4. Bánh Sự Sống

Gương Chúa Giêsu I - 2. TỰ KHIÊM

Tính ham biết

Thường tình ai cũng muốn biết, nhưng biết mà không có lòng kính sợ Chúa: cái biết đó có ăn thua gì!

Một người quê mùa nghèo khó mà biết phụng thờ Chúa, còn giá trị hơn ngàn lần một triết gia kiêu kỳ, chỉ mải miết nghiên cứu các tầng trời vận chuyển mà không màng chi phần rỗi!

Người biết mình tỏ, sẽ tự khinh và không màng tiếng người đời ca tụng.

Thông làu thiên kinh vạn quyển mà không có đức Ái, tất cả những cái đó ích chi trước mặt Chúa là Đấng sẽ đoán xét mọi hành vi của mình!

Đừng tò mò

Bạn hãy hãm tính ham biết thái quá! Nó chỉ làm cho bạn chia trí và lầm lạc.

Người biết, tự nhiên muốn được người khác khâm phục và ca tụng là thông giỏi, nhưng có những cái biết không có ích mấy hay chẳng ích gì cho phần rỗi.

Nếu thế, chỉ cặm cụi với những cái khác mà không quan tâm đến cái giúp mình lo phần rỗi, còn gì điên rồ bằng?

Không phải chỉ cốt nói cho nhiều mà linh hồn no thỏa, trái lại chỉ có đời sống đạo hạnh mới làm được cho lòng yên tĩnh; chỉ có lương tâm trong sạch mới làm được cho ta yên vui trước mặt Chúa.

Đừng nghĩ mình hơn

Càng thông biết nhiều mà không lợi dụng được cái biết ấy để sống thánh thiện, càng phải đoán xét nặng.

Tài ba lỗi lạc đến đâu, đừng lấy đó làm cao làm kiêu: càng biết nhiều càng đáng lo ngại nhiều.

Bạn tưởng Bạn biết nhiều ư? Bạn nên nhớ, cái biết đó chẳng thấm đâu với những cái mà bạn chưa biết.

Thánh Phaolô bảo: “Bạn đừng có tự cao tự đại” (1) một hãy thú nhận cái dốt của mình đi.

Bạn đưa lý do nào mà dám tưởng mình hơn người, trong khi còn biết bao người thông thạo hơn và am tường luật Chúa hơn!

Bạn muốn biết cái gì giúp cho Bạn hơn ư! Bạn hãy mong được đời bỏ qua và không đếm xỉa đến.

Tự giác

Khoa học cao quí nhất mà cũng ích lợi nhất, chính là khoa học tự giác và tự khinh.

Không nghĩ hay cho mình và biết kính trọng người khác: đó là khôn ngoan và trọn hảo nhất.

Gặp người phạm tội công khai – dầu là một tội đại ác – Bạn cũng đừng vội căn cứ vào đó mà tưởng mình tốt hơn, vì Bạn không thể biết chắc Bạn sẽ đứng vững trong điều thiện được đến bao giờ.

Đành rằng ta ai cũng yếu đuối, nhưng Bạn nên tin chắc không ai yếu đuối hơn Bạn.

SUY NIỆM

Lời Thánh Kinh: “Những tư tưởng của người đời sẽ hết sức phù phiếm và hoàn toàn vô ích, nếu nó không giúp nhìn nhận và kính ái Chúa, giúp lãng quên và coi khinh chính mình”.

Lòng tin đơn sơ và linh động của một người chỉ biết tin – tin không mà cả, không do dự – tất cả những điều Chúa dạy tin và thực hành tất cả những điều Chúa dạy làm: lòng tin đó cao quí hơn tất cả khoa học đạo cũng như đời. Vì thiếu lòng tin đó, khoa học chỉ làm cho trí thêm kiêu, hồn thêm lạnh.

Lạy Chúa Cứu Chuộc khả ái! Xin chữa con khỏi bệnh tham biết thái quá và tính lười làm những việc phải làm cho được rỗi. Con có thể thành tâm học biết mà không ca tụng và kính mến Chúa sao được? Con có thể tự giác mà không tự khinh tự bỉ thế nào được!

Lạy Chúa! Sống thấp hèn không được người biết tới, sống ẩn dật với Chúa trong Đức Chúa Trời: cái sống đó cao quí nhường bao! Xin ban cho con và mọi người biết tôn trọng và thực hành được cái sống ấy.

—————–
1. Rom XI, 20

 

Gương Chúa Giêsu I - 1. NOI GƯƠNG CHÚA VÀ KHINH CỦA THẾ TỤC

Con đường sáng

Lời Chúa Giêsu: “Ai theo Ta, người ấy không đi trong đường tối”. (1)

Lời ấy, Chúa dùng để khuyên nhủ ta bắt chước tính hạnh và hành vi Chúa, nếu ta muốn được sáng thật và thoát ly mọi tối tăm trong tâm hồn.

Bài học chính của ta sẽ là suy gẫm về tính hạnh Chúa Kitô vậy.

Tinh thần Chúa

Học thuyết Chúa Kitô trổi vượt trên học thuyết các thánh. Ai thấu nhập được tinh thần Chúa Giêsu, người ấy gặp được lương thực giấu ẩn trong đó.

Sở dĩ nhiều người nghe giảng Phúc Âm luôn mà vẫn không xúc động, là vì họ không có tinh thần Chúa Kitô.

Muốn hiểu tỏ và nếm thử thi vị của lời Chúa, cần phải tập sống đời sống của Chúa.

Cái thông giỏi của thế tục

Lý luận cao kỳ về Chúa Ba Ngôi có ích chi, một khi lòng đầy kiêu hãnh. Bạn lại vì đó mà mất lòng chính Chúa Ba Ngôi.

Không phải cứ lý luận cao mà nên được người lành người thánh, trái lại chỉ có đời sống đạo đức mới làm nên được bạn thiết của Chúa!

Thà biết sám hối còn hơn biết giải thích nghĩa sám hối là gì.

Thuộc lòng toàn pho Thánh Kinh và danh ngôn các triết gia, mà không có đức ái và ân nghĩa Chúa: tất cả cái đó có ăn thua gì!

“Phù hoa nối tiếp Phù hoa,

“Của đời hết thảy chỉ là Phù hoa” (2) trừ kính ái và phụng thờ một Chúa.

Khôn ngoan nhất là người biết cài đạp thế tục để tìm đến nước trời.

Của đời của chóng qua

Không gì phù phiếm bằng tích góp cho nhiều của mau qua và để hết lòng trí vào đó!

Không gì phù phiếm bằng ham hố danh vọng và ưa tìm ăn trên ngồi trốc!

Không có gì phù phiếm bằng bê tha nhục dục và đam mê những cái rút cục chỉ làm cho mình phải nghiêm phạt!

Không gì phù phiếm bằng thích sống lâu mà không cố gắng sống cho thánh thiện!

Không gì phù phiếm bằng chỉ để tâm đến của hiện tại mà không màng gì của tương lai!

Không gì phù phiếm bằng chỉ mải miết đuổi theo của mau qua mà không màng đến cái sẽ làm cho mình được vui sướng bất diệt!

Của vô hình

Hãy tâm niệm luôn lời này của Đấng Khôn ngoan: “Mắt không bao giờ xem no, tai không bao giờ nghe thỏa”. (3)

Bạn hãy cố gắng giữ lòng khỏi quyến luyến của hữu hình và hãy chuyên lo tìm của vô hình.

Ai sống theo nhục dục, người ấy làm nhọ lương tâm mình và mất ơn Chúa.

SUY NIỆM

Con người sống ở đời chỉ có một việc tối cần là lo phần rỗi… nhưng không có phần rỗi ngoài Chúa Giêsu.

Tin tưởng ở lời Chúa, tùng phục huấn lệnh Chúa, bắt chước các nhân đức Chúa: đó là cái sống cao quí nhất.

Bê tha của cải, thú vui, chức quyền, mà lãng quên phần rỗi, thiết tưởng không còn thứ phù phiếm nào nguy hại bằng!

Chúa Giêsu! ích gì cho con, nếu con chỉ tìm biết những mầu nhiệm lớn lao về bản thân Chúa mà không lợi dụng được công nghiệp và ân nghĩa Chúa, không biết cái sống của Chúa và thực hành các nhân đức Chúa!

Ích gì cho con, nếu con chỉ nhắm mắt đuổi theo cái phù phiếm mà không chuyên lo phần rỗi con!

Xin giúp con nhận định rõ và cương quyết sống theo gương lành Chúa.

—————–
1. Gioan VIII, 12
2. Eccl 1, 2
3. Eccl 1, 8

 

THÁNH THỂ SUỐI NGUỒN VÀ TUYỆT ĐỈNH TÌNH YÊU

“Đức Giêsu nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Gioan 6:53-56).

Ăn thịt và uống máu một người. “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Gioan 6:60)

Đối với Chúa thì không gì là không có thể, và với đức tin thì không có vấn đề. Theo Thánh Thomas Aquinas, “Thiên Chúa dù quyền năng vô biên cũng không thể làm gì khác hơn là thiết lập nên Phép Thánh Thể”. Trước một hành động như thế, trí óc siêu phàm của con người cũng phải dừng lại, và cặp mắt trần trụi của nhân loại không thể nào nhìn ra Thiên Chúa qua tấm bánh và chén rượu đã truyền phép. Bởi thế, trong bài ca Tantum, chính thánh nhân đã viết: “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì?”.

Điều khiến một số môn đệ đầu tiên đã bỏ Chúa Giêsu, thì ngày nay cũng xảy ra như vậy. Nhiều người đã không tin rằng Ngài hiện diện trong Thánh Thể.

THÁNH THỂ LÀ GÌ?

Thánh Thể “Eucharist” xuất phát từ chữ eucharistia của Hy Lạp có nghĩa là “tạ ơn”, là tâm điểm của việc thờ phượng Kitô Giáo, và được cử hành cùng một cách thức trên các thánh đường Công Giáo. Mầu nhiệm chỉ về việc Thân Xác và Máu của Đức Giêsu Kitô thật sự hiện diện trên bàn thờ dưới hình bánh và rượu.

Có 4 cách diễn tả về Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Thể, đó là: Trong Thánh Thể được bẻ ra và chia sẻ. Trong con người của chủ tế. Trong Lời của Chúa. Và Cộng Đoàn dân Chúa (Constitution on the Sacred Liturgy , CSL #7). Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt giữa việc Rước Lễ và Thánh Thể. Thánh Thể (Eucharist) cũng được gọi là Holy Communion, Blessed Sacrament bao gồm toàn bộ hành động cử hành, và sự thánh hiến của Thánh Lễ. Rước lễ (Communion) hay chịu lễ, hiệp lễ là hành động đón nhận Mình và Máu của Chúa.

THÁNH KINH VÀ THÁNH THỂ

Cùng với phép rửa tội, Thánh Thể là hai trong các bí tích được Tân Ước nhắc đến một cách rõ ràng. Đây là Bí Tích do chính Chúa Giêsu thiết lập, và đã được các Thánh Sử ghi lại:

Trong Phúc Âm của mình, Thánh Mátthêu viết: “Cũng trong bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.” (26:26-28)

Phúc Âm của Thánh Gioan ghi: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy.” (6:56)

Thánh Phaolô Tông Đồ thì nói rõ ràng với giáo dân Côrintô rằng, Thánh Thể được thiết lập bởi Chúa Kitô: “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.” Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.” (1 Corinthians 11:23-25).

CÁC THÁNH NÓI VỀ THÁNH THỂ

Có thể nói, tất cả các thánh nhân đều yêu mến Phép Thánh Thể. Sau đây là một số vị đã để lại những câu nói có thể giúp chúng ta thêm tin tưởng và yêu mến Bí Tích cực trọng này:

Thánh Giáo Phụ Augustine (354-430): “Tấm bánh hữu hình và rượu trên bàn thờ, “đã được thánh hiến bởi lời Thiên Chúa” là Mình và Máu Ngài. Qua việc sốt sắng nhận Mình và Máu đó đã đổ ra vì chúng ta, chúng ta trở nên thân mình ấy, có nghĩa là chúng ta nối kết trong sự hiệp thông gần gũi với Thân Mình Mầu Nhiệm của Ngài”.

Thánh Phanxicô (1181-1226). Trong “Thư gửi các Giáo Sỹ” của mình, Thánh Phanxicô viết: “Trên thế giới này không có gì Cao Trọng nơi Chính Mình Ngài mà chúng ta có thể sở hữu và chiêm ngắm bằng cặp mắt của chúng ta, ngoại trừ Mình và Máu Ngài”. Đối với vị thánh nghèo Assisi, Thánh Thể vừa là đường vừa là địa bàn cho cuộc hành trình của Ngài.

Thánh Thomas Aquinas (1225-1274): “Thánh Thể là bí tích của tình yêu: nó biểu hiện tình yêu, đem lại tình yêu. Thánh Thể là cực điểm của toàn bộ đời sống thiêng liêng.” Ngài nhắc lại lời Thánh Euphrasia: “Nói về Phép Thánh Thể là nói về một điều cực thánh”.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1920-2005). Trong thông điệp đầu tiên “Redemptor Hominis”, ngài nói và viết về Thánh Thể: “Giáo Hội không ngừng làm sống lại cái chết trên thập giá và sự phục sinh của Ngài, vì nó làm nên nội dung của đời sống thường nhật của Giáo Hội.”

Trong đổi mới phụng vụ của Vatican II công bố Thánh Lễ như ‘suối nguồn và tuyệt đỉnh của đời sống Kitô hữu’. Công Đồng khuyến khích các tín hữu ‘tham dự đầy đủ, ý thức và sống động’ trong mọi cử hành Thánh Thể.

VẪN LÀ LỜI CHÓI TAI

Cũng như một số môn đệ ban đầu theo Chúa Giêsu. Họ đã phàn nàn, bỏ đi khi nghe giáo lý của Ngài về Phép Thánh Thể. Hiện nay tại Hoa Kỳ, chỉ khoảng 3% tín hữu tuyên xưng sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Thánh Thể mặc dù không hiểu việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô. Khoảng 6 trong 10 (63%) những tín hữu thường xuyên tham dự Thánh Lễ ít nhất 1 lần một tuần chấp nhận lời giảng dạy của Giáo Hội về Phép Thánh Thể.

Biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô trong Thánh Lễ được coi là trung tâm của đức tin Công Giáo. Bởi thế, Giáo Hội luôn dạy rằng “Thánh Thể là nguồn mạch và tuyệt đỉnh của đời sống người Kitô hữu”. Ngược lại với số nhỏ tin vào Thánh Thể, cuộc khảo cứu gần đây của Trung Tâm Khảo Cứu Pew Research Center đã cho thấy rằng phần đông người Công Giáo không tin vào lời dạy này. Trên thực tế, 7 trong số 10 người (69%) Công Giáo nói họ tin rằng trong khi cử hành Thánh Lễ, bánh và rượu được dùng trong lúc Rước Lễ chỉ là “biểu tượng” của mình và máu Chúa Giêsu Kitô. Thực chất chỉ có 1/3 người Công Giáo (31%) nói họ tin rằng “trong lúc cử hành Thánh Lễ, bánh và rượu thật sự trở thành mình và máu của Chúa Giêsu.”

Những người được khảo cứu cho biết rằng, hầu hết họ không biết về giáo lý này và được giảng dạy đầy đủ. Một số nhỏ (3%) tin vào sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể mặc dù không hiểu lời giảng dạy của Giáo Hội về sự biến đổi trong Thánh Thể. Những Kitô hữu không tham dự Thánh Lễ hàng tuần, số đông nói họ tin bánh và rượu chỉ là biểu tượng và không thực sự trở thành mình và máu Chúa Giêsu. Kết quả khảo cứu cũng cho biết rằng tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể phần đông là những người Công Giáo lớn tuổi.

Tóm lại, trên 20% người Công Giáo Hoa Kỳ tham dự Thánh lễ hàng tuần và cầu nguyện hàng ngày và cho rằng tôn giáo rất quan trọng trong đời sống của họ. Ngược lại, 10% người Công Giáo nói họ tham dự thánh lễ vài lần trong năm, ít khi cầu nguyện không bao giờ coi tôn giáo là quan trọng hoặc không có gì quan trọng trong đời sống của họ. [1]

Giáo dân là thế, còn các linh mục? Các linh mục không những cử hành Bí Tích Thánh Thể cho các tín hữu, nhưng các ngài còn yêu mến thẳm sâu Thánh Thể. Trong cuộc khảo cứu gần đây, 94% linh mục tại Hoa Kỳ trả lời rằng “Thánh Thể là Trung Tâm Đời Sống” của các ngài.  Tuy nhiên, mỗi khi tham dự thánh lễ mà thấy một linh mục, kể cả giám mục sau khi truyền phép đã dùng một tay đưa Mình Thánh và Máu Thánh Chúa lên cho giáo dân thờ lạy, hoặc đọc các kinh nguyện một cách vội vàng, hấp tấp thì hình như trong khảo cứu này khi trả lời câu hỏi, các linh mục ấy đã không thật với lòng mình hay ít ra trả lời cho có lệ.

ĂN THỊT VÀ UỐNG MÁU CHÚA

Thánh Thể ở trong trái tim của sự tôn thờ Kitô giáo. Thánh Thể được cử hành trên khắp thế giới như một sự tưởng niệm về cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, trong việc đáp lại những lời mà Ngài đã nói với các môn đệ ở bữa tiệc ly, “Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy”.

Những từ ngữ như “ăn thịt và uống máu” Chúa tuy do chính Chúa Giêsu nói về Thánh Thể. Và mặc dù nó là những lời của Chúa, tuy nhiên, nghe vẫn thấy “chói tai”. Điều này xảy ra vì phản ứng con người, và vì sự ẩn dấu của mầu nhiệm. Vậy hãy tạm dùng những từ “dễ nghe” hơn như rước lễ, hiệp lễ, rước Thánh Thể để diễn tả hành động rước lễ mỗi khi tham dự thánh lễ.

Trong lời nguyện cộng đồng trong các thánh lễ an táng, chúng ta thường nghe lời cầu: “Lạy Chúa, linh hồn người quá cố khi còn sống đã tham dự Thánh Lễ, đã ước mình và máu Thánh Chúa. Nay xin cho được đồng bàn với Chúa cùng với các thánh trên nước hằng sống.” Một lời cầu rất ý nghĩa. Nhưng được mấy ai ý thức và thực hành khi còn sống là siêng năng tham dự Thánh Lễ và rước Mình, Máu Thánh Chúa?!!

__________

Tài liệu tham khảo

1.https://www.pewresearch.org/short-reads/2019/08/05/transubstantiation-eucharist-u-s-catholics/

  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt

Gương Chúa Giêsu I - Lời Dịch Gỉa

Quyển một

Những nguyên tắc hướng dẫn đời sống tinh thần

Tác gỉa “GƯƠNG CHÚA GIÊSU” đã không đề một lời tựa cho tác phẩm của mình. Đáng lý vì tôn trọng cuốn sách tuyệt tác này, một cuốn sách mà nhiều học gỉa đã không ngần ngại đặt liền sau bộ Phúc Âm Thư, tôi cũng không cần và cũng không dám viết gì thêm.

Nhưng với hy vọng phổ cập tới mọi tầng lớp quần chúng, tôi thấy không thể không có mấy lời giới thiệu. Phải chăng đây chỉ là cố gắng đặt tác phẩm vào địa vị xứng đáng của nó.

Trong khắp Giáo hội Âu Châu – nhất là mấy thế kỷ trước – GƯƠNG CHÚA GIÊSU đã là cuốn sách thân yêu của giáo hữu, nhất là của giới tu sĩ. Nó dã được hân hạnh góp phần vào việc tác tạo nên những vị Thánh thời danh, như Inhaxiô, Phanxicô, Têrêsa….

Điều đó không có gì lạ.

Một đàng vì lúc ấy – cũng là hoàn cảnh hiện tại của giáo hữu Việt Nam – những sách tu đức còn ít phổ thông, những vị linh hướng chưa có đủ để cung cấp cho sở nguyện riêng của mỗi người. Trong hoàn cảnh đó, GƯƠNG CHÚA GIÊSU đã xuất hiện, để trở nên cuốn tu đức học phổ thông và là kim chỉ nam cho bất cứ những ai muốn và đang đi tìm đường trọn hảo.

Đàng khác – và đây là điểm đặc sắc nhất, vì GƯƠNG CHÚA GIÊSU hàm chứa một giáo lý đầy đủ, minh bạch và những phương pháp thực hành thích dụng cho mọi tầng lớp và mọi thời đại.

Điều đó thật dễ hiểu. Vì trong khi các sách tu đức học – với tính cách giáo khoa – chỉ chú trọng nhiều ở nguyên tắc mà ít lưu tâm giữ vững ngọn lửa sùng ái trong tâm hồn: điều mà hết thảy, nhất là những người phôi thai trên đường trọn lành, hằng mong ước. Còn các sách đạo đức khác, nhất là các sách chuyên nghiên cứu những phong trào sùng mộ riêng trong khi hấp dẫn được linh hồn, thì hầu như thiếu hẳn tính cách hướng dẫn: một điều kiện tất yếu của mọi sách tu đức. Vì thế – cũng như loại sách trên – nó chỉ thỏa mãn được từng phương diện và từng lớp người.

Trái lại, ngoài sức hướng dẫn sẵn có, vì căn cứ trên những lời bất hủ của chính Đấng tự xưng là “Đường và Chân lý”, GƯƠNG CHÚA GIÊSU còn có một sức hấp dẫn dồi dào, mãnh liệt và bền bỉ, một sức hấp dẫn hình như trào ra bởi chính ngọn lửa sốt mến của Tác gỉa và nhuần thấm vào từng trang từng chữ trong sách. Nó đã và còn đang có sức thiêu đốt và lôi kéo bất cứ những ai tin tuởng bước theo những lời chỉ dẫn của sách này.

Ngoài ra , nếu xét về phương diện xử thế, GƯƠNG CHÚA GIÊSU còn là tất cả một khoa Triết học thực hành. Vì, không kể những lời Thánh Kinh – nguồn mạch mọi khôn ngoan thông thái – mà ta có thể thấy trong hầu hết mọi trang sách, chính những kinh nghiệm của những người từng trải mà Tác gỉa đã khéo thu thập, thêm vào những nghiệm xét bản thân của Tác gỉa, đã làm cho mỗi câu của GƯƠNG CHÚA GIÊSU trở nên một bài học khôn ngoan vĩ đại có thể áp dụng cho bất cứ trường hợp nào của đời sống.

Một cuốn sách như thế mà không được phổ thông nơi quần chúng, nhất là riêng giáo hữu Việt Nam, qủa là một sự thiếu sót và thiệt thòi khó có thể đền bù được.

Sự thực trước đây đã có một vài bản dịch ra tiếng Việt Nam. Những bản dịch đó dầu sao cũng có mang lại lợi ích không phải nhỏ. Nhưng tiếc vì sách in có hạn, đàng khác hình như hiện nay các bản dịch ấy đã bị đặt vào một hoàn cảnh qúa hẹp hòi, nên không còn đủ điều kiện để thỏa mãn nhu cầu ngày càng thêm khẩn thiết.

Bản dịch GƯƠNG CHÚA GIÊSU đây hẳn chưa phải là bản dịch lý tưởng, vì nó ra đời trong một hoàn cảnh qúa ngẫu nhiên. Thực, bất đắc dĩ nó phải thay thế cho những đàn anh nó đã vắng bóng mà chưa có người thế chân.

Mong những bản dịch mới mẻ và đầy đủ hơn, sẽ đến bổ khuyết và thay thế cho nó, nếu cần.

Tại Hà Nội, ngày 1 tháng 11 năm 1953

Phép lạ Thánh Thể tại Legnica, Ba Lan


Từ 4 năm nay, trong một nhà nguyện của đền thánh dâng kính thánh Giacinto Odrowaz ở Legnica, phía tây nước Ba Lan, rất đông tín hữu hành hương cầu nguyện trước một mặt nhật có Mình Thánh với các vết máu. Nhiều người được ơn lành bệnh, được ơn hoán cải, thay đổi đời sống và thăng tiến trong đời sống đức tin.

Cho đến nay đã có hơn 130 phép lạ Thánh Thể được Giáo hội công nhận. Tất cả bắt đầu từ phép lạ Thánh Thể ở Lanciano vào khoảng năm 750. Một đan sĩ nghi ngờ về sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu Kitô trong Thánh Thể. Khi đọc lời truyền phép, ngài đã nhìn thấy bánh và rượu được truyền phép trở thành thịt và máu. Các phân tích khoa học đã cho kết quả đó là thịt và máu của con người. Và điều này xảy ra với các phép lạ Thánh Thể. Phép lạ Thánh Thể nổi tiếng xảy ra tại Bolsano nước Ý vào năm 1263, ít được biết đến hơn có phép lạ tại Buenos Aires vào năm 1996. Các phép lạ Thánh Thể mới nhất là tại Sokolka năm 2009 và tại Legnica năm 2013, đều ở Ba Lan.

Thành phố Legnica

Thành phố Legnica (có khoảng 100.000 dân), mặc dù theo lịch sử nó thuộc về Ba Lan, nhưng từ năm 1809 đến năm 1945, theo sự phân chia lãnh thổ quốc gia, đã bị sáp nhập vào Phổ và sau đó là Đức. Nhà thờ bằng gạch đỏ với tháp chuông cao 75 mét, được dâng kính thánh Giacinto Odrowaz (1185-1257), được xây dựng vào đầu những năm 1900. Vào cuối Thế chiến thứ hai, các quan chức của chế độ Xô Viết đã sử dụng nhà thờ làm chuồng ngựa của Hồng quân Liên Xô. Chỉ vào những năm 1960, nhà thờ được phục hồi lại thành nơi thờ phượng và là một trong mười bốn nhà thờ giáo xứ ở Legnica.

Phép lạ Thánh Thể Legnica

Từ 4 năm nay, trong một nhà nguyện của đền thánh dâng kính thánh Giacinto Odrowaz ở Legnica, phía tây nước Ba Lan, các tín hữu cầu nguyện trước một mặt nhật có Mình Thánh với các vết máu.

Vào ngày 25 tháng 12 năm 2013, khi cha sở của giáo xứ cho rước lễ, một Mình Thánh đã rơi xuống đất. Ngay lập tức, Mình Thánh được nhặt lên, được đặt trong một bình thánh có nước và được đặt trong Nhà Tạm theo chỉ dẫn của Giáo luật. Vài ngày sau, những vết đỏ xuất hiện trên bề mặt của Mình Thánh. Đức Giám mục của Legnica vào thời điểm đó, Đức cha Stefan Cichy, đã quyết định thành lập một ủy ban phân tích khoa học. Kết quả thật đáng ngạc nhiên, và xác nhận rằng nó có những điểm tương đồng với cơ tim của con người với những thay đổi thường xuất hiện trong lúc đau đớn.

Công nhận của Tòa Thánh

Ngày 10 tháng 4 năm 2016, Đức Cha Zbigniew Kiernikowski, giám mục giáo phận Legnica, đã công bố sắc lệnh của Bộ Giáo Lý đức tin xác nhận ”không có gì ngăn trở” (nghĩa là ”đồng ý”). Sắc lệnh này được Bộ ban hành sau khi cứu xét kỹ lưỡng sự việc không thể giải thích được: Mình Thánh Chúa không bị tan sau khi được đặt trong bình thánh có nước ngày 25-12-2013, và sau đó xuất hiện trên mặt Mình Thánh những dấu vết máu được các nhà di truyền học xác nhận là ”của con người”, với máu thuộc nhóm AB, và chất liệu sinh học gồm ”những phần bị phân mảnh của cơ vân ngang” rất ”giống cơ tim, với những biến đối thường thấy trong cơn hấp hối”. Bộ Giáo lý Đức tin đã chỉ thị trưng bày thánh tích để các tín hữu có thể cảm nghiệm việc tôn thờ theo cách thích hợp.

Phân tích khoa học

Bác sĩ tim mạch Barbara Engel, một thành viên của ủy ban nghiên cứu do Đức giám mục thành lập, đã giải thích nhân dịp công nhận phép lạ rằng “chúng tôi cũng đã gửi mẫu đến khoa pháp y của Đại học Y khoa Pomedria (…). Trong số các phân tích được thực hiện có DNA. Kết luận của các nhà nghiên cứu như sau: đó là mô cơ tim có nguồn gốc con người. Tất cả các nghiên cứu được thực hiện không giải thích được hiện tượng này hoặc làm thế nào nó có thể xảy ra”. Để không ảnh hưởng đến kết quả, các nhà nghiên cứu không được biết nguồn gốc của vật liệu được phân tích.

Phép lạ Thánh Thể tại Buenos Aires, Argentina, và tại Sololka, Ba Lan

Trước đó, vào ngày 12 tháng 10 năm 2008, tại nhà thờ thánh Antôn ở Sololka, một thị trấn phía đông bắc Ba Lan, đã xảy ra điều tương tự. Giáo phận đã yêu cầu hai chuyên gia giải phẫu bệnh lý phân tích mô được xác định là cơ tim có dấu hiệu co thắt nhanh điển hình của giai đoạn hấp hối trước khi chết. Kết quả của các phân tích cũng giống với phép lạ đã xảy ra tại một giáo xứ ở Buenos Aires.

Vào ngày 15 tháng 8 năm 1996, sau khi Mình Thánh được đặt trong nước, một linh mục đã nhìn thấy mẩu bánh thánh đẫm máu và trình bày cho giám mục phụ tá lúc đó là Đức cha Jorge Mario Bergoglio, nay là Đức Giáo hoàng Phanxicô. Ban đầu Đức cha Bergoglio ra lệnh đặt Mình Thánh đó vào Nhà Tạm, nhưng sau hai năm, ngài cho phép phân tích, khi vị linh mục thông báo với ngài rằng Mình Thánh này không bị phân hủy. Vào ngày 26 tháng 3 năm 2005, sau khi các phân tích kết thúc, tiến sĩ Frederic Zugibe thuộc Đại học Columbia,đã tuyên bố: “Làm thế nào và tại sao bánh được thánh hiến có thể thay đổi và trở thành máu thịt của một con người sống vẫn là một mầu nhiệm không thể giải thích được đối với khoa học, một mầu nhiệm vượt quá khả năng của con người”.

Chứng từ về phép lạ Thánh Thể Legnica

Rất nhiều người trên khắp nước Ba Lan và ở nước ngoài đã đến kính viếng phép lạ. Đức cha Kiernikowski nói: “Có rất nhiều cuộc hành hương từ khắp Ba Lan và cả từ nước ngoài. Chúng tôi thu thập chứng từ của những trường hợp phục hồi sức khỏe và được chữa lành. Mặc dù rất khó để đánh giá những kinh nghiệm nội tâm của người dân, nhưng điều chắc chắn là sự kiện Thánh Thể và sự hiện diện của thánh tích khơi dậy đức tin của người dân và giúp họ hoán cải.”

Cha Andrzej Ziombra trở thành cha sở của giáo xứ thánh Giacinto vào năm 2011. Năm 2016, theo chỉ dẫn của Bộ Giáo lý Đức tin, Đức cha Kiernikowski giao cho cha Ziombra nhiệm vụ thu thập những lời chứng về những thành quả thiêng liêng và những sự kiện không thể giải thích được đã xảy ra nhờ những lời cầu nguyện của các tín hữu trước thánh tích.

Lành bệnh, hoán cải, tăng trưởng trong đời sống đức tin

Nói về các lời chứng đã thu thập được cho đến nay, cha Andrzej Ziombra cho biết: “Nhiều nhất là những lời chứng thực về sự hoán cải và chữa bệnh, tuy nhiên, không phải lúc nào cũng được ghi lại vì trong một số trường hợp, chúng tôi vẫn đang chờ hoàn thành hồ sơ. Chúng tôi có 5-6 trường hợp chữa bệnh đã được chứng nhận và 4 hoặc 5 trường hợp hoán cải thực sự với các lời chứng được viết lại, nhưng chúng tôi cũng có những trường hợp chưa được ghi chép đầy đủ, ví dụ như một người thợ mỏ ở tuổi bốn mươi đang chờ ghép tim, nhưng, nhờ những lời cầu nguyện của gia đình trước thánh tích, hiện nay anh đã được chữa lành hoàn toàn mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào”.

Cha Ziombra nói thêm: “Ước muốn đào sâu đức tin của của mọi người là một kết quả khác của sự kiện kỳ ​​diệu diễn ra vào lễ Giáng sinh năm 2013. Một sự quan tâm hơn đến Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể cũng được chứng minh bằng việc tham dự Thánh lễ vào các ngày trong tuần tăng 100%. Số tín hữu tham dự Thánh lễ Chúa Nhật cũng tăng lên. Từ hơn một năm nay, chúng tôi đã chầu Thánh Thể suốt ngày đêm tại nhà thờ của chúng tôi. Hơn 300 người đã tạo nên một mạng lưới,ngày và đêm, không ngừng, chầu trước thánh tích. Tôi cũng nhận thấy những thay đổi diễn ra trong tâm hồn của những người đến đây, mở lòng với Chúa và rồi có những quyết định cụ thể liên quan đến cuộc sống của họ. Thật là không thể tin được, làm thế nào Chúa mang mọi người lại với nhau, ngay cả những người chưa bao giờ muốn tin vào Người”.

Nhiều nhóm hành hương, rất nhiều người trẻ

Cha Ziombra cho biết rằng hầu hết những người hành hương là người trưởng thành, từ 30 đến 40 tuổi. Đó là một thực tế rất độc đáo bởi vì chúng ta biết rằng hiếm nhìn thấy những người ở độ tuổi đó trong nhà thờ, những người thường bị thu hút bởi một thứ khác. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều người trẻ hành hương kính viếng phép lạ Thánh Thể. Nhiều trường Công giáo ở các thành phố khác nhau của Ba Lan tổ chức các chuyến hành hương đến Legnica. Do đó, có rất nhiều người trẻ ở độ tuổi học sinh đến đây để tĩnh tâm hồi tâm. Ngoài ra còn có rất nhiều cuộc hành hương của những trẻ em đang chuẩn bị hoặc những người vừa mới rước lễ lần đầu.

Cha cũng cho biết có một linh mục đã đến Legnica với một đoàn học sinh trên bảy chiếc xe buýt, thực tế là toàn bộ trường tiểu học. Sắp tới có thể có một nhóm học sinh khác dự kiến đến từ Breslavia. Sẽ có khoảng bảy mươi học sinh từ 12-13 tuổi. Nhóm học sinh đầu tiên của cùng trường này, được điều hành bởi các nữ tu Salêdiêng, gồm một trăm em trong độ tuổi 10-11, đã đến đây vài tháng trước. Chuyến hành hương đầu tiên, như một trong những nữ tu nói với cha, đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của những đứa trẻ. Cha mẹ của họ đã phát hiện ra điều đó và sau đó chia sẻ với nhà trường.

Đức cha Kiernikowski hy vọng “tất cả những điều này sẽ giúp gia tăng lòng sùng kính Thánh Thể và có tác động đến cuộc sống của những người đến gần thánh tích này. Chúng tôi giải thích dấu hiệu này như là một sự diễn tả lòng quảng đại của Thiên Chúa, Đấng đã hạ mình xuống thật thấp để ở cùng con người.”

Hồng Thủy, OP.

Vatican News