2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

TÌM CHÚA HAY TÌM MÌNH

Cuộc đời của ta chỉ thật sự bình an hạnh phúc, khi ta luôn biết quy hướng về Chúa, và chỉ tìm kiếm một mình Chúa mà thôi. Nếu ta tìm Chúa, thì, mọi hoàn cảnh xảy đến, đều là cơ hội, để ta gặp thấy Người. Nếu ta tìm mình, thì, bất cứ điều gì xảy đến, cũng đều là cản trở, khiến ta không thể gặp được Chúa, kể cả, đó là những việc thiêng liêng, đạo đức.

Thói quen “tìm mình” đẩy ta đi bằng nỗi sợ: Khi ta đang vội vã trong công việc, ta có thật sự đang làm việc vì Chúa, vì tha nhân, hay ta đang chạy đi tìm chính mình: ta sợ không được công nhận, sợ không bằng ai, sợ bị bỏ rơi, và khi sợ hãi lớn hơn sức chịu đựng, ta hành động để né tránh nó, cách vô thức, ta cố làm nhiều hơn, nói nhiều hơn, giỏi hơn, và thậm chí, cố gắng đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Nếu truy về gốc, thì mỗi hành vi là mỗi lần thói quen “tìm mình” lên tiếng, và điều nguy hiểm là, ta không hề nhận ra, bởi vì, nó thường xuất hiện với những “mỹ từ” như: tôi đang cố gắng sống tốt, nghe rất cao đẹp, nhưng, nếu ta đủ lặng, ta sẽ nghe thấy trong đó: tiếng vọng của một cái tôi luôn muốn khẳng định mình, luôn muốn tìm mình, vì thế, chúng ta phải nhìn lại từng hành vi với sự tỉnh táo: tôi đang làm điều này để làm gì, có phải tôi đang giúp người, hay đang làm điều đó để người khác thấy tôi là người biết giúp đỡ; tôi đang thương xót người hay đang cố gắng cho thấy tôi là người biết xót thương.

Thói quen “tìm mình” không chỉ thỏa mãn với vật chất, hay địa vị thế gian, mà còn, bắt đầu thu gom những tài sản thiêng liêng như: chiêm niệm sâu hơn, trải nghiệm thiêng liêng vi tế hơn, trạng thái an bình hoan lạc dài hơn: ta bắt đầu sống như thể đang “casting” trong vai nhà thuần thiêng, bậc chiêm niệm: đi đứng nhẹ nhàng, nói năng chậm rãi, miệng hay mỉm cười, nhưng, bên trong vẫn còn một tiếng vọng mơ hồ: tôi “đang đi tìm” hình ảnh một người đặc biệt; khi bản ngã khoác áo thiêng liêng, ta rất khó nhận ra, vì mọi thứ ta làm, đều giống như trên đường hoàn thiện vậy, nhưng, thật ra, ta chỉ đang diễn, một vai diễn thiêng liêng cao quý.

Chỉ khi nào, ta dám nhìn thẳng vào cái bản ngã đang khoác áo thiêng liêng, dám bóc từng lớp mặt nạ cách không khoan nhượng, ta mới thấy được điều sâu nhất: lề luật không cứu ta, các việc thiêng liêng bên ngoài không giải thoát ta, chỉ có, sự thật mới giải phóng ta: mọi nỗi khổ đều có một điểm chung, đều là hệ quả của động cơ “tìm mình”, cái thấy đó, nếu đủ sắc bén sẽ cho ta nhận ra rằng: mọi vấn đề ta tưởng là đến từ hoàn cảnh, hay từ người khác, thật ra, đều bắt nguồn từ một nơi duy nhất: Thói quen “tìm mình”, nơi mà, ta là trung tâm của vũ trụ. Thói quen “tìm mình” không chỉ sống trong nội tâm, mà, nó còn tồn tại và sinh sôi nảy nở trong môi trường ta tương tác mỗi ngày, và chưa bao giờ, thói quen “tìm mình” lại có đất sống như hiện nay, thời đại của mạng xã hội: chúng ta tìm mình trong từng lượt thích, trong mỗi bình luận khen ngợi, và qua từng lượt chia sẻ… tất cả, như những viên gạch, dựng nên ngôi đền bản ngã, nơi mà, ta vừa được tôn thờ, vừa bị giam giữ.

Sau cùng, càng muốn diệt trừ thói quen “tìm mình”, ta lại vô tình tiếp sức cho nó tồn tại dưới hình thức khác, thật mỉa mai, ngay cả việc muốn thoát khỏi thói quen “tìm mình”, thì, cũng là một chuyển động của thói quen ấy, vì đó vẫn là ham muốn của “cái tôi vi tế” đang cố gắng trở thành một phiên bản tốt hơn, vậy thì, điểm bắt đầu của sự tự do, không phải là hành động, không phải là một nỗ lực tích cực để thay đổi, mà là, cái thấy, cái nhìn chiêm niệm đơn sơ và trần trụi, chỉ là thấy: “Tôi có sao Chúa yêu tôi vậy”, không phải tôi tốt, tôi giỏi, Chúa mới yêu; không phải tôi là nhà chiêm niệm, thần bí, Chúa mới mến. Chính trong cái khoảnh khắc của cái thấy rõ ràng ấy, ta được trả về với sự đơn sơ rỗng rang, không còn “tìm mình”, không còn vai diễn, không còn bám víu, chỉ còn sự sống đang là, tin tưởng, phó thác; khi ta không còn “tìm mình”, thì Chúa sẽ xuất hiện, và từ đó, từng hơi thở, từng bước chân, từng khoảnh khắc, đều là chiêm niệm, đều là thiêng liêng, đều là tự do. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.

ĐỀ PHÒNG “CÁI TÔI THẦN BÍ”

Một khoảnh khắc rơi nước mắt khi cầu nguyện, hay khi đọc Lời Chúa, đôi khi, khiến ta tưởng mình đã xuất thần, vì có một cảm giác bừng sáng, ta nghĩ ta đã thấy Chúa, thấy mình như tan hòa làm một với Chúa, rồi từ đó, ta cố gắng giữ lấy cảm giác ấy, dựng thành một ký ức, rồi từ ký ức ấy, dựng nên một bản ngã mới: tôi đã xuất thần, đã thần bí, nhưng, mọi trạng thái, dù thần bí đến đâu, cũng đều đến rồi đi, trạng thái có thể rất mạnh, rất sâu, rất thật, nhưng, vẫn là trạng thái, mà đã là trạng thái thì sẽ qua đi, không có gì sai khi trải nghiệm một trạng thái đặc biệt, cái sai là: tưởng rằng đó là “kinh nghiệm thần bí”, thần bí không đến như một sự kiện, giây phút xuất thần, để ta kể lại cho người khác, thần bí không vướng vào bất kỳ trạng thái nào, bởi vì, niềm vui đến rồi đi, hạnh phúc chớm nở rồi lụi tàn; an lạc khởi lên rồi vụt tắt.

Chúng ta phải đề phòng “cái tôi thần bí”, bởi vì, nó không cần địa vị, mà, cần người khác ngưỡng mộ sự hiểu biết sâu sắc của mình; không khoác áo quyền lực, mà, khoác áo khiêm nhường có chủ ý, cái khiêm nhường, mà, càng khiêm nhường, ta càng thấy mình đứng cao: ta không còn sống để học, mà, để dạy; không còn nghe để hiểu, mà, để chỉ lỗi người khác; không còn lắng, mà, chỉ có nói: nói với cung giọng hiền lành, nhưng, sâu bên trong, vẫn là khinh ngầm những người còn đang mê muội.

Chúng ta phải đề phòng “cái tôi thần bí”, bởi vì, nó có thể ngồi cầu nguyện hàng giờ, nhưng, mục đích là để đạt được trạng thái đặc biệt; ăn chay, giữ luật nghiêm ngặt, nhưng, trịch thượng tách mình ra khỏi đám đông yếu kém; có thể sống giản dị, nhưng, mang trong mình khao khát được công nhận là đã thôi dính bén; Tất cả những điều ấy dù có vẻ “thánh thiện”, nhưng, cũng chỉ là sự diễn tập của cái tôi trần tục, bởi vì, thánh thiện thật, không bao giờ đi kèm nhu cầu chứng minh, cảm thức vượt trội, và động cơ muốn trở thành ai đó, nhưng, chỉ quy hướng về một mình Chúa mà thôi.

Chúng ta phải đề phòng “cái tôi thần bí”, bởi vì, thần bí thật, không khiến ta nổi bật hơn giữa đám đông, nhưng, khiến ta tan rã khỏi mọi địa vị: không danh, không cấp bậc, không làm ta đứng trên sân khấu thuần thiêng, mà, khiến ta bước xuống không còn diễn nữa, để chỉ sống thật: càng sống thật, ta càng không cố tỏ ra đang sống thật; càng buông bỏ, ta càng không cần ai biết mình đã buông gì; càng chiếu sáng, ta càng không làm chói mắt người khác: ta có thể ngồi trong đám đông, mà, không cần ai nhìn thấy; có thể bị hiểu lầm, mà, không cần thanh minh; có thể bị công kích, mà, không cần lên tiếng, không phải vì ta vô cảm, mà vì, ta không còn cần phải bảo vệ ai, bởi vì, ta đã thuộc trọn về Chúa; ai chưa thật sự thần bí mới cần bảo vệ “cái tôi thần bí” mới hình thành; ai đã thấy Chúa, thì, không cần thấy mình là ai, để được nhìn nhận nữa.

Tóm lại, “thần bí” không khiến ta siêu nhiên, nó chỉ khiến ta thành thật, thành thật với một cơn giận khởi lên trong lòng, mà không chối bỏ; thành thật với một nỗi buồn còn vương, mà không tô hồng; thành thật với những bất toàn, những mâu thuẫn, những thói quen cũ vẫn chưa tan, mà không tự ghét bỏ chính mình; Người càng “thần bí” càng người: không phải ít cảm xúc, mà là, thấy rõ mọi cảm xúc; không phải ít nói, mà là, không còn nói dối chính mình; không phải ít hành động, mà là, hành động nào cũng xuất phát từ một tâm hồn trong sáng. “Người thần bí” không lấp lánh, nhưng, bình thường đến lạ, không phải là ẩn sĩ trên núi cao, mà là, người vẫn đang sống giữa thế gian, nhưng, không thuộc về thế gian: vẫn yêu, nhưng không bị trói buộc; vẫn buồn, nhưng không tuyệt vọng; vẫn tổn thương, nhưng không quỵ ngã; vẫn thất bại, nhưng không đánh mất chính mình, bởi vì, “người thần bí” đã thuộc trọn về Chúa, đồng hình đồng dạng với Chúa trong từng suy nghĩ, lời nói, và hành động;  “người thần bí” như chiếc lá khô luôn buông mình, tung bay theo làn gió Thánh Thần. 

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.

 

MỘT MÌNH VỚI CHÚA

Trên hành trình thiêng liêng, có một khoảnh khắc, mà, tất cả ánh sáng bên ngoài vụt tắt, ta đứng một mình trong bóng tối, giữa khoảng lặng không người, không tiếng, không lời an ủi, ta đang chạm vào phần sâu nhất của chính mình, không ai biết, chỉ một mình ta biết, do đó, càng tiến sâu trên đường thiêng liêng, ta càng cô đơn: những câu chuyện trước đây từng khiến ta hào hứng, giờ trở nên vô vị; những mối quan hệ từng thân thiết, giờ như lạc lõng, ta không còn nói nhiều, không còn muốn thể hiện gì với ai nữa.

Một mình với Chúa, như Đức Giêsu một mình trong sa mạc, chỉ có thử thách và cám dỗ: các ẩn sĩ từ bỏ đời sống thế tục, ẩn mình trong rừng sâu núi thẳm: họ dám đứng lại, mà, không sợ bị bỏ lại; dám một mình, mà, không hề thấy đơn độc; họ rơi khỏi mọi bám víu, rơi khỏi mọi nơi trú ẩn, và rồi, khi rơi đến tận đáy, họ phát hiện ra: đó không phải là hố sâu, mà là, nền đất thật sự, họ bắt đầu đứng lên không vì ai cổ vũ, họ bắt đầu sống không vì ai chứng nhận, mà chỉ, sống đơn sơ trong sự hiện diện, dưới ánh nhìn của Chúa mà thôi.

Một mình với Chúa, khi tất cả đã rời đi, ta ở lại một mình, ở lại với chính mình, ở lại với sự “cô đơn” đến rợn người, ở lại với cơn đau vứt bỏ bản ngã từng mảnh, từng lớp một, như lột da sống, không ai giúp được ta, không ai hiểu điều ta thấy, và trong sự tận cùng của sự một mình đó, cái gì đó mở ra, không phải một đỉnh cao thiêng liêng, mà là, một sự buông tự nhiên, từ đó, ta sống không cao siêu, không cố tình giản dị, không còn gì để sợ, không ai hiểu, không có bạn đồng hành, không có dấu hiệu rõ ràng rằng ta đang đi đúng hay sai đường, và đó chính là dấu chỉ, ta đang bắt đầu thoát khỏi vùng an toàn của tâm trí, đang đứng trước cánh cửa, mà chỉ một mình ta mới có thể mở. Đừng sợ sự một mình đó, vì đó là lúc cái tôi rút lui, là khi tất cả mọi tiếng ồn lùi xa, là khi cánh cửa của chính ta bắt đầu hé mở.

Một mình với Chúa khiến ta thinh lặng, không phải, vì không có gì để nói, mà là, loại thinh lặng của một dòng sông đã thôi gào thét, chỉ còn phản chiếu ánh trăng, trong sự thinh lặng đó, ta bắt đầu hiểu ra rằng: “cô đơn” không đến để trừng phạt ta, nó đến như một cánh cửa, để khi ta bước vào, ta rũ sạch mọi dựa dẫm, mọi hình ảnh, mọi mong đợi, để, ta trở về một trạng thái nguyên sơ, không ai bên cạnh, ngoài một mình Chúa mà thôi: Người không nói gì, không thuyết phục gì, chỉ lặng lẽ hiện diện, như mặt đất vẫn luôn ở đó, dù, ta có chạy bao xa.

Một mình với Chúa khiến ta không còn cần người khác làm nền cho hạnh phúc, không cần ai đó đồng hành thì ta mới đi được, ta không còn cần nữa: không vai diễn, không chiến lược, không mong cầu, chỉ đơn giản sống như “đám mây” bay qua “bầu trời ân sủng”, không biết sẽ đi đâu, cũng chẳng cần biết để làm gì, và rồi, giữa niềm tin tưởng cậy trông phó thác đó, một loại hạnh phúc lạ lùng xuất hiện, không bùng nổ, không rực rỡ, nó chỉ, âm ấm nhẹ như ánh nắng cuối chiều, mà, bám rất sâu trong tim, ta thấy mình không cần chạy theo gì nữa, không cần khao khát nổi bật, không còn mong muốn chứng tỏ mình, thuyết phục ai nữa.

Tóm lại, khi một mình với Chúa, ta đứng trước cánh cửa “cô đơn”, nhìn quanh không thấy ai, vì đây là nơi: không thể đi cùng, chỉ khi, ta đủ can đảm để bước một mình, cánh cửa mới mở, không vang tiếng, không rực sáng, nó mở bằng một cái buông: buông câu hỏi, buông lý do, buông khát khao trở thành, ta bước vào một vùng lặng, nơi, không còn ai để khen chê, nơi, cái tôi cũ đã rơi rụng, và cái mới chưa được gọi tên, nơi, ta không trở nên thánh thiện, mà chỉ trở nên không còn giả vờ thánh thiện nữa, và lúc đó, ta hiểu “cô đơn” không phải là ngõ cụt, mà là cánh cửa: ai muốn đi sâu vào đời sống thiêng liêng, đều phải bước qua một mình. Ước gì ta dám chấp nhận “cô đơn”, để được một mình với Chúa. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.

PHÂN BIỆT BÀI GIẢNG LỄ VÀ BÀI DẠY LUÂN LÝ

Bài Giảng Lễ là bài diễn giải Lời Chúa, nhằm giúp các tín hữu sống ba nhân đức đối thần: Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến cách vững mạnh, để, khi đối mặt với bao sóng gió cuộc đời, họ vẫn một lòng trung tín, sống theo những gì Chúa dạy, hầu, đạt tới ơn cứu độ, mà Chúa đã hứa ban cho những ai hết lòng tin tưởng, cậy trông, tín thác vào Người; Bài dạy luân lý là bài giảng dạy cách đối nhân xử thế, nhằm giúp người nghe sống các giá trị nhân bản, luân lý, hầu, đạt tới một lối sống công bằng, văn minh, huynh đệ đại đồng.

Chẳng hạn, Bài Tin Mừng của Thứ Bảy Tuần 19 Thường Niên Năm Lẻ, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở các giá trị nhân bản thông thường, chúng ta sẽ suy niệm câu Lời Chúa: Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng, như sau: Trẻ em có đôi mắt trong sáng, nhìn sao nói vậy, đơn sơ hồn nhiên, trẻ em đánh nhau giận nhau, chỉ trong chốc lát sẽ làm hòa với nhau, chơi lại với nhau. Chúng ta hãy bắt chước trẻ em để được vào Nước Trời, chúng ta hãy tập cho mình có được cái nhìn “bất nhị”, “cái nhìn không phân biệt” như trẻ em, như các thiền sư, để, tâm hồn chúng ta được bình an, không còn tham sân si nữa, không còn tranh giành hơn thua nữa…

Tất cả những điều trên là tốt, nhưng, nếu một Bài Giảng Lễ chỉ dừng lại ở những điểm như thế, thì, cũng còn xa Nước Thiên Chúa lắm, như lời Đức Giêsu nói: thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Thu thuế và gái điếm xét về luân lý: điểm dưới trung bình, nhưng, sẽ được vào Nước Trời trước các Kinh Sư và những người Pharisêu, là những người đạt điểm mười về mặt luân lý.

Điều Đức Giêsu muốn chúng ta “trở nên giống trẻ thơ”, đó là tâm tình tin tưởng phó thác của người con thơ đối với Cha hiền, như Lời Tổng Nguyệnchúng con đã được phúc gọi Chúa là Cha, xin cho chúng con ngày càng thêm lòng hiếu thảo, hầu đáng được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Ơn cứu độ là do một tình yêu hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa đối với chúng ta, như Bài đọc 1 Kinh Sách, ngôn sứ Mikha cho thấy: Tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân, mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển, vì chính Người là Cứu Chúa của ta; Bài đọc 2 Kinh Sách, thánh Pasianô tự hỏi: Ai ví được như Ngài, lạy Thiên Chúa, Ngài tha thứ lỗi lầm?

Bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 15: Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, Chúa chính là gia nghiệp của chúng ta, không ai muốn để mất sản nghiệp của mình bao giờ, nếu gia sản của chúng ta là vườn cà phê, chúng ta sẽ lo chăm bón, giữ gìn, để đến mùa chúng ta thu hoạch, như trong Bài đọc 1 Thánh Lễ, dân nói với ông Giôsuê: Chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, và chúng tôi sẽ nghe lời Người.

Tung Hô Tin Mừng: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Những kẻ bé mọn là những trẻ nhỏ: như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, như mắt của con thơ hướng nhìn về Cha hiền, trông đợi mọi sự từ nơi Cha, hoàn toàn tin tưởng, tín thác nơi Cha.

Tóm lại, nếu dạy về luân lý, ta sẽ dạy: tập nên giống trẻ thơ, để đạt tới những giá trị nhân bản, để sống bình an, để bớt làm khổ mình, làm khổ người; còn nếu dạy về đức tin, ta sẽ dạy: tập tin tưởng, cậy trông, phó thác, dù có thể, ta chưa đạt được những điều khiến người khác ngưỡng mộ như các thiền sư hay người Pharisêu. Bản chất của ơn cứu độ là: ta không thể tự cứu mình, chỉ biết cộng tác và trông chờ vào sự giải cứu của một mình Chúa mà thôi.

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.

CHIÊM NIỆM GIỮA ĐỜI THƯỜNG

Khi nói tới “chiêm niệm”, ta nghĩ ngay tới các đan sĩ: xa lánh thế gian, tự nhốt mình trong bốn tường của các đan viện, để chỉ chuyên lo cầu nguyện mỗi ngày. Tuy nhiên, một bậc chiêm niệm thật sự không cần phải lánh đời, mà, chỉ cần sống đơn giản, trọn vẹn trong sự hiện diện của Chúa, và để cho cái nhìn của Chúa thấm qua từng ý nghĩ, lời nói, và hành động: mọi công việc hằng ngày như nấu cơm, rửa chén, chăm sóc gia đình, đều trở thành chiêm niệm.

Một khi, sống dưới ánh nhìn của Chúa, đã trở thành nền tảng của từng khoảnh khắc sống, thì, đời sống của ta sẽ dần được soi sáng bởi Thần Khí: ta không còn thấy mình là trung tâm của thế giới nữa, từ đó, tình yêu và lòng thương xót của ta sẽ tuôn chảy cách tự nhiên: như nước từ nguồn, như hương từ hoa; khi ấy, ta thấy rằng: mỗi người chúng ta thật sự không tách biệt nhau, tình thương của ta không xuất phát từ vị trí: ta là người tốt giúp kẻ khổ sở, và ta giúp không phải vì người kia đáng thương, mà vì, ta thấy sự khổ đau ấy đang xảy ra trong chính mình: không có sự chia hai giữa người giúp và người được giúp.

Khi ta nhận ra rằng: cuộc sống không vận hành theo ý mình, mà theo sự quan phòng của Chúa, từ đó, ta có cái nhìn khác về khổ đau: khổ đau trở thành sức mạnh cho trưởng thành, là nơi ươm mầm của Thần Khí, nếu thấm nhuần điều này, ta sẽ có khả năng chuyển hóa khổ đau thành ánh sáng nội tâm, không phải vì ta không còn đau, mà vì, ta biết cách bước vào nỗi đau với một tâm thế khác: ta không bị nó đẩy đi, cũng không dùng lý trí bóp nghẹt nó, từ đó, nỗi đau trở thành một người thầy nghiêm khắc, nhưng trung thực, chỉ cho ta thấy những điều, mà niềm vui chưa từng chỉ ra. Nếu ta là người chiêm niệm thật sự, thì, ta sẽ không bao giờ để nỗi khổ qua đi cách vô ích, nhưng, sẽ đào sâu vào nó, không phải để tự hành hạ mình, mà để, tìm ra điều chưa từng được thấy dưới ánh sáng thập giá, để rồi, ta nhìn người khác bằng đôi mắt xót thương, không phán xét, vì biết rằng: ai cũng đang khổ theo cách riêng: mỗi người đều đang gồng gánh một điều gì đó, và khi bước qua bóng tối, với một lòng tin cậy mến vững vàng, ta sẽ trở thành ánh sáng nhỏ, cho những ai đang loay hoay giữa cơn đau của họ.

Cái nhìn của người chiêm niệm: âm thầm lặng lẽ, thấm vào mọi hành động, không cần ai công nhận, nhưng, nơi nào ánh nhìn đó đi qua, nơi đó, có một thứ gì đó trong trẻo hơn, yên bình hơn, không phải do lời nói, mà do sự có mặt vô điều kiện của cái biết, cái thấy không có lập trường, không nói đúng hay sai, nhưng, ai ở gần cái nhìn ấy, sẽ tự khơi dậy được ánh sáng trong chính mình, không qua giảng dạy, mà, qua cảm nhận trực tiếp về một sự sống không bị điều kiện hóa, bởi vì, mọi lời nói không còn phát ra từ ham muốn chứng tỏ, mà, từ khoảng không của cái nhìn thấy rõ; mọi hành động không còn vì muốn được ai đánh giá cao, mà, vì nó là điều cần làm, và làm xong thì buông. Sự tự nhiên này chính là chiêm niệm.

Người chiêm niệm sống giữa thế gian, nhưng, không thuộc về thế gian, không còn dính mắc vào những gì thế gian thèm khát: không làm từ thiện để được vinh danh, không giảng dạy để được xem là thầy, không giúp đỡ người khác để được gán nhãn là người tốt, mà, làm vì thấy nên làm, và thấy rằng việc đó chính là cơ hội để phụng sự Thiên Chúa và phụng vụ tha nhân, chính trong thái độ đó, người chiêm niệm giữa đời trở thành người đang thắp đèn trong đêm, không phải để người khác thấy mình, nhưng, để người khác thấy được đường đi của chính họ, khi đó, không có người chiêm niệm, mà chỉ có: cái thấy, cái biết không ai sở hữu, đang sống qua một con người không còn bị cái tôi chi phối, mà, chỉ để một mình Chúa điều phối mà thôi. Tóm lại, “chiêm niệm” không phải là những buổi thinh lặng cầu nguyện lâu giờ, mà, chính là những giây phút tưởng chừng bình thường nhất: sống trong sự hiện diện của Chúa: khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi ăn, khi ngủ, khi làm việc, tất cả đều diễn ra cách tự nhiên: luôn dưới ánh nhìn của Chúa, luôn quy hướng về Chúa. 

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.