2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

Luyện Ngục Ở Đâu

* Kinh Thánh không nói rõ Luyện ngục ở đâu.

a/ Có người cho rằng: Luyện ngục là một “nơi” thanh tẩy các linh hồn.

Theo thánh Tôma Aquinô: “Thiên đàng , Hỏa ngục ,Luyện ngục , những nơi này đều có nơi (location) nào đó, linh hồn không lang thang vớ vẩn như phái Platon chủ trương”.

Ngài cho rằng: “Ý kiến có thể nhận được, và thấy hợp với những lời các thánh được mạc khải tư là Luyện ngục có hai nơi: một nơi dành chung cho các linh hồn, nơi này gần hoả ngục hơn; một nơi dành riêng cho một số trường hợp không thông thường, từ nơi này nhiều linh hồn được phép hiện về” (Purgatory p. 9).

b/ Có người cho rằng: Luyện ngục là một “tình trạng” (state) thanh tẩy, chứ không có “nơi” nào hết. Theo họ, nếu Luyện ngục, hỏa ngục ở trong lòng đất, thì người ta có thể đào ra, phá đi…

Thực ra, đây là chuyện của đời sau, chuyện của thế giới thiêng liêng, người còn sống ở đời này biết thế nào mà diễn tả cho đúng, nếu không dựa vào quyền Giáo hội. Đàng khác, có “nơi”, hay chỉ là “tình trạng” thì đâu quan trọng gì, điều quan trọng là đừng phải vào đấy, hay vào mà chóng được ra để về Thiên đàng, nên người sống gắng lo cứu thân nhân, ân nhân mình càng nhanh càng tốt.

* Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 công bố năm 1992, đã dành 3 số nói về Luyện ngục, nhưng cũng không nói rõ luyện ngục là một nơi hay một tình trạng.

– Số 1030 viết: “Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng”.

– Số 1031 viết thêm: “Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt (trong hỏa ngục)…

– Số 1032 viết tiếp: “Giáo huấn này cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh: “Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình” (2 Mcb 12,46). Ngay từ những thời gian đầu, Giáo Hội đã tôn kính việc tưởng niệm các người đã qua đời, và dâng kinh lễ để cầu cho họ, nhất là dâng Thánh lễ( xem DS 856), để họ được thanh tẩy và tiến vào nơi chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Giáo Hội cũng khuyên làm việc bố thí, hưởng các ân xá và thi hành những việc đền tạ để giúp các người đã qua đời”.

– Mạc khải tư nói: Luyện ngục ở trong lòng đất: (tin hay không tùy ý)

* Theo ý kiến chung các nhà thần học ngày trước như Thánh Augustinô, thánh Bêđa, Bellarminô… thì Luyện ngục ở trong lòng trái đất.

Truyện chứng:

1/ Thánh nữ Têrêsa Avila thương các linh hồn Luyện ngục cách đặc biệt. Bà hay giúp các linh hồn bằng lời cầu nguyện, hi sinh và việc từ thiện. Để thưởng công, Thiên Chúa thường cho bà được thấy các linh hồn lúc ra khỏi Luyện ngục về Thiên đàng. Các linh hồn này từ lòng đất đi ra. Bà thánh viết:

” Tôi được tin một Bề trên Tỉnh dòng mà tôi quen biết đã qua đời. Khi còn sống ngài đã giúp tôi nhiều. Dù vị tu sĩ này được coi là có nhiều nhân đức, nhưng tôi thấy cần cầu nguyện cho linh hồn ngài, bởi ngài làm Bề trên trong thời gian 20 năm, nên tôi e ngại nhiều về việc săn sóc các linh hồn đã được trao phó cho ngài. Phiền muộn, tôi đi tới nhà Nguyện dâng lên Chúa chút việc lành đã làm, và van nài công nghiệp vô cùng của Chúa, xin giải thoát linh hồn vị Bề trên này khỏi Luyện ngục. Trong khi tôi đang sốt sắng khẩn nài như vậy, tôi thấy vị Bề trên này từ lòng đất đi lên phía bên phải tôi, rồi lên thẳng Thiên đàng cách vui vẻ. Vị Bề trên này đã cao tuổi, nhưng tôi thấy dáng người như ở tuổi ba mươi, vẻ mặt rạng ngời ánh sáng. Thị kiến này xảy ra rất ngắn, nhưng tôi không nghi ngờ chút nào về sự thật tôi đã được thấy. Dù ở xa chỗ ngài qua đời, đôi khi tôi cũng cảm thấy cái chết của ngài, nước mắt ngài chảy ra và khiêm tốn phó mình cho Thiên Chúa.

“Một nữ tu dòng tôi, qua đời chưa được hai ngày, khi chúng tôi đang đọc kinh nguyện cho chị, tôi thấy linh hồn chị đi từ lòng đất lên thẳng Thiên đàng.

“Cũng trong tu viện này, một nữ tu khác quãng 18 đến 20 tuổi mới qua đời. Chị thật là một mẫu gương sốt sắng, kỉ luật và nhân đức. Đời chị đã chịu nhiều đau khổ, bệnh nạn cách rất kiên trì. Tôi không nghi ngờ gì khi thấy cuộc sống như vậy, nghĩ rằng chắc chị sẽ khỏi phải vào Luyện ngục. Tuy nhiên, sau khi chị qua đời mười lăm phút, lúc chúng tôi đang cầu cho chị trong nhà Nguyện, tôi thấy linh hồn chị từ lòng đất bay thẳng về trời” (Purgatory p. 11-13).

2/ Theo hạnh tích thánh Lui Bertrand dòng thánh Đaminh do cha Antist cùng dòng và sống cùng thời với thánh nhân viết trong cuốn Acta Sanctorum kể rằng: ngày 10 tháng Mười năm 1557, khi thánh Bertrand trông coi tu viện tại Valenti, cả thành phố bị ôn dịch. Cơn dịch khủng khiếp lan nhanh như vũ bão đe dọa sinh mạng mọi người. Trong tu viện của ngài có cha Clement ước ao được chết cách thật thánh thiện, đã xưng tội chung với thánh nhân, cha còn nói: Thưa cha, nếu con chết bây giờ, con sẽ hiện về cho cha biết tình trạng của con ở đời sau”. Cha Clement đã chết thật. Đêm hôm sau ngài hiện về với thánh nhân. Cha nói rằng cha đang ở trong Luyện ngục để đền một số tội nhẹ, và nhờ thánh nhân xin cộng đồng tu viện cầu cho mình. Thánh Bertrand lập tức đi xin anh em cầu nguyện và dâng thánh lễ cho cha Clement. Sáu ngày sau, một người dân trong thành, không hay biết gì về cha Clement đã qua đời, đã tới xưng tội với cha Betrand, cho biết là linh hồn cha Clement mới qua đời đã hiện về với mình. Ông thấy đất mở ra, và linh hồn cha Clement bay thẳng về trời giống như một ngôi sao rực sáng” (Purgatory p. 13-14).

3/ Trong hạnh tích bà thánh Madalena de Pazzi, cha linh hồn bà là Cepari dòng Tên có ghi lại rằng: Bà thánh đã được chứng kiến một nữ tu trong dòng chết ít lâu trước. Một hôm, khi thánh nữ đang qùi chầu Mình Thánh, ngài thấy linh hồn nữ tu đã qua đời từ Luyện ngục trong lòng đất đi lên. Nữ tu khoác chiếc áo choàng lửa, bên trong là chiếc áo choàng sáng láng che chở cho nữ tu khỏi nóng rát. Nữ tu qùi hàng giờ tại chân bàn thờ, thờ lạy Chúa ẩn mình trong hình bánh. Đây là giờ đền tội cuối cùng trước khi nữ tu được bay thẳng về trời”.

– Đền tội tại nơi phạm lỗi:

Ngoài nơi nhất định là trong lòng đất như trên, một vài Chân phước còn cho biết thêm: Không những bị phạt trong Luyện ngục, mà có khi còn bị phạt tại một nơi nào đó, có khi gần mồ mả, gần bàn thờ Mình Thánh Chúa, có khi trong căn phòng nơi có người cầu nguyện cho mình, có khi ngay tại nơi linh hồn đã phí phạm thời giờ khi còn sống.

* Chân phước Frances Thánh Thể đã thấy linh hồn các nữ tu chịu cực hình ngay tại phòng ngủ, tại nơi hát kinh của Tu viện, nơi các nữ tu đã phạm lỗi ngày trước.

* Chân phước Benađô Colagno dòng Tên thấy một linh hồn bị phạt 43 năm tại một đường phố thành Rôma.

Mạc khải của chân phước Ann Lindmayer về Luyện Ngục
Chân phước Ann Lindmyer là Nữ Tu dòng kín Camêlô, một nhà thần bí, là con thiêng liêng của thánh nữ Têrêsa Avila. Chân phước Ann Lindmayer được Thiên Chúa ban đặc ân thường xuyên liên lạc với các Linh Hồn trong Luyện Ngục. Người nhận được rất nhiều mạc khải và thị kiến liên quan đến nguyên nhân, bản chất và thời gian chịu đau khổ của các Linh Hồn trong Luyện Ngục, về sự ghê gớm của tội lỗi cũng như thời gian cần thiết để tảy sạch mọi tội lỗi của Linh Hồn. Chân phước Ann Lindmyer đã chịu rất nhiều đau khổ để giải thoát họ.

Ngoài ra, người cũng nhận được những mạc khải và thị kiến liên quan đến thế giới siêu nhiên, mục đích để khai mở tâm trí chúng ta và giúp đưa chúng ta ra khỏi tình trạng nguội lạnh.

* Giáo hội dạy thế nào về Luyện Ngục?

Kinh Thánh nói rằng, ông Judas Maccabeeus đã gửi tới Jêrusalem hai ngàn đồng (tiền Hy Lạp) như một hy sinh để cầu cho các binh sĩ tử trận (2 Macc 12,39-45). Đó thật là hành động tốt lành và hữu ích để cầu cho người chết, để họ có thể được tha thứ tội lỗi (2Macc 12,48). Giáo hội dạy chúng ta rằng:

”có Luyện Ngục, nơi các Linh Hồn bị giam giữ. Các Linh Hồn được cứu giúp bởi lời cầu nguyện của các tín hữu còn sống, và nhất là dâng Thánh Lễ cầu cho họ.”

* Thị kiến và sự diễn tả về Luyện Ngục

Ngày 15 tháng Năm, sau khi rước Mình Thánh Chúa, tôi được dẫn vào trong Luyện Ngục. Tôi thấy trước mặt là một vực thẳm khổng lồ không đáy, vì vực thẳm hoàn toàn tối tăm. Dù vậy, tôi vẫn có thể hiểu là có người trong đó, nhưng tôi không thể diễn tả hình dáng đúng của nó. Nó giống như một nơi cực kỳ hỗn độn và xông mùi ghê tởm như một chuồng heo. Tôi phải ở trong đó một thời gian khá lâu, mặc dù nó làm tôi cảm thấy muốn nôn mửa. Sau cảnh này, tôi được thấy một nơi khác ở phía bên phải, ngay sát với một vực thẳm khổng lồ. Chỗ này trông giống như bánh xe máy xay, từ đó nước dâng lên chảy cuồn cuộn như thác, nhưng đó là một thác lửa đang rơi xuống, và tôi kinh ngạc khi thấy đó lại là thác nước nóng như lửa. Khi tôi tỉnh lại, tôi hiểu được rằng: vực thẳm không đáy là hỏa ngục, thác nước là Luyện Ngục, nơi các Linh Hồn đáng thương bị chìm trong thác nước nóng như lửa. Vì tôi có liên hệ với các linh hồn trong Luyện Ngục, cho nên tôi biết rõ rằng họ hoàn toàn vâng theo ý muốn Thiên Chúa; họ vui lòng chấp nhận đau khổ; họ rất đỗi vui mừng vì đã thoát khỏi hỏa ngục là nơi họ đáng phải vào vì các tội lỗi của họ khi họ còn sống, và được biết mình đang ở trong Luyện Ngục. Tôi mong sao chúng ta hãy tích cực noi gương sự vui lòng chịu đau khổ này của các Linh Hồn trong Luyện Ngục, để chấp nhận các đau khổ và nghịch cảnh của chúng ta cách vui lòng, nhờ thế, chúng ta sẽ không bất mãn khi sống trên trái đất này.

* Một giờ có vẻ dài hơn hai mươi năm

Tôi được biết đối với các Linh Hồn, một giờ chịu khổ trong Luyện Ngục có vẻ dài hơn hai mươi năm chịu những đau khổ ghê gớm trên thế gian. Tôi cũng hiểu được rằng, ngay cả giả như chúng ta có thể lo cho các Linh Hồn ra khỏi Luyện Ngục để lên Thiên Đàng, dù chưa được hoàn toàn tinh sạch, thì các Linh Hồn vẫn thà ở lại trong Luyện Ngục cho đến Ngày Phán Xét, hơn là ra trước Mặt Thiên Chúa với dù chỉ một chút bợn nhơ! Tôi thấy, nơi các Linh Hồn đáng thương trong Luyện Ngục một sự nhẫn nại phi thường, và tôi học được nơi các Linh Hồn việc chấp nhận vâng phục với tình yêu mến. Tôi hiểu được, nhờ gắn bó với nhân đức thánh thiện này, chúng ta giúp đỡ và đem lại cho họ những lợi ích lớn lao và mau chóng như thế nào. Ôi đúng như vậy. Thực ra chúng ta có thể gọi họ là những Linh Hồn thánh thiện trong Luyện Ngục, vì họ đầy lòng yêu mến Thiên Chúa. Họ cháy lên ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa, và khao khát được ở với Người, Đấng tốt lành, và hân hoan trong sự hiện diện của Người. Ngọn lửa này thiêu đốt họ mạnh hơn là lửa trừng phạt.

* Sự trình bày Luyện Ngục dưới những hình thức khác nhau

Một lần khác, tôi thấy Luyện Ngục như một nhà tù lửa, một nơi với những ngọn lửa đáng sợ. Mọi thứ lửa trên trần gian này không thể đem so sánh với nó, và các Linh Hồn tội nghiệp lao mình xuống đó như những tia lửa. Họ đông vô số kể, đến nỗi mắt tôi không thể nhìn thấy hết. Thật là đông đảo.

Sau đó không lâu, tôi lại thấy Luyện Ngục giống như một chiếc ao thả cá rộng lớn, trong đó có vô số cá. Những con cá này hoàn toàn trắng và đang há miệng hướng về phía tôi. Điều này cho tôi biết rằng tôi nên làm khuây khỏa họ bằng những giọt nước mắt của tôi và bằng Máu Chúa Giesu Kytô. Tôi cũng được nói cho biết tôi nên rải muối lên họ. Lúc đầu tôi không hiểu việc này, cho đến khi tôi nhận được lời giải thích: tôi phải làm và dâng các việc thiện để cầu cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục. Để giúp tôi có một ý niệm về số đông các Linh Hồn tội nghiệp này, Thiên Chúa đã cho tôi thấy Luyện Ngục dưới dạng một tổ kiến. Tôi hỏi Thiên Chúa tại sao lại cho tôi thấy các Linh Hồn dưới dạng này. Tôi được trả lời là tổ kiến có một vỏ bọc bên ngoài, cho nên chúng ta không thể thấy được số lượng kiến lớn lao bên trong. Nhưng nếu chúng ta lấy cây khuấy động tổ kiến, hay nếu chúng ta hun khói nó, thì hàng ngàn con kiến sẽ chạy ra. Qua hình ảnh này, tôi hiểu được rằng, có nhiều, nhiều Linh Hồn trong Luyện Ngục đang bị che khuất trước mắt chúng ta, giống như tổ kiến bị bọc lại ở trên kia. Hình ảnh này khiến tôi cảm thấy rất nhiệt tình trong việc cứu giúp các Linh Hồn. Chúa Kytô muốn tỏ cho chúng ta biết rằng có rất ít người nghĩ đến các linh hồn trong Luyện Ngục và sẵn lòng cứu giúp họ. Người dùng tôi như đầu cây để khuấy động ổ kiến để tôi có thể thấy số đông các Linh Hồn đang bị che khuất, những Linh Hồn mà chúng ta tưởng họ đã được lên Thiên Đàng rồi!

* Tôi nên nghĩ đến kết quả chung cuộc

Một lần nữa tôi lại được cho biết, tôi nên nghĩ đến thời gian rất ngắn ngủi của những đau khổ mà, nếu đem so với sự vĩnh cửu, nó chỉ là một khoảnh khắc ngắn, chẳng là gì. Cũng như nghĩ đến phần thưởng đời đời trên Thiên Đàng sau khi vui lòng chấp nhận những đau khổ này. Để chiếm được Thiên Đàng, chúng ta phải chịu đau khổ. Ngày nay phần lớn người ta không chịu đau khổ, vì họ không tin vào nhân đức này, đó là chúng ta phải làm việc sám hối để đền bù tội lỗi chúng ta. Nếu không, họ sẽ bị giam giữ một thời gian lâu dài trong Luyện Ngục!

Luyện Ngục là nơi Thánh Vịnh gọi là ”Vùng Đất bị Quên Lãng” (Tv 88,13) và là nơi Đấng là Chân Lý muôn đời nói: ”Ta nói rất thật với các ngươi, các ngươi sẽ không thể ra khỏi đó, cho đến khi các ngươi trả hết đồng xu cuối cùng” ( Mt. 5,26). Đối với nơi cực hình này, chúng ta áp dụng lời Thánh Vịnh: ”Bạn bè lối xóm Người tách xa tôi, bầu bạn với tôi chỉ còn bóng tối” (Tv. 88,19).

Nói về thời gian chịu đau khổ trong Luyện Ngục, đấng đáng kính nói: ”Các Linh Hồn tội nghiệp tỏ cho tôi biết rằng, trong cuộc sống đời sau, tất cả đều được tính ở độ chính xác tuyệt đối mà trong cuộc sống đời này rất khó để có thể hiểu. Từ đầu, tôi đã thường ngạc nhiên vì có quá nhiều Linh Hồn trong Luyện Ngục và phải giam hãm trong đó rất lâu, trong khi chúng ta lại nghĩ rằng họ ở đã trong cõi Hạnh Phúc Vĩnh Cửu từ lâu rồi. Tôi có thể hiểu được điều này dựa vào trường hợp của ông bà tôi, vì bà tôi hiện về với tôi sau mười bảy năm trong Luyện Ngục. Các Linh Hồn bị giam hãm trong Luyện Ngục có thể lên tới hàng trăm năm. Những điều này cho tôi hiểu, tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa nặng nề biết bao. Những tội, lỗi nếu chưa đền ở đời này, sẽ phải đền ở đời sau. Thiên Chúa ban cho chúng ta những phương thế để tảy sạch Linh Hồn chúng ta ở đời này và thanh luyện chúng ta ở đời sau. Nhưng chúng ta có dùng nên các phương thế Thiên Chúa ban cho chúng ta không?

Các Linh Hồn trong Luyện tội dạy tôi rằng, chúng ta cần xử dụng tốt các Bí Tích, các lời cầu nguyện, các ân xá, rằng do bởi chấp nhận đau khổ, nghịch cảnh, bệnh tật, chúng ta có thể đền bù tội lỗi của chúng ta được rất nhiều.

Khi tôi hiểu được những điều này, lúc đó tôi không còn ngạc nhiên khi thấy có nhiều Linh Hồn đã chết từ trăm năm trước hay lâu hơn vẫn còn ở trong biển lửa Luyện Ngục,. Tôi được dạy hãy luôn suy đến Thiên Chúa vô cùng tốt lành như thế nào, so với tội lỗi xấu sa chống lại Ngài làm sao. Tôi được dạy rằng những đau khổ trong Luyện Ngục ngắn ngủi như thế nào, nếu đem so với sự đời đời và rằng tất cả mọi đau khổ đều là không, nếu đem so với những đau khổ trong hỏa ngục.

* Chúng ta có thể cứu giúp các Linh Hồn bằng cách nào?

Những phương thế hiệu quả nhất để cứu giúp các tín hữu đã qua đời là những phương thế đang được dùng trong Giáo Hội: Lễ Hy Sinh Thánh trong Thánh Lễ, các Bí Tích, cầu nguyện.v.v. Đó là lý do tại sao thánh Pièrre Damien đã cầu nguyện: ”Ôi Chúa Giesu Thánh Thể, Đấng phá cửa Luyện Ngục và mở cửa Vương Quốc trên Trời cho các tính hữu trung thành được vào.”

Lm. Mark, CMC

Các Đẳng Linh Hồn trong Luyện Ngục

Vào năm 1827, tại thủ đô Paris nước Pháp có một thiếu nữ giúp việc nghèo thật nghèo nhưng vô cùng quảng đại. Cô tên Têrêsa. Têrêsa có thói quen lành thánh: mỗi tháng xin một thánh lễ cầu cho các đẳng Linh Hồn trong Luyện Ngục. Nhưng rồi Thiên Chúa thử thách cô bằng một chứng bệnh hiểm nghèo, khiến cô vô cùng đau đớn. Têrêsa bị mất việc làm và tiêu tán tiền của. Ngày cảm thấy kha khá, Têrêsa ra khỏi nhà với vỏn vẹn 20 xu trong túi. Cô rảo qua các khu phố để tìm việc làm. Khi đi ngang nhà thờ thánh Eustache, Têrêsa ghé vào cầu nguyện. Bỗng cô sực nhớ ra là tháng ấy, cô chưa xin lễ cho các đẳng Linh Hồn. Nhưng Têrêsa thoáng chút do dự. Số tiền 20 xu cũng là lương thực cho cô trong ngày hôm ấy. Nhưng Têrêsa không do dự lâu. Cô biết mình phải làm gì. Bất ngờ một linh mục bước vào nhà thờ, chuẩn bị dâng thánh lễ. Têrêsa hỏi cha có bằng lòng dành thánh lễ hôm ấy để cầu cho các đẳng Linh Hồn không. Cha vui vẻ nhận lời với số tiền dâng cúng 20 xu của Têrêsa .. Thánh lễ cầu cho các đẳng Linh Hồn chỉ có vị linh mục chủ tế và một giáo dân tham dự.

Lễ xong, Têrêsa ra khỏi nhà thờ tiếp tục đi lang thang tìm việc làm. Têrêsa thật sự lo lắng vì đi mãi mà không có hy vọng gì hết. Bỗng một chàng trai dáng vẽ quí tộc tiến đến gần và hỏi: “Cô tìm việc làm phải không?”. Têrêsa nhanh nhẹn trả lời: “Thưa ông phải”. Người thanh niên nói tiếp: “Cô hãy đến đường X nơi nhà số Y, chắc chắn cô sẽ có việc làm và sẽ được hạnh phúc”. Nói xong, chàng trai bỏ đi ngay không đợi nghe lời Têrêsa rối rít cám ơn.

Khi tìm được căn nhà đúng số đã chỉ, Têrêsa thấy một cô giúp việc từ trong nhà đi ra, nét mặt cau có khó chịu. Têrêsa rụt rè hỏi thăm bà chủ có nhà hay không? Cô kia đáp lửng lơ: “Có lẽ có .. có lẽ không .. nhưng có hệ gì! vì đâu có dính dáng gì đến tôi”. Nói xong, cô gái ngoay ngoảy bỏ đi.

Têrêsa run rẩy bấm chuông. Một tiếng nói dịu dàng bảo vào. Têrêsa bỗng đối diện với một phụ nữ cao niên quí phái. Bà nhẹ nhàng bảo Têrêsa hãy trình bày cho bà biết cô muốn gì. Têrêsa nói nhanh:
– “Thưa bà, sáng nay cháu hay tin bà cần một người giúp việc. Cháu xin đến nhận chỗ làm này. Người ta bảo đảm với cháu là bà sẽ tiếp nhận cháu với lòng nhân hậu”.
Bà chủ ngạc nhiên nói với Têrêsa:
– “Điều cháu vừa nói thật là lạ. Sáng nay bà chả cần ai hết. Nhưng cách đây nửa giờ bà vừa đuổi một cô giúp việc vì nó chễnh mãng trong việc làm. Chuyện này chưa hề có người nào biết, ngoại trừ bà và cô giúp việc. Vậy thì ai đã chỉ cho cháu đến đây?”.
Têrêsa đơn sơ trả lời:
– “Một thanh niên dáng điệu sang trọng, cháu gặp ngoài đường, đã bảo cháu đến đây”.

Bà chủ nhà thử tìm cho biết người thanh niên ấy là ai, nhưng vô hiệu.
Bỗng Têrêsa nhìn lên và trông thấy tấm hình một chàng trai treo trên tường. Têrêsa mừng rỡ kêu lên:
– “Thưa bà, bà không cần phải tìm đâu cho xa. Đây chính là gương mặt người thanh niên đã nói chuyện với cháu. Chính anh ta đã chỉ đường cho cháu đến đây”.

Vừa nghe xong, bà chủ nhà kêu lên một tiếng thất thanh, như muốn ngã xuống bất tỉnh. Xong, bà bảo Têrêsa tỉ mỉ kể lại cho bà nghe, bắt đầu từ chuyện cô có lòng thương mến các đẳng Linh Hồn, đến Thánh Lễ sáng hôm ấy, rồi chuyện gặp gỡ chàng thanh niên.
Khi Têrêsa chấm dứt, bà chủ âu yếm ôm hôn cô và nói:
– “Cháu không phải là đầy tớ giúp việc cho bà, nhưng từ giờ phút này, cháu là con gái bà. Chàng thanh niên mà con trông thấy chính là đứa con trai độc nhất của bà. Con bà chết cách đây hai năm và ngày hôm nay chính con đã giải thoát nó ra khỏi Lửa Luyện Hình. Bà chắc chắn như thế. Bà hết lòng ghi ơn con. Giờ đây chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho tất cả những Linh Hồn còn chịu thanh tẩy trong Lửa Luyện Ngục trước khi được vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời.

(Jacques Lefèvre, “Les Âmes du Purgatoire dans la vie des Saints”, Editions Résiac, 1995, trang 35-37)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

TỪ BỎ “CHÍNH MÌNH” LÀ GÌ?

Đức Giêsu nói: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo (x. Mt 16,24). Thật ra, chỉ một mình Chúa mới là Đấng Hằng Sống, Hằng Hữu, Hằng Có, chỉ có một Chúa là “Có”, chứ, ta đâu có gì đâu, ta chỉ là hư vô, ta “có” là nhờ thông dự vào cái “Có” của Chúa. Muốn sống, cành nho phải tháp nhập vào cây nho; muốn tồn tại, hạt nước bé nhỏ phải hòa nhập vào đại dương; tách khỏi cây nho, cành nho sẽ khô héo liền; tách khỏi đại dương giọt nước sẽ tan biến ngay. Chỉ có một thân thể duy nhất: Đức Kitô là Đầu, còn, tất cả chúng ta đều là chi thể, không một ai có thể tồn tại độc lập, một mình. Chúng ta không có cái “chính mình” riêng lẻ, vậy, từ bỏ “chính mình” là từ bỏ cái gì?

Thật vậy, ta không hề có cái “chính mình”, nói như vậy, không có nghĩa là, ta phủ nhận sự sống, hay phủ nhận sự hiện diện của ta trong đời này, ngược lại, chính vì hiểu được: ta chỉ là một chi thể trong thân thể của Đức Kitô, ta mới có thể sống sáng suốt hơn, có trách nhiệm hơn, ta không còn bị thôi thúc bởi ảo tưởng: bảo vệ và củng cố một cái “chính mình” vốn không thật, thay vào đó, ta bắt đầu thấy rõ rằng: mỗi ý nghĩ, lời nói, hành vi đều có thể làm cho ta đau khổ, nếu ta quy về hết cho “chính mình”, mà không, quy hướng về Đức Kitô. Nếu quy về Đức Kitô, thì, ách ta êm ái, gánh ta nhẹ nhàng, ta chỉ việc nghỉ ngơi, bồi dưỡng.

Khi ta thật sự nhìn thẳng vào mình, ta sẽ thấy cái “chính mình” len lõi khắp nơi: nó có mặt trong từng so sánh nhỏ nhặt: ta hơn người này, thua người nọ; nó có mặt trong từng mong cầu: mong được khen, sợ bị chê, mong được lợi, sợ bị mất; thậm chí, nó có mặt ngay trong những ý hướng tốt lành: khi ta bố thí, ta âm thầm mong phước lộc cho chính mình; khi ta nhẫn nhục, ta lại muốn chứng tỏ sự cao thượng của bản thân. Mọi đau khổ đều có thể được nhìn thấy tận gốc, nếu, ta dám nhìn thẳng vào cái “chính mình”: hãy quan sát một cơn giận, khi cơn giận nổi lên, luôn có cái “chính mình” bị xúc phạm, bị tổn thương; hãy nhìn vào ham muốn, luôn có cái “chính mình” ham muốn chiếm hữu, muốn giữ lấy; hãy nhìn vào sự sợ hãi, luôn có cái “chính mình” lo mất mát, lo tan biến. Nếu không có cái “chính mình”, thì, tất cả những đau khổ ấy còn chỗ nào để bám víu. Điều này không có nghĩa là ta phải diệt bỏ sự sống, ngược lại, nó chỉ ra rằng: khi ta từ bỏ “chính mình”, sự sống sẽ trở nên sáng tỏ và tự do: ta không phải lo nghĩ chi cả, Đức Kitô đã gánh chịu hết thay cho ta, phần của ta là: tin tưởng, cậy trông, phó thác cho Người.

Hạnh phúc thật sự không nằm trong sự thỏa mãn của cái “chính mình”, mà, nằm trong khả năng sống với một tâm hồn trong sáng: từ bỏ “chính mình”. Nếu ta vẫn nuôi dưỡng cái “chính mình”, dù là “cái mình thánh thiện”, thì ta vẫn còn là nô lệ, trong thực tế, nhiều người sống đạo đức, nhưng, vẫn chưa hạnh phúc, vì trong các việc đạo đức ấy, cái “chính mình” vẫn tồn tại: một lời khen khiến ta vui, một lời chê khiến ta buồn, một sự thừa nhận làm ta hân hoan, một sự lãng quên làm ta bị tổn thương.

Khi ý thức: ta chỉ là một chi thể trong cùng một thân thể, ta bắt đầu thấy sự thật: mọi cảm xúc, tư tưởng, hành vi, đều chỉ là dòng trạng thái nối tiếp, chúng khởi lên rồi diệt đi, giống như mây bay qua bầu trời, ta không cần đồng nhất chúng là của ta, và khi không còn đồng nhất, ta không còn bị chúng điều khiển, từ đây, một nghịch lý hé lộ: chỉ khi không còn bám vào cái “chính mình”, mà, bám chặt vào Chúa, thì, ta mới thật sự làm chủ đời mình; khi không còn bị cuốn theo thói quen ngu muội chấp vào cái “chính mình”, ta mới có thể lựa chọn sáng suốt: quy hướng về Chúa, thay vì, quy hướng về “chính mình”. Tóm lại, từ bỏ “chính mình” là thôi không còn ảo tưởng: tự mình tồn tại độc lập, mà không cần Chúa, để rồi, ta biết tháp nhập vào Chúa như cành nho gắn liền với cây nho, như giọt nước hòa nhập làm một với đại dương, để ta biết tìm về, nép mình bên Chúa như con thơ trong lòng Mẹ hiền.

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.

Ngày 01/11: Lễ Các Thánh Nam Nữ

Kính thưa anh chị em,

Có lẽ trong suốt cả năm Phụng vụ không có thời điểm nào mà mầu nhiệm hiệp thông được Giáo Hội đề cao một cách sống động khác thường như là thời gian đầu tháng 11 này. Hôm nay Giáo hội cho chúng ta hướng nhìn về các thánh – tức là nhìn vào Giáo Hội chiến thắng. Ngày mai Giáo Hội hướng chúng ta về các đẳng linh hồn – hay là Giáo Hội đang đau khổ. Nhìn vào như thế để cho chúng ta đang sống trong Giáo hội tại thế, tức là đang sống trong Giáo Hội chiến đấu biết tìm ra cho mình một hướng đi. Đi thế nào để cho mai sau chúng ta cũng đạt được vinh quang như các thánh mà chúng ta mừng kính hôm nay.

A. Các thánh là những người đã sống cuộc sống như thế nào?

Nhìn vào cuộc sống của các ngài, những con người – nói theo kiểu của Chúa Giêsu – đã cướp được Nước trời chúng ta thấy có các Ngài là những người có những nét đặc trưng sau đây:

1. Trước hết: Các Ngài là những người đã biết đáp lại lời mời gọi của Chúa.

Lời mời gọi này được nói lên một cách đơn sơ qua tiếng nói của lương tâm ngay lành – được biểu lộ một cách cụ thể qua 10 giới luật của Chúa trong Cựu Ước và nhất là được thúc bách cách triệt để hơn qua con đường Tám mối Phúc thật của Tin Mừng.

Một thí dụ trong muôn ngàn thí dụ.

Vào khoảng năm 271 một thanh niên giàu có, tới nhà thờ vào một buổi sáng Chúa nhật. Hôm đó, người thanh niên giàu có được nghe bài Phúc Âm được trích trong Matthêu 19,16-22: “Xảy ra là có một người thanh niên đến thưa với Chúa rằng: Lạy Thầy, tôi phải làm gì tốt để được sống đời đời? – Chúa đáp: Nếu ngươi muốn vào cõi hằng sống, hãy giữ các giới răn. – Người đó thưa: Những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ, tôi còn thiếu xót gì nữa chăng? – Chúa nói tiếp: Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”

Đó là một trong những lời mời gọi của Chúa. Người thanh niên đó bắt đầu suy nghĩ nhưng anh chưa thấy được con đường mà Chúa muốn cho anh đi là con đường nào.

Chúa nhật sau cũng trong khung cảnh của ngôi thánh đường quen thuộc đó, Lời Chúa lại vang lên: “Các người đừng lo cho ngày mai. Việc ngày mai để cho ngày mai lo. Khó khăn ngày nào có đủ cho ngày đó.” (Mt 6,34)

Thế là con đường đã rõ, anh về bán tất cả tài sản do bố mẹ để lại, chia phần của cô em nhờ ông bác quản lý để lo cho em, còn của anh, anh bán tất cả và làm như lời Chúa dạy rồi anh vào trong rừng vắng sống cuộc đời tu trì ở trong đó. Đó là Thánh Antôn tu rừng, ông tổ của dòng tu chiêm niệm.

2. Đặc trưng thứ hai: Đó là những người đã cố gắng đem Lời Chúa áp dụng vào đời sống của mình.

– Đáp lại Lời Chúa mới chỉ là bước đầu. Việc quan trọng là phải sống Lời của Chúa một một cách đơn sơ, chân thành, không cầu kỳ, không gò bó.

Đức Cha Arthur Tone kể lại một câu truyện rất cụ thể như sau. Một gia đình ngài quen biết có hai vợ chồng và một đứa con. Một ngày kia không hiểu vì chuyện gì mà hai vợ chồng to tiếng với nhau. Hai người tìm đủ mọi lý lẽ để biện minh cho sự phải lý của mình. Vì quá hung hăng trong việc lời qua tiếng lại mà hai vợ chồng không để ý đến cậu con trai tên là Bobbie con của hai người mới đi học về.

Bobbie thấy vậy liền nhảy lên bàn giơ hai tay lên và nói thật lớn: “Bình an – Hãy im lặng.”

Cả hai vợ chồng nhìn con rồi phá lên cười. Sau đó người mẹ ôm con vào lòng vào âu yếm hỏi: “Con học được cái đó ở đâu thế?”

Cậu thưa: “Thưa con học ở trong sách Giáo lý – Chúng con đã học câu truyện Chúa Giêsu dẹp yên bão tố – Chúa đã đưa tay ra và truyền cho sóng gió phải yên lặng.”

Câu truyện nhỏ nhưng nó cũng cho chúng ta thấy một trong những cách vận dụng đem lời Chúa vào cuộc sống.

3. Cuối cùng đó là những người biết kiên trì, trung thành với sự chọn lựa của mình một cách đáng khâm phục.

Chúa đã từng khẳng định: Con đường của Chúa là con đường hẹp, nhiều khi hẹp kinh khủng. Nó đòi hỏi những ai đi trên con đường đó một sự cố gắng hầu như là liên lỉ và nhiều khi rất anh hùng. Chỉ có những ai kiên trì và can đảm mới có thể đi trên con đường đó.

Một Antôn tu rừng mà tôi vừa mới nói ở trên chẳng hạn. Đọc tiểu sử của Ngài chúng ta mới thấy. Bán hết mọi sự để theo tiếng Chúa gọi đó đã là khó. Nhưng sống theo Chúa còn khó hơn. Sau khi đã bán mọi sự, Antôn đi vào trong rừng vắng. Ma quỉ đã không để anh được yên. Chúng thi nhau tấn công anh, tấn công bằng mọi thủ đoạn kể cả những thủ đoạn tầm thường nhất. Chúng dùng đến cả những hình ảnh bẩn thỉu nhất để cám dỗ anh. Suốt cả cuộc đời là một cuộc chiến đấu. Nhờ kiên trì mà Antôn đã đã chiến thắng.

Một trong những bà thánh mà chúng ta hay nhắc tới như bà thánh Monica chẳng hạn. Chúng ta tưởng là bà đã nên thánh một cách đễ dàng sao? Không, hoàn toàn không! Không dễ dàng chút nào cả mà là đầy những cố gắng. Hơn 30 năm trời cầu nguyện hãm mình hi sinh mà mới thành công đem được người con của bà về với Chúa. Hơn 30 năm trời kiên trì trong âm thầm lặng lẽ mới đạt tới vinh quang. Đó không phải là một cái giá đã cao. Còn nhiều sự trả giá còn cao hơn nữa. Chỉ có những ai biết nhẫn nại kiên trì, những người ấy mới xứng đáng với vinh quang Nước Trời. Chúa Giêsu đã nói: Nước trời phải dùng sức mạnh mà cướp lấy.” (Mt 11,12).

B. Bây giờ về phần chúng ta.

Đứng trước những tấm gương của các Ngài chúng ta phải có thái độ như thế nào?

Có lẽ chẳng ai trong chúng ta mà lại không muốn làm thánh. Nên thánh là mục đích mà mọi người chúng ta nhắm tới. Thế nhưng con người của chúng ta thường yếu đuối. Nói như lời thánh Phaolô: Điều tôi muốn tôi lại không làm, còn điều tôi không muốn tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Thân phận con người của chúng ta là thế. Chính vì vậy mà chúng ta phải xin với Chúa ơn can đảm.

* Một chàng thanh niên thuở xưa có tên là Salésio. Anh có tên thánh là Phanxicô. Một lần kia anh đọc lịch sử Giáo Hội, anh thấy trong Giáo Hội đã có 3 người mang tên Phanxicô đã làm thánh: Đó là thánh Phanxicô khó khăn, thánh Phanxicô đệ Phaolô, thánh Phanxicô Xaviê, tự nhiên anh cảm thấy mình cũng phải làm gì để được nên thánh. Thế là anh đi tới một quyết định: Tôi sẽ là Phanxicô thứ 4. Anh đã giữ được quyết định đó và anh đã làm thánh. Đó là thánh Phanxicô Salésio.

* Gần đây chúng ta hay nhắc đến Mẹ Têrêsa Calcutta. Tôi chắc chắn Mẹ đã biết trong lịch sử của Giáo Hội đã có hai vị thánh mang tên Têrêsa: Đó là thánh Têrêsa Avila, Têrêsa Hài đồng Giêsu. Tuy không nói ra nhưng tôi tin Mẹ cũng đã nguyện ước Mẹ cũng là một thánh Têrêsa khác. Và hôm nay, mẹ đã thành công. Giáo Hội đã tôn phong mẹ lên hàng chân phước. Chẳng bao lâu nữa mẹ sẽ lên đến đỉnh vinh quang!

Xin Chúa giúp cho chúng ta biết can đảm. Trên con đường nên thánh, Thánh Augustinô đã gặp rất nhiều thử thách. Ngài đã dùng câu nói này như câu châm ngôn để vươn lên: Ông kia bà nọ làm được tại sao tôi lại không? Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi ơn chúng ta cần. Người nọ kia nên thánh được tại sao tôi lại không? Hãy cố gắng. Chúa sẽ phù trợ cho chúng ta. Amen.

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Nguồn: Tổng giáo phận Sài gòn

TẠI SAO TA CỨ LAO ĐẦU VÀO CÔNG VIỆC?

Do tội nguyên tổ, đôi bàn tay của chúng ta đã bị vấy bẩn, lem luốc, vì thế, bất cứ công việc gì ta động tay vào, kể cả những việc đạo đức, thánh thiêng, đều bị lấm lem, nhơ nhớp, chỉ có những công việc nào Chúa thực hiện nơi chúng ta, thì, những công việc đó mới trở nên tốt đẹp. Ấy thế mà, chúng ta cứ lao đầu vào các công việc, mà bỏ quên Chúa: mỗi sáng, ta thức dậy với một danh sách dài các công việc trong đầu, hôm nay, phải hoàn thành điều này, phải đạt được mục tiêu kia, phải chứng tỏ cho người khác thấy mình có giá trị, và khi kết thúc một ngày, nếu chưa đạt được, ta sẽ chìm vào bất an, tự trách, và gấp rút lập thêm kế hoạch mới, cứ thế, ta bị cuốn vào trong một vòng xoáy liên hồi giữa các công việc.

Chúng ta lao đầu vào công việc vì muốn xây dựng một hình ảnh đẹp về mình: ta sợ bị đem ra so sánh, sợ bị xem thường; ta thường đánh giá người khác qua các công việc của họ: một người làm được nhiều việc, ta cho là tài giỏi, nhiệt tình, hữu dụng; còn những ai chậm chạp, làm được ít việc, thì, ta cho là yếu kém, ăn bám, vô dụng. Ta bị kiệt sức, vì chạy theo năng suất, hiệu quả, thành tựu; ta lập kế hoạch theo từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, tất cả đều phải tối ưu, nhưng, càng tối ưu, ta càng kiệt sức, rơi vào lo âu, thậm chí, trầm cảm.

Nếu ta làm việc theo sự thúc đẩy của Thánh Thần, thì, ta sẽ còn không chạy theo tham vọng để chứng tỏ mình, việc làm của ta sẽ tự nhiên: như hạt nảy mầm, như hoa chớm nở, không phải vì được ai đó ghi nhận, cũng không phải vì mong chờ một kết quả đặc biệt nào; khi ta không đặt điều kiện, mọi công việc sẽ tuôn chảy nhẹ nhàng: Một bông hoa nở, đâu vì, muốn ai đó ngắm, mà vì, nở là bản tính của nó; Một người mẹ yêu con, đâu phải vì, mong con sau này báo đáp, mà vì, tình mẫu tử khiến bà hành động; Một người làm việc bác ái thật sự, đâu phải, để ai đó nhìn thấy, mà vì, bác ái là căn tính và sứ mạng của người Kitô hữu. Khi công việc không bị tham vọng chi phối, ta nhận ra những điều rất kỳ lạ: công việc vẫn được làm, trách nhiệm vẫn được gánh vác, nhưng, tâm hồn không còn nặng nề, thay vì, làm để đạt được gì, ta chỉ làm vì sự sống đang mời gọi, vì tình yêu Chúa đang thúc bách, và chính sự tự nhiên này đã mở ra một sự “tự do”, không ai có thể lấy mất được.

“Tự do”: “tự” là từ, “do” là nguyên do, khi nào ta ý thức rằng: ta từ “NGUYÊN DO” viết hoa, là chính CHÚA mà đến, thì, khi đó, ta được “tự do”; khi nào ta ý thức rằng: ta không thể tự mình mà có, không thể tự mình làm được bất cứ điều gì tốt đẹp cả, nếu như, những điều đó không đến từ Chúa, thì, khi đó, ta được “tự do”. “Tự do” không còn là khái niệm để bàn luận, không phải một trạng thái để miêu tả, cũng không phải một thành tựu để khoe khoang, “tự do” ấy như làn gió nhẹ thoảng qua, có thể cảm nhận, nhưng, không nắm giữ, nó là một kinh nghiệm sống động vượt ngoài ngôn ngữ. 

Khi ta ý thức rằng: mọi công việc tốt đẹp đều đến từ Chúa, chứ, không phải đến từ chúng ta, thì, chúng ta sẽ được “tự do”, khi đó, ta sẽ sống thật, chứ, không còn phải cố dùng công việc để xây dựng một hình ảnh đẹp đẽ về mình; ta sẽ làm việc cách thảnh thơi, chứ, không bị kiệt sức vì áp lực; ta sẽ chỉ làm một việc duy nhất là trú ẩn ở nơi Chúa, chứ, không còn chạy đi tìm những ảo ảnh xa vời.

Khi đi vào sự “tự do” ấy, ta sẽ thấy rõ một điều: ta không còn gì để làm, chỉ là sống trong sự hiện diện đầy tràn của Thiên Chúa, không có gì cần đạt đến, không có gì cần nắm giữ, tâm hồn của ta như mặt hồ phẳng lặng, không chút gợn sóng, trong veo phản chiếu bầu trời, trong sự trong trẻo đó, không cần ai nói ta siêng năng hay lười biếng, hữu dụng hay vô dụng, tâm hồn ta hoàn toàn rỗng không, hoàn toàn tự do, để Chúa muốn làm gì thì làm, và rồi, tất cả những gì Chúa làm nơi ta, thì, đều là tốt đẹp và cao quý. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.