2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

BẢN CHẤT CỦA HAM MUỐN

Đức Giêsu dạy: Phải giữ mình khỏi mọi thứ ham muốn (x. Lc 12,15), “mọi thứ”, chứ không phải: chỉ một số thứ. Nếu ta không kính sợ Chúa, thì, ta sẽ sợ hãi mọi thứ, còn, khi đã kính sợ Chúa rồi, thì, ta sẽ không còn sợ hãi bất cứ điều gì khác nữa. Cũng vậy, nếu ta không ham thích làm theo ý Chúa, thì ta sẽ bị mọi thứ ham muốn thống trị, còn, khi đã ham thích thực thi ý Chúa rồi, thì, ta sẽ không còn ham muốn bất cứ thứ gì khác nữa. Ước gì chúng ta biết bắt chước Đức Giêsu, để ngày càng, trở nên đồng hình đồng dạng với Người, Đấng không ham muốn bất cứ thứ gì khác, ngoài việc, chỉ làm theo thánh ý Chúa Cha mà thôi. 

Ham muốn là bất kỳ năng lượng nào sinh ra từ sự “muốn”: muốn có, muốn hơn, muốn khác, muốn vô tận… khi ta chống lại nó ở chỗ này, nó sẽ lẩn đi, và xuất hiện ở một chỗ khác: ta từ bỏ ham muốn xác thịt, nó chuyển thành ham muốn được ca ngợi vì sống khiết tịnh; ta buông bỏ của cải vật chất, nó xuất hiện trong ham muốn được xem là người sống khó nghèo; ta rời xa danh vọng, nó lén lút chui vào trong ham muốn được người khác xem là khiêm nhường, xóa mình. Ham muốn vận hành theo ba nhịp: (1) cảm giác “thiếu”,  (2) phải lấp đầy, và (3) tiếp tục thấy “thiếu”, như một vòng tròn trói buộc, trói ta vào một hình trình không điểm kết: sau khi lấp đầy, ta tưởng như đã thoát, nhưng không, một cơn “thiếu” khác lại sinh ra, một ham muốn khác lại lên tiếng, cái vừa có bỗng hóa nhàm chán, cái vừa đạt bỗng trở thành cũ kỹ, niềm vui vừa chạm bỗng vụt tan biến, và ta lại bắt đầu muốn thêm, muốn khác, muốn mới.

Ham muốn liên hệ mật thiết với cái tôi: Ta tưởng ham muốn là vấn đề, nhưng không, ham muốn chỉ là biểu hiện bên ngoài, còn gốc rễ sâu nhất, chính là cái tôi luôn thấy mình thiếu thốn, vì vậy, không lạ gì, khi người càng có cái tôi mạnh, thì, ham muốn càng lớn; càng thấy mình đặc biệt, thì, càng muốn nhiều hơn để nuôi dưỡng sự đặc biệt đó. Ham muốn không chỉ đơn thuần là muốn “có”, mà, nó còn mong trở thành muốn “là”, muốn là ai đó, muốn trở thành một phiên bản khác, ta càng muốn là càng mất đi sự hiện diện đích thực trong phút giây này: ta không còn sống, mà, đang phát thảo; không còn hiện hữu, mà, đang phấn đấu để theo đuổi một mô hình bản thân trong đầu, vì thế, cái tôi và ham muốn là hai mặt của cùng một tiến trình, ham muốn nuôi cái tôi, và cái tôi sinh ra ham muốn mới.

Sai lầm phổ biến nhất trên hành trình thiêng liêng là: muốn thủ tiêu ham muốn, và thế là, ta bắt đầu chiến đấu, chống lại những ham muốn, đè nén những cảm xúc được cho là không thuần khiết, càng nén nó dưới lớp ý thức, nó càng âm ỉ cháy trong chiều sâu vô thức, bởi vì, ham muốn không thể bị tiêu diệt như một kẻ thù, nó không phải là kẻ thù, nó là một hiện tượng, sinh ra khi đủ điều kiện, và tan đi khi điều kiện ấy mất, điều khiến ham muốn mạnh lên không phải vì nó có quyền lực, mà vì, ta không chịu nhận diện nó đúng như nó là: một ham muốn nổi lên, ta đừng chạy theo, cũng đừng xua đuổi, chỉ nhìn, để nó bốc lên, chuyển động, và tan vào hư không, khi đó, ham muốn trở nên trong suốt, nó không còn là một cơn thèm muốn nguy hiểm, mà chỉ là, một dòng năng lượng đang đi sai hướng, và khi, ta không bị cuốn vào, ham muốn sẽ không còn đất sống, như mặt trăng, không cần xua mây, chỉ cần đứng yên, mây tan, ánh sáng sẽ tự lộ.

Sống không ham muốn, không phải là một đời sống khô cằn và vô cảm, mà là, thoát khỏi sự điều khiển của mọi ham muốn, một cuộc sống không xuất phát từ “thiếu”, nhưng, từ chính sự “đủ đầy”, xuất phát từ lòng tin tưởng tuyệt đối vào Đấng luôn yêu thương, chăm sóc, quan tâm đến những thụ tạo bé nhỏ nhất như chim sẻ, hoa huệ ngoài đồng, và cũng chính từ sự “đủ đầy” đó, sự sống bắt đầu hiện ra trong trạng thái nguyên sơ nhất, không bị nhuộm màu bởi cái tôi ham muốn, không bị bóp méo bởi kỳ vọng, không bị kéo lê bởi sợ hãi, bởi vì, mọi ham muốn đã được thuần hóa, đã điều hướng theo ý muốn của Đấng làm chủ mọi loài.

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

BỐN CÁM DỖ TRÊN ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG

Có một nghịch lý: mới bước vào đời sống thiêng liêng, thì, ta càng nhận biết mình rõ hơn; càng đi lâu, thì, ta lại càng mù mờ về chính mình, bởi vì, càng đi lâu, ta càng phủ lên mình  nhiều lớp mặt nạ khác nhau: trưởng thành, thiêng liêng, chiêm niệm, thị kiến, thần bí…

Cám dỗ thứ nhất - ham muốn: Ta háo hức muốn tiến bộ, nôn nóng muốn nên thánh, hâm hở muốn đạt một trạng thái cao hơn trong cầu nguyện; thế gian thèm tiền bạc, ta thèm nhân đức; thế gian thích nổi tiếng, ta thích danh hiệu người thuần thiêng; thế gian chuộng những gì bên ngoài, ta chuộng những trạng thái bình an, chiêm niệm. Không có gì sai, khi ta mong muốn bước đi xa hơn trên đường thiêng liêng, nhưng vấn đề là, nếu mỗi bước đi đó vẫn được thúc đẩy bởi những thèm khát, thì, ta vẫn đang bị dẫn dắt bởi lòng tham, dù, nó được bọc dưới bất kỳ hình thức thiêng liêng nào. Nếu không nhận ra: lòng tham đang biến tướng trong đời sống thiêng liêng, ta sẽ chạy lòng vòng trong chiếc lồng, được sơn màu thánh thiện.

Cám dỗ thứ hai – hoài nghi: Ta bước vào đời sống thiêng liêng với một con tim đầy khát khao, nhưng, dần dà, ta bắt đầu sống bằng “đầu” nhiều hơn “tim”: mỗi hành động đều được lý giải, mỗi cảm xúc đều được phân tích, lúc đó, đời sống thiêng liêng không còn là trải nghiệm sống, mà là, một đối tượng để lý giải; không còn là linh đạo, là đường đi, mà là, một mô hình để đánh giá, và ở đó, hoài nghi ngự trị như một nhà phê bình lạnh lùng, chỉ cần một chút chưa chắc, một chút lý trí hơn con tim, thì, cũng đủ khiến ta không còn bước đi như trước nữa, ta vẫn làm các việc thiêng liêng, nhưng, lòng nguội lạnh; vẫn cầu nguyện, nhưng, không còn háo hức; vẫn đọc sách thiêng liêng, nhưng, mọi câu chữ đều trôi tuột.

Cám dỗ thứ ba – tự mãn: Ta tự cho mình đã đi xa hơn những người khác, không còn tranh luận, nhưng, trong lòng vẫn thầm nghĩ: người kia còn nông cạn; không còn chê trách, nhưng, trong lòng vẫn thấy mình đã tốt hơn họ; Tự mãn của người đời thì dễ thấy: ham muốn, hơn thua, giành giật, nhưng, tự mãn của người đang tiến trên đường thiêng liêng, thì, khó phát hiện hơn nhiều: ta không còn tìm sự thừa nhận công khai, mà, bắt đầu tận hưởng sự tán thưởng thầm lặng trong chính lòng mình: trước đây, mình hay nóng giận, giờ thì yên rồi; người khác còn kẹt ở những thứ bên ngoài, mình thì đã thoát được rồi. Những ý nghĩ này, dù không nói ra, nhưng, vẫn dệt nên một bức màn kiêu hãnh, một cái tôi mới: tinh tế hơn, lặng lẽ hơn, chắc nịch hơn: không còn tranh luận, nhưng, vẫn muốn đúng; không còn lên tiếng, nhưng, vẫn thấy mình hơn; vẫn còn muốn được thừa nhận là thánh thiện, là đã đạt đến trình độ thiêng liêng sâu sắc.

Cám dỗ thứ tư – mệt mỏi: Tâm hồn ta từng cháy bỏng ngày đầu, giờ đây, như tro bếp nguội dần, không phải vì lười, mà vì, đã mỏi: mỏi, vì ta đã giữ luật bao năm, mà vẫn thấy lòng chưa trong sạch; mỏi, vì ta cầu nguyện bao ngày, mà tâm hồn vẫn còn loạn động; mỏi, vì ta đã đọc hàng trăm cuốn sách thiêng liêng, nghe hàng ngàn bài giảng, mà trong lòng vẫn là một khoảng lặng trống không, ta bắt đầu nghi ngờ chính mình; ta vẫn cầu nguyện, vẫn nghe giảng, nhưng, chỉ để giữ lễ nghi, hình thức, không biết đang đi đâu, cũng không chắc mình còn muốn đi tiếp, tâm hồn đã cạn hy vọng, nhưng, vẫn còn đứng đó, vì không còn biết đi đâu khác.

Những cám dỗ này biến hóa theo từng giai đoạn hành trình, chúng không đến để cản đường, nhưng, để xem ta có đủ chân thành để bước tiếp không. Thánh thiện, thần bí, không nằm ở cuối con đường, mà có thể có mặt ngay bây giờ, trong chính khoảnh khắc ta thấy mình đang mỏi, mà vẫn một lòng tin tưởng, đợi chờ Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Người: Khi ta không còn gì để bám víu, chỉ còn sự có mặt trần trụi, trong sự hiện diện của Chúa, thì, chính lúc đó, con đường không còn là con đường, mà chỉ là từng bước rất nhẹ, rất thật, không để đến đâu cả, mà vẫn đang về nơi nguồn cội, là chính Chúa, Đấng luôn dõi theo từng bước ta đi.

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.

BỐN CẠM BẪY KHI CẦU NGUYỆN

Cầu nguyện Kitô giáo không nhằm tìm kiếm cảm giác an lạc thư thái, nhưng là, tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Bất cứ phương pháp cầu nguyện nào không quy hướng về Đức Kitô, và không nhằm giúp xây dựng tương quan cá vị với Đức Kitô, thì, đó không phải là cách cầu nguyện của Kitô giáo. Hiểu đúng về cầu nguyện là một chuyện, nhưng, thực hành đúng lại là một chuyện khác. Nhiều người đã bỏ cầu nguyện, vì thấy không hiệu quả; Số khác thì bị lún sâu vào ảo tưởng do chính tâm trí mình tạo ra. Vì thế, trước khi thực hành cầu nguyện, chúng ta cần phải hiểu về những cạm bẫy, mà việc cầu nguyện có thể mang lại.

Như đã nói, cầu nguyện Kitô là nhằm tìm ý Chúa, mà, thánh ý Chúa lại rất nhiệm mầu, vì thế, chúng ta cần phải có người đồng hành tốt, để giúp chúng ta khách quan hóa chính mình, và tránh được những cạm bẫy do chính mình hay Satan bày ra. Ở cấp độ thấpngười đồng hành tốt sẽ hướng dẫn, chỉnh sửa, và vạch trần những cạm bẫy, để giúp ta đi đúng hướng; Ở cấp độ cao, người đồng hành tốt sẽ là người chứng kiến một cuộc tình, là khán giả ngồi coi “phim ngôn tình”, mà diễn viên chính là Chúa Thánh Thần và người đang thực hành cầu nguyện, họ chỉ hiện diện ở đó, bao lâu, Chúa thấy là cần thiết, để giúp ta khỏi chủ quan.

Cạm bẫy thứ nhất: muốn dừng suy nghĩ. Thiên Chúa tạo dựng bộ não của chúng ta với những dòng suy nghĩ liên tục, kể cả khi ta ngủ, vì thế, khi cầu nguyện, ta thường hay lo ra chia trí là vì lý do này. Nếu ta dừng nó cách cưỡng ép, nó sẽ phải phản kháng. Cầu nguyện không phải là một cuộc chiến chống lại suy nghĩ, nhưng là, cứ để cho những suy nghĩ vận hành cách tự nhiên, và nhiệm vụ của ta là khơi dòng để chúng chảy xuôi về phía Chúa.

Cạm bẫy thứ hai: muốn tìm một cảm giác đặc biệt. Nhiều người khi cầu nguyện mong muốn đạt được một cảm giác nhẹ nhàng, an lạc thư thái, hay một sự chuyển hóa nội tâm nào đó. Cầu nguyện không phải là đi tìm một trạng thái đặc biệt, mà là, rèn luyện khả năng sống trong sự hiện diện của Chúa. Cầu nguyện không phải là làm cho bầu trời quang đãng, mà là nhận ra rằng: dù có bất kỳ cơn bão nào đi qua, thì bầu trời vẫn luôn ở đó, vẫn luôn rộng mở, Chúa vẫn luôn hiện diện ở đó, trong những nghịch cảnh đau thương của chúng ta.

Cạm bẫy thứ ba: muốn trốn chạy cuộc sống. Nhiều người chỉ cảm thấy bình an, thư thái khi cầu nguyện, nhưng, khi bước ra khỏi trạng thái cầu nguyện, họ lại bị cuốn vào những lo âu, căng thẳng và những thói quen cũ. Cầu nguyện đúng cách là xây dựng được mối tương quan cá vị với Đức Kitô, và có khả năng mang Đức Kitô vào trong mọi hoạt động của chúng ta: khi ta ăn, khi ta làm việc, khi ta giao tiếp với người khác, nếu ta làm và hành xử như chính Đức Kitô đang thực hiện, thì, ngay cả khi, ta không đang ngồi cầu nguyện, thì đó cũng chính là cầu nguyện rồi.

Cạm bẫy thứ tư: muốn kết quả ngay lập tức. Nhiều người khi cầu nguyện mong đợi rằng: sau một thời gian ngắn, họ sẽ có thể thấy một sự thay đổi rõ rệt, tâm trí có thể trở nên sáng suốt hơn, cảm xúc trở nên ổn định hơn, cuộc sống trở nên nhẹ nhàng hơn, nhưng, thực tế là, cầu nguyện không mang lại kết quả ngay lập tức, nó là một tiến trình dài, đòi hỏi sự kiên trì: có những ngày, ta thấy cầu nguyện thật dễ dàng, nhưng, cũng có những ngày ta cảm thấy cực kỳ khó khăn; có những lúc ta sẽ cảm thấy bình an, nhưng, có những lúc ta thấy đầy những xung đột nội tâm. Điều quan trọng là không bám víu vào bất kỳ trạng thái nào, mà chỉ đơn giản là, tiếp tục thực hành, giống như một dòng sông, tâm hồn ta có lúc sẽ an bình, có lúc sẽ cuộn sóng, và nhiệm vụ của ta không phải là thay đổi dòng sông đó, mà là học cách quan sát nó, sống với nó, và điều hướng nó theo đúng ý Chúa.

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

LÀM SAO ĐỂ VIỆC SUY NIỆM LỜI CHÚA TRỞ NÊN THÚ VỊ?

Mỗi khi gặp đoạn Tin Mừng về “cái rác, cái xà” (Mt 7,1-5), thì ngay lập tức, ta nghĩ ngay đến việc “xét đoán”: nhìn vậy, mà không phải vậy, như câu chuyện của Khổng Tử về “nồi cơm Nhan Hồi”, rồi, ta rút ra những bài học về nhân bản, về luân lý của việc xét đoán.

Lời Chúa là lời mặc khải, là ánh sáng soi đường, để giúp ta sống đức tin, đức cậy, đức mến cách triển nở, để rồi, giữa bao sóng gió cuộc đời, ta vẫn cứ kiên trì giữ vững lòng tin vào Chúa, hầu, đạt được ơn cứu độ Chúa đã hứa ban, vì thế, Lời Chúa phải vượt lên trên những giá trị nhân bản thông thường, và những đòi hỏi luân lý tự nhiên, để vươn tới những giá trị siêu nhiên, hầu, giúp ta nên đồng hình đồng dạng với Đấng đã yêu thương và thí mạng vì ta.

Đoạn Tin Mừng “cái rác, cái xà” (Mt 7,1-5), được đặt trong bối cảnh Phụng Vụ của Thứ Hai Thường Niên Tuần XII, Năm Lẻ, mang một sắc thái hoàn toàn khác với những gì chúng ta thường gán ghép cho nó. Nếu các Nhà Phụng Vụ muốn ta suy niệm theo chủ đề “xét đoán”, thì tại sao họ không in nghiêng câu “Đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán”, nhưng, họ lại chọn câu: “Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã”, như vậy, ý của các Nhà Phụng Vụ là: khi lấy “cái xà” ra khỏi mắt mình, ta sẽ thấy được cái gì đó, mà nếu, không lấy “cái xà” ra, thì ta không thể nhìn được cái đó. Vậy “cái đó” là cái gì? Tất cả các bản văn phụng vụ và những yếu tố phụng vụ kèm theo của ngày lễ hôm đó, sẽ cho ta biết “cái đó” là cái gì.

Chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt mình, để nhìn thấy rõ: mình là ai, mang danh xưng gì, hầu, ta sống xứng đáng với danh hiệu đó, cho dù, có phải trả giá, ta vẫn cứ tin rằng: Nếu ta không rời xa Danh Thánh, thì, Chúa cũng sẽ chẳng rời bỏ chúng ta, như trong Lời Tổng Nguyện, các Nhà Phụng Vụ muốn chúng ta xin cho mình: hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, thì Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ. Trong Giờ Kinh Sách: Bài đọc 1: trích sách Samuen Quyển I nói: ông Đavít đã chiến đấu vì Danh Đức Chúa, nên ông đã chiến thắng Goliát. Bài đọc 2thánh Ghêgôriô Nítxê nhắc nhở chúng ta sống đúng danh xưng là Kitô hữu của mình.

Chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt mình, để nhìn thấy rõ: Chúa là gia nghiệp của chúng ta, và chúng ta cũng chính là gia nghiệp của Chúa, như Ca Nhập Lễ: Trên gia nghiệp này, Chúa thi ân giáng phúc và dẫn dắt nâng niu đến muôn đời. Chúa là sức mạnh, là thành trì bảo vệ gia nghiệp của Chúa, phần chúng ta là: lấy cái xà ra khỏi mắt mình, để, như Ca Hiệp Lễ: ngước mắt trông lên Chúa, đợi chờ Người đến bữa cho ăn. Chúng ta là gia nghiệp của Chúa, được Chúa chọn, như Người đã chọn Ápraham trong Bài đọc 1, trích sách Sáng Thế: ông Ápraham đã rời bỏ quê hương xứ sở của mình, từ bỏ danh xưng là công dân của xứ sở mình, để nhận lấy danh xưng của một công dân mới, trong miền đất mà Chúa hứa sẽ ban cho ông. Chúng ta thuộc về Chúa, mang Danh Chúa, và một khi đã lựa chọn như thế, ta phải chấp nhận trả giá, bởi vì, những ai thuộc về Chúa, thì không thuộc về thế gian, và sẽ bị thế gian bách hại; Thế gian sẽ vui cười, còn ta sẽ khóc lóc, nhưng đừng lo, ưu sầu của ta sẽ biến thành niềm vui, vì Chúa hằng để mắt trông nom gia nghiệp của Người, vì Chúa hằng bảo vệ những ai mến yêu Danh Thánh, nhờ được nghe Danh Người, ta sẽ phấn khởi mừng vui, như Đáp Ca: Tv 32: Hạnh phúc thay dân nào, Chúa chọn làm gia nghiệp. Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, hầu, cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn.

Chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt mình, để nhìn thấy rõ: ta mang một danh hiệu cao quý nhất, linh thiêng nhất, trọng đại nhất, vượt trên mọi danh hiệu, vì được vinh dự mang chính Danh của Đức Kitô, khi được gọi là “Kitô hữu”. Ước gì đời sống của chúng ta luôn minh chứng cho danh hiệu “Kitô hữu” cao quý của mình. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.

BA CẤP ĐỘ NHẬN BIẾT CHÚA

Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô (Ga 17,3). Chúa mặc khải những mầu nhiệm cao cả cho những kẻ bé mọn. Không phải xác thịt hay máu huyết, nhưng là, chính Chúa mới mặc khải cho ta biết về Chúa. Vì thế, nếu chúng ta cậy vào sức mình, để rồi tự mãn với những hiểu biết của mình về Chúa, thì chúng ta đang tự ru ngủ mình trong những sai lầm giả dối. 

Cấp độ 1 – nhận biết từ ngoài: Ta vay mượn từ những gì người khác đã nói, đã viết, đã dạy về Chúa. Những hiểu biết này không đến từ kinh nghiệm sống của ta, mà chỉ đến từ việc ghi nhớ, sao chép và lặp lại. Ta biết rất nhiều điều về Giáo Lý, Thánh Kinh, nhưng chưa từng sống. Ta luôn có nhu cầu chứng minh mình đúng, bằng cách bám vào các thần học gia có danh tiếng và những trích dẫn từ những cuốn sách thần học nổi tiếng. Ta nói được những điều sâu sắc, được người khác ngưỡng mộ, nên, ta cứ tưởng: mình đã đạt đến một trình độ thiêng liêng, thần bí nào đó, nhưng thật ra, ta chỉ đang lạc lối trong mê cung của ngôn ngữ, của kiến thức mà thôi. Nếu ta chỉ dừng lại ở sự vay mượn này, thì những hiểu biết đó sẽ trở thành nhà tù: giam hãm ta trong thói đạo đức giả, vì tưởng mình đã thánh thiện.

Cấp độ 2 – nhận biết từ trong: Ta không còn tích lũy kiến thức từ bên ngoài, mà là từ nơi nội tâm của mình, ở đây, ta không còn dễ dãi với chính mình, ta bắt đầu xét lại những động cơ ẩn sau hành động. Đây là ánh sáng đầu tiên, dù còn yếu ớt, nhưng, đã bắt đầu chiếu dọi vào trong những gốc khuất của tâm hồn ta, khơi dậy trong ta một loại trung thực nội tâm, và chính sự trung thực này là cái mầm đầu tiên của tự do: những điều ta từng nghe, từng đọc, giờ đây, đã được chứng nghiệm bằng chính trải nghiệm sâu sắc của đời sống thực. Ta không còn vội vã chia sẻ điều mình biết, không phải vì ích kỷ, nhưng, vì ta đã hiểu: có những thứ không thể diễn đạt bằng lời nói. Nhận biết Chúa từ nơi bản thân hèn yếu mỏng dòn của mình là ngọn lửa âm ỉ cháy từ bên trong, đủ sức thiêu rụi mớ giả tạo còn sót lại trong ta, đây là lúc mà, lời nói và đời sống của ta bắt đầu hòa thành một, nơi không còn khoảng cách giữa điều ta biết và điều ta sống, và chính điều này khiến ta trở nên đáng tin, dù ta chẳng cần cố gắng để thuyết phục ai.

Cấp độ 3 – nhận biết từ Chúa: Ta không còn coi bản thân là trung tâm, ta có thể im lặng nghe một cuộc tranh luận thần học mà không cần chen vào, không phải vì ta không có gì để nói, mà vì ta đã thấy rõ điều gì đang vận hành bên dưới. Ta không còn nhu cầu phô diễn những hiểu biết của mình. Ta không thuyết phục ai, nhưng, sự hiện diện của ta đã soi sáng một cách không lời. Ta không còn bắt người khác phải nghe mình, nếu có nói, lời của ta sẽ mang một sự chính xác nhẹ nhàng, không phải kiểu nói hay, mà là nói đúng vào cốt lõi đang bị che lấp. Chính tại nơi đây, mọi khái niệm đều tan rã, mọi nỗ lực diễn giải, mô tả hay phân tích đều trở nên thừa thãi, bởi vì, Thiên Chúa không cần được đặt tên mới hiện hữu. Nhận biết từ Chúa giống như ánh sáng mặt trời, nó không lựa chọn chiếu vào đâu, không cần được ai công nhận là đang chiếu sáng, nó chỉ đơn giản có mặt và chính sự có mặt ấy là ánh sáng.

Khao khát học hỏi, tìm hiểu, để ngày càng nhận biết Chúa hơn, đó là một việc làm tốt, rất đáng hoan nghênh. Mỗi cấp độ nhận biết đều có lý do để tồn tại, vấn đề là, chúng ta phải ý thức rằng: tự sức mình, chúng ta không thể nhận biết Thiên Chúa, tất cả đều do bởi tình yêu và ân sủng Chúa, việc của chúng ta là khiêm nhường: dám buông bỏ những hiểu biết từng làm chỗ dựa cho ta, và can đảm từ bỏ tham vọng trở nên thông thái để thống trị người khác. Những hiểu biết về Chúa không phải để phô diễn, không phải để tranh luận hơn thua. Ước gì ta thật sự nhận biết Chúa, để ta sống đơn giản hơn, chân thật hơn, ít lý luận hơn, và ta sẽ sống trong sự hiện diện của Chúa nhiều hơn, rời xa khỏi những ồn ào của những hơn thua về kiến thức, mà bước vào sự tĩnh lặng của sự nhận biết chiêm niệm sâu xa. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB