2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

TẠI SAO LẠI LÀ NGƯỜI LÀM VƯỜN?

Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: Thưa ông, nếu ông đã đem Ngài đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Ngài ở đâu, tôi sẽ đem Ngài về” (Ga 20:15)

Trong tường thuật của thánh Máccô về sự phục sinh của Chúa Giêsu, Maria Mađalêna và những người phụ nữ khác đi cùng bà đã “sợ hãi” và “run lẩy bẩy, hết hồn hết vía” khi nghe thông báo từ vị khách từ thiên đàng bên trong ngôi mộ trống rỗng của Chúa Giêsu (Mc 16:8). Trong tường thuật của thánh Mátthêu, Maria và những người phụ nữ “tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng” (Mt 28:8); trong tường thuật của thánh Luca, họ chỉ đơn giản là “sợ hãi, cúi gằm mặt xuống đất” (Lc 24:5). Không có bản Tin Mừng nào trong ba sách Tin Mừng nhất lãm đề cập đến việc Maria Mađalêna nhầm lẫn một thiên thần - chưa nói đến chính Chúa Giêsu - với người làm vườn. Vì vậy, thật thú vị khi thánh Gioan đưa vào chi tiết có vẻ không cần thiết và không quan trọng này về một “người làm vườn”, một chi tiết dường như không tương ứng với các trình thuật được ghi lại bởi những tác giả sách Tin Mừng khác. Chúng ta cần hiểu điều này như thế nào?

Vâng, trước tiên chúng ta hãy nhận ra rằng liên quan đến các trình thuật khác nhau được ghi lại về sự phục sinh của Chúa Giêsu, có một số lượng “vay mượn” nhất định từ nhau mà cần thiết phải có, vì thực tế không ai tận mắt chứng kiến ​​Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Một ngày nọ, Ngài được chôn cất, một hòn đá lăn ra che trước mộ Ngài, những người lính canh gác lối vào để tránh bất cứ trò lừa bịp hoặc thuyết âm mưu nào hình thành. Và rồi ba ngày sau... Chúa Giêsu đã ra khỏi mồ. Bây giờ cả bốn tường thuật đều đồng ý rằng chính Maria Mađalêna và những người phụ nữ đi cùng bà là những người đầu tiên biết về ngôi mộ trống của Chúa Giêsu và sau đó bà là người đã thông báo tin tức đáng kinh ngạc này cho Mười Một Tông Đồ; vì điều này, Maria đã giành được danh hiệu “Tông đồ của các Tông đồ”. Nhưng điều gì giải thích cho phiên bản của thánh Gioan về cách Maria Mađalêna đến và khám phá ra Chúa Giêsu phục sinh lại khác biệt đến vậy so với ba tường thuật kia?

Câu trả lời hiển nhiên nhất chỉ đơn giản là: quan điểm của người ta về một sự kiện sẽ ảnh hưởng đến cách người ta truyền đạt sự kiện đó đến người khác. Nếu tôi viết ra những kỷ niệm về ngày cưới của mình, tôi có thể đặt tên cho câu chuyện của mình là “Ngày tuyệt vời nhất trong cuộc đời tôi”. Nhưng một vị khách đến dự đám cưới của tôi, nếu người ấy không quen biết ai tham dự ngoài cô dâu và chú rể, có thể đặt tên cho câu chuyện của mình là “Ngày buồn tẻ nhất trong cuộc đời tôi”. Tất cả đều liên quan đến quan điểm.

Nhưng có một góc nhìn khác ngoài góc nhìn giải thích cho việc thánh Gioan đưa chi tiết về người làm vườn vào. Đó là một chi tiết mà ông đã được biết, nhưng không ai trong ba tác giả Tin Mừng kia biết đến. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu lý do tại sao lại như vậy. Hãy nhớ rằng, Gioan đã đưa Mẹ Maria “về nhà mình” (Ga 19:27). Gioan không chỉ có quan điểm riêng để tham khảo mà còn được hưởng lợi khi được nghe Mẹ Maria trực tiếp kể lại. Điều này liên quan gì đến Maria Mađalêna? Thực ra là liên quan rất nhiều. Theo truyền thống phương Đông, “Maria Mađalêna tiếp tục sứ mệnh của mình như một nhà truyền giáo, nhà chiêm nghiệm và nhà thần bí trong lòng Giáo hội… bà đã đến Êphêsô cùng với Đức Trinh Nữ Maria và qua đời tại đó” (“Kinh cầu Thánh nữ Maria Mađalêna” The Catholic Company). Nói cách khác, Maria Mađalêna đã sống cùng thị trấn với Mẹ Maria, và rất có thể là cùng cộng đoàn tín hữu ở đó; do đó, theo bối cảnh, bà sống trong cộng đoàn của Thánh Gioan Tông đồ. Không giống như những tác giả Tin Mừng khác, Thánh Gioan có thể biết chi tiết về người làm vườn vì có thể chính Maria Mađalêna đã kể cho ông nghe.

Điều này chỉ còn lại một câu hỏi. Tại sao Maria Mađalêna lại nhầm Chúa Giêsu với một người làm vườn ngay từ đầu? Chắc chắn, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu, trong trạng thái vinh quang của Ngài, sẽ không thể nhận ra được đối với những tâm hồn buồn bã vì yêu mến và nhớ nhung Ngài đến vậy. Sẽ cần một tia sáng ân sủng để mở mắt trái tim của họ ra với sự thật về người mà họ nhìn thấy trước mắt mình. Nhưng… tại sao lại là một người làm vườn? Liệu lời giải thích có thực sự đơn giản rằng một người làm vườn là người duy nhất mà Maria thấy hợp lý khi đi lại giữa các ngôi mộ vào sáng sớm như vậy không? Có lẽ vậy. Nhưng… Liệu Kinh thánh có bao giờ để lại cho chúng ta những chi tiết không cần thiết mà chỉ để mô tả chính xác về mặt lịch sử không? Không có khả năng như vậy. Mỗi lời đến từ Chúa đều có mục đích dẫn chúng ta suy ngẫm. Từ góc độ này, chúng ta thấy gì khi nhìn vào “người làm vườn” mà Maria Mađalêna chăm chú nhìn?

Đấng Đáng Kinh Fulton Sheen viết: “ … người làm vườn cắt những chồi xanh từ gốc bụi cây, không phải để giết chết hoa hồng, mà để làm cho hoa nở đẹp hơn” (Đấng Đáng kính Fulton Sheen, tr. 185, cookiecrumbstoliveby.wordpress.com).

Chúa Giêsu, “Người Làm Vườn,” đã gieo Lời Ngài vào lòng Maria Mađalêna, tỉa và cắt những chồi non không khỏe mạnh khỏi cuộc đời bà và nhổ tận gốc những gì ngăn cản bà tăng trưởng… để bà có thể nở hoa và lớn lên! Chính Chúa Giêsu - Người Chăn Chiên Nhân Lành, Chiên Thiên Chúa, Đấng Mêsia, nhưng cũng là Người Làm Vườn  - đã cứu mạng Maria khỏi sự hủy diệt. Người Chăn Chiên Nhân Lành sẽ để chín mươi chín con chiên đi tìm một linh hồn, cõng con chiên ấy trên lưng về nhà nếu cần. Nhưng chính Người Làm Vườn mới là người xới đất trong lòng chúng ta, nhẹ nhàng nâng đầu chúng ta lên và hướng dẫn chúng ta đối mặt với những điểm yếu, lỗi lầm, khuyết điểm và nỗi đau của mình, không phải để hủy hoại chúng ta mà để giúp chúng ta lớn lên. Việc vun trồng của người làm vườn vừa đau đớn vừa thống khổ, nhưng thành quả từ công trình của người làm vườn thì mãi mãi ngọt ngào.

Đang tuần tiễu trong thành, bọn lính gác gặp tôi. Tôi hỏi họ: Các anh có thấy chăng người lòng tôi yêu dấu?Vừa rời họ mà đi, tôi đã gặp người lòng tôi yêu dấu” (Diễm ca 3:3-4)

 

Tác giả: Mc Holbrook

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.

https://catholicexchange.com

SỰ TIN TƯỞNG CỦA MỘT TÊN TRỘM

Trước mặt Thiên Chúa, con người là kẻ ăn xin” (GLGHCG, số 2559). Những lời này trong Sách Giáo lý của Giáo hội cho thấy chúng ta cơ bản lệ thuộc vào Thiên Chúa. Sự lệ thuộc này có lẽ không nơi nào được minh họa rõ ràng hơn trong câu chuyện của Thánh Luca về tên trộm lành.

  • Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Ngài: Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với! Nhưng tên kia mắng nó: Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái! Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi! Và Ngài nói với anh ta: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Luca 23:39-43)

Dismas hay Đích Ma, có nghĩa là Hoàng hôn hoặc Sự chết, tên trộm lành, có nhiều điều để nói với chúng ta. Người ta dệt nên câu chuyện huyền thoại sau đây: 30 năm về trước, trên đường đem Chúa Giêsu Hài nhi sang Ai Cập để tránh khỏi cơn giận của vua Hêrôđê, thánh Giuse và Mẹ Maria đã dừng lại một hàng quán hẻo lánh. Mẹ Maria xin thau nước để tắm cho Hài Nhi Giêsu. Bà chủ quán giữ lại nước đã tắm cho bé Giêsu để tắm cho con trai của bà đang mắc bệnh ghẻ lở. Nước đó chảy tới đâu, bệnh ghẻ lở sạch tới đó. Và đứa trẻ được lành bệnh. Nhưng khi lớn lên, đứa trẻ đó đã trở thành một tên trộm cướp. Tên đứa trẻ đó là Đích Ma (Dismas). Và hôm nay chính Đích Ma lại bị treo trên thập giá bên phải Chúa Giêsu. Dĩ nhiên đây là câu chuyện huyền thoại. Chết trên cây thập tự, bị thế gian chế giễu, và biết tội lỗi của mình, Đích Ma hoàn toàn nghèo nàn trước Chúa Giêsu. Anh ta không có việc tốt lành nào để có thể cậy dựa vào, không có gì đẹp đẽ để thể hiện, không có gì hay ho để nói. Anh ta là một người thực sự chẳng có gì. Nhưng Chúa Giêsu tuyên bố anh ta là người đầu tiên vào thiên đàng, và mãi mãi được biết đến là tên trộm đã đánh cắp được thiên đàng. Nhưng chúng ta có thể tự hỏi, làm sao điều này có thể xảy ra? Vì đâu mà tên trộm Đích Ma nhận ra Ông Giêsu là Vua dù đang bị đóng đinh như anh ta? Làm sao tên trộm biết được điều mà ngay cả các tông đồ cũng chưa hiểu được?

Chúa Giêsu đã nói: “Ta đã bảo các ngươi rằng không ai có thể đến với Ta nếu Chúa Cha không ban ơn cho” (Gioan 6:65). Hẳn Chúa đã sai Thánh Thần của Ngài đến để mở mắt anh ta và giúp anh ta nhìn thấy. Có thể vì nhớ lại chuyện xưa mẹ kể rằng mình được chữa khỏi do nước đã tắm của Vua Hài Nhi mà nay anh ta nhìn Chúa Giêsu bằng con mắt khác? Cũng có thể trong thời gian hành nghề trộm cắp, anh ta đã có lúc len lỏi vào đám đông quanh ông Giêsu, để rình cơ hội móc túi, nhưng lại nghe ông Giêsu giảng về dụ ngôn người Samaritanô rằng: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác. Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? Người thông luật trả lời: Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy. Chúa Giêsu bảo ông ta: Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10:30-37). Dụ ngôn này của Chúa Giêsu khiến một chút lương tâm còn sót lại của Đích Ma ray rứt chăng?

Nhưng có lẽ điều chắc hơn đó là anh ta có đôi mắt nhạy bén của một tên trộm chuyên nghiệp và một kinh nghiệm hành nghề có thể nhận ra ai là người tốt lành và ai là kẻ độc ác. Chỉ cần liếc đôi mắt qua bên trái, tên trộm đọc được tấm bảng ghi dòng chữ – Tên gọi: Giêsu; nguyên quán: Nadarét; tội trạng: Vua dân Do thái. Vua ư? Vương miện đâu? Một vòng gai cắm trên đầu sao? Có biết bao hạng người còn đôi mắt tỏ tường nhưng lại không nhận ra Chúa Giêsu là Vua? Họ là những kẻ qua đường thấy Chúa bị đóng đinh thì cười chê: “Ông này có tiếng làm phép lạ, dám phá đền thờ, ba ngày sau xây lại, sao không tự cứu mình đi” (Mt 27:39-40). Họ là các trưởng tế và luật sĩ thách thức Chúa Giêsu: “Họ thách thức Chúa rằng: Nếu người là vua Israel hãy xuống khỏi thập giá đi, rồi chúng tôi tin” (Mt 27, 42-43). Họ là những binh lính và lý hình thi hành án: “Mấy người lính cũng nghỉnh đầu lên buông lời chế giễu Chúa: Nếu là vua, cứ nhảy xuống xem” (Lc 23, 36-37). Đó là tên trộm đồng nghiệp của Đích Ma: “Một kẻ trộm bên tả quay ra khiêu khích Chúa: Nếu ông là vị Cứu thế hãy cứu ông và cứu cả chúng tôi đi” (Lc 23, 36-37). Đích Ma, dù là tên trộm, nhưng lại không giống như những người đó. Anh ta vẫn còn một tâm trí có thể nhìn ra sự thật và một tấm lòng trắc ẩn trước những nỗi đau của người khác. Điều này biểu lộ trong lời nói công khai với tên trộm đồng bọn của anh: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23: 40-41).

Chúa Giêsu không làm phép lạ hữu hình nào từ trên thập tự giá để thay đổi cái nhìn của anh ta. Anh ta chỉ nghe những lời cầu nguyện tha thiết của Ngài với Chúa Cha và lắng nghe Chúa Giêsu nói về sự tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Khi tên trộm nghe những lời của Chúa Giêsu xin Chúa Cha tha thứ cho tất cả những ai làm hại Ngài, bóng tối của cuộc đời đầy tội lỗi của anh ta bị xuyên thấu bằng ánh sáng của sự thật, cho phép một người từng sống trong tối tăm thấy rằng Chúa Giêsu là tất cả những gì Ngài tuyên bố: tha thứ cho mọi người tội lỗi, trong đó có anh ta. Mọi nghi ngờ bị xóa tan, người đàn ông này xác tín những gì đôi mắt trần gian của mình không thể nhìn thấy: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Gioan 20:29). Anh ta biết rằng cái chết sẽ không giam giữ được Vị Vua này của người Do Thái. Và với một trái tim ăn năn, Đích Ma tuyên bố vương quốc sắp đến của Vị Vua này. Đích Ma đã thấy vinh quang của Đấng đang bị treo trên Thánh Giá.

Thực vậy, Chúa Giêsu trả lời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). Thật không sai khi nói rằng tên trộm Đích Ma đã được chính Chúa Giêsu phong thánh và trực tiếp mở cửa thiên đàng cho vào, không phải lẻn vào qua cổng sau. Đích Ma không đánh cắp thiên đàng như thể đó là thứ gì đó cần phải lấy cắp. Thay vào đó, anh ta đã vào vương quốc cùng Chúa Giêsu, vì vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, anh ta đã được ban cho ân sủng để thú nhận sự bất xứng hoàn toàn của mình trước Chúa. Tên trộm Đích Ma được cứu chính là vì anh ta đã thừa nhận mình là kẻ ăn xin, ăn xin lòng thương xót của Đấng Kitô. Đích Ma đã lấy được điều quý giá nhất mà anh ta chưa bao giờ đánh cắp được. Trong cảnh nghèo hèn cùng cực của mình, anh đã có thể nhận được tất cả lòng thương xót mà Chúa Giêsu muốn ban cho anh.

Chúng ta cũng cần  phải học cách chấp nhận ngày càng nhiều hơn sự nghèo khó của mình trước mặt Chúa. Nhưng làm sao chúng ta có thể làm được điều này? Để giúp chúng ta trở thành những kẻ ăn xin trước mặt Chúa, chúng ta có thể cậy dựa vào Thánh Têrêsa Lisieux, là người dạy cho chúng ta một chút về tình yêu đầy tin tưởng và đơn sơ như trẻ thơ. Chị thánh thường so sánh nhu cầu của chúng ta đối với Chúa giống như mối liên hệ giữa một đứa bé và cha mẹ của em. Một đứa bé hoàn toàn lệ thuộc vào cha mẹ mình. Em tìm đến cha mẹ mình để xin mọi thứ và không bao giờ đặt câu hỏi về khả năng giải quyết vấn đề của cha mẹ mình. Thật vậy, đây là cách chúng ta nên nhìn vào Chúa. Chúng ta đã và đang nhận được mọi thứ từ Ngài. Vậy thì, trở nên trẻ thơ là tìm đến Chúa để xin mọi nhu cầu của mình, hoàn toàn tin tưởng vào sự chăm sóc quan phòng của Ngài và yêu Ngài vô điều kiện.

Nhưng tình yêu đầy tin tưởng của Thánh Têrêsa còn đi xa hơn cả việc chỉ thừa nhận sự nghèo khó và yếu đuối của mình. Chị thánh hân hoan trong tình yêu đó và yêu mến Thiên Chúa, Đấng bay đến để bù đắp cho những thiếu sót và lỗi lầm của chị. Giống như Thánh Phaolô, chị tôn vinh sự yếu đuối và những gì Chúa đã có thể làm nơi chị: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2 Cr 12:9). Sự tin tưởng này biết rằng không có vết thương nào quá lớn hay sự gian ác nào quá sâu đến mức Chúa không thể chữa lành nếu chúng ta biết cầu xin sự tha thứ của Ngài. Vì vậy, thay vì cảm thấy xấu hổ vì sự yếu đuối và nghèo khó của mình, chúng ta có cơ hội kêu cầu lòng thương xót của Chúa. Sự tin tưởng vào tình yêu thương xót của Chúa là chìa khóa để phó thác như trẻ thơ và mở ra con đường lên thiên đàng. Bởi vì, khi chúng ta thừa nhận rằng mình không có gì, và cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta thấy mở ra trước mắt mình một kho tàng thực sự đầy tràn Hồng Ân Cứu Độ. Thật vậy, con người là một kẻ ăn xin trước mặt Chúa, một kẻ ăn xin vương quốc thiên đàng và Chúa ban cho con người điều họ khẩn cầu: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng” (Tv 103: 2-5).

Tu huynh Roland Wakefield, OP

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung

https://www.dominicanajournal.org

 

Mùa Chay, Mùa Trở Về

Mỗi khi Mùa Chay về, Lời Chúa qua miệng ngôn sứ Giôen lại vang lên inh ỏi bên tai chúng ta: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van” (Joel 2,12). Phụng vụ lễ ca cũng hát lên những khúc ca không có êm tai chút nào hết, bởi những lời ấy cất lên như túc giục chúng ta: ” Hãy trở về, trở về với Cha nhân lành”, vâng, Mùa Chay là Mùa trở về với Chúa”.

Phải, không có một hành trình ra đi nào mà không có sự trở về. Sau nhiều năm lưu đày bên Ai-cập, Chúa đã giải thoát Israen và đưa họ về miền đất hứa đầy sữa và mật. Chúa Giêsu xuống thế để cứu chuộc loài người và đã trở về cùng Chúa Cha. Ngài cũng đã nói cho chúng ta biết: “Thầy đi dọn chỗ cho các con. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Có chỗ cho mỗi người chúng ta. Đó là hành trình trở về lần sau cùng của tôi, của chị và của anh nơi cõi vĩnh hằng.

Hành trình Mùa Chay năm nay, trước hết ta hãy trở về với chính trở về với con người thật của mình, hầu biết mình, nhận ra, chấp nhận mình, để sửa đổi, tha thứ cho chính mình. Thiết nghĩ, điều quan trọng hơn cả là trở về để nhận ra tình thương vô bờ của Thiên Chúa. Ta không thể cho đi những gì mà mình không có. Cũng thế, ta không thể sửa đổi người khác nếu ta chưa sửa đổi chính mình; và ta cũng không thể trở về với Chúa, và anh chị em nếu ta chưa trở về với bản thân, ta sẽ không nhận được ơn tha thứ trực tiếp của Thiên Chúa nếu ta chưa trở về.

Kế đến ta trở về với tha nhân, và sau cùng là trở về với Chúa qua bí tích Hòa giải, qua thánh lễ, chầu Thánh Thể, qua việc đọc Lời Chúa, cầu nguyện, ngợi khen cảm tạ, và kính sợ Chúa. Chúng ta trở về với cả tâm hồn như lời mời gọi của Chúa hôm nay.

Lời Chúa qua tiên tri Giôen hô vang 2,12-13: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng”. Thiên Chúa luôn nhìn những gì ở bên trong con người, ngược lại con người thì thường nhìn những gì ở bên ngoài. Hãy trao chiếc áo tâm hồn rách nát, sầu khổ, tội lỗi cho Chúa để Ngài thanh tẩy, chữa lành, và ban tràn đầy ơn cứu độ cho chúng ta.

Hôm nay khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).

Tro, dù nhỏ nhặt, nhưng nhắc nhở chúng ta một thực tế rằng chúng ta theo đuổi và lo lắng mỗi ngày, chăm chỉ làm việc, muốn chiếm hữu tất cả, nhưng chúng ta sẽ không mang theo được sự giàu có khi từ giã cuộc sống này, chúng ta sẽ không còn gì. Thực tại trần gian biến mất như tro trong gió. Những thứ chúng ta đang có chỉ là tạm thời, quyền lực qua đi, thành công sẽ phai nhòa. Nó giống như một ngọn lửa: một khi lụi tàn, chỉ còn lại tro.

Mùa Chay là thời gian để giải thoát bản thân khỏi ảo ảnh đuổi theo cát bụi. Mùa Chay là giúp chúng ta nhận ra rằng, chúng ta được tạo thành vì Chúa, chứ không phải vì thế gian; vì sự vĩnh cửu của thiên đàng, chứ không phải vì sự lừa dối trần thế; vì tự do của con cái Chúa, chứ không phải để làm nô lệ cho vạn vật.

Ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh là: Ăn Chay, Cầu Nguyện, và Bố Thí vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người Kitô hữu.

Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.

Chúa đòi hỏi rất rõ ràng và minh bạch. Vậy làm thế nào để thực hiện ba điều Tin Mừng nhắc nhở chúng ta: Ăn chay – cầu nguyện – bố thí.

Những việc đạo đức chúng ta làm hàng ngày quy vào ba điều đó. Không phải Mùa Chay chúng ta vẫn làm. Bằng chứng là chúng ta vẫn cầu nguyện, đọc kinh, dự lễ, lãnh nhận các bí tích là chúng ta cầu nguyện. Các ngày thứ Sáu, Thứ Tư Lễ Tro, Thứ Sáu Tuần Thánh, và các dịp lễ khác chứng ta vẫn ăn chay. Giúp đỡ người nghèo, góp tiền cho người nghèo ăn Tết là bố thí. Nhưng trong Mùa Chay Thánh, chúng ta phải làm những việc bình thường đó với một tinh thần mới mẻ, tinh thần của Đức Kitô, tinh thần của Tin Mừng. Cụ thể, khi chúng ta giúp đỡ người khác, thì phải xem có phải có phải chúng ta khoe khoang, trịch thượng, khinh dể người nghèo không, hay là để cho người khác tuyên dương công trạng của chúng ta. “Điều gì tay mặt làm, đừng cho tay trái biết”. Ngay chính bản thân mình, có giúp đỡ, phục vụ, thì cũng đừng có kiểu phô trương để rồi sung sướng. Hãy làm như Chúa đã bảo chúng ta. Một mình Chúa biết mà thôi.

Về cầu nguyện, chúng ta vẫn cầu nguyện, nhưng đôi lúc máy móc, không có tôn vinh Chúa, chỉ nghĩ đến mình, cầu nguyện để như là trình diễn. Nói đến việc ăn chay, phải cụ thể, khổ chế, thân xác phải cảm thấy đói, thèm, thiếu thốn, và chúng ta chấp nhận đói, thèm, thiếu thốn để đền lại tội lỗi chúng ta, để xin ơn Chúa cho chúng ta lướt thắng các cơn cám dỗ.

Vậy thưa anh chị em, vài tâm tình chúng ta cùng nhau gợi lên để có thêm nghị lực trở về với chính mình, về Chúa, với anh em, để sống tốt với Chúa và với tha nhân.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

MƯỜI CÁCH CHÚNG TA CÓ THỂ THỰC HÀNH CHAY TỊNH

Chúa Giêsu nói: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy” (Lc. 13: 3). Trong lần rao giảng đầu tiên về sứ vụ Công khai của Ngài, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta hoán cải: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15). Nhiệm Thể của Chúa Kitô quảng đại ban cho chúng ta một mùa ân sủng, như mục đích của nó, là sự hoán cải hàng năm. Đây là bốn mươi ngày của Mùa Chay.

Môsê đã nhịn ăn bốn mươi ngày trên Núi và Chúa Giêsu đã nhịn ăn bốn mươi ngày trong sa mạc. Giáo Hội khuyến khích chúng ta trong Mùa Chay hãy đào sâu vào những ngóc ngách bên trong của cõi lòng mình và cầu xin sự hoán cải của tấm lòng.

Sự hoán cải này có thể trở thành hiện thực bằng cách thực hiện ba thực hành truyền thống: cầu nguyện, bố thí và ăn chay (Mt. 6: 1-18). Trong lời cầu nguyện, chúng ta nâng tâm trí mình lên với Thiên Chúa; trong sự bố thí, chúng ta đi ra ngoài để đáp ứng nhu cầu của những anh chị em đau khổ của chúng ta; trong việc kiêng ăn, chúng ta đào sâu trong tâm hồn mình và cầu xin Chúa ban cho ân sủng để chúng ta từ bỏ sự ràng buộc của chúng ta với tội lỗi!

Trong trường hợp này, một số cách cụ thể để chúng ta có thể thực hành nhịn ăn là gì? Một lưu ý quan trọng như sau: nhịn ăn không phải là một chế độ ăn kiêng đơn thuần, với mong muốn đơn giản là giảm thêm vài cân. Đúng hơn, mục đích của việc ăn chay là làm đẹp lòng Thiên Chúa, hoán cải tâm hồn chúng ta cũng như cầu xin sự hoán cải của người khác. Nói cách khác, ăn chay phải có ý định ngay lành hoặc siêu nhiên!

Mười cách chúng ta có thể nhịn ăn

  1. Ăn ít và rước Mình Thánh Chúa nhiều hơn.

Bằng cách thực hành này, chúng ta đánh giá cao hơn tầm quan trọng đối với đời sống tinh thần và sự cứu rỗi linh hồn của chúng ta. Chúa Giêsu phán: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6: 27 — Diễn văn về Bánh Sự Sống)

  1. Kiểm soát lưỡi của bạn.

Thánh Giacôbê nói, "Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói."  Hãy đọc Giacôbê chương ba — một trong những lời khuyên tốt nhất trên thế giới để kiểm soát miệng lưỡi của chúng ta!

  1. Khoảnh khắc Anh hùng.

Người sáng lập Opus Dei đã đặt ra cụm từ, "Khoảnh khắc anh hùng".  Bằng cách này, Thánh José María khẳng định rằng ngay khi nghe thấy tiếng chuông đồng hồ báo thức, chúng ta nên bước ra khỏi giường, cầu nguyện và bắt đầu một ngày mới. Ác quỷ của sự lười biếng khuyến khích chúng ta nhấn nút Tạm dừng! Tôi không tin nút Tạm dừng tồn tại trong từ vựng và cách làm của các thánh. Bạn nghĩ sao?

  1. Kiểm soát đôi mắt lang thang.

Đôi mắt là tấm gương phản chiếu tâm hồn. Vua Đavít thánh thiện đã lao vào tội lỗi và tội lỗi hơn dẫn đến việc giết người chỉ vì một lý do đơn giản là ông để cho đôi mắt của mình đi lang thang. Đôi mắt ông đảo qua và nhìn chằm chằm vào một người phụ nữ đã có gia đình - Bathsheba. Những suy nghĩ tà dâm dẫn đến ngoại tình về thể xác, chối bỏ tội lỗi của mình và cuối cùng là giết một người vô tội - chồng của Bathsheba (II Samuel 11-12). Chúng ta hãy cố gắng sống theo Mối Phúc: "Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa." (Mt. 5: 8)

  1. Đúng giờ.

Chúa Giêsu nói, “Hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt. 25:23) Đúng giờ là một biểu hiện của trật tự, tôn trọng người khác, và là một phương tiện để hoàn thành tốt và đúng hạn công việc.

  1. Lắng nghe người khác.

Quá dễ dàng để ngắt lời người khác khi họ nói và cố gắng áp đặt ý tưởng của chúng ta ngay cả trước khi người đó hoàn thành ý tưởng của mình. Bác ái, nghĩa là tình yêu đối với Thiên Chúa và người khác, dạy chúng ta tôn trọng người khác và cho phép họ nói mà không làm gián đoạn và áp đặt ý tưởng của chúng ta.

Lắng nghe người khác cũng là một hành động khiêm tốn — đặt người khác trước chính mình! Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin làm cho trái tim con nên giống như trái tim Chúa, “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ  nhàng”  (Mt. 11: 28-30 — Chúa Giêsu mô tả Trái Tim Ngài kiền lành và khiêm nhường…)

  1. Hãy Biết ơn Thay vì Than phiền.

Đừng bao giờ cho phép một ngày trôi qua mà bạn không cảm ơn Chúa. Chúng ta cần phải không ngừng cảm tạ Chúa. Hơn nữa, chúng ta nên tạo thói quen thường xuyên cảm ơn người khác. “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Thánh vịnh 118: 1).

  1. Hãy mỉm cười, ngay cả khi bạn không muốn.

Đây quả thực có thể là một sự đền tội tuyệt vời — mỉm cười với ai đó ngay cả khi bạn đang mệt mỏi, đang mang trong mình cơn đau đầu hoặc cảm lạnh. Đây là đức tính anh hùng. Nụ cười là một điều gì đó nhỏ bé, nhưng nó rất dễ lây lan. Thật vậy, một nụ cười chân thành có thể nâng những người nhìn thấy nó từ trạng thái phiền muộn đến trạng thái an ủi. Một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu là nụ cười vui mừng rạng rỡ trên khuôn mặt. “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! ”. (Philíp 4: 4)

  1. Cầu nguyện, ngay cả khi bạn cảm thấy không thích.

Rất tiếc, nhiều người trong chúng ta đặt đời sống tinh thần của mình vào những cảm giác đơn thuần phù du, nhất thời và trôi qua như sương bay theo ánh nắng ban mai. Gương mẫu tốt nhất của chúng ta dĩ nhiên là Chúa Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta trong Vườn Giếtsimani (Lc 22: 39-46). Khi Chúa Giêsu đang trải qua một cơn đau đớn và phiền muộn đến mức trút ra những giọt Máu khổng lồ từ lỗ chân lông của Ngài, thì Ngài không thực sự cảm thấy muốn cầu nguyện. Tuy nhiên, Chúa Giêsu càng cầu nguyện nhiệt thành hơn.

Vì vậy, chúng ta hãy thực hành ăn chay và sám hối trong cuộc sống của chúng ta, có thời gian và địa điểm nhất định để cầu nguyện và cầu nguyện vào những lúc chúng ta cảm thấy không thích. Đây là sự sám hối và tình yêu đích thực dành cho Chúa! Đây là một dấu hiệu của sự trưởng thành thực sự trong đức tin!

  1. Yên ủi.

“Barnabus” thực sự có nghĩa là “người có tài yên ủi” (Công vụ 4:36). Chúng ta hãy thoát ra khỏi lớp vỏ tự cao tự đại của mình và tập trung nhiều hơn vào Thiên Chúa và nhìn thấy Chúa Giêsu trong những người khác — noi gương Người Samaritanô nhân hậu. (Lc.10). Chúng ta hãy học để trở thành một Simon thành Xyrênê và giúp đỡ những anh chị em của chúng ta, những người đang mang trên mình một cây thập giá rất nặng nề. Chúng ta hãy làm sáng tỏ điều đó bằng những lời nói khích lệ, những cử chỉ động viên và bằng một trái tim tràn đầy tình yêu thương và lòng trắc ẩn. Hãy nhớ Quy tắc vàng: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt. 7:12) Trong cơn bão tố khó khăn của trận chiến trên trần thế, một lời động viên thực sự có thể là một luồng gió mạnh thổi vào cánh buồm!

Hãy cầu nguyện và đọc hết mười gợi ý này về cách ăn chay  — cách từ bỏ bản thân — và chọn ít nhất một hoặc hai gợi ý mà bạn có thể bắt đầu thực hành ngay lập tức. Xin Đức Mẹ, Mẹ của Người Cố Vấn Nhân Lành, khích lệ chúng ta từ bỏ chính mình và nói “xin vâng” với tình yêu của Thiên Chúa bằng cách phục vụ anh chị em của chúng ta với tấm lòng quảng đại! (Lc. 1: 38 — Lời “Xin vâng” của Đức Maria đối với Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”).

 

Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ,

theo LM Ed Broom, OMV, catholicexchange.com

Mùa chay, mùa chữ U

Tôi không thích Mùa Chay bởi danh từ mùa chay là một danh từ xa lạ và khó hiểu.

Hồi còn nhỏ, khoảng mười hai mười ba tuổi, phải thành thật mà nói là tôi không thích Mùa Chay. Tôi không thích Mùa Chay không phải tại Mùa Chay là mùa tôi bị bắt phải ăn chay. Một thằng nhỏ ở cái tuổi còn nhong nhong chạy rong ngoài đường tắm mưa mà bị bắt ăn chay trong một xứ đạo toàn là người Bắc cũng không phải là một điều quá khó khăn, bởi vì hai lý do.

(1). Không phải chỉ riêng tôi, nhưng bao nhiêu ngàn người khác trong xứ đạo cũng phải vác thánh giá như mình. Đi đâu cũng gặp người phải ăn chay. Ði đâu cũng nghe nhắc nhở tới chay. Sáng sớm khoảng năm giờ, tôi bị lôi dậy, bắt phải đi lễ sáng! Sáng sớm ông cha xứ hăng say nhắc nhở mọi người giáo dân mùa chay là mùa ăn chay. Sáng sớm bài giảng dài lê thê, tôi cứ thế mà gật gù đồng ý với những lời khuyên dạy. Trưa nắng ghé vào tiệm kem, gặp dì gặp cậu gõ đầu nhắc nhở, “Mày có biết là hôm nay ăn chay hay không”?! Lỡ nuốt vào miệng cục kẹo rồi cũng phải nhả ra ngay bởi thằng bạn đang chơi đá dế hét lên, “Chết mày rồi! Hôm nay ăn chay”. Thế là vội vàng nhổ ra cục kẹo, nếu không lại mất chay, phạm tội trọng, rớt xuống hỏa ngục.

(2). Vào tối thứ Tư Lễ Tro hoặc thứ Sáu Tuần Thánh, sau một ngày ăn chay đói meo, tôi đợi tới mười hai giờ đêm. Đồng hồ vừa nhích khỏi con số 12, tôi lao xuống bếp, lục cơm nguội với mấy miếng thịt heo kho nước mầu ăn căng một bụng. Đời sung sướng. Cuộc sống tuyệt vời!

I. Ăn Chay

Tôi không thích Mùa Chay bởi danh từ mùa chay là một danh từ xa lạ và khó hiểu. Mùa Vọng dễ hiểu hơn, bởi một mình chữ vọng đã tự nói lên cả một mùa đợi chờ. Mùa Vọng do đó không cần phải giải thích nhiều, tôi hiểu là mùa trông đợi Thiên Chúa sinh xuống làm người. Riêng danh từ chay không gợi nên trong tôi một hình ảnh gì.

Ăn chay là gì? Là ăn trái chay? Trái chay, tôi không biết, và cũng chưa bao giờ thấy. Tôi chạy khắp cùng thiên hạ hỏi,

— Trái chay là trái gì vậy?

Không ai biết. Cuối cùng tôi tưởng ăn chay là ăn cháy. Tại sao lại lẫn lộn chữ chay với chữ cháy? Tôi đoán có thể tại hai âm chay và cháy tương tự như sau. Mà cũng có thể tại người chị lớn tuổi của tôi hồi đó tinh nghịch nói ăn chay nghĩa là ăn cháy. Mùa Chay tới, mấy lần mẹ tôi hỏi ăn chay chưa. Tôi nghiêm trang, đạo đức, thánh thiện nói con ăn rồi. Nhưng thật sự ra tôi ăn những miếng cháy của đáy nồi cơm.

II. Mùa Chay

A. Ý Nghĩa của Danh Từ Chay

Chữ chay của danh từ Mùa Chay có thể phát nguồn từ chữ trai, có nghĩa là không thịt. Khi người ta nói tín hữu Phật tử dâng đồ trai cho các vị hòa thượng, đồ trai đây là thức ăn không có thịt hay đồ chay. Một cách tương tự, ăn chay có nghĩa là ăn thức ăn không có thịt [1]. Mùa Chay trong tiếng Việt Nam do đó có nghĩa là Mùa Kiêng Thịt [2] .

B. Mùa Chay, Mùa U-Turn, Mùa Làm Đường Vòng U

Mùa Chay trong tiếng Hy Lạp, μετάνοια, métanóia, không có nghĩa là Mùa Kiêng Thịt, nhưng là Mùa Thay Đổi [tâm hồn]. Gioan Tẩy Giả trong hoang địa kêu gọi dân chúng μετάνοια, thay đổi tâm hồn đợi chờ ngày Chúa đến (Máccô 1:1-8). Ngôn sứ Giô-el kêu gọi dân Do Thái hãy μετάνοια, hãy quay về với Chúa; hãy xé lòng đừng xé áo (Giô-el 2:13). Trong phạm trù thần học, Mùa Chay do đó là Mùa U-Turn hay Mùa Làm Một Đường Vòng Chữ U.

Ðọc tới những hàng chữ trên đây, có thể bạn sẽ thắc mắc, “Ủa, tại sao lại phải làm một đường vòng hình chữ U”?

Chúng ta có một người bạn thân nhà nằm ở phía Đông. Thứ Bẩy cuối tuần rảnh rỗi, chúng ta muốn ghé nhà người bạn thăm hỏi. Trong khi đang lái xe, có thể tại trời tối, chúng ta lạc đường. Nhà người bạn ở phía Đông, chúng ta lại nhắm hướng Tây lái tới. Trong tình trạng này, nếu không làm một đường vòng chữ U, càng lúc chúng ta càng đi xa nhà của người bạn. Nếu người chúng ta muốn gặp là một người tình thì lại càng rắc rối to. Hẹn nhau sáu giờ chiều, hai đứa đi shopping, đi ăn, rồi đi coi xi-nê. Nhưng vô tình hay bởi một lý do gì đó, chúng ta lạc đường xa ngàn dặm. Nhà người tình nằm ở hướng Đông, nhưng chúng ta tiếp tục lái về hướng Tây. Trời buổi chiều, màn đêm kéo xuống thật nhanh. Sáu giờ rồi, trời tối nhưng chúng ta vẫn còn đang lang thang trên một con đường có cái tên lạ hoắc nằm ở hướng Tây. Ngôi nhà quen thuộc của tình nhân thì vẫn chưa thấy bóng. Trong khi đó tình nhân ở trong nhà đi ra đi vô chờ đợi. Nước mắt của tình nhân long lanh trên gò má. Nhấc điện thoại lên, tình nhân bấm số gọi. Đầu dây bên kia, không ai nhấc điện thoại, bởi tình lang đang lạc đường. Trong tình trạng này, chắc chắn tình lang sẽ mất tình nhân như chơi.

Một cách tương tự, Mùa Chay là mùa Giáo Hội kêu gọi chúng ta, “Lạc đường rồi! Lạc xa lắm rồi! Chúa đang ở hướng Ðông, nhưng chúng ta đang tiếp tục đi về hướng Tây. Lạc đường rồi! Lạc xa lắm rồi! Hãy quay lại hướng của Chúa”.

III. Thần Học Mùa Chay

Ðọc tới những hàng chữ trên đây, một lần nữa có thể bạn sẽ thắc mắc,

— Ủa, lạ kỳ chưa. Tôi đang sống một đời sống tôn giáo tốt đẹp kia mà. Tôi không đi lễ hằng ngày như hồi còn bên Việt Nam, nhưng tôi vẫn đi lễ mỗi ngày Chúa Nhật. Tôi vẫn rước lễ mỗi khi có dịp tham dự thánh lễ, đặc biệt là thánh lễ ngày Chúa Nhật. Đời sống bên này bận rộn với công ăn việc làm. Tôi làm ngày hai jobs; về tới nhà mệt xỉu, thở không ra hơi, nhưng tôi vẫn cố gắng để dành thì giờ cho Chúa bằng cách tham gia vào Thiếu Nhi Thánh Thể, Ca Ðoàn, Ban Giáo Lý, Linh Thao, Dòng Ba Đa Minh, Lêgiô, hoặc Hội Đồng Mục Vụ của giáo xứ.

Đúng, bạn nói rất đúng. Nhưng nếu mang lên bàn mổ phân tích, bạn và tôi sẽ nhận ra rằng trong đời sống riêng tư của mỗi người, chúng ta đang dần dần quên đi thật sự ra Chúa mới là cùng đích, là điểm nhắm của mỗi người trong chúng ta. Có thể đối với một vài người Việt Nam đang sinh sống trên những vùng đất lạ, Thiên Chúa không còn là điểm nhắm để chúng ta đi tới nữa, nhưng là nhà cửa, là tiền, là công ăn việc làm, là con cái.

A. Nhà Cửa, Tiền, và Jobs

Dì Tư qua sau, mãi đến đầu năm 98 mới bước chân được tới vùng đất mới theo diện H.O. của chú Tư. Năm năm sau dì Tư đã mua được một căn nhà 5 phòng nằm trong khu nhà giầu. Chúng ta, tái định cư tại vùng đất mới hơn mười năm về trước, thế mà từ bao lâu nay vẫn cứ loay hoay đi ra đi vô trong khu chung cư rẻ tiền. Để cố gắng vớt vát lại danh dự, chúng ta cố gắng bóp bụng tiết kiệm để dành tiền bạc. Ngày nắng cũng như ngày mưa, chúng ta lái xe đi làm, vợ chồng thay phiên nhau cày hai jobs. Có công mài sắt, có ngày nên kim. Cuối cùng chúng ta cũng mua được căn nhà lý tưởng ngon hơn căn nhà của dì Tư. Căn nhà này có 6 phòng ngủ, 3 phòng tắm, đằng sau có hồ bơi. Cạnh hồ bơi là hồ tắm nước nóng Jacuzzi sủi bọt. Cạnh hồ bơi là hồ cá nhỏ tung tăng những chú cá Koi mập mạp bơi qua lượn lại dưới chiếc cầu sơn mầu đỏ kiểu Đông Phương. Thế là căn nhà mơ ước đã biến thành sự thực.

Nhà có rồi, bây giờ làm sao có tiền để trả tiền nhà, tiền điện thoại, tiền nước, tiền điện, tiền rác, tiền ăn, tiền bảo hiểm, tiền trả góp cho bộ ghế salông bằng da đắt tiền trong căn phòng khách sang trọng, cho bộ TV màn ảnh Plasma kiểu mới rõ từng nét nằm chễm chệ ngay góc nhà bên cạnh lò sưởi tí tách thơm tho mùi gỗ thông, cho chiếc xe Lexus ghế da loại mới đắt tiền đang khoe mình trong nhà để xe? Đủ thứ tiền phải suy nghĩ tới, phải bận tâm vào mỗi buổi chiều khi mở hộp thư ra ôm vào một đống bill. An cư lạc nghiệp với một đời sống cơm ngon áo đẹp vẫn là điều Thiên Chúa muốn mọi người trong chúng ta phải có, nên có. Nhưng chuyện đầu tiên vẫn là chuyện tiền đâu để thanh toán cho một đống bill nợ nần?

Nhà có rồi. Căn nhà sang trọng càng trở nên sang trọng với những tiện nghi tân kỳ. Bây giờ chúng ta cần phải có công ăn việc làm vững chắc; nếu không, những thứ chúng ta đang có sẽ biến mất. Thế là chúng ta dậy sớm, tắm rửa, vừa uống café vừa lái xe tới hãng. Sáng sớm những dòng xe cộ đông đảo đang đợi chờ chúng ta trên những xa lộ chằng chịt dọc ngang. Từng chút rồi từng chút, chiếc xe của chúng ta nhích lên được một khoảng. Từng khoảng rồi từng khoảng, chiếc xe của chúng ta bỏ lại đằng sau một đoạn. Từng đoạn ngắn nối lại hóa thành một đoạn dài. Xe chúng ta cuối cùng dừng lại trước cửa hãng. Một ngày tám tiếng, đôi khi hơn tám tiếng, chúng ta bận rộn trong công sở. Chiều về tới nhà, chúng ta mệt nhoài. Giờ này phải nấu cơm cho con cái. Sau giờ cơm, chúng ta bận rộn với rửa chén, hút bụi, lau nhà, giặt quần áo cho con cái. Điện thoại gọi tới, “Reng! Reng! Hê-lô? Xin lỗi…” Chấm dứt câu chuyện với ông nội, bà ngoại bên Việt Nam, chúng ta ra sau vườn tưới nước, nhặt một vài ngọn cỏ. Vô nhà, chúng ta bật TV coi. Loay hoay một hồi với nhà với cửa, với con, với cái, với họ hàng, và với chính chúng ta. Nhìn lên đồng hồ, mười một giờ khuya. Chúng ta leo lên giường đi ngủ. Một ngày trôi qua.

B. Con Cái

Con Mai, cô con gái rượu ngày càng lớn, chúng ta càng có những mối lo canh cánh bên lòng. Đôi khi nhấc điện thoại, chúng ta nhận ra những giọng thanh niên lạ hoắc xin được gặp con Mai. Con Mai gần đây bắt đầu biết trang điểm. Tóc dài của nó ngày càng óng ả mỡ màng với bộ ngực nở nang, dáng điệu của một người thiếu nữ. Cuối tuần quần là áo lượt con Mai xin phép được tham dự bữa tiệc sinh nhật của những người bạn học trong trường. Và thế chúng ta bắt đầu lo lắng.

Thằng Thanh, đứa con trai đầu lòng râu bắt đầu mọc xanh trên mép. Hỏi chuyện, nhiều khi nó lười biếng không thèm trả lời. Thời gian gần đây thằng Thanh hay về khuya. Nó mở cửa bước vô nhà, chúng ta ngửi được mùi khói thuốc phảng phất bay ra từ người đứa con trai đang lớn. Lúc nãy nó xin phép sang nhà thằng bạn học bài. Sao bây giờ quần áo lại vương mùi thuốc lá khét lẹt? Thế là chúng ta trằn trọc cả đêm bởi mùi thuốc lá trên người của đứa con trai đang lớn.

C. Thanh Niên Thiếu Nữ

Riêng những người thanh niên thiếu nữ, chúng ta chưa có nhiều lo toan tính toán như cha mẹ của mình, nhưng ai cũng ôm ấp cho mình một vài dự án về tương lai. Những người còn đang tuổi đi học, chúng ta ngày đêm miệt mài với sách vở. Những bài homework, bài test là những mối bận tâm hàng đầu của thanh niên thiếu nữ còn đang trong tuổi cắp sách đến trường. Những đêm thức trắng học bài thi là những bận rộn thường xuyên của tuổi sinh viên. Những ngày nghỉ cuối tuần là thời gian quý báu cho những hẹn hò đôi lứa, cho những tiệc tùng sinh nhật, và những ánh đèn xanh đỏ chớp sáng trên sàn nhẩy. Những ngày nghỉ cuối tuần, chúng ta đi shopping malls tìm kiếm mua cho được những bộ quần áo. Tầm thường ra cũng phải là của Gap, của Polo, Tommy Hilfiger. Sang trọng hơn, chúng ta nhất định phải mua quần áo, kiếng mắt của CK, Express, French Connection, Kenneth Cole, Banana Republic, Versace, Gucci.

Chuẩn bị cho ngày ra trường, chúng ta bắt đầu lao vào cuộc đua mới. Lần này, chúng ta tranh đua với các bạn đồng nghiệp đang chuẩn bị đội mũ Cử Nhân. Nếu may mắn, điểm GPA ra trường cao, 4.0 tuyệt vời hoặc 3.7, 3.8 trở lên, với cái mộc vàng chóe dán dính trên mảnh bằng Kỹ Sư Điện của đại học Berkeley hay San Jose State University của Trung Tâm Điện Tử Silicon, chúng ta cầm chắc một mảnh đời tươi sáng trước mặt. Với điểm GPA khá cao, chưa ra trường, qua một vài lần phỏng vấn chơi chơi với những đại công ty điện toán ngay tại trường, nhân viên phỏng vấn đã nhẹ nhàng cười mím chi duyên dáng với chúng ta. Những ánh mắt hứa hẹn, những cú điện thoại liên tục gọi tới, và chúng ta trở thành kỹ sư ngay khi chưa ra trường. Nếu chúng ta ít may mắn hơn, điểm GPA thấp hoặc thấp vô cùng, có thể chúng ta sẽ khá vất vả lùng kiếm công ăn việc làm. Nếu không may mắn có những người bạn đang làm trong hãng dẫn vào giới thiệu, cuộc sống kỹ sư của ta sẽ khá long đong lận đận.

Nhưng rồi cuộc đời vẫn lăn tới. Cuối cùng cuộc sống độc thân cũng chấm dứt khi chúng ta lập gia đình. Đám cưới tưng bừng với cô dâu mặc áo trắng toát, chú rể đẹp trai cười tươi. Tuần trăng mật tới. Nối tiếp là tuần dập mật! Theo sau là tuần nát mật! Đôi vợ chồng mới cưới bắt đầu đi kiếm một căn nhà mới tinh. Câu chuyện đầu tiên lại là câu chuyện tiền đâu. Và cuộc sống lo toan của bố mẹ chúng ta ngày xưa lại bắt đầu.

Cứ vậy, cuộc sống lăn tới. Ngồi xét lại trong một khoảng thời gian, từ khi chúng ta cắp sách đến trường đại học của tuổi mười chín đến khi chúng ta trở về với cát bụi của tuổi một trăm, chúng ta để dành cho Thiên Chúa được bao nhiêu khoảng thời gian ngoại trừ một tiếng đồng hồ của ngày Chúa Nhật. Mà hình như một khoảng thời gian ngắn ngủi này cũng không bao giờ trọn vẹn. Chúng ta đi lễ ngày Chúa Nhật. Thánh lễ dài khoảng một tiếng. Ông cha giảng dài ơi là dài! Thế là chúng ta chìm vào giấc ngủ. Tỉnh dậy, chúng ta mơ màng nghĩ tới những công chuyện phải giải quyết. Ngày mai, thứ Hai, một đống giấy tờ đang đợi chờ chúng ta ở trong hãng. Lát nữa, về tới nhà, lại cả một đống chuyện đang chờ đợi chúng ta. Đời sống hình như quá ngắn, mà sao công việc lại quá nhiều. Tối đến, nhắm mắt lại vẫn còn thấy chuyện. Ngủ cũng không yên. Trong một ngày, hai mươi bốn tiếng đồng hồ, chúng ta nhớ tới Chúa, cùng đích của đời sống trong vòng bao nhiêu phút? Cuối cùng ngày đó rồi cũng tới. Chúng ta mở mắt ra. Gần một trăm năm đã trôi qua.

Nếu chúng ta cứ tiếp tục sống, cách sống vừa được diễn tả ở trên, chúng ta đang lái xe về hướng Tây. Vào mỗi sáng sớm của một khoảng thời gian ngắn ngủi trong đời người, chúng ta mải miết nhấn ga nhắm hướng Tây lái tới. Ngày cuối cùng rồi cũng đã tới. Vào ngày đó, chúng ta mới nhận ra hướng Tây không phải là hướng của Chúa. Ngài nằm ở hướng Đông. Khi đó trễ rồi! Quá trễ! Trước mặt chúng ta không có ai khác ngoài chính mình. Giờ này chỉ còn ta với ta. Chúa ơi, Ngài đang ở đâu?

Bởi vậy, Giáo Hội thiết lập Mùa Chay, Mùa U-Turn, Mùa Làm Đường Vòng Chữ U. Dừng lại! Quay lại! Xa quá rồi! Chúng ta đang lái lạc đường! Quay lại về hướng Đông, hướng của Thiên Chúa.

Lời Nguyện: Lạy Chúa, trong Mùa Chay thánh này, xin giúp con nhận ra hành trình con đang bước đi không dẫn con tới gần Chúa, nhưng vực sâu núi thẳm, đêm đen tử thần, và bóng tối sự chết. Lạy Chúa, xin ban cho con lòng quyết tâm đứng dậy, làm một đường vòng hình chữ U, quay trở về lại căn nhà xưa, nơi đó Chúa đang đứng, trông chờ ngóng đợi, dõi mắt nhìn bóng dáng của con.

 

_______________________________________

Chú thích

[1] Không ăn thịt trong Mùa Chay là một phong tục đã có khá lâu trong Giáo Hội. Ngày hôm nay ở các nước Tây Phương và Bắc Mỹ thịt không còn là một món ăn đắt giá nữa. Thịt heo người ta bỏ mỡ, thịt gà người ta gạn bỏ phần da vàng thơm béo ngậy bởi sợ cholesterol. Bởi thế, không phải kiêng thịt có nghĩa là thôi không ăn thịt heo, thịt bò, hay thịt gà, nhưng lại đi vào tiệm Buffet ăn tôm hùm, ăn sò huyết, ăn cua Alaska , sushi. Sau bữa ăn, chúng ta ra về, no một bụng mà vẫn không sợ chi, bởi chúng ta vẫn giữ chay mà. Tất cả những món ăn tôm hùm, cua biển, sò huyết, sushi, nếu ăn, chúng ta vẫn giữ chay; nhưng tất cả những món ăn seafood này còn đắt hơn cả thịt. Nếu vậy, theo đúng tinh thần của Mùa Chay, chúng ta hoàn toàn không công bằng với Chúa.

[2] Bắt đầu Mùa Chay, chúng ta thường nghe các linh mục trong xứ nhắc nhở người tín hữu kiêng thịt vào những ngày thứ Sáu trong tuần, và ăn chay kiêng thịt vào ngày thứ Tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh. Nếu đúng là chữ chay có nguồn gốc từ chữ trai, kiêng thịt và ăn chay do đó là hai danh từ dị âm nhưng đồng nghĩa. Kiêng thịt chính là ăn chay. Ăn chay chính là kiêng thịt. Nếu vậy ăn chay  kiêng thịt vào ngày thứ Tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh do đó chỉ bao gồm một ý nghĩa đơn giản là không ăn thịt. Nhưng đúng ra, ăn chay trong ngày thứ Tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh có nghĩa là ăn ít đi..

LM Nguyễn Trung Tây, SVD