2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

CHIÊM NIỆM GIỮA ĐỜI THƯỜNG

Khi nói tới “chiêm niệm”, ta nghĩ ngay tới các đan sĩ: xa lánh thế gian, tự nhốt mình trong bốn tường của các đan viện, để chỉ chuyên lo cầu nguyện mỗi ngày. Tuy nhiên, một bậc chiêm niệm thật sự không cần phải lánh đời, mà, chỉ cần sống đơn giản, trọn vẹn trong sự hiện diện của Chúa, và để cho cái nhìn của Chúa thấm qua từng ý nghĩ, lời nói, và hành động: mọi công việc hằng ngày như nấu cơm, rửa chén, chăm sóc gia đình, đều trở thành chiêm niệm.

Một khi, sống dưới ánh nhìn của Chúa, đã trở thành nền tảng của từng khoảnh khắc sống, thì, đời sống của ta sẽ dần được soi sáng bởi Thần Khí: ta không còn thấy mình là trung tâm của thế giới nữa, từ đó, tình yêu và lòng thương xót của ta sẽ tuôn chảy cách tự nhiên: như nước từ nguồn, như hương từ hoa; khi ấy, ta thấy rằng: mỗi người chúng ta thật sự không tách biệt nhau, tình thương của ta không xuất phát từ vị trí: ta là người tốt giúp kẻ khổ sở, và ta giúp không phải vì người kia đáng thương, mà vì, ta thấy sự khổ đau ấy đang xảy ra trong chính mình: không có sự chia hai giữa người giúp và người được giúp.

Khi ta nhận ra rằng: cuộc sống không vận hành theo ý mình, mà theo sự quan phòng của Chúa, từ đó, ta có cái nhìn khác về khổ đau: khổ đau trở thành sức mạnh cho trưởng thành, là nơi ươm mầm của Thần Khí, nếu thấm nhuần điều này, ta sẽ có khả năng chuyển hóa khổ đau thành ánh sáng nội tâm, không phải vì ta không còn đau, mà vì, ta biết cách bước vào nỗi đau với một tâm thế khác: ta không bị nó đẩy đi, cũng không dùng lý trí bóp nghẹt nó, từ đó, nỗi đau trở thành một người thầy nghiêm khắc, nhưng trung thực, chỉ cho ta thấy những điều, mà niềm vui chưa từng chỉ ra. Nếu ta là người chiêm niệm thật sự, thì, ta sẽ không bao giờ để nỗi khổ qua đi cách vô ích, nhưng, sẽ đào sâu vào nó, không phải để tự hành hạ mình, mà để, tìm ra điều chưa từng được thấy dưới ánh sáng thập giá, để rồi, ta nhìn người khác bằng đôi mắt xót thương, không phán xét, vì biết rằng: ai cũng đang khổ theo cách riêng: mỗi người đều đang gồng gánh một điều gì đó, và khi bước qua bóng tối, với một lòng tin cậy mến vững vàng, ta sẽ trở thành ánh sáng nhỏ, cho những ai đang loay hoay giữa cơn đau của họ.

Cái nhìn của người chiêm niệm: âm thầm lặng lẽ, thấm vào mọi hành động, không cần ai công nhận, nhưng, nơi nào ánh nhìn đó đi qua, nơi đó, có một thứ gì đó trong trẻo hơn, yên bình hơn, không phải do lời nói, mà do sự có mặt vô điều kiện của cái biết, cái thấy không có lập trường, không nói đúng hay sai, nhưng, ai ở gần cái nhìn ấy, sẽ tự khơi dậy được ánh sáng trong chính mình, không qua giảng dạy, mà, qua cảm nhận trực tiếp về một sự sống không bị điều kiện hóa, bởi vì, mọi lời nói không còn phát ra từ ham muốn chứng tỏ, mà, từ khoảng không của cái nhìn thấy rõ; mọi hành động không còn vì muốn được ai đánh giá cao, mà, vì nó là điều cần làm, và làm xong thì buông. Sự tự nhiên này chính là chiêm niệm.

Người chiêm niệm sống giữa thế gian, nhưng, không thuộc về thế gian, không còn dính mắc vào những gì thế gian thèm khát: không làm từ thiện để được vinh danh, không giảng dạy để được xem là thầy, không giúp đỡ người khác để được gán nhãn là người tốt, mà, làm vì thấy nên làm, và thấy rằng việc đó chính là cơ hội để phụng sự Thiên Chúa và phụng vụ tha nhân, chính trong thái độ đó, người chiêm niệm giữa đời trở thành người đang thắp đèn trong đêm, không phải để người khác thấy mình, nhưng, để người khác thấy được đường đi của chính họ, khi đó, không có người chiêm niệm, mà chỉ có: cái thấy, cái biết không ai sở hữu, đang sống qua một con người không còn bị cái tôi chi phối, mà, chỉ để một mình Chúa điều phối mà thôi. Tóm lại, “chiêm niệm” không phải là những buổi thinh lặng cầu nguyện lâu giờ, mà, chính là những giây phút tưởng chừng bình thường nhất: sống trong sự hiện diện của Chúa: khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi ăn, khi ngủ, khi làm việc, tất cả đều diễn ra cách tự nhiên: luôn dưới ánh nhìn của Chúa, luôn quy hướng về Chúa. 

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.

CHIẾC THANG NỐI TẬN TRỜI

Đọc Cựu Ước, tôi thấy Chúa ban cho Tổ phụ Giacób có khả năng lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa ở mức độ cao.

Chẳng hạn, trong một giấc mơ đêm, trên đường xa đến nhà cậu ruột là ông Laban, nhằm vâng lời cha là Issaác, cưới con của cậu làm vợ mình, Tổ phụ Giacób nhìn thấy chiếc thang cao tận trời. Trên đỉnh thang, có Thiên Chúa ngự. Tổ phụ cũng nhìn thấy đông đảo các thiên thần lên lên xuống xuống trên thang.

Từ một giấc mơ, Tổ phụ đã không xem đó chỉ là giấc mơ. Tổ phụ nhìn xuyên thấu điều tưởng chừng chỉ là giấc mơ, để khám phá tình yêu của Thiên Chúa, để nhận ra Đức Chúa của cha ông mình luôn ở cùng mình.

Tổ phụ cầu nguyện cùng Thiên Chúa ngay sau “biến cố” giấc mơ: “Nếu Thiên Chúa ở với tôi và giữ gìn tôi trong chuyến đi tôi đang thực hiện, nếu Người ban cho tôi bánh ăn áo mặc, nếu tôi được trở về nhà cha tôi bình an, thì Đức Chúa sẽ là Thiên Chúa của tôi” (St 29, 20-21).

Không chỉ ấp ủ lòng biết ơn Thiên Chúa, Tổ phụ Giacób còn lập bàn thờ để tỏ bày lòng biết ơn ấy. Nhờ khả năng lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa ở mức độ cao, từ giấc mơ đẹp, Tổ phụ biết rằng, trên dặm trường xa, Chúa vẫn theo mình. Chúa không ngừng đưa bàn tay phù trợ bao bộc, đỡ nâng, che chở.

Nhờ khả năng lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa ở mức độ cao, Tổ phụ Giacób cảm nhận bình an của Chúa suốt hành trình đời mình. Tổ phụ luôn biết ơn Chúa, luôn trung thành vâng nghe thánh ý Chúa.

Hôm nay:

Khi Chúa nói cho cả hai chị em Matta và Maria biết,“Chỉ có một sự cần mà thôi”, đó là hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy uống lấy từng lời Chúa dạy, hãy nỗ lực làm cho Lời Chúa chi phối lẽ sống, hãy để cho Lời Chúa điều khiển mọi hành vi, mọi lời nói, mọi biểu cảm của mình.  

Là Chúa muốn nhấn mạnh:

Chúng ta hãy bám lấy, hãy theo sát Lời Chúa trong suốt hành trình cuộc sống của mình. Cuộc sống đó sẽ là những nụ cười hay tiếng khóc, là lúc thăng hay lúc trầm, lúc khỏe mạnh hay yếu đau, lúc thành công hay thất bại, lúc bị phản bội hay được đón nhận, lúc nhận ra sự yêu đương hay lòng thù hận…

Hãy luôn hiểu rằng, Lời Chúa luôn vang lên mọi nơi mọi lúc, mọi hoàn cảnh, mọi cơ hội, dù đó là thời khắc tĩnh mịch y như hình ảnh chị Maria thanh thản, an nhàn, thoải mái, vô tư, hạnh phúc ngồi bên chân Chúa...

Nhưng Lời Chúa vẫn vang vọng không ngừng giữa những tất bật, những ồn ào đầy bôn ba chật vật chẳng khác chi hình ảnh chị Matta bộn bề, khổ sở, trăm vất vả, ngàn lo âu...

Hãy khắc sâu tâm niệm này: Chúa không ngừng ở bên ta. Chúa vẫn luôn lên tiếng suốt dọc dài cuộc sống của ta trong mọi khoảnh khắc, mọi thời gian. Hiện diện của Chúa là hiện diện đầy. Chúa hiện diện bền bỉ, liên lỉ.

Như vậy:

- Ta lắng nghe Lời Chúa nói là lắng nghe qua từng thời gian, từng biến cố, từng hoàn cảnh của mình, hay của bất cứ ai, bất cứ nơi nào mà ta có mặt hay tham dự vào. Ta xin Chúa hãy dạy ta, hãy làm cho ta được sống theo thánh ý Chúa, sống theo Lời của Chúa.

Không thể lắng nghe và thấu hiểu tiếng Chúa ở mức độ cao như Tổ phụ Giacob, thì ít ra, ta cần tập cho mình thói quen lắng nghe Lời Chúa nói không trừ bất cứ thời gian nào, hoàn cảnh nào, biến cố nào.

- Thái độ của hai chị em Mattha, Maria và lời đáp“chỉ có một sự cần mà thôi” của Chúa Giêu, còn dạy ta hãy quân bình đời sống thường nhật với trách nhiệm Kitô hữu.

Sự quân bình ấy giúp ta sống ơn gọi nên thánh giữa đời. Một mặt, ta không thể không làm lụng vất vả tạo ra cơm ăn áo mặc hằng ngày. Nhưng cũng không vì thế, biến mình thành kẻ suốt ngày chỉ “cơm-áo-gạo-tiền”, quên mất Thiên Chúa, quên mất nghĩa vụ làm người con thảo hiếu với Cha trên trời. Sự sống thân xác không bao giờ là lý do cho phép ta vịn vào ngụy biện cho lối sống nguội đạo, lạnh nhạt đức tin.

Mặt khác, ta cũng không được nại vào sự cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa, dạy hay học giáo lý... mà quyên bổn phận thánh hóa lao nhọc khi phải sống vất vả giữa đời.

Tập lắng nghe tiếng Chúa trong cuộc sống chính là “chiếc thang Giacób” nối lòng ta với tình yêu bền chặt của Chúa. Nhờ đó, ta có thể gặp và kết hiệp nên một cùng Chúa.

Cần lắm việc chúng ta bắc một “chiếc thang” nối lòng mình đến lòng Thiên Chúa, để mãi trung thành trong đức thờ phượng, đức tin, đức cậy và lòng mến, dù cuộc sống có biến thiên đến mức nào đi nữa.

Hãy như Tổ phụ Giacób đã tạ ơn Chúa. Chúng ta cũng sẽ lập bàn thờ là chính tâm hồn mình, để thờ phượng Chúa.

Có Chúa ngự nơi bàn thờ tâm hồn, chắc chắn ta sẽ thấu biết Lời Chúa phán xuyên qua chuỗi ngày sống của ta.

Có Chúa làm khởi điểm và đích đến, có Lời Chúa làm điểm tựa cho sự sống là có tất cả lẽ sống, tình yêu sống, sự bình an lớn lao của tâm hồn, dù đó là lúc êm ả, lắng đọng hay chao đảo, mất phương hướng...

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

TẠI SAO THINH LẶNG LẠI CẦN THIẾT?

Thánh Biển Đức dạy các môn sinh của mình: giữ thinh lặng, ngay cả, đối với những điều lành thánh. Một lời nói đúng cũng thành sai, bởi vì, ngay khi ta dùng lời để nói về sự thật, nó đã bị bóp méo; dù ta có nói đúng về Thiên Chúa, thì, cũng giống như ngón tay vẽ trên mặt đại dương, sự thật không nằm trong ngôn từ, Thiên Chúa không nằm trong các định nghĩa.

Có một nghịch lý: người càng hiểu sâu, thì càng nói ít, còn, người càng biết ít, thì càng nói nhiều. Khôn ngoan thật sự không nằm ở lời nói, nhưng ở thinh lặng, nơi không còn gì để chứng minh, không còn gì để khoe khoang. Thinh lặng không phải là yếu đuối, mà là, dấu hiệu của sự trưởng thành: khi ta còn nhiều sợ hãi, ta nói để bảo vệ mình; khi ta còn nhiều mong cầu, ta nói để được người khác chấp nhận; khi ta còn nhiều lo âu, ta nói để khỏa lấp khoảng trống; nhưng, khi đã đủ sâu, ta bắt đầu thấy: không phải điều gì biết cũng cần nói, không phải điều gì tốt cũng cần chia sẻ, không phải sự thật nào cũng cần lời để thể hiện. Thinh lặng là không gian cho sự thật được hiển lộ: giống như mặt nước phẳng lặng, mới có thể phản chiếu bầu trời; tâm hồn tĩnh lặng, mới phản ánh những điều sâu xa.

 Lời nói chỉ quý, khi nó được sinh ra từ sự tĩnh lặng, chứ không phải, từ sự bất an. Có người chọn im lặng vì sợ: sợ bị đánh giá, sợ bị hiểu lầm, sợ bị bỏ rơi. Có người nói rất nhiều cũng vì sợ: sợ bị lãng quên, sợ bị coi thường, sợ mất quyền lực. Thinh lặng không phải là trạng thái trống rỗng, mà là, một cánh cửa mở vào một thế giới sâu nhất bên trong ta: khi ta thinh lặng, ta không còn bận rộn để nói, cũng không còn bị cuốn theo phản ứng, lúc đó, ta mới đủ tỉnh táo để nhận ra mọi chuyện đang diễn ra: ta sẽ nhận ra nỗi giận vừa rồi, hóa ra không đến từ người kia, mà, từ một tổn thương cũ; hóa ra sự ghen tỵ vừa thoáng qua, là vì, mình chưa nhận ra các ân huệ mà mình nhận được; hóa ra tâm hồn ta vốn rất đẹp, nhưng, từ lâu đã bị phủ bởi quá nhiều tiếng ồn.

Có người ít nói, lâu lâu mới nói một câu, không triết lý, không giảng giải, nhưng, sự tĩnh lặng nơi họ sâu hơn mọi điều được đọc trong sách vở. Có người thông minh, nói giỏi, biết nhiều, tư duy sắc bén, nhưng, mỗi lần trò chuyện với họ, ta lại thấy áp lực, không phải vì họ không tốt, mà vì, họ quá muốn đúng: luôn cần thắng lý, luôn phải giải thích, luôn cố để người khác hiểu mình, câu chuyện nào cũng dài, ý nào cũng phải bảo vệ, và thế là, đối thoại biến thành tranh luận gay gắt; Có người bước vào phòng không nói gì, chỉ mỉm cười nhẹ và không khí như dịu lại. Có người bước vào, ngay lập tức, khiến bầu khí trở nên căng thẳng, sự khác biệt nằm ở nội tâm, người càng bất an, thì càng phải lên tiếng; người càng tĩnh lặng, thì càng không cần thể hiện; Có người bị trách mắng, cúi xuống không nói gì, nhưng thật ra, đang co mình lại vì sợ hãi, đang im lặng vì không biết phải phản ứng sao. Có người thinh lặng, vì đã thấy rõ mọi điều, không còn tức giận, không còn kháng cự, chỉ đơn giản, thấy và buông. Vì vậy, ta đừng nhầm lẫn giữa hai sự thinh lặng: một bên là co rút, một bên là thấu suốt; một bên là sợ, một bên là hiểu; một bên là đè nén, một bên là buông lơi.

Người chưa thật sự thinh lặng, bên trong sẽ vẫn còn tranh cãi, vẫn còn diễn tập từng câu đáp trả, như đang chống lại cả thế giới. Người thật sự thinh lặng, thì, không còn tranh với ai nữa, không cần phải thắng trong bất kỳ cuộc trò chuyện nào, không cần được khen lao, chỉ cần sống thật với lòng mình. Ước gì ta trở nên người thật sự tĩnh lặng, để khi ai đến gần ta, họ đều cảm thấy bình yên, không phải vì ta nói đạo lý, mà vì, ta lặng mà thấu: không ồn ào nhưng sâu, không sắc bén nhưng sáng, không cháy rực nhưng nóng nhẹ, đủ để họ được ấm lòng. Ước gì ta đủ can đảm để chọn không nói, không biện minh, không tô vẽ, nhưng, hiện diện đơn sơ, chân thật, trần trụi trước Nhan Thánh Chúa, đủ tĩnh lặng, đủ khiêm cung để nghe được tiếng Chúa nói trong lòng ta. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.

BẢN CHẤT CỦA CHIÊM NIỆM

Đức Giêsu nói: không trở nên giống trẻ thơ, thì, sẽ không được vào Nước Trời (x. Mt 18,3). Trẻ thơ là bậc thầy về chiêm niệm, bởi vì, trẻ thơ nhìn mọi người, mọi việc bằng đôi mắt chiêm niệm, trẻ thơ nhìn như Chúa nhìn. Khi lớn lên, ta được dạy về các phương pháp cầu nguyện,  chiêm niệm, và thế là, ta bắt đầu bước vào cầu nguyện,  chiêm niệm với một “cái tôi” đầy tinh vi: từ người bận rộn, sang, người trầm tĩnh; từ kẻ mưu cầu vật chất, sang, người mong cầu đạo hạnh; từ một “cái tôi” ồn ào, sang, một “cái tôi” rất tĩnh lặng, và cũng chính vì, “cái tôi” quá im lặng, nên, ta không còn nhận ra sự có mặt của nó nữa.

Trong đời sống thế tục, “cái tôi” dễ bị phát hiện, nó thể hiện qua tranh đấu, giành giật, hơn thua, nhưng, khi ta bước vào cầu nguyện, và chiêm niệm, nó khoác lên mình một lớp áo mới: người thuần thiêng, nhà thần bí, bậc thầy chiêm niệm... Ta bắt đầu quan sát những người xung quanh, và trong vô thức, ta so sánh mình với họ: họ còn bị cảm xúc chi phối, còn nhiều vọng động, còn nhiều dính mắc, còn, ta đã vững vàng, đã tĩnh lặng, đã buông bỏ… Cái tôi thiêng liêng chính là tầng sâu nhất, kín đáo nhất, khó tháo gỡ nhất, bởi vì, nó không chạy theo tiền bạc, địa vị, lời khen, nhưng, chạy theo các ngụy từ: khó nghèo, khiêm nhường, bỏ mình: ta không còn muốn có nhiều, mà, muốn trở thành ít; không còn muốn vượt lên người khác, mà, muốn không là gì cả. Tuy nhiên, ta vẫn ngầm thấy mình đang không là gì cả, và đó là nghịch lý, một nghịch lý, mà nếu không có cái nhìn chiêm niệm thật sâu, ta cứ tưởng mình đã thoát, nhưng, thật ra, ta vẫn đang bị giam giữ trong một hình thức khác của sự sở hữu. 

Ta từ bỏ sở hữu vật chất, nhưng, lại dính mắc vào những sở hữu thiêng liêng: sở hữu sự tĩnh lặng, ánh mắt từ bi, lời nói từ tốn, bước chân từ từ… Tất cả những điều đó, nếu, không xuất phát từ Chúa, mà, từ chính mình, thì, đó vẫn là sở hữu, vẫn là bám víu, vẫn là bản ngã, một bản ngã được tẩy trắng, được bao bọc bằng những khái niệm cao quý, và chính vì nó được khoác áo cao quý, nên, ta càng không dám nghi ngờ, và ta bắt đầu bảo vệ hình ảnh đó. Chiêm niệm chính là đời sống đang diễn ra, không màu danh, không mùi lợi: khiêm nhường mà còn biết mình khiêm nhường, thì chưa phải khiêm nhường thật; chiêm niệm mà còn biết mình đang chiêm niệm, thì chưa phải chiêm niệm thật, mà là, đang chiêm ngắm cái tôi vĩ đại của mình.

Chiêm niệm thật, đó là “Cái nhìn của Chúa”: cái nhìn không người nhìn, cái biết không người biết, sự hiện diện không người sở hữu, nghĩa là, chỉ có một mình Chúa nhìn, một mình Chúa biết, một mình Chúa hiện diện, phần chúng ta, thì thông dự vào trong cái nhìn, cái biết, trong sự hiện diện đầy tràn của Chúa, như giọt sương, hạt muối bé nhỏ hòa vào: làm một với đại dương. Tuy nhiên, chúng ta là một nhân vị bất khả tương nhượng, được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng cách đặc biệt, độc nhất vô nhị, chính vì thế, như trăm vạn con sông đổ ra biển, hòa chung một vị mặn, nhưng, nếu có máy móc tinh vi, ta vẫn có thể phân biệt được những đặc tính khác biệt: độ mặn, độ chua, độ phèn, độ ngọt của từng con sông một.

Tóm lại, nếu ta có được cái nhìn của trẻ thơ, không đòi hỏi hoàn cảnh phải khác đi, thì, đó chính là chiêm niệm, một loại chiêm niệm không tên, không khuôn mẫu, không kỹ thuật, mà chỉ là: tâm thái sẵn sàng đón nhận tất cả những gì xảy đến, trong thánh ý Chúa. Cái tôi thiêng liêng là lớp vỏ cuối cùng, mà bản ngã vẫn còn có thể trú ẩn, nếu ta không thấy, thì, càng đi sâu, ta càng lạc xa hơn, nếu ta bám vào, thì, nó sẽ trở thành xiềng xích; nếu biết dừng, thì, mắt ta sẽ rộng mở: ta sẽ có thể nhìn mọi người, mọi việc như chính Chúa nhìn, để, khi bất cứ sự việc gì xảy đến, chúng ta cũng có thể nhìn như Chúa nhìn, nghĩ như Chúa nghĩ, nói như Chúa nói, làm như Chúa làm, đó chính là chiêm niệm, điều mà thánh Phaolô đã nói: Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là, Đức Kitô sống trong tôi (x. Gl 2,20). Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.

BẢN CHẤT CỦA HAM MUỐN

Đức Giêsu dạy: Phải giữ mình khỏi mọi thứ ham muốn (x. Lc 12,15), “mọi thứ”, chứ không phải: chỉ một số thứ. Nếu ta không kính sợ Chúa, thì, ta sẽ sợ hãi mọi thứ, còn, khi đã kính sợ Chúa rồi, thì, ta sẽ không còn sợ hãi bất cứ điều gì khác nữa. Cũng vậy, nếu ta không ham thích làm theo ý Chúa, thì ta sẽ bị mọi thứ ham muốn thống trị, còn, khi đã ham thích thực thi ý Chúa rồi, thì, ta sẽ không còn ham muốn bất cứ thứ gì khác nữa. Ước gì chúng ta biết bắt chước Đức Giêsu, để ngày càng, trở nên đồng hình đồng dạng với Người, Đấng không ham muốn bất cứ thứ gì khác, ngoài việc, chỉ làm theo thánh ý Chúa Cha mà thôi. 

Ham muốn là bất kỳ năng lượng nào sinh ra từ sự “muốn”: muốn có, muốn hơn, muốn khác, muốn vô tận… khi ta chống lại nó ở chỗ này, nó sẽ lẩn đi, và xuất hiện ở một chỗ khác: ta từ bỏ ham muốn xác thịt, nó chuyển thành ham muốn được ca ngợi vì sống khiết tịnh; ta buông bỏ của cải vật chất, nó xuất hiện trong ham muốn được xem là người sống khó nghèo; ta rời xa danh vọng, nó lén lút chui vào trong ham muốn được người khác xem là khiêm nhường, xóa mình. Ham muốn vận hành theo ba nhịp: (1) cảm giác “thiếu”,  (2) phải lấp đầy, và (3) tiếp tục thấy “thiếu”, như một vòng tròn trói buộc, trói ta vào một hình trình không điểm kết: sau khi lấp đầy, ta tưởng như đã thoát, nhưng không, một cơn “thiếu” khác lại sinh ra, một ham muốn khác lại lên tiếng, cái vừa có bỗng hóa nhàm chán, cái vừa đạt bỗng trở thành cũ kỹ, niềm vui vừa chạm bỗng vụt tan biến, và ta lại bắt đầu muốn thêm, muốn khác, muốn mới.

Ham muốn liên hệ mật thiết với cái tôi: Ta tưởng ham muốn là vấn đề, nhưng không, ham muốn chỉ là biểu hiện bên ngoài, còn gốc rễ sâu nhất, chính là cái tôi luôn thấy mình thiếu thốn, vì vậy, không lạ gì, khi người càng có cái tôi mạnh, thì, ham muốn càng lớn; càng thấy mình đặc biệt, thì, càng muốn nhiều hơn để nuôi dưỡng sự đặc biệt đó. Ham muốn không chỉ đơn thuần là muốn “có”, mà, nó còn mong trở thành muốn “là”, muốn là ai đó, muốn trở thành một phiên bản khác, ta càng muốn là càng mất đi sự hiện diện đích thực trong phút giây này: ta không còn sống, mà, đang phát thảo; không còn hiện hữu, mà, đang phấn đấu để theo đuổi một mô hình bản thân trong đầu, vì thế, cái tôi và ham muốn là hai mặt của cùng một tiến trình, ham muốn nuôi cái tôi, và cái tôi sinh ra ham muốn mới.

Sai lầm phổ biến nhất trên hành trình thiêng liêng là: muốn thủ tiêu ham muốn, và thế là, ta bắt đầu chiến đấu, chống lại những ham muốn, đè nén những cảm xúc được cho là không thuần khiết, càng nén nó dưới lớp ý thức, nó càng âm ỉ cháy trong chiều sâu vô thức, bởi vì, ham muốn không thể bị tiêu diệt như một kẻ thù, nó không phải là kẻ thù, nó là một hiện tượng, sinh ra khi đủ điều kiện, và tan đi khi điều kiện ấy mất, điều khiến ham muốn mạnh lên không phải vì nó có quyền lực, mà vì, ta không chịu nhận diện nó đúng như nó là: một ham muốn nổi lên, ta đừng chạy theo, cũng đừng xua đuổi, chỉ nhìn, để nó bốc lên, chuyển động, và tan vào hư không, khi đó, ham muốn trở nên trong suốt, nó không còn là một cơn thèm muốn nguy hiểm, mà chỉ là, một dòng năng lượng đang đi sai hướng, và khi, ta không bị cuốn vào, ham muốn sẽ không còn đất sống, như mặt trăng, không cần xua mây, chỉ cần đứng yên, mây tan, ánh sáng sẽ tự lộ.

Sống không ham muốn, không phải là một đời sống khô cằn và vô cảm, mà là, thoát khỏi sự điều khiển của mọi ham muốn, một cuộc sống không xuất phát từ “thiếu”, nhưng, từ chính sự “đủ đầy”, xuất phát từ lòng tin tưởng tuyệt đối vào Đấng luôn yêu thương, chăm sóc, quan tâm đến những thụ tạo bé nhỏ nhất như chim sẻ, hoa huệ ngoài đồng, và cũng chính từ sự “đủ đầy” đó, sự sống bắt đầu hiện ra trong trạng thái nguyên sơ nhất, không bị nhuộm màu bởi cái tôi ham muốn, không bị bóp méo bởi kỳ vọng, không bị kéo lê bởi sợ hãi, bởi vì, mọi ham muốn đã được thuần hóa, đã điều hướng theo ý muốn của Đấng làm chủ mọi loài.

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB