúa, một kẻ ăn xin vương quốc thiên đàng và Chúa ban cho con người điều họ khẩn cầu: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng” (Tv 103: 2-5).
Tu huynh Roland Wakefield, OP
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
https://www.dominicanajournal.org
- Details
-
Category: 2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa
Mỗi khi Mùa Chay về, Lời Chúa qua miệng ngôn sứ Giôen lại vang lên inh ỏi bên tai chúng ta: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van” (Joel 2,12). Phụng vụ lễ ca cũng hát lên những khúc ca không có êm tai chút nào hết, bởi những lời ấy cất lên như túc giục chúng ta: ” Hãy trở về, trở về với Cha nhân lành”, vâng, Mùa Chay là Mùa trở về với Chúa”.
Phải, không có một hành trình ra đi nào mà không có sự trở về. Sau nhiều năm lưu đày bên Ai-cập, Chúa đã giải thoát Israen và đưa họ về miền đất hứa đầy sữa và mật. Chúa Giêsu xuống thế để cứu chuộc loài người và đã trở về cùng Chúa Cha. Ngài cũng đã nói cho chúng ta biết: “Thầy đi dọn chỗ cho các con. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Có chỗ cho mỗi người chúng ta. Đó là hành trình trở về lần sau cùng của tôi, của chị và của anh nơi cõi vĩnh hằng.
Hành trình Mùa Chay năm nay, trước hết ta hãy trở về với chính trở về với con người thật của mình, hầu biết mình, nhận ra, chấp nhận mình, để sửa đổi, tha thứ cho chính mình. Thiết nghĩ, điều quan trọng hơn cả là trở về để nhận ra tình thương vô bờ của Thiên Chúa. Ta không thể cho đi những gì mà mình không có. Cũng thế, ta không thể sửa đổi người khác nếu ta chưa sửa đổi chính mình; và ta cũng không thể trở về với Chúa, và anh chị em nếu ta chưa trở về với bản thân, ta sẽ không nhận được ơn tha thứ trực tiếp của Thiên Chúa nếu ta chưa trở về.
Kế đến ta trở về với tha nhân, và sau cùng là trở về với Chúa qua bí tích Hòa giải, qua thánh lễ, chầu Thánh Thể, qua việc đọc Lời Chúa, cầu nguyện, ngợi khen cảm tạ, và kính sợ Chúa. Chúng ta trở về với cả tâm hồn như lời mời gọi của Chúa hôm nay.
Lời Chúa qua tiên tri Giôen hô vang 2,12-13: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng”. Thiên Chúa luôn nhìn những gì ở bên trong con người, ngược lại con người thì thường nhìn những gì ở bên ngoài. Hãy trao chiếc áo tâm hồn rách nát, sầu khổ, tội lỗi cho Chúa để Ngài thanh tẩy, chữa lành, và ban tràn đầy ơn cứu độ cho chúng ta.
Hôm nay khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).
Tro, dù nhỏ nhặt, nhưng nhắc nhở chúng ta một thực tế rằng chúng ta theo đuổi và lo lắng mỗi ngày, chăm chỉ làm việc, muốn chiếm hữu tất cả, nhưng chúng ta sẽ không mang theo được sự giàu có khi từ giã cuộc sống này, chúng ta sẽ không còn gì. Thực tại trần gian biến mất như tro trong gió. Những thứ chúng ta đang có chỉ là tạm thời, quyền lực qua đi, thành công sẽ phai nhòa. Nó giống như một ngọn lửa: một khi lụi tàn, chỉ còn lại tro.
Mùa Chay là thời gian để giải thoát bản thân khỏi ảo ảnh đuổi theo cát bụi. Mùa Chay là giúp chúng ta nhận ra rằng, chúng ta được tạo thành vì Chúa, chứ không phải vì thế gian; vì sự vĩnh cửu của thiên đàng, chứ không phải vì sự lừa dối trần thế; vì tự do của con cái Chúa, chứ không phải để làm nô lệ cho vạn vật.
Ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh là: Ăn Chay, Cầu Nguyện, và Bố Thí vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người Kitô hữu.
Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.
Chúa đòi hỏi rất rõ ràng và minh bạch. Vậy làm thế nào để thực hiện ba điều Tin Mừng nhắc nhở chúng ta: Ăn chay – cầu nguyện – bố thí.
Những việc đạo đức chúng ta làm hàng ngày quy vào ba điều đó. Không phải Mùa Chay chúng ta vẫn làm. Bằng chứng là chúng ta vẫn cầu nguyện, đọc kinh, dự lễ, lãnh nhận các bí tích là chúng ta cầu nguyện. Các ngày thứ Sáu, Thứ Tư Lễ Tro, Thứ Sáu Tuần Thánh, và các dịp lễ khác chứng ta vẫn ăn chay. Giúp đỡ người nghèo, góp tiền cho người nghèo ăn Tết là bố thí. Nhưng trong Mùa Chay Thánh, chúng ta phải làm những việc bình thường đó với một tinh thần mới mẻ, tinh thần của Đức Kitô, tinh thần của Tin Mừng. Cụ thể, khi chúng ta giúp đỡ người khác, thì phải xem có phải có phải chúng ta khoe khoang, trịch thượng, khinh dể người nghèo không, hay là để cho người khác tuyên dương công trạng của chúng ta. “Điều gì tay mặt làm, đừng cho tay trái biết”. Ngay chính bản thân mình, có giúp đỡ, phục vụ, thì cũng đừng có kiểu phô trương để rồi sung sướng. Hãy làm như Chúa đã bảo chúng ta. Một mình Chúa biết mà thôi.
Về cầu nguyện, chúng ta vẫn cầu nguyện, nhưng đôi lúc máy móc, không có tôn vinh Chúa, chỉ nghĩ đến mình, cầu nguyện để như là trình diễn. Nói đến việc ăn chay, phải cụ thể, khổ chế, thân xác phải cảm thấy đói, thèm, thiếu thốn, và chúng ta chấp nhận đói, thèm, thiếu thốn để đền lại tội lỗi chúng ta, để xin ơn Chúa cho chúng ta lướt thắng các cơn cám dỗ.
Vậy thưa anh chị em, vài tâm tình chúng ta cùng nhau gợi lên để có thêm nghị lực trở về với chính mình, về Chúa, với anh em, để sống tốt với Chúa và với tha nhân.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ