2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

BỐN CẠM BẪY KHI CẦU NGUYỆN

Cầu nguyện Kitô giáo không nhằm tìm kiếm cảm giác an lạc thư thái, nhưng là, tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Bất cứ phương pháp cầu nguyện nào không quy hướng về Đức Kitô, và không nhằm giúp xây dựng tương quan cá vị với Đức Kitô, thì, đó không phải là cách cầu nguyện của Kitô giáo. Hiểu đúng về cầu nguyện là một chuyện, nhưng, thực hành đúng lại là một chuyện khác. Nhiều người đã bỏ cầu nguyện, vì thấy không hiệu quả; Số khác thì bị lún sâu vào ảo tưởng do chính tâm trí mình tạo ra. Vì thế, trước khi thực hành cầu nguyện, chúng ta cần phải hiểu về những cạm bẫy, mà việc cầu nguyện có thể mang lại.

Như đã nói, cầu nguyện Kitô là nhằm tìm ý Chúa, mà, thánh ý Chúa lại rất nhiệm mầu, vì thế, chúng ta cần phải có người đồng hành tốt, để giúp chúng ta khách quan hóa chính mình, và tránh được những cạm bẫy do chính mình hay Satan bày ra. Ở cấp độ thấpngười đồng hành tốt sẽ hướng dẫn, chỉnh sửa, và vạch trần những cạm bẫy, để giúp ta đi đúng hướng; Ở cấp độ cao, người đồng hành tốt sẽ là người chứng kiến một cuộc tình, là khán giả ngồi coi “phim ngôn tình”, mà diễn viên chính là Chúa Thánh Thần và người đang thực hành cầu nguyện, họ chỉ hiện diện ở đó, bao lâu, Chúa thấy là cần thiết, để giúp ta khỏi chủ quan.

Cạm bẫy thứ nhất: muốn dừng suy nghĩ. Thiên Chúa tạo dựng bộ não của chúng ta với những dòng suy nghĩ liên tục, kể cả khi ta ngủ, vì thế, khi cầu nguyện, ta thường hay lo ra chia trí là vì lý do này. Nếu ta dừng nó cách cưỡng ép, nó sẽ phải phản kháng. Cầu nguyện không phải là một cuộc chiến chống lại suy nghĩ, nhưng là, cứ để cho những suy nghĩ vận hành cách tự nhiên, và nhiệm vụ của ta là khơi dòng để chúng chảy xuôi về phía Chúa.

Cạm bẫy thứ hai: muốn tìm một cảm giác đặc biệt. Nhiều người khi cầu nguyện mong muốn đạt được một cảm giác nhẹ nhàng, an lạc thư thái, hay một sự chuyển hóa nội tâm nào đó. Cầu nguyện không phải là đi tìm một trạng thái đặc biệt, mà là, rèn luyện khả năng sống trong sự hiện diện của Chúa. Cầu nguyện không phải là làm cho bầu trời quang đãng, mà là nhận ra rằng: dù có bất kỳ cơn bão nào đi qua, thì bầu trời vẫn luôn ở đó, vẫn luôn rộng mở, Chúa vẫn luôn hiện diện ở đó, trong những nghịch cảnh đau thương của chúng ta.

Cạm bẫy thứ ba: muốn trốn chạy cuộc sống. Nhiều người chỉ cảm thấy bình an, thư thái khi cầu nguyện, nhưng, khi bước ra khỏi trạng thái cầu nguyện, họ lại bị cuốn vào những lo âu, căng thẳng và những thói quen cũ. Cầu nguyện đúng cách là xây dựng được mối tương quan cá vị với Đức Kitô, và có khả năng mang Đức Kitô vào trong mọi hoạt động của chúng ta: khi ta ăn, khi ta làm việc, khi ta giao tiếp với người khác, nếu ta làm và hành xử như chính Đức Kitô đang thực hiện, thì, ngay cả khi, ta không đang ngồi cầu nguyện, thì đó cũng chính là cầu nguyện rồi.

Cạm bẫy thứ tư: muốn kết quả ngay lập tức. Nhiều người khi cầu nguyện mong đợi rằng: sau một thời gian ngắn, họ sẽ có thể thấy một sự thay đổi rõ rệt, tâm trí có thể trở nên sáng suốt hơn, cảm xúc trở nên ổn định hơn, cuộc sống trở nên nhẹ nhàng hơn, nhưng, thực tế là, cầu nguyện không mang lại kết quả ngay lập tức, nó là một tiến trình dài, đòi hỏi sự kiên trì: có những ngày, ta thấy cầu nguyện thật dễ dàng, nhưng, cũng có những ngày ta cảm thấy cực kỳ khó khăn; có những lúc ta sẽ cảm thấy bình an, nhưng, có những lúc ta thấy đầy những xung đột nội tâm. Điều quan trọng là không bám víu vào bất kỳ trạng thái nào, mà chỉ đơn giản là, tiếp tục thực hành, giống như một dòng sông, tâm hồn ta có lúc sẽ an bình, có lúc sẽ cuộn sóng, và nhiệm vụ của ta không phải là thay đổi dòng sông đó, mà là học cách quan sát nó, sống với nó, và điều hướng nó theo đúng ý Chúa.

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

BA CẤP ĐỘ NHẬN BIẾT CHÚA

Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô (Ga 17,3). Chúa mặc khải những mầu nhiệm cao cả cho những kẻ bé mọn. Không phải xác thịt hay máu huyết, nhưng là, chính Chúa mới mặc khải cho ta biết về Chúa. Vì thế, nếu chúng ta cậy vào sức mình, để rồi tự mãn với những hiểu biết của mình về Chúa, thì chúng ta đang tự ru ngủ mình trong những sai lầm giả dối. 

Cấp độ 1 – nhận biết từ ngoài: Ta vay mượn từ những gì người khác đã nói, đã viết, đã dạy về Chúa. Những hiểu biết này không đến từ kinh nghiệm sống của ta, mà chỉ đến từ việc ghi nhớ, sao chép và lặp lại. Ta biết rất nhiều điều về Giáo Lý, Thánh Kinh, nhưng chưa từng sống. Ta luôn có nhu cầu chứng minh mình đúng, bằng cách bám vào các thần học gia có danh tiếng và những trích dẫn từ những cuốn sách thần học nổi tiếng. Ta nói được những điều sâu sắc, được người khác ngưỡng mộ, nên, ta cứ tưởng: mình đã đạt đến một trình độ thiêng liêng, thần bí nào đó, nhưng thật ra, ta chỉ đang lạc lối trong mê cung của ngôn ngữ, của kiến thức mà thôi. Nếu ta chỉ dừng lại ở sự vay mượn này, thì những hiểu biết đó sẽ trở thành nhà tù: giam hãm ta trong thói đạo đức giả, vì tưởng mình đã thánh thiện.

Cấp độ 2 – nhận biết từ trong: Ta không còn tích lũy kiến thức từ bên ngoài, mà là từ nơi nội tâm của mình, ở đây, ta không còn dễ dãi với chính mình, ta bắt đầu xét lại những động cơ ẩn sau hành động. Đây là ánh sáng đầu tiên, dù còn yếu ớt, nhưng, đã bắt đầu chiếu dọi vào trong những gốc khuất của tâm hồn ta, khơi dậy trong ta một loại trung thực nội tâm, và chính sự trung thực này là cái mầm đầu tiên của tự do: những điều ta từng nghe, từng đọc, giờ đây, đã được chứng nghiệm bằng chính trải nghiệm sâu sắc của đời sống thực. Ta không còn vội vã chia sẻ điều mình biết, không phải vì ích kỷ, nhưng, vì ta đã hiểu: có những thứ không thể diễn đạt bằng lời nói. Nhận biết Chúa từ nơi bản thân hèn yếu mỏng dòn của mình là ngọn lửa âm ỉ cháy từ bên trong, đủ sức thiêu rụi mớ giả tạo còn sót lại trong ta, đây là lúc mà, lời nói và đời sống của ta bắt đầu hòa thành một, nơi không còn khoảng cách giữa điều ta biết và điều ta sống, và chính điều này khiến ta trở nên đáng tin, dù ta chẳng cần cố gắng để thuyết phục ai.

Cấp độ 3 – nhận biết từ Chúa: Ta không còn coi bản thân là trung tâm, ta có thể im lặng nghe một cuộc tranh luận thần học mà không cần chen vào, không phải vì ta không có gì để nói, mà vì ta đã thấy rõ điều gì đang vận hành bên dưới. Ta không còn nhu cầu phô diễn những hiểu biết của mình. Ta không thuyết phục ai, nhưng, sự hiện diện của ta đã soi sáng một cách không lời. Ta không còn bắt người khác phải nghe mình, nếu có nói, lời của ta sẽ mang một sự chính xác nhẹ nhàng, không phải kiểu nói hay, mà là nói đúng vào cốt lõi đang bị che lấp. Chính tại nơi đây, mọi khái niệm đều tan rã, mọi nỗ lực diễn giải, mô tả hay phân tích đều trở nên thừa thãi, bởi vì, Thiên Chúa không cần được đặt tên mới hiện hữu. Nhận biết từ Chúa giống như ánh sáng mặt trời, nó không lựa chọn chiếu vào đâu, không cần được ai công nhận là đang chiếu sáng, nó chỉ đơn giản có mặt và chính sự có mặt ấy là ánh sáng.

Khao khát học hỏi, tìm hiểu, để ngày càng nhận biết Chúa hơn, đó là một việc làm tốt, rất đáng hoan nghênh. Mỗi cấp độ nhận biết đều có lý do để tồn tại, vấn đề là, chúng ta phải ý thức rằng: tự sức mình, chúng ta không thể nhận biết Thiên Chúa, tất cả đều do bởi tình yêu và ân sủng Chúa, việc của chúng ta là khiêm nhường: dám buông bỏ những hiểu biết từng làm chỗ dựa cho ta, và can đảm từ bỏ tham vọng trở nên thông thái để thống trị người khác. Những hiểu biết về Chúa không phải để phô diễn, không phải để tranh luận hơn thua. Ước gì ta thật sự nhận biết Chúa, để ta sống đơn giản hơn, chân thật hơn, ít lý luận hơn, và ta sẽ sống trong sự hiện diện của Chúa nhiều hơn, rời xa khỏi những ồn ào của những hơn thua về kiến thức, mà bước vào sự tĩnh lặng của sự nhận biết chiêm niệm sâu xa. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

TẠI SAO LẠI LÀ NGƯỜI LÀM VƯỜN?

Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: Thưa ông, nếu ông đã đem Ngài đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Ngài ở đâu, tôi sẽ đem Ngài về” (Ga 20:15)

Trong tường thuật của thánh Máccô về sự phục sinh của Chúa Giêsu, Maria Mađalêna và những người phụ nữ khác đi cùng bà đã “sợ hãi” và “run lẩy bẩy, hết hồn hết vía” khi nghe thông báo từ vị khách từ thiên đàng bên trong ngôi mộ trống rỗng của Chúa Giêsu (Mc 16:8). Trong tường thuật của thánh Mátthêu, Maria và những người phụ nữ “tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng” (Mt 28:8); trong tường thuật của thánh Luca, họ chỉ đơn giản là “sợ hãi, cúi gằm mặt xuống đất” (Lc 24:5). Không có bản Tin Mừng nào trong ba sách Tin Mừng nhất lãm đề cập đến việc Maria Mađalêna nhầm lẫn một thiên thần - chưa nói đến chính Chúa Giêsu - với người làm vườn. Vì vậy, thật thú vị khi thánh Gioan đưa vào chi tiết có vẻ không cần thiết và không quan trọng này về một “người làm vườn”, một chi tiết dường như không tương ứng với các trình thuật được ghi lại bởi những tác giả sách Tin Mừng khác. Chúng ta cần hiểu điều này như thế nào?

Vâng, trước tiên chúng ta hãy nhận ra rằng liên quan đến các trình thuật khác nhau được ghi lại về sự phục sinh của Chúa Giêsu, có một số lượng “vay mượn” nhất định từ nhau mà cần thiết phải có, vì thực tế không ai tận mắt chứng kiến ​​Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Một ngày nọ, Ngài được chôn cất, một hòn đá lăn ra che trước mộ Ngài, những người lính canh gác lối vào để tránh bất cứ trò lừa bịp hoặc thuyết âm mưu nào hình thành. Và rồi ba ngày sau... Chúa Giêsu đã ra khỏi mồ. Bây giờ cả bốn tường thuật đều đồng ý rằng chính Maria Mađalêna và những người phụ nữ đi cùng bà là những người đầu tiên biết về ngôi mộ trống của Chúa Giêsu và sau đó bà là người đã thông báo tin tức đáng kinh ngạc này cho Mười Một Tông Đồ; vì điều này, Maria đã giành được danh hiệu “Tông đồ của các Tông đồ”. Nhưng điều gì giải thích cho phiên bản của thánh Gioan về cách Maria Mađalêna đến và khám phá ra Chúa Giêsu phục sinh lại khác biệt đến vậy so với ba tường thuật kia?

Câu trả lời hiển nhiên nhất chỉ đơn giản là: quan điểm của người ta về một sự kiện sẽ ảnh hưởng đến cách người ta truyền đạt sự kiện đó đến người khác. Nếu tôi viết ra những kỷ niệm về ngày cưới của mình, tôi có thể đặt tên cho câu chuyện của mình là “Ngày tuyệt vời nhất trong cuộc đời tôi”. Nhưng một vị khách đến dự đám cưới của tôi, nếu người ấy không quen biết ai tham dự ngoài cô dâu và chú rể, có thể đặt tên cho câu chuyện của mình là “Ngày buồn tẻ nhất trong cuộc đời tôi”. Tất cả đều liên quan đến quan điểm.

Nhưng có một góc nhìn khác ngoài góc nhìn giải thích cho việc thánh Gioan đưa chi tiết về người làm vườn vào. Đó là một chi tiết mà ông đã được biết, nhưng không ai trong ba tác giả Tin Mừng kia biết đến. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu lý do tại sao lại như vậy. Hãy nhớ rằng, Gioan đã đưa Mẹ Maria “về nhà mình” (Ga 19:27). Gioan không chỉ có quan điểm riêng để tham khảo mà còn được hưởng lợi khi được nghe Mẹ Maria trực tiếp kể lại. Điều này liên quan gì đến Maria Mađalêna? Thực ra là liên quan rất nhiều. Theo truyền thống phương Đông, “Maria Mađalêna tiếp tục sứ mệnh của mình như một nhà truyền giáo, nhà chiêm nghiệm và nhà thần bí trong lòng Giáo hội… bà đã đến Êphêsô cùng với Đức Trinh Nữ Maria và qua đời tại đó” (“Kinh cầu Thánh nữ Maria Mađalêna” The Catholic Company). Nói cách khác, Maria Mađalêna đã sống cùng thị trấn với Mẹ Maria, và rất có thể là cùng cộng đoàn tín hữu ở đó; do đó, theo bối cảnh, bà sống trong cộng đoàn của Thánh Gioan Tông đồ. Không giống như những tác giả Tin Mừng khác, Thánh Gioan có thể biết chi tiết về người làm vườn vì có thể chính Maria Mađalêna đã kể cho ông nghe.

Điều này chỉ còn lại một câu hỏi. Tại sao Maria Mađalêna lại nhầm Chúa Giêsu với một người làm vườn ngay từ đầu? Chắc chắn, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu, trong trạng thái vinh quang của Ngài, sẽ không thể nhận ra được đối với những tâm hồn buồn bã vì yêu mến và nhớ nhung Ngài đến vậy. Sẽ cần một tia sáng ân sủng để mở mắt trái tim của họ ra với sự thật về người mà họ nhìn thấy trước mắt mình. Nhưng… tại sao lại là một người làm vườn? Liệu lời giải thích có thực sự đơn giản rằng một người làm vườn là người duy nhất mà Maria thấy hợp lý khi đi lại giữa các ngôi mộ vào sáng sớm như vậy không? Có lẽ vậy. Nhưng… Liệu Kinh thánh có bao giờ để lại cho chúng ta những chi tiết không cần thiết mà chỉ để mô tả chính xác về mặt lịch sử không? Không có khả năng như vậy. Mỗi lời đến từ Chúa đều có mục đích dẫn chúng ta suy ngẫm. Từ góc độ này, chúng ta thấy gì khi nhìn vào “người làm vườn” mà Maria Mađalêna chăm chú nhìn?

Đấng Đáng Kinh Fulton Sheen viết: “ … người làm vườn cắt những chồi xanh từ gốc bụi cây, không phải để giết chết hoa hồng, mà để làm cho hoa nở đẹp hơn” (Đấng Đáng kính Fulton Sheen, tr. 185, cookiecrumbstoliveby.wordpress.com).

Chúa Giêsu, “Người Làm Vườn,” đã gieo Lời Ngài vào lòng Maria Mađalêna, tỉa và cắt những chồi non không khỏe mạnh khỏi cuộc đời bà và nhổ tận gốc những gì ngăn cản bà tăng trưởng… để bà có thể nở hoa và lớn lên! Chính Chúa Giêsu - Người Chăn Chiên Nhân Lành, Chiên Thiên Chúa, Đấng Mêsia, nhưng cũng là Người Làm Vườn  - đã cứu mạng Maria khỏi sự hủy diệt. Người Chăn Chiên Nhân Lành sẽ để chín mươi chín con chiên đi tìm một linh hồn, cõng con chiên ấy trên lưng về nhà nếu cần. Nhưng chính Người Làm Vườn mới là người xới đất trong lòng chúng ta, nhẹ nhàng nâng đầu chúng ta lên và hướng dẫn chúng ta đối mặt với những điểm yếu, lỗi lầm, khuyết điểm và nỗi đau của mình, không phải để hủy hoại chúng ta mà để giúp chúng ta lớn lên. Việc vun trồng của người làm vườn vừa đau đớn vừa thống khổ, nhưng thành quả từ công trình của người làm vườn thì mãi mãi ngọt ngào.

Đang tuần tiễu trong thành, bọn lính gác gặp tôi. Tôi hỏi họ: Các anh có thấy chăng người lòng tôi yêu dấu?Vừa rời họ mà đi, tôi đã gặp người lòng tôi yêu dấu” (Diễm ca 3:3-4)

 

Tác giả: Mc Holbrook

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.

https://catholicexchange.com

TUỔI LỤC TUẦN

Sáu mươi chưa hẳn đã già

Sáu mươi còn thích vui ca hát hò

Sáu mươi lại giỏi nhiều trò

Về hưu cống hiến giúp cho xứ nhà 

       Xứ đạo của anh chị thuộc Giáo Phận Xuân Lộc, Hạt Phước Lý. Nơi mà chỉ cách Sài Gòn có vài chục cây số khi đi lối đường qua phà Cát Lái, ở đây có trên dưới khoảng mười ngôi nhà thờ là mười giáo xứ, đặc biệt trong xứ đạo hầu như nhà nào cũng có ít là một người tham gia vào Hội đoàn , đa số là những vị trung niên và người cao tuổi có thời gian đi lễ đọc kinh sớm tối hằng ngày.

Anh Hùng vui tính nói:

  • Tui ngày xưa lăn lộn làm ăn giữa đất Sài Gòn nuôi các con ăn học hổng có thời gian vào hội đoàn nào hết, nay tuổi đã lục tuần nghỉ hưu, khi con cái trưởng thành rồi tui có thời gian nên theo bà xã gia nhập một hội ở nhà thờ để tới lui sinh hoạt cho vui.

Nhóm bạn của vợ chồng anh chị ghé nhà chơi cười nói rôm rả, ai cũng khen gia đình anh chị Hùng thật hạnh phúc ấm êm. Anh Hùng vừa nâng ly trà nóng uống một ngụm rồi đặt ly xuống bàn cười nói tiếp:

  • Các cậu còn nhớ biệt danh của tui ngày đó chứ ! “ Hùng cọp hổ” bởi tính tui nóng dữ như loài cọp hổ nên bị ghép vào tên đó, mà thiệt mấy năm trước tui vẫn hung dữ vậy…, chỉ tới khi nghỉ hưu về nhà tham gia hội trong xứ đạo này thì tui mới biết bình tâm hoán cải…
  • Anh kể tiếp lý do thú vị vì sao đi anh ! ( Chị vợ cười vui vẻ nhẹ nhàng nhắc chồng)

Anh Hùng hả to miệng cười hắng giọng :

  • Kỳ đó lâu không đi lễ nơi xứ nhà nên tui hổng biết mặt mũi ông cha xứ mới . Khi tui đi bộ ra cánh đồng hóng gió, đụng mặt một cậu nhỏ tuổi hơn mình nên tui liền hỏi theo thói quen : “Ê mày tên gì? Cũng thích ra ngoài đồng ruộng hóng gió mát như tao hả !? kakaka …”. Mọi người biết sao không! Cậu này mỉm cười nhìn tui trong im lặng, vừa lúc ấy có một chú nhóc cầm con diều đi thả gió ngang qua chỗ chúng tôi, nó liền cúi đầu rồi nói to:
  • Con kính chào Cha, xíu diều con thả bay lên Cha coi đẹp không nha, diều hình máy bay đó Cha.

Tui khi ấy giật mình liền nhìn người đối diện: “ Trời! tui hổng biết cậu là Cha xứ đó nghe, thấy nhỏ tuổi hơn nên kêu là cậu, ai dè…”.

  • Không sao đâu chú, con cũng mới ngoài bốn mươi như em út chú đó mà, ủa nhưng sao con chưa gặp chú lần nào ở khu vực nhà thờ xứ mình.
  • Tui mới làm ở Sài Gòn về tuần nay chưa ra đó được, mà nghe nói bà nhà tui có sinh hoạt hội gì đó ở nhà thờ Cha xứ ơi….

Sau buổi chuyện trò vui vẻ thân tình với ông Cha xứ trẻ dễ mến ấy. Anh Hùng về nhà hỏi thăm bà xã các sinh hoạt ngoài giáo xứ, rồi từ từ anh cũng hội nhập. Trước tiên bà xã nói anh phải đến nhà thờ xin Cha cho được lãnh “ Bí tích hòa giải” là đi xưng tội, vì đã lâu ngày anh lo làm ăn xa nhà nên quên hoặc lười biếng giữ đạo cho hẳn hoi. Anh Hùng nói với vợ:

  • Tui nhiều tội lắm hổng nhớ hết…, mà để tui đi xứ khác xưng tội, chứ ông Cha trẻ ở đây nhỏ tuổi hơn tui, chắc gì ông hiểu tâm lý tui bằng các Cha già… .

Thế rồi cũng thuận tiện đang là mùa chay Thánh, nên anh Hùng hỏi thăm và tìm đến Cha xứ khác để được lãnh nhận Bí Tích Hòa giải, trong tâm tình chân thành trở về làm con chiên ngoan đạo của Chúa và Giáo hội, sau đó anh xin vào  một hội đoàn của giáo xứ và đi sinh hoạt thật chăm chỉ tốt lành.

Sáu mươi tuổi mới trở về

Làm chiên ngoan đạo giữ nề nếp xưa

Không còn lăn lộn nắng mưa

Lục tuần hưu trí sớm trưa yên bình.

BCT 

 

SỰ TIN TƯỞNG CỦA MỘT TÊN TRỘM

Trước mặt Thiên Chúa, con người là kẻ ăn xin” (GLGHCG, số 2559). Những lời này trong Sách Giáo lý của Giáo hội cho thấy chúng ta cơ bản lệ thuộc vào Thiên Chúa. Sự lệ thuộc này có lẽ không nơi nào được minh họa rõ ràng hơn trong câu chuyện của Thánh Luca về tên trộm lành.

  • Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Ngài: Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với! Nhưng tên kia mắng nó: Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái! Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi! Và Ngài nói với anh ta: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Luca 23:39-43)

Dismas hay Đích Ma, có nghĩa là Hoàng hôn hoặc Sự chết, tên trộm lành, có nhiều điều để nói với chúng ta. Người ta dệt nên câu chuyện huyền thoại sau đây: 30 năm về trước, trên đường đem Chúa Giêsu Hài nhi sang Ai Cập để tránh khỏi cơn giận của vua Hêrôđê, thánh Giuse và Mẹ Maria đã dừng lại một hàng quán hẻo lánh. Mẹ Maria xin thau nước để tắm cho Hài Nhi Giêsu. Bà chủ quán giữ lại nước đã tắm cho bé Giêsu để tắm cho con trai của bà đang mắc bệnh ghẻ lở. Nước đó chảy tới đâu, bệnh ghẻ lở sạch tới đó. Và đứa trẻ được lành bệnh. Nhưng khi lớn lên, đứa trẻ đó đã trở thành một tên trộm cướp. Tên đứa trẻ đó là Đích Ma (Dismas). Và hôm nay chính Đích Ma lại bị treo trên thập giá bên phải Chúa Giêsu. Dĩ nhiên đây là câu chuyện huyền thoại. Chết trên cây thập tự, bị thế gian chế giễu, và biết tội lỗi của mình, Đích Ma hoàn toàn nghèo nàn trước Chúa Giêsu. Anh ta không có việc tốt lành nào để có thể cậy dựa vào, không có gì đẹp đẽ để thể hiện, không có gì hay ho để nói. Anh ta là một người thực sự chẳng có gì. Nhưng Chúa Giêsu tuyên bố anh ta là người đầu tiên vào thiên đàng, và mãi mãi được biết đến là tên trộm đã đánh cắp được thiên đàng. Nhưng chúng ta có thể tự hỏi, làm sao điều này có thể xảy ra? Vì đâu mà tên trộm Đích Ma nhận ra Ông Giêsu là Vua dù đang bị đóng đinh như anh ta? Làm sao tên trộm biết được điều mà ngay cả các tông đồ cũng chưa hiểu được?

Chúa Giêsu đã nói: “Ta đã bảo các ngươi rằng không ai có thể đến với Ta nếu Chúa Cha không ban ơn cho” (Gioan 6:65). Hẳn Chúa đã sai Thánh Thần của Ngài đến để mở mắt anh ta và giúp anh ta nhìn thấy. Có thể vì nhớ lại chuyện xưa mẹ kể rằng mình được chữa khỏi do nước đã tắm của Vua Hài Nhi mà nay anh ta nhìn Chúa Giêsu bằng con mắt khác? Cũng có thể trong thời gian hành nghề trộm cắp, anh ta đã có lúc len lỏi vào đám đông quanh ông Giêsu, để rình cơ hội móc túi, nhưng lại nghe ông Giêsu giảng về dụ ngôn người Samaritanô rằng: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác. Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? Người thông luật trả lời: Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy. Chúa Giêsu bảo ông ta: Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10:30-37). Dụ ngôn này của Chúa Giêsu khiến một chút lương tâm còn sót lại của Đích Ma ray rứt chăng?

Nhưng có lẽ điều chắc hơn đó là anh ta có đôi mắt nhạy bén của một tên trộm chuyên nghiệp và một kinh nghiệm hành nghề có thể nhận ra ai là người tốt lành và ai là kẻ độc ác. Chỉ cần liếc đôi mắt qua bên trái, tên trộm đọc được tấm bảng ghi dòng chữ – Tên gọi: Giêsu; nguyên quán: Nadarét; tội trạng: Vua dân Do thái. Vua ư? Vương miện đâu? Một vòng gai cắm trên đầu sao? Có biết bao hạng người còn đôi mắt tỏ tường nhưng lại không nhận ra Chúa Giêsu là Vua? Họ là những kẻ qua đường thấy Chúa bị đóng đinh thì cười chê: “Ông này có tiếng làm phép lạ, dám phá đền thờ, ba ngày sau xây lại, sao không tự cứu mình đi” (Mt 27:39-40). Họ là các trưởng tế và luật sĩ thách thức Chúa Giêsu: “Họ thách thức Chúa rằng: Nếu người là vua Israel hãy xuống khỏi thập giá đi, rồi chúng tôi tin” (Mt 27, 42-43). Họ là những binh lính và lý hình thi hành án: “Mấy người lính cũng nghỉnh đầu lên buông lời chế giễu Chúa: Nếu là vua, cứ nhảy xuống xem” (Lc 23, 36-37). Đó là tên trộm đồng nghiệp của Đích Ma: “Một kẻ trộm bên tả quay ra khiêu khích Chúa: Nếu ông là vị Cứu thế hãy cứu ông và cứu cả chúng tôi đi” (Lc 23, 36-37). Đích Ma, dù là tên trộm, nhưng lại không giống như những người đó. Anh ta vẫn còn một tâm trí có thể nhìn ra sự thật và một tấm lòng trắc ẩn trước những nỗi đau của người khác. Điều này biểu lộ trong lời nói công khai với tên trộm đồng bọn của anh: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23: 40-41).

Chúa Giêsu không làm phép lạ hữu hình nào từ trên thập tự giá để thay đổi cái nhìn của anh ta. Anh ta chỉ nghe những lời cầu nguyện tha thiết của Ngài với Chúa Cha và lắng nghe Chúa Giêsu nói về sự tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Khi tên trộm nghe những lời của Chúa Giêsu xin Chúa Cha tha thứ cho tất cả những ai làm hại Ngài, bóng tối của cuộc đời đầy tội lỗi của anh ta bị xuyên thấu bằng ánh sáng của sự thật, cho phép một người từng sống trong tối tăm thấy rằng Chúa Giêsu là tất cả những gì Ngài tuyên bố: tha thứ cho mọi người tội lỗi, trong đó có anh ta. Mọi nghi ngờ bị xóa tan, người đàn ông này xác tín những gì đôi mắt trần gian của mình không thể nhìn thấy: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Gioan 20:29). Anh ta biết rằng cái chết sẽ không giam giữ được Vị Vua này của người Do Thái. Và với một trái tim ăn năn, Đích Ma tuyên bố vương quốc sắp đến của Vị Vua này. Đích Ma đã thấy vinh quang của Đấng đang bị treo trên Thánh Giá.

Thực vậy, Chúa Giêsu trả lời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). Thật không sai khi nói rằng tên trộm Đích Ma đã được chính Chúa Giêsu phong thánh và trực tiếp mở cửa thiên đàng cho vào, không phải lẻn vào qua cổng sau. Đích Ma không đánh cắp thiên đàng như thể đó là thứ gì đó cần phải lấy cắp. Thay vào đó, anh ta đã vào vương quốc cùng Chúa Giêsu, vì vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, anh ta đã được ban cho ân sủng để thú nhận sự bất xứng hoàn toàn của mình trước Chúa. Tên trộm Đích Ma được cứu chính là vì anh ta đã thừa nhận mình là kẻ ăn xin, ăn xin lòng thương xót của Đấng Kitô. Đích Ma đã lấy được điều quý giá nhất mà anh ta chưa bao giờ đánh cắp được. Trong cảnh nghèo hèn cùng cực của mình, anh đã có thể nhận được tất cả lòng thương xót mà Chúa Giêsu muốn ban cho anh.

Chúng ta cũng cần  phải học cách chấp nhận ngày càng nhiều hơn sự nghèo khó của mình trước mặt Chúa. Nhưng làm sao chúng ta có thể làm được điều này? Để giúp chúng ta trở thành những kẻ ăn xin trước mặt Chúa, chúng ta có thể cậy dựa vào Thánh Têrêsa Lisieux, là người dạy cho chúng ta một chút về tình yêu đầy tin tưởng và đơn sơ như trẻ thơ. Chị thánh thường so sánh nhu cầu của chúng ta đối với Chúa giống như mối liên hệ giữa một đứa bé và cha mẹ của em. Một đứa bé hoàn toàn lệ thuộc vào cha mẹ mình. Em tìm đến cha mẹ mình để xin mọi thứ và không bao giờ đặt câu hỏi về khả năng giải quyết vấn đề của cha mẹ mình. Thật vậy, đây là cách chúng ta nên nhìn vào Chúa. Chúng ta đã và đang nhận được mọi thứ từ Ngài. Vậy thì, trở nên trẻ thơ là tìm đến Chúa để xin mọi nhu cầu của mình, hoàn toàn tin tưởng vào sự chăm sóc quan phòng của Ngài và yêu Ngài vô điều kiện.

Nhưng tình yêu đầy tin tưởng của Thánh Têrêsa còn đi xa hơn cả việc chỉ thừa nhận sự nghèo khó và yếu đuối của mình. Chị thánh hân hoan trong tình yêu đó và yêu mến Thiên Chúa, Đấng bay đến để bù đắp cho những thiếu sót và lỗi lầm của chị. Giống như Thánh Phaolô, chị tôn vinh sự yếu đuối và những gì Chúa đã có thể làm nơi chị: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2 Cr 12:9). Sự tin tưởng này biết rằng không có vết thương nào quá lớn hay sự gian ác nào quá sâu đến mức Chúa không thể chữa lành nếu chúng ta biết cầu xin sự tha thứ của Ngài. Vì vậy, thay vì cảm thấy xấu hổ vì sự yếu đuối và nghèo khó của mình, chúng ta có cơ hội kêu cầu lòng thương xót của Chúa. Sự tin tưởng vào tình yêu thương xót của Chúa là chìa khóa để phó thác như trẻ thơ và mở ra con đường lên thiên đàng. Bởi vì, khi chúng ta thừa nhận rằng mình không có gì, và cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta thấy mở ra trước mắt mình một kho tàng thực sự đầy tràn Hồng Ân Cứu Độ. Thật vậy, con người là một kẻ ăn xin trước mặt Chúa, một kẻ ăn xin vương quốc thiên đàng và Chúa ban cho con người điều họ khẩn cầu: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng” (Tv 103: 2-5).

Tu huynh Roland Wakefield, OP

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung

https://www.dominicanajournal.org