2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

LIÊN ĐỚI

Thứ Năm Tuần 1 Thường Niên C

“Ngài chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo, ‘Tôi muốn, anh hãy được sạch!’”.

Vào thời nô lệ, một ông chủ hà khắc mua được một thanh niên chăm chỉ. Ông phát hiện người này có ảnh hưởng lớn trong số nô lệ của ông. Ông yêu thương và lâu sau, ngỏ ý cho anh tự do; nhưng anh từ chối! Anh muốn liên đới đến mức có thể để nâng đỡ những người bạn trong khả năng của anh. Sau một thời gian, bằng gương sáng, đạo đức và vui tươi, anh đã cảm hoá không chỉ những người bạn nhưng cả ông chủ. Họ sống chan hoà!

Kính thưa Anh Chị em,

Với Tin Mừng hôm nay, chúng ta gặp lại người trẻ ấy nơi Chúa Giêsu! Một người phong cùi đến van xin Ngài, và vì xót thương, Ngài “giơ tay đụng vào anh” bất chấp luật nhiễm uế. Ngài muốn ‘liên đới’ đến mức có thể với người cùi – đại diện cho một nhân loại cùi.

Đến với Chúa Giêsu là một con hủi bất hạnh, bất hạnh không chỉ vì anh cùi hủi nhưng vì gặp phải sự lạnh lùng từ những tâm hồn cùi hủi. Cuộc sống của anh là một cái chết chậm – bệnh tật tàn phá thân xác, mặc cảm huỷ hoại tinh thần. Và nếu coi sự lở lói thân xác như một biểu tượng tàn phá của tội lỗi thì sự chết chóc lại càng kinh khủng hơn. Lẽ ra, Chúa Giêsu chỉ cần đứng xa xa và nói, “Hãy được sạch!”; nhưng không, “Ngài giơ tay đụng vào anh”; Ngài chấp nhận trở nên uế tạp để có thể cứu lấy một con người – một nhân loại – uế tạp. Không chỉ trở nên phàm nhân, Ngài trở thành “tội nhân”, ‘liên đới’ với tội nhân hầu cứu lấy tội nhân. Mầu nhiệm này đã phần nào được hé lộ từ lúc Ngài nối đuôi dòng người phàm phu tục tử bên bờ Giorđan để xin Gioan làm phép rửa.

Tại sao Con Thiên Chúa lại muốn ‘liên đới’ với con người đến mức ấy? Ngài ‘liên đới’ chỉ vì Ngài muốn chữa lành con người không chỉ phần xác nhưng cả phần hồn; giải thoát nó không chỉ khỏi những khổ đau mà cả mọi tội lỗi, điều đang thực sự giết chết nó khiến nó chai cứng và trơ lì. Thư Do Thái viết, “Hãy khuyên bảo nhau bao lâu còn được gọi là ngày hôm nay, kẻo có ai trong anh em ra cứng lòng vì bị tội lỗi lừa gạt” – bài đọc một; Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình, “Ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: Các ngươi chớ cứng lòng!”.

Anh Chị em,

“Ngài chạnh lòng thương!”. ‘Chạnh lòng thương!’. “Cho phép tôi suy nghĩ ở đây về nhiều linh mục giải tội tốt lành có những hành vi thu hút mọi người, và nhiều người cảm thấy họ chẳng là gì, những người cảm thấy họ “nằm bẹp trên đất” vì tội lỗi của họ… Nhưng với sự dịu dàng đầy lòng xót thương, những vị giải tội tốt lành không cầm roi trong tay, chỉ chào đón, lắng nghe và nói rằng, Chúa tốt lành và rằng, Chúa luôn tha thứ; rằng, Chúa không mệt mỏi khi tha thứ!” – Phanxicô. Tội nhân ‘được thứ tha’ chính là tạo dựng mới và đó cũng là mục đích tối cao của việc Chúa Giêsu muốn ‘liên đới’ với con người đến mức có thể! Lời Chúa mời gọi bạn và tôi nhìn lại mức độ ‘liên đới’ của mình với tha nhân. Tôi có xót thương, đón nhận, cầu nguyện, hy sinh, tôn trọng và ‘liên đới’ với anh chị em tôi đến mức như Chúa muốn không?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, để có thể cảm hoá một ai đó, cho con biết ra khỏi chính mình, cúi xuống, ôm lấy và xót thương!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

TRỜI CAO HÃY ĐỔ SƯƠNG XUỐNG, MÂY ƠI HÃY MƯA VỊ CỨU TINH


Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương,

mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính;

đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ,

đồng thời chính trực sẽ vươn lên.”

(Isaia 45:8)

Những lời than van kêu cầu của dân Israel trông mong Đấng Thiên Sai (Messiah) cũng là những lời cầu mà Giáo Hội muốn chúng ta suy niệm và cầu xin trong Mùa Vọng (Advent). Chữ Advent có nguồn gốc từ Latin “Adventus”, nghĩa là “đi đến” hoặc “tới”. Đây là thời gian khoảng 4 tuần trước Lễ Giáng Sinh. Dân Do Thái khi xưa trông mong Đấng Messiah đến để giải cứu họ khỏi ách thống trị của kẻ thù. Ngài đã đến, không phải chỉ để giúp họ, mà còn để giải thoát toàn thể nhân loại khỏi vòng nô lệ của Satan, và đưa mọi người về làm con Thiên Chúa.

Trước đây mùa này cũng được gọi là Mùa Chay kéo dài từ 11 tháng Mười Một đến ngày 6 tháng Giêng tức lễ Hiển Linh. Mùa Vọng đầu tiên được cử hành vào khoảng sau thế kỷ thứ Tư, với những tài liệu sớm nhất được nhắc đến của Công Đồng Saragossa năm 380 AD. Tuy nhiên, Mùa Vọng đầu tiên được bắt đầu khi nào thì không ai rõ, và tùy thuộc vào mỗi tài liệu của vùng miền trong những ngày đầu Kitô Giáo. Theo thánh Gregory thành Tours thì Mùa Vọng đầu tiên được cử hành thuộc thế kỷ thứ Năm, khi Giám Mục Perpetuus bắt đầu với Ngày Thánh Martin vào 11 tháng Mười Một cho đến lễ Giáng Sinh, với việc ăn chay ba lần một tuần. Đó cũng là lý do gọi Mùa Vọng là “Mùa Chay của Thánh Martin”. Chính Thống Giáo Đông Phương còn gọi mùa này là Mùa Chay Giáng Sinh.

Nguyên thủy Mùa Vọng kéo dài 6 tuần lễ, nhưng từ thời Đức Giáo Hoàng Grêgôriô I, Giáo Hội đã ấn định lại thành 4 tuần. Bốn tuần lễ tưởng nhớ cho ngày Chúa Giêsu Kitô đến viếng thăm nhân loại lần thứ nhất. Nó mang tính tượng trưng nhắc lại bốn ngàn năm nhân loại mong chờ Đấng Cứu Thế như dân Isarel trong Cựu Ước mong chờ Đấng Messiah đến để giải thoát họ khỏi tay kẻ thù. Ngoài ra, nó cũng giúp nhớ lại 40 năm dân Do Thái lưu lạc trong hoang địa trước khi được vào đất hứa.

“Giờ cứu rỗi các con đã đến gần.” (Luca 21:28).  Ý nghĩa của Tin Mừng Thánh Luca khởi đầu Mùa Vọng theo chu kỳ phụng vụ Năm C nếu đem nối kết ý tưởng Mùa Chay Giáng Sinh của Giáo Hội Chính Thống với Mùa Chay Giáng Lâm, chúng ta sẽ nhận ra tầm quan trọng của hai lần đến này, cũng như việc chuẩn bị đón tiếp như thế nào. Trước lần đến thứ nhất, nhân loại đã khắc khoải chờ mong:Trời cao hãy đổ sương xuống, mây ơi hãy mưa vị Cứu Tinh.” (Isaia 45:8) Trước khi Ngài xuất hiện lần thứ hai: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển.” (Luca 21:25-26) Chính vì vậy, nhân loại phải chuẩn bị đón chờ hai lần xuất hiện này với tinh thần chay tịnh, thống hối, và ăn năn.

Bằng với cặp mắt tâm linh, dường như những gì Thánh Luca viết cũng đang xảy ra cho thời đại của chúng ta cả khi nghĩ về Mùa Chay Giáng Sinh hay Mùa Chay Giáng Lâm. Thế giới và nhân loại hôm nay thật sự đang trải qua những dấu hiệu kinh hoàng, không chỉ ở phương diện tự nhiên như chiến tranh, loạn lạc, bão lụt, thiên tai, động đất, sóng thần; mà còn ở phương diện tâm linh như tệ nạn phá thai, ly dị, đồng tính, hôn nhân đồng tính, và chuyển giới. Một thế giới thật sự đang rên xiết, đau khổ, và khao khát vị Cứu Tinh xuất hiện.

Trong khi mong đợi ngày giáng lâm của Ngài, chúng ta hãy cùng với Giáo Hội chuẩn bị đón mừng ngày Sinh Nhật của Ngài, Chúa Giêsu Kitô, Đấng Messiah với những tâm tình Mùa Vọng: Hy Vọng, Hòa Bình, Vui Mừng, và Yêu Thương. Đây chính là chủ đề suy niệm, sống và thực hành cho mỗi một tuần trong bốn tuần của Mùa Vọng.

Mang ý nghĩa nối kết một cách tinh thần chúng ta với dự án cứu độ của Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu Kitô, bằng cách chú tâm vào quá khứ, hiện tại và tương lai. Mặc dù từ ban đầu, Mùa Vọng nói lên ý nghĩa mong đợi Đấng Cứu Thế, nhưng học thuyết Thánh Kinh hiện đại cũng cho biết thêm rằng, việc chuẩn bị mừng ngày kỷ niệm Chúa Giáng Trần cũng chính là chuẩn bị cho ngày quang lâm của Ngài lần thứ hai. Ngày Ngài sẽ xuất hiện trên mây trời trong vinh quang. Vì thế tuy 4 tuần lễ Mùa Vọng không mang tính cách buồn bã nhưng là thời gian chuẩn bị tích cực như lời ngôn sứ Isaia: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và vinh hiển Chúa sẽ xuất hiện, mọi người sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa.” (Isaia 40:3-4)

Trong hoang địa của cuộc đời, con đường mà chúng ta cần phải dọn cho ngay thẳng để đến với Chúa và Chúa đến với chúng ta chính là con đường tâm linh. Hố sâu là lòng tham lam, ích kỷ. Núi đồi là tính kiêu căng, tự cao, tự đại. Chỗ cong queo là sự gian dối, mờ ám, và những chỗ gồ ghề là những đam mê, thú vui trần tục. Tất cả đều phải được lấp đầy, săn phẳng, và uốn nắn bằng sự hiền lành và khiêm nhường, nếp sống khó nghèo, đơn sơ, trong sạch, tín thác, với tấm lòng khoan dung, và từ bi, thương xót.

“Lạy Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Chúng con tin tưởng một cách thành tín rằng, trong Mùa Vọng này, chúng con không chuẩn bị đón tiếp một Thiên Chúa đang ở đâu đây trên những đám mây, nhưng là Đấng đã chọn đến và ở giữa chúng con trong mầu nhiệm và bất toàn của cuộc sống con người chúng con. Xin Chúa hãy mau mau đến.”

 Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt

Về nơi tĩnh lặng


Bên cạnh cuộc sống ồn ào, vội vã, có người về nơi tĩnh lặng, những vành khăn tang, những tiếng kèn đồng đưa tiễn, những lời kinh chen lẫn tiếng ồn ào của xe cộ, những chiếc máy phát âm thanh, những tiếng rao, cười nói. Người yên lặng ra đi như gợi lại một lời Chúa bảo các Tông đồ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (Mc 6,31)

 

Tĩnh tâm: Để tâm hồn thanh thản yên tĩnh không trĩu nặng buồn hay vui, không mê  ảo, không xáo động. Tâm tĩnh là một trạng thái tựa mặt hồ tĩnh lặng soi bóng hàng cây, bầu trời, rõ nét, không lẫn lộn. Hiệu quả tâm tình luôn là sáng suốt sáng tạo, trong sáng trong suy nghĩ. Như lời thầm thì, kinh nghiệm của Thánh Phanxicô Assisi trong bài ca mặt trời, nói về tĩnh lặng của tâm hồn để kể về anh mặt trời, chị mặt trăng, anh gió và chị nước, trong đó lời của thiên nhiên tỏ bày những tâm tư sâu kín của cõi lòng con người. Tĩnh lặng để nói với đóa hoa chưa nở về buổi khai nguyên, về những gì sắp hoàn tất và ngay cả những gì chưa thể hoàn tất. Trong nội tâm sâu kín của con người cũng mang đầy ước vọng, khi dồi dào, phong phú; khi khô hạn, héo hon; khi vui tươi hoặc cả khi buồn chán. Yên tĩnh để tiếng nói của Tình Yêu vô tận ngỏ lời, vì trong tiếng nói Tình Yêu ấy sẽ như làn gió mát đuổi cơn nồng, có thể như ngày mới của bình minh chiếu toả. Sức mạnh không vận dụng từ bên ngoài mà vận dụng tự nội tâm thanh vắng. Chúa Giêsu nói với các Tông đồ sau khi vui mừng gặt hái kết quả của chuyến loan báo Tin Mừng: “tìm nơi thanh vắng”.

Nơi an nghỉ: Trong tiếng nói yên tĩnh nhất của “chị chết”, mọi người đều không thoát nổi, nhưng “chị chết” cũng cần tập chết đi cho mỗi ngày. “Hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu.” (Rm 6,11). Chết, một sự an nghỉ hoàn toàn, không tội lỗi trọng nào, ấy là cái chết đối với tội lỗi. Vậy “chị chết”, như hạt lúa gieo vào lòng đất, trong mình nó ươm mầm một sự sống, như bình minh sẽ mọc sau đêm tối. Tĩnh lặng của sự chết không phải là kết thúc mà là một thời gian cần thiết nghỉ ngơi, lấy lại sức lực, đổ rỗng những nặng nề mang lấy gánh nhẹ nhàng. Kinh nghiệm của tĩnh lặng từ nơi “chị chết” giống như thời gian lặng yên nhìn lại mình trong sám hối, chuẩn bị cho việc đối diện với chính mình bằng việc xưng tội. Bình minh sẽ lên, chính vì thế, trong bài ca mặt trời của Thánh Phanxicô vẫn liên kết chị chết với anh mặt trời, để không chết trong lần thứ hai là chết trong tội trọng đáng thương, thiếu mất một bình minh.

An tĩnh để kể về tình yêu

Tình yêu như Thánh Phanxicô tường thuật, đó là lời kể của Thiên Chúa thì thầm trong các thụ tạo. Kể cho đất nghe, chính bàn tay Thiên Chúa đã làm nên, kể cho nắng nghe, Chúa đã làm ra mặt trời, kể cho người nghe, tất cả thụ tạo được trao cho họ… Ân nghĩa dồi dào từ mẹ thiên nhiên, nếu con người biết yên tĩnh để lắng nghe, sẽ nhận ra vì yêu thương “con người được tạo dựng giống hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa” (St 1,27). Con người được yêu thương để sống yêu thương, con người sẽ không tàn phá thiên nhiên, con người sẽ sống hài hoà với nhau, tôn trọng sự sống của nhau. Con người an tĩnh sẽ tường thuật tình yêu trong cuộc đời mình, “không thù hận, không oán ghét, không mừng vui vì những bất công, không ích kỷ tìm tư lợi” (x. 1 Cr 13,4). Tĩnh lặng để nhận ra lẽ sống của “Kinh Hoà bình”, “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Rất nhiều sứ điệp để kể về về tình yêu để con người sống trong thế giới hoà bình. Tắt đi những chiến tranh, những vũ khí hạng nặng, những thứ giết người hàng loạt, những sự kiện khủng bố, những lời dao búa, những tính chất côn đồ…

Yên tĩnh để suy nghĩ về những điều tuyệt diệu của cuộc sống bằng lời mời gọi “vào nơi tĩnh lặng”, sống tâm tư của tháng mười một, nơi các linh hồn đang an nghỉ và kể về bình an của sự chết trong ánh sáng bình minh.

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

MỘT BÀI HỌC KHÓ HIỂU VÀ KHÓ THỰC HÀNH


Chúa Giêsu Kitô có một bài học rất quan trọng cho chúng ta. Đó là một bài học mà hầu hết chúng ta cảm thấy khó hiểu và khó thực hành trong cuộc sống bình thường hàng ngày: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5:38-42).

Hãy tưởng tượng ai đó ác ý tát mạnh vào má bạn và thay vì tự vệ và đáp trả “mắt đền mắt, răng đền răng” (Mt 5: 38), bạn lại quay sang khuyên người ấy nên đánh bạn một lần nữa vào má bên kia theo kiểu: “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5: 39).

Câu Tin mừng của chúng ta hôm nay đang dạy chúng ta chính xác điều đó, nhưng không phải theo hình thức bề ngoài của nó, mà dạy chúng ta rằng hai điều sai không thành một điều đúng. Sửa một lỗi sai bằng một điều sai khác sẽ không bao giờ đưa đến điều đúng.

Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng bạn không thể chống lại sự dữ bằng sự dữ. Sự dữ bị đánh bại bởi Lòng nhân hậu và Tình yêu của Thiên Chúa: “Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5: 40-42). Hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta về sức mạnh của tình yêu.

Bạn biết đấy, tình yêu thương là một thứ rất mạnh có thể xoa dịu mọi ý nghĩ xấu xa trong con người. Tôi có ý nhấn mạnh tình thương xoa dịu tất cả mọi ý nghĩ xấu xa trong con người. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng nếu bạn muốn giải quyết mọi vấn đề với người lân cận, hãy sử dụng tình yêu thương: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5: 43-44).

Hãy nói bằng tình yêu thương, cảnh cáo bằng tình yêu thương, quở trách bằng tình yêu thương, v.v. Điều đó có nghĩa là nếu người hàng xóm của bạn có lỗi với bạn, đừng để cơn giận lấn át bạn, dĩ nhiên bạn hãy bày tỏ sự không hài lòng của mình nhưng làm sao để cho tình huống được giải quyết mà không để lại sự thù hận hoặc cảm xúc khó chịu ở cả hai bạn.

Tôi sẽ không yêu vợ/chồng của tôi nếu họ không xứng đáng với điều đó. Tôi sẽ không yêu bố mẹ tôi, nếu họ không xứng đáng với điều đó. Tôi sẽ không yêu hàng xóm của tôi nếu họ không xứng đáng với điều đó. Tôi sẽ không yêu những người này ở nhà thờ nếu họ không xứng đáng với điều đó.

Chúng ta cần loại bỏ thứ lăng kính này vốn dựa trên việc ai đó có xứng đáng hay không. Chúng ta thường xem coi ai xứng đáng với tình yêu của chúng ta. Chúng ta phải loại bỏ bộ lọc này trong cõi lòng để đừng chỉ yêu người khác dựa trên những gì họ làm cho chúng ta mà chúng ta thấy xứng đáng.

Bạn có bao giờ nhận ra rằng khi ai đó xúc phạm bạn mà bạn nói với người ấy rằng:  “Tôi để cho Chúa trừng phạt bạn”, người ấy có cần phải suy nghĩ trong vài giây trước khi trả lời không? Lúc đó người ấy bắt đầu vặn lại bạn vì sợ bị coi là kẻ thua cuộc. Nếu bạn đáp lại người ấy một cách tương tự, thì sự tức giận và thù hận sẽ bắt đầu tích tụ và có thể vượt quá mức cho phép. Vào những lúc như thế, bạn nên dùng cách nói chuyện tích cực hơn với người đó trong tình yêu thương. Tình yêu này sẽ bắt đầu làm tan sự thù hận, sự nóng nảy hoặc thái độ xấu bẩn của người ấy.

Hôm nay chúng ta hãy biểu lộ tình yêu trong mọi hành động, giao tiếp, phán xét và suy nghĩ của chúng ta vì tình yêu chiến thắng mọi sự dữ. Chúng ta đừng cố giải quyết sự dữ bằng sự dữ, vì như thế cả thế giới sẽ tràn ngập sự dữ, Chúa Giêsu có ý nói như thế. Chúng ta hãy chống lại điều ác bằng sự thiện, và như tất cả chúng ta đều biết, sự thiện sẽ luôn chiến thắng điều ác.

Hôm nay, chúng ta thấy chúng ta còn cách xa tiêu chuẩn của Thiên Chúa đến mức nào và cần phải biến đổi nhiều hơn nữa trong cõi lòng và cuộc sống của chúng ta như thế nào. Để được biến đổi nên giống Chúa Giêsu chúng ta không thể không đến với Chúa Giêsu. Chúng ta không thể nghỉ ngơi cho đến khi chết. Chúng ta cần sửa đổi nhiều hơn nữa. Chúng ta cần thay đổi nhiều hơn. Chúng ta cần biết nhiều hơn về Chúa để chúng ta có thể được biến đổi.

Khi chúng ta đọc: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mátthêu 5:48), chúng ta thấy chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa biết bao. Chúng ta cần nhìn thấy khoảng cách lớn lao giữa chúng ta và Thiên Chúa và tìm kiếm ân sủng của Thiên Chúa để lấp đầy khoảng cách đó.

Thật không may, chúng ta có xu hướng rơi vào một thứ cực đoan tội lỗi. Một thứ cực đoan tội lỗi là nghĩ rằng tôi có ân sủng của Thiên Chúa và không cần phải thay đổi gì cả. Tôi chỉ có thể là chính mình và Thiên Chúa sẽ chấp nhận điều đó. Tôi có thể sống theo cách tôi muốn sống và Thiên Chúa sẽ chấp nhận điều đó. Xin hãy lắng nghe những gì Chúa Giêsu đang nói với chúng ta. Chúng ta phải được thay đổi. Chúng ta đang trong quá trình biến đổi. Chúng ta không thể ở lại trong tình trạng chúng ta đang ở. Chúng ta cần phải đơm hoa kết trái. Chúa Giêsu nói rằng người ta sẽ biết chúng ta là môn đệ của Ngài qua cách chúng ta yêu thương nhau: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13: 35). Hãy yêu người khác, không phải vì họ xứng đáng, nhưng vì Chúa yêu bạn dù bạn không xứng đáng.

Một cực đoan tội lỗi khác là chúng ta bỏ cuộc. Chúng ta thấy mình đã sa ngã bao xa và đặt câu hỏi về sự cứu rỗi của mình. Chúng ta đánh mất niềm hy vọng vĩnh cửu vì nhìn thấy sự thất bại của mình. Thưa các bạn, Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn thấy sự thất bại của mình và nhìn thấy lỗ hổng to lớn này, nhưng không phải để bỏ cuộc mà là để chạy đến với Chúa Giêsu và tìm thấy lòng thương xót và ân sủng để giúp đỡ trong lúc chúng ta cần. Chúng ta nên quỳ gối cầu nguyện, tạ ơn Thiên Chúa vì chỉ nơi Chúa Giêsu mới có ân sủng: “Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Chúa Giêsu Kitô mà có” (Ga 1:17). Câu Kinh thánh này sẽ khiến chúng ta yêu mến Ngài nhiều hơn vì chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta biết bao: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18:21-22). Và chúng ta cần đến ân sủng của Ngài biết bao. Chúng ta xin ơn khát mong hoán cải để chúng ta được nghỉ ngơi trong ân sủng của Thiên Chúa. Đây là bức tranh Chúa Giêsu vẽ về vương quốc của Ngài. Bạn có thể có cuộc sống đầy phúc lành nếu bạn tuân theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa, nhắm thẳng đến tiêu chuẩn đó và yên tâm khi biết rằng bạn có một Đấng Cứu Độ là Đấng sẽ che đậy những thất bại của chúng ta khi chúng ta cố gắng sống cho Ngài.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã truyền cho chúng con phải kiềm chế để không giải quyết điều ác bằng điều ác. Xin đổ đầy trái tim chúng con tình yêu của Ngài để chúng con có thể lan tỏa tình yêu này ra khắp thế giới để tiêu diệt mọi sự dữ. Amen.

 

Phêrô Phạm Văn Trung

Từ https://catholicreadings.org

Hội Thánh dạy “Nên Thánh” cách nào?

Hội Thánh dạy: Chúng ta trở nên thánh thiện là hoàn toàn do bởi ơn Chúa. Điều này được diễn tả rõ ràng trong Thánh Kinh, đến nỗi, không thể nào bị chất vấn. Chân lý này phải tác động đến cách sống của chúng ta, bởi vì, nó tuôn chảy từ cốt lõi của Tin Mừng và đòi buộc chúng ta không chỉ chấp nhận nó trong trí năng, mà còn phải biến nó thành một niềm vui lan tỏa. Chúng ta chỉ có thể hát mừng quà tặng nhưng không này, khi chúng ta nhận ra những khả năng tự nhiên cũng như siêu nhiên của mình, đều là ân ban của Chúa. Điều này thật không dễ chút nào, trong một thế giới vốn nghĩ rằng mọi sự đều do tự nó, và do sáng kiến của nó.

Chúng ta không thể tự mình nên thánh, nhờ vào các việc làm đạo đức nơi Bàn Tay, hay những suy tư thần học nơi Bàn Giấy, ngay cả, những tâm tình sốt mến nơi Bàn Quỳ cũng chưa chắc, bởi vì, Bàn Quỳ vẫn có thể trở thành Bàn Quỷ, khi Satan lẻn vào thao túng ta bằng các thị kiến, phép lạ, nếu, Bàn Quỳ không được đặt ngay trước mặt, ngay bên cạnh, ngay bên dưới Bàn Thờ Thập Giá, trong sự vâng phục các Đấng Bản Quyền, bởi vì, sức nặng của chân Bàn Giấy, chân Bàn Quỳ, và Bàn Tay không đủ năng quyền: để đạp nát đầu con rắn, chỉ có, chân Bàn Thờ Thập Giá, có Đấng dùng sự khôn ngoan của Thập Giá, mới có đủ uy lực để làm được việc đó mà thôi. Vì thế, chúng ta phải đề cao cảnh giác trước những thế lực cản trở và mê hoặc chúng ta trên hành trình trở nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng Hoàn Thiện.

Tiến Sĩ Bàn Giấy – Kẻ Thù của Việc Nên Thánh: (1) Họ cầm tù người khác trong các tư tưởng của họ; đo lường sự hoàn thiện bằng lý trí, tri thức, hiểu biết, nhưng bỏ quên đức ái. (2) Họ không quan tâm đến tha nhân, nên họ thiếu khả năng chạm đến những đau khổ của Đức Kitô nơi những người khác. (3) Họ giảm trừ giáo huấn của Đức Giêsu thành một luận lý khắc nghiệt, lạnh lùng. (4) Họ là những ngôn sứ giả, sử dụng tôn giáo để quảng bá tri thức như: thay thế Thiên Chúa Ba Ngôi và Nhập Thể bằng Đơn Nhất Tính. (5) Họ tự cho mình là thánh, là tốt lành hơn những đám đông dốt nát.

Tiến Sĩ Bàn Tay – Kẻ Thù của Việc Nên Thánh: (1)  Họ chỉ tin tưởng vào sức mạnh của mình và cảm thấy mình cao hơn người khác khi tuân giữ một số quy tắc, luật lệ. (2) Họ coi ý chí là toàn năng, ân sủng chỉ là cái được bổ sung vào. (3) Họ tự nên thánh bằng những việc làm, và những cố gắng của riêng mình, mà không cần ân sủng của Chúa. (4) Họ nghĩ mình có quyền đòi hỏi, và cũng có thể mua được ân sủng thần linh bằng những nỗ lực của mình. (5) Họ tự mãn, kiêu hãnh về khả năng xử lý những vấn đề thực tiễn, những chương trình tự lực, và thành tựu cá nhân.

Hội Thánh không ngừng dạy rằng: chúng ta nên thánh không phải bởi những việc làm hay những cố gắng của riêng mình, nhưng là bởi ân sủng của Chúa, Đấng luôn luôn đi bước trước. Ngay cả khát vọng được thanh tẩy cũng đến với chúng ta nhờ sự tuôn đổ và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta được nên thánh cách nhưng không, bởi vì, không có gì đi trước việc nên thánh, không phải đức tin cũng không phải việc làm, mà chính là do ân sủng. Ân sủng Chúa trao ban thì vượt quá năng lực của lý trí và ý chí của chúng ta.

Được trở nên nghĩa thiết và bạn hữu của Thiên Chúa là một điều gì đó muôn trùng siêu vượt trên chúng ta. Chúng ta không thể mua nó bằng những việc làm của mình. Đó chỉ có thể là một quà tặng, do sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa. Điều này mời gọi chúng ta hân hoan sống tâm tình biết ơn về ân ban mà mình hoàn toàn bất xứng này, bởi vì, khi chúng ta nhận được ân sủng, thì ân sủng đã nhận được đó, không phải do chúng ta xứng đáng. Ước gì ta ý thức rằng: Ngày cuối đời, ta sẽ ra trình diện trước mặt Chúa với đôi bàn tay trắng, tất cả những việc làm, mà ta tưởng là thánh thiện, thì đều nhiễm uế trước mắt Chúa. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB