1. Hôn Nhân & Gia Đình

Lạy Chúa, xin cứu con – Chương 9: Thằng bé nói : “Cha em thường dùng chiếc dây thắt lưng này sau khi ông ấy đã uống say vào ban đêm.”

Thằng bé nói:

“Chào Soeur.

“Còn mấy phút nữa là tới giờ em có cuộc phỏng vấn xin việc làm. Em giúp Soeur một tay nhé?

“Chắc là có một việc nào đó em có thể giúp đỡ Soeur được phải không nào?

“Công việc chung quanh còn nhiều quá.

“Nếu có công việc gì Soeur cứ cho em biết nhé?

“Em sẽ làm bất cứ việc gì Soeur muốn nhờ em làm.”

Thằng bé nhìn tôi, đôi mắt và đôi tai của nó đều lanh lợi, nó kiễng tới kiễng lui trên đôi giầy trượt có bánh xe dưới chân, như thể đang chờ tới giờ khởi hành một cuộc đua.

Suốt bằng ấy năm trời ở tại Nhà Giao Ước, trong tất cả những đứa trẻ tôi đã từng gặp (tôi đã từng gặp rất nhiều… trong suốt 26 năm qua, tôi đã từng gặp trên 500.000 đứa trẻ!), tôi chưa bao giờ thấy một đứa nào lanh lợi như Jerry. Tôi chưa bao giờ gặp một đứa trẻ nóng lòng muốn giúp đỡ, muốn làm việc, muốn làm một điều gì đó, và hạnh phúc hơn Jerrry.

Nếu như các bạn ở vào hoàn cảnh của Jerry, chắc các bạn sẽ hiểu vì sao….

Cách đây một tháng, khi vừa chân ướt chân ráo đến Nhà Giao Ước, Jerry đã hỏi tôi:

“Không biết em có thể ở lại đây được không?”

Nó nói tiếp:

“Em chẳng còn biết một chỗ nào khác để đi.”

Rồi cũng ngay hôm ấy, Jerry đã kể cho tôi nghe:

“Em không có cha.

“Trước kia thì có, nhưng rồi ông ấy đã bỏ đi. Nhưng rồi cũng chẳng sao…

“Bởi vì ông ấy chỉ biết đánh đập em mà thôi.”

Jerry nhìn tôi, và tôi có thể nhận ra chiếc cằm nó đang chuyển động. Một số đứa trẻ, vì còn trẻ con, thường dễ dàng phóng đại khi kể lại cuộc đời quá khứ của chúng. Còn gương mặt của Jerry lại bảo tôi cần phải tìm hiểu về quá khứ của nó. Tôi đang nhìn kỹ một đứa trẻ đã trải qua ác mộng.

Tôi nói:

“Soeur lấy làm buồn cho em, Jerry ạ. Chắc là em gặp nhiều đau khổ.”

Jerry đáp:

“Đúng vậy. Cha em thường dùng chiếc dây thắt lưng này sau khi ông ấy đã uống say vào ban đêm.”

Nói đến đó, cặp mắt Jerry bắt đầu rươm rướm. Nó nói rất khẽ, khó khăn lắm tôi mới nghe được:

“Em rất ghét chiếc dây thắt lưng ấy.

“Em mừng… vì ông ấy đã bỏ đi.”

Tôi hỏi:

“Thế còn mẹ em đâu?”

Jerry trả lời:

“Em không có mẹ.

“Thực ra em cũng có, nhưng rồi bà ấy cũng chẳng muốn làm mẹ của em nữa. Sau khi cha em bỏ đi, bà ấy đâm ra quẫn trí.

“Suốt ngày bà ấy ngồi quanh quẩn trong nhà… chích ma túy.

“Em không chịu nổi cảnh đó nữa…

“Em đành ra đi cho sớm.”

Tôi hỏi:

“Thế em đã đi những đâu? Có lẽ cuộc sống bên ngoài như thế rất kinh khủng đối với em.”

Jerry đáp:

“Thực ra em có đi đâu đâu. Em chỉ la cà ngoài đường phố và lang thang như thế trong vài ngày.

“Em chẳng biết làm gì cả. Em… em đã phải đi ăn xin.

“Em phải ngủ ngoài đường. Em… em đã phải làm những điều em phải làm mà thôi, Soeur biết chứ?

“Thế rồi em quyết định phải làm một điều gì đó cho cuộc đời mình.

“Em nghĩ… em nghĩ mình không được hoang phí cuộc đời của mình. Thế là em xin quá giang đến đây.

“Thật không dễ dàng chút nào.”

Ngay từ giây phút đặt chân đến đây, Jerry đã đến như một đứa trẻ mang theo một sứ mạng.

Nếu hôm nào có một buổi hội thảo đặc biệt về vấn đề tìm công việc, thì Jerry sẽ là người thứ nhất ngồi vào bàn. Ngay trên hàng ghế đầu. Nêu các câu hỏi. Tìm lời khuyên. Tìm sự giúp đỡ – bất cứ sự giúp đỡ nào có thể tìm được – để làm một điều gì đó cho cuộc đời của mình.

Và năng lực của Jerry – toàn bộ năng lực của một đứa trẻ sẵn sàng bùng ra để khám phá cuộc đời – cuồn cuộn không ngừng.

Tôi thường nghe tiếng nói của Jerry vang lên từ trong phòng ăn tự chọn:

“Em giúp Soeur dọn bàn nhé?

“Hôm nay có đứa nào mới đến Soeur cần em nói chuyện với nó hay không?

“Soeur nghĩ khi nào em mới có thể được lên lớp trên?”

Giữa một thế giới mà mọi sự đều quá dễ dàng và quá sớm đối với rất nhiều đứa trẻ, thì Jerry đã phải làm việc cực kỳ chăm chỉ để tìm thành công trên bước đường khó khăn. Có thể Jerry đã nhận ra những cơ hội mà cuộc sống cung cấp cho nó có phần muộn màng, nhưng nó không để điều ấy cản trở bước đường tiến lên phía trước của nó.

Năm nay, Jerry 17 tuổi. Đó là một đứa trẻ đã nhìn thấy mặt trái của cuộc đời và nóng lòng muốn làm một điều gì khác. Như nhiều đứa trẻ khác, Jerry cũng có một hy vọng, một giấc mơ, và một ước muốn nóng bỏng muốn “được trở nên một người nào đó”… “được làm một điều gì đó”… “được có một cuộc đời cho chính mình.”

Và hôm nay, mới 30 ngày sau khi đã thoát khỏi một cuộc sống “trong gia đình” chẳng hứa hẹn một điều gì khác ngoài những đau khổ và bế tắc, lần đầu tiên, Jerry sẽ có một cuộc phỏng vấn để tìm việc làm.

Hôm nay, tôi ôm chặt Jerry một lúc thật lâu khi em ra đi theo giấc mộng của em. Tôi biết Jerry rất hạnh phúc vì sáng nay các bạn đã ở đây với nó, khi nó bước ra khỏi cửa Nhà Giao Ước.

Tôi có ý nói rằng, mọi sự hôm nay Jerry có được – từ những bộ áo quần tươm tất em đang mặc cho đến niềm hy vọng em đang mang theo trong lòng – đều là nhờ các bạn.

Các bạn là những người đã cộng tác để đem lại cho Jerry niềm hy vọng mà mọi đứa trẻ đều đáng được hưởng. Các bạn là những người đã góp phần dìu dắt Jerry ra khỏi đường phố bế tắc.

Cảm ơn các bạn đã ở đó vì Jerry và với Jerry.

Cảm ơn các bạn đã cảm thông với Jerry và quan tâm đến nó.

Tôi cũng rất tự hào về Jerry. Và rất cảm ơn các bạn.

Thực sự hằng ngày tôi vẫn cảm tạ Thiên Chúa vì các bạn đã tìm gặp chúng tôi.

Lạy Chúa,

Con xin cảm tạ Chúa vì Chúa đã chăm sóc con. Chẳng có một ai chăm sóc cho con. Ôi, con lấy làm hối hận vì những gì đã xảy ra ngày hôm qua. Lạy Chúa, Chúa biết vì sao con muốn ở lại đây, bởi vì ngay lúc này, con không tin tưởng một ai ngoài đường phố cả. Nguy hiểm lúc nào cũng đang chờ chực. Con muốn được một người tốt lành nào đó nhận con về nuôi. Chưa bao giờ con được đối xử ngọt ngào, được đối xử như một đứa con gái ngoan. Lạy Chúa, con xin gửi gắm những nguyện ước của con về cho gia đình và bạn bè con.

Lời kinh do một đứa trẻ viết tại nguyện đường Nhà Giao Ước của chúng tôi

 

Sr. Mary Rose McGeady

CẦN TỘI NHÂN

Thứ Bảy Tuần 8 Thường Niên C

“Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn!”.

Một thiếu nữ được bác sĩ cho biết, “Cô không bao giờ có thể thoát khỏi ngục tù của tật nguyền!” – “Ồ, không! Thưa bác sĩ, còn rất nhiều cách để sống trong những giới hạn nếu tôi không mệt mỏi chiến đấu với chúng!”. Thiếu nữ đó là Helen Keller, một nhà văn mù và điếc khi mới 19 tháng tuổi. Cô viết, “Hãy đối mặt với những khiếm khuyết và thừa nhận chúng! Chúa không chỉ cần tài năng của bạn; Ngài cần cả những bất lực!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Với nhận định của H. Keller, Tin Mừng hôm nay tiết lộ một sự thật chưa từng được nói đến của ơn cứu độ! Tại nhà Matthêu, Chúa Giêsu tự nhận là một thầy thuốc; nhưng thầy thuốc sẽ làm gì nếu không có bệnh nhân? Phá sản! Vì thế, ở một khía cạnh nào đó, thầy thuốc Giêsu cần bệnh nhân; Ngài cần cả những bất lực của bạn. Ngài ‘cần tội nhân!’.

“Giêsu”, Đấng Cứu Độ thế giới. Nhưng nếu thế giới không có tội nhân thì sao? Cái chết của Con Thiên Chúa sẽ lãng xẹt và lòng thương xót của Ngài thật vô tích sự! Như vậy, theo một nghĩa nào đó – với tư cách cứu độ – Chúa Giêsu cần những con người chống lại Thiên Chúa; những con người vi phạm lề luật, vi phạm phẩm giá của họ và phẩm giá người khác. Tắt một lời, Ngài ‘cần tội nhân!’, mọi loại hình tội nhân!

Thật quan trọng để bạn và tôi hiểu được sự thật này! Để từ đó, chúng ta nhận ra rằng, việc tội nhân đến với Chúa Giêsu mang theo bao ô uế của tội lỗi nơi họ sẽ là ‘cơ hội’ cho Trái Tim Rất Thánh của Ngài thi thố lòng thương xót. Và nó mang cho Ngài một niềm vui tràn đầy; vì qua đó, Ngài hoàn thành sứ mệnh với tư cách Đấng Cứu Độ duy nhất.

Đại diện mọi tội nhân, Matthêu đồng bàn với Chúa Giêsu và điều này khiến Ngài chịu tiếng mang lời. Ngài chống chế, “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn!”. Tuyệt vời! Đó là tuyên bố dành cho một nhân loại tội lỗi, cũng là nhân loại Ngài ‘cần’ để cứu. Không loại trừ ai; Chúa Giêsu muốn tiếp cận mọi người, thứ tha mọi người. Hãy học cách thức và đường lối tìm kiếm của Thiên Chúa, tìm kiếm để thương tha. “Xin dạy con đường lối Ngài, lạy Chúa!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Khác với đường lối Chúa, đường lối loài người vốn đầy “cử chỉ đe doạ và lời nói hại người” – bài đọc một. Với Chúa, khi ai đó phạm tội nhiều, Ngài ‘cần’ họ nhiều hơn! Ngài tìm mọi cách tiếp cận họ, ban ân sủng và tha thứ. Qua đó, Ngài dạy chúng ta nhẫn nại, yêu thương, xây những chiếc cầu thay vì những bức tường bất cứ khi nào có cơ hội.

Anh Chị em,

“Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn!”. Chúa cần bạn và tôi; nhưng Ngài cần chúng ta “biết cách để sống trong những giới hạn”, “không mệt mỏi chiến đấu”, biết “đối mặt với những khiếm khuyết và thừa nhận chúng”, và nhất là đem những bất lực của mình đến cho Ngài. Ngài đang đợi từng người. Chúng ta là niềm vui, là đối tượng sứ vụ của Ngài. Hãy đến trong tình trạng tổn thương và tội lỗi của mình; và theo cách này, chúng ta cho phép Ngài biểu lộ lòng thương xót của Trái Tim Rất Thánh! Ngài ‘cần tội nhân!’. Đó là quà tặng bạn và tôi mang đến cho Ngài. Bạn có tin điều đó không?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con biết, con cần Chúa; nhưng con ít biết, Chúa cần con – một tội nhân. Này con đến với Bí tích Giải Tội, đem cho Chúa mọi tội lỗi của con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Lạy Chúa, xin cứu con – Chương 7: Đứa trẻ nói: “Con vốn là đứa lang thang, Nhưng em sẽ không đi lang thang nữa đâu”

Đứa bé gái nói:

“Em nghe nói Soeur có thể giúp em.

“Soeur chỉ cần cho em một chiếc bánh sandwich, và rồi chẳng cần tưởng nghĩ gì đến em nữa.

“Em không muốn làm phiền Soeur.”

Nhìn vào đôi mắt u buồn, không được ai yêu thương của đứa bé gái, tôi cảm thấy trái tim mình bị nhói đau xuyên thấu.

Em gái này khoảng 14 hoặc 15 hoặc 16 tuổi, mặc một chiếc quần jeans màu xanh và một chiếc áo thun mà lẽ ra nên vứt vào sọt rác cách đây nhiều tháng trước rồi. Em gái này là một trong số những đứa trẻ bụi đời chúng tôi vẫn thường gặp thấy, một loại trẻ lang thang không nhà không cửa, cà bơ cà bất, đầu đường xó chợ, thế rồi bỗng đâu xuất hiện tại ngưỡng cửa nhà chúng tôi, mặt mũi đầy những cáu ghét, bẩn thỉu.

Tôi phải khó khăn lắm nhưng vẫn không sao đoán được tuổi chính xác của đứa bé gái, bởi vì trên gương mặt của nó nhem nhuốc những bụi bặm và đượm một vẻ đau đớn.

Nhưng không thể lầm vào đâu được cái vẻ dịu dàng và sự tốt lành của nó. Dưới ánh sáng lờ mờ của buổi chiều tối vào một ngày đầu xuân, từ xa cả cây số, chúng ta vẫn có thể nhận ra những đặc điểm ấy nơi đứa bé gái này. Các bạn nhất định sẽ cảm thương đứa bé này nếu như các bạn lại gặp thấy nó …

Đứa bé gái nói:

“Xin cho em một chút gì để uống? Có phiền Soeur lắm không?”

Tôi đáp:

“Ô, mời em vào nhà trước đã. Chúng tôi có rất nhiều thực phẩm. Mời em, chúng tôi rất vui mừng vì em đã đến đây.”

Đứa bé gái cố mỉm cười đáp lễ, nhưng tôi biết chắc từ lâu lắm rồi, nó đã không cười. Nó gật đầu nhè nhẹ và mau mắn đi vào bên trong.

Tôi giới thiệu:

“Ở dưới nhà, còn có một phòng ăn tự chọn nữa kìa…

“Tại sao mình không rửa tay cho mát mẻ, rồi thay đồ thay đạc cái đã. Sau đó Soeur sẽ đưa em đến đó. Tên Soeur là Mary Rose – thế tên em là gì nào?”

Đứa trẻ đáp:

“Dana.”

Tôi hỏi thêm:

“Thế em từ đâu đến đây?”

Dana đáp:

“Chẳng từ đâu cả.”

Tôi thắc mắc:

“Thế nghĩa là gì?”

Dana trả lời:

“A… Em có ý nói rằng em vốn là đứa lang thang, nhưng em sẽ không đi lang thang nữa đâu.”

Rồi Dana hỏi lại tôi:

“Phải đây là lối xuống phòng ăn tự chọn phải không, thưa Soeur?”

Tôi cầm tay Dana, dẫn đến một chiếc bồn rửa, đưa một cục xà bông, để nó có thể tự rửa ráy sạch sẽ những lớp bụi ghét đầy hai bàn tay và cánh tay của nó. Thực ra, không phải là rửa ráy sơ sơ đâu – phải mất một lúc tôi mới có thể nhìn ra được nước da hồng hào, nhưng nhiều sứt sẹo, của đứa bé gái. Sau khi tay Dana đã khô, tôi vội vã dẫn nó xuống phòng ăn tự chọn, nơi đã có sẵn món súp nóng và bánh mì sandwich được sắp xếp ngay ngắn trên các quầy.

Dana múc lấy ba hay bốn món, vội vã nhưng lịch sự đi đến chiếc bàn trống thứ nhất và ngồi vào đó. Dana phải mất đến năm phút đồng hồ mới ăn hết chiếc khay ấy.

Dana nói:

“Cám ơn Soeur. Thật là tốt quá. Em có thể trở lại đây được không?”

Dana nói như nửa hỏi, nửa thông báo, và hy vọng tôi sẽ đáp ứng tích cực.

Tôi đáp:

“Ngay bây giờ em có thể ở lại đây cũng được đấy chứ. Chúng tôi có rất nhiều giường chiếu sạch sẽ. (Nói rất nhiều là hơi phóng đại, bởi vì nhà chúng tôi lúc ấy có rất đông các trẻ, nhưng tôi cố gắng thuyết phục Dana hãy ở lại với chúng tôi). Em cứ việc tự nhiên.

Dana cứ búng nhẹ vào chiếc khăn bàn, không biết phải nói gì. Tôi tin rằng nó đã bắt đầu cảm thấy thích thú….

Tôi đề nghị:

“Em hãy nói một chút về bản thân đi. Năm nay em bao nhiêu tuổi?”

Dana đáp:

“Mười sáu.”

Tôi lại hỏi:

“Soeur có cần phải gọi điện thoại cho ai để thông báo em đang ở đây hay không?”

Dana trả lời:

“Trước kia thì có; bây giờ thì không.”

Tôi lấy làm lạ:

“Em nói như vậy là sao? Soeur rất muốn giúp em mà.”

Dana nhìn tôi một lúc rất lâu, vân vê chiếc khăn bàn, cố gắng quyết định cả trăm vấn đề một lúc:

“Tôi có nên nói ra hay không?

“Tôi có nên đi hay không?

“Tôi có thể tin người đàn bà trước mặt đây không?

“Chỗ này là chỗ nào?

“Tại sao tôi lại ở đây?

“Đầu đuôi chuyện này xảy ra thế nào?

“Đây có phải là người tôi có thể tin tưởng được không?

“Nếu không ngủ ở đây, tối nay, tôi sẽ đi ngủ ở đâu?

“Tôi phải làm gì bây giờ?”

Cả trăm câu hỏi… tất cả đều quan trọng, đều thương tâm, đều khẩn cấp, khiến một đứa trẻ mười sáu tuổi phải lo lắng.

Sau cùng, dòng nước mắt ứa tràn trên đôi mắt của Dana, và em đã quyết định một cơ hội. Dana quyết định tin tưởng nơi chúng tôi.

Dana chậm rãi nói:

“Trước kia em sống trong một mái nhà thực sự. Em có một người mẹ, một người cha, và năm đứa em trai.

“Nhưng chuyện ấy đã lâu lắm rồi.

“Thế rồi, năm ngoái, cha em bỏ đi. Vào một hôm, ông ấy bỗng nhiên bỏ đi… Ông ấy không nói cho em biết ông ấy đi đâu cả… Ông ấy cứ bỏ đi mà thôi.

“Mẹ em… Mẹ em không thể chịu nổi như vậy. Bà ấy phải đi tìm một công việc làm… nhưng công việc quá vất vả.

“Khoảng chừng hai tháng sau đó, mẹ em đến và nói với em rằng em phải ra đi. Mẹ em nói: ‘Dana à, con đã mười sáu tuổi đầu, con lớn nhất trong nhà… Mẹ không thể lo liệu được cho tất cả các con nữa rồi… con sẽ phải ra đi thôi.’

“Thưa Soeur, em trố nhìn mẹ em và tưởng bà ấy nói đùa. Thưa Soeur, em muốn nói là bỏ đi để làm gì. Em mới mười sáu tuổi… Em biết nơi nào mà đi.

“Nhưng mẹ em cứ bắt em phải ra đi. Bà ấy nói, ‘Dana, con phải tự lập. Con đã mạnh khỏe. Hãy sắp xếp đồ đạc. Mẹ buồn lắm, nhưng con phải ra đi thôi.’”

Dana vừa kể, vừa khóc, hai hàng nước mắt từ trên đôi má của em lã chã rơi xuống. Những hàng nước mắt oán than, đau đớn, tức tưởi của một đứa bé gái mới mười sáu tuổi đầu đã phải phiêu bạc giữa đường phố.

Tôi cầm tay Dana và nói lại rằng chúng tôi rất vui mừng vì em đã đến với chúng tôi.

Dana khóc một lúc nữa, và cố gắng nói tiếp:

“Lúc đầu… lúc đầu, em vẫn nghĩ mình có thể tự lập được. Ngày đầu tiên, em gặp được một thằng bạn ở đường phố. Em nghĩ mình có thể sống chung với nó.

“Nhưng … nhưng, không được… nhưng không được.”

Tôi lại hỏi:

“Thế từ hồi đó đến giờ, em sống ở đâu?”

Dana trả lời:

“Em đi lang thang.

“Soeur biết đó, những đứa trẻ đường phố tìm đến các hẻm nhỏ, đường xe điện ngầm, những ghế đá công viên và bất cứ nơi nào có thể tìm được một chỗ để ngủ qua đêm.”

Tôi nói:

“Chúng tôi rất muốn em ở lại đây với chúng tôi. Chúng tôi còn nhiều chỗ cho em.”

Dana đáp:

“Em cũng thích như vậy.”

Nói đến đó, nó nấc lên, thổn thức. Phải mất một lúc rất lâu, Dana mới nín được.

Tối hôm ấy, tôi nhờ ban điều hành trung tâm chăm sóc đặc biệt cho Dana. Chúng tôi đem đến cho em một bộ đồ ngủ còn mới nguyên, và sắp cho em một phòng gần một người cố vấn, để em có thể hỏi han gì cũng được vào lúc đêm hôm.

Tôi không biết đêm hôm ấy Dana có được yên giấc được hay không.

Tôi muốn nói là Dana đã mệt nhoài. Có lẽ em không có được một giây phút nào bình an suốt từ ngày rời xa gia đình. Bao nhiêu vấn đề cứ hiện lên, chập chờn qua lại trong đầu óc của em… Tôi biết chúng đã làm cho Dana không sao ngon giấc được.

Có lẽ tâm trí Dana sẽ hiện lên nhiều câu hỏi:

“Nếu tôi ở luôn lại đây thì sao?

“Tôi đã làm điều gì sai trái?

“Rồi tôi vẫn phải cô đơn mãi mãi hay sao?

“Có lúc nào tôi sẽ được yên thân hay không?

“Tôi có thể tin tưởng vào những con người ở đây hay không?

“Tại sao mẹ tôi lại không yêu thương tôi?
“Tại sao chẳng có ai thương yêu tôi?

“Liệu có ai thương yêu tôi hay không?”

Phần tôi, tôi chỉ biết có một điều. Chúng tôi sẽ làm mọi sự có thể để giúp đỡ Dana xây dựng lại cuộc đời của em (như chúng tôi đang làm hết sức, tôi sẽ cầu nguyện thật nhiều để xin Thiên Chúa ban ơn trợ giúp).

Tôi có ý nói rằng, với tất cả những câu hỏi đáng sợ và đau lòng mà Dana đã phải đối diện tối hôm ấy, có một câu hỏi em không bao giờ cần phải hỏi, đó là:

“Liệu tôi có tìm thấy hy vọng ở đây không?

 

Tôi không coi mình là một tín đồ, nhưng chỉ là một tâm hồn trơ trụi bơ vơ giữa một thành phố man rợ, một con người bước đi trên con đường bạc bẽo trong cuộc đời.

Brian, sau sáu tháng lang thang trên các đường phố

Sr. Mary Rose McGeady

Lạy Chúa, xin cứu con – Chương 8: Nó nói : “Em tin sơ biết em rất yếu bệnh”

Con ma nói:

“Xin lỗi bà… a, em xin lỗi Soeur.”

Rồi nói tiếp:

“Em không biết Soeur có thể chỉ giùm em làm thế nào để chỗ bức tượng Nữ Thần Tự Do được không?

“Em đã quá giang suốt từ Texas đến đây để xem bức tượng….

“Và em muốn nhìn thấy bức tượng trước khi… trước khi em chết.”

Tôi nhìn vào hai con mắt sâu hoắm, nhưng vẫn sinh động và đầy kiên cường của Fred. Tôi đứng đó, nhìn thẳng vào khuôn mặt ngây thơ của Fred. Tôi cảm thấy như đang nghe một chiếc đồng hồ trong thân thể của Fred, quằn quại và lạ lùng kêu tích tắc, đếm xem còn bao nhiêu tuần, bao nhiêu ngày và bao nhiêu giờ còn lại trước khi chết hẳn.

Tuy vẫn chưa chết, nhưng Fred đã biết giờ ấy đang đến. Tôi cũng biết, và Thiên Chúa cũng biết. Tiếng nhịp tích tắc… tích tắc… tích tắc dường như dội vào rõ hơn trong đầu óc của tôi.

Tôi nói:

“Soeur muốn đích thân dẫn em đến đó vào cuối tuần này. Bức tượng đẹp lắm, giống như em đã tưởng tượng vậy.”

Tôi muốn đích thân cầm tay dẫn Fred đến đó, nhưng vì tôi còn vướng cả triệu công việc với các trẻ khác nữa. Tôi hy vọng và cầu mong Fred sẽ thông cảm cho tôi. (Không biết chúng tôi sẽ tiếp đón bao nhiêu trẻ em đường phố trong mùa Chay này. Tôi nghĩ Thiên Chúa đang làm việc cật lực để gửi các trẻ đến với chúng tôi!)

Fred đáp:

“Vậy cũng được. Em rất thích như vậy. Nhưng em nghĩ em sẽ đi ngay hôm nay.”

Ngưng một lúc, Fred nói tiếp:

“Em đã hứa với bạn gái của em ở Texas sẽ gửi cho cô ấy một bức hình.

“Em muốn gửi ngay cho bạn em. Em không muốn làm cô ấy phải thất vọng.”

Tôi mỉm cười, nói:

“Dường như cô bạn ấy rất có ý nghĩa đối với em phải không?”

Fred mở miệng định nói, nhưng rồi lại thôi, như thể muốn xác nhận, nhưng lời xác định có lẽ vẫn chưa đầy đủ.

Với đôi mắt rươm rướm, Fred nói:

“Em thực sự yêu thương cô ấy, Soeur ạ…

“Em chỉ còn một mình cô ấy mà thôi.”

Và Fred vội vã nói thêm, một cách lịch sự:

“Ngoài ra, còn có Soeur, và nơi này nữa.”

Tôi nhìn Fred và như cảm thấy một chiếc dao rạch qua trái tim mình, bởi vì tôi biết Fred nói thật lòng….

Fred đã đến với chúng tôi cách đây một tuần. Đó là một “ông cụ” 16 tuổi, đói lả, hoảng hốt, cô đơn, rã rượi, hầu như không nhấc nổi đôi chân để lê bước.

Trong những ngày đầu tiên tại đây, Fred hầu như không nói một lời nào. Có quá nhiều điều để nói. Fred chỉ nói từng chặp một, từng chút từng chút một. Và rất thương tâm.

Trước tiên, Fred đã kể cho chúng tôi biết:

“Em là một đứa lang thang từ Texas…

“Em không có cha có mẹ…

“Em chưa bao giờ biết mặt cha em, và má em thì đã biệt tăm âm tín từ khi em 14 tuổi, tức là hai năm nay rồi…

“Kể từ đó tới giờ, em sống trên các đường phố…

“Em tin là Soeur biết em rất yếu bệnh.”

Fred nói như xin lỗi về thân hình quá gầy guộc, chỉ còn da với xương và đôi mắt lõm sâu của nó.

Fred nói tiếp, với giọng tha thiết:

“Em đã mắc bệnh AIDS.

“Em đoán… em đoán… em bị lây từ bạn gái của em…

“Em đã quan hệ tình dục quá sớm.”

Thật là một điều lạ và bất ổn, nhưng lại rất chân thành, khi nghe thấy những lời thế này từ một thiếu niên như Fred:

“Em ước gì… em ước gì, ước gì em đã hiểu biết rõ hơn.”

Đôi mắt của Fred như nói với tôi:

“Em muốn mọi đứa trẻ đều biết sự thật ấy.”

Rồi lẩm nhẩm:

“Nhưng không phải là do lỗi cô ấy… Cô ấy là một người bạn gái rất tốt.

“Vì thế em mới đến New York. Lúc nào em cũng mơ ước được chiêm ngưỡng bức tượng Nữ Thần Tự Do. Người ta cho em biết… người ta cho em biết Soeur sẽ cho em trọ ở đây một thời gian.”

Những lời của Fred lúc nào cũng nhỏ nhẹ và lịch thiệp, không chút giả tạo hay cường điệu. Fred đã báo cho tôi biết nó sắp sửa chết bằng những cách nói mà một đứa trẻ vẫn thường nói với các bạn những câu đại loại như:

“Con xin ra ngoài một chút.

“Con muốn xem tối nay truyền hình có gì.”

Mãi cho đến lúc Fred nói với tôi, “Người ta cho em biết rằng Soeur sẽ cho em trọ ở đây một thời gian,” thì giọng nói của nó vỡ ra. Fred đã nói điều đó với vẻ sợ hãi thực sự, dường như lo lắng chúng tôi sẽ không cho nó trọ ở đây.

Tôi trấn an:

“Dĩ nhiên là em được ở lại đây chứ.

“Em cứ tự nhiên ở lại đây mãi cũng được.”

Tôi nói mà không biết thời gian ấy kéo dài bao lâu.

Đó là lần thứ hai tôi nói cho Fred biết cứ tự nhiên ở lại đây – và từ lần thứ hai ấy, Fred nhận ra chúng tôi quan tâm đến nó, trân trọng nó và muốn nó lưu lại đây với chúng tôi – thì một sự biến đổi đã xảy ra trong nó.

Đó không phải là chuyện Fred được chữa khỏi bệnh AIDS một cách kỳ diệu. Chúng tôi biết điều đó không bao giờ xảy ra.

Chúng tôi đưa Fred đến gặp bác sĩ, và ông ta xác nhận Fred thực sự đã mắc bệnh AIDS đến giai đoạn cuối cùng, và tình hình sức khỏe của nó không có gì khả quan. Nhưng trong khi không biết Fred còn sống được bao lâu trên cõi đời này, thì chúng tôi lại biết rất rõ Fred sẽ ở lại đây với chúng tôi vì nó cảm nghiệm được tình yêu thương và hy vọng. Đó là điều mọi đứa trẻ đều cần thiết. Tuy nhiên, việc Fred sẽ chết vẫn không có gì thay đổi được.

Nhưng tôi có thể nhìn thấy rõ ràng bên trong trái tim và tâm hồn của Fred một sự biến đổi đang xảy ra, biểu lộ qua ánh mắt của nó.

Bên trong con người của Fred… một điều kỳ diệu đã xảy ra.

Tâm hồn ấy đã chịu đựng quá nhiều đau đớn và quá nhiều vết sẹo – những vết sẹo do bị khước từ, bị bỏ rơi, cảm thấy không được ai yêu thương và bất xứng – giờ đây lại nghe được một thông điệp mới mẻ, hoàn toàn khác biệt.

Bằng cách cho Fred biết chúng tôi ở đây là vì nó, chúng tôi quan tâm, chúng tôi tin Fred là người tốt và xứng đáng được chúng tôi yêu thương…

… bằng cách cho Fred những món quà đơn sơ, chúng tôi đã thắp lên một tia hy vọng từ lâu đã tắt ngúm trong tâm hồn của nó.

Tôi không hề phóng đại – những lời phát xuất từ lòng yêu thương và nâng đỡ của chúng tôi – mang rất nhiều ý nghĩa đối với Fred.

Nói một cách đơn giản là chúng tôi đã cộng tác đem lại cho Fred một lý do để tiếp tục cuộc sống.

Các bạn đã cho Fred một lý do để ước mơ.

Tôi đã nói với Fred lúc em ra đi:
“Soeur hy vọng em sẽ thỏa mãn với chuyến tham quan bức tượng Nữ Thần Tự Do.

“Soeur biết em sẽ thích bức tượng ấy.”

Tôi nói nhưng vẫn lo cho thằng bé sắp đến cửa tử này sẽ phải kéo lê cái thân xác của nó những 1.500 dặm nữa để được chiêm ngưỡng biểu tượng của hy vọng và tự do của một quốc gia.

Fred trả lời:

“Lúc nào em cũng mơ ước được nhìn thấy bức tượng ấy.

“Em vui mừng vì sắp hoàn thành được giấc mơ của mình. Em không thể chờ đợi thêm được nữa, em muốn nói với Soeur về điều đó.

“Sau này, em sẽ nói chuyện nhiều hơn với Soeur.

“Và xin cảm ơn Soeur thật nhiều.

“Em thật lòng cảm ơn Soeur.”

Nói xong lời ấy, Fred quay người và ra đi.

Đó là lần đầu tiên tôi đã nhìn thấy nụ cười tươi nở trên gương mặt của Fred. Tôi nghĩ rằng tôi còn có thể nghe được cả sự tán thưởng của Thiên Chúa nữa.

Tôi tin rằng tôi biết vì sao Fred đã đến với chúng tôi. Fred chính là món quà Phục Sinh Thiên Chúa đã gửi đến cho các bạn và cho tôi.

Tôi muốn nói rằng, những đứa trẻ như Fred đã hiểu thế nào là nỗi đau thương và bị bội phản của ngày thứ Sáu tuần Thánh cũng như niềm vui và sự sống lại của Chúa Nhật Phục Sinh, sâu xa hơn các bạn và tôi.

Những đứa trẻ như Fred hiểu rõ hơn các bạn và tôi thế nào là bị ruồng bỏ, thế nào là bị khước từ, bị phản bội, bị lạc loài và lẻ loi, bơ vơ. Và chết trong lòng. Đối với chúng, toàn bộ cuộc sống của chúng là một chuỗi bất tận những ngày thứ Sáu tuần Thánh.

Vậy khi nào cuộc phục sinh riêng của chúng sẽ đến? Trên thế giới này, tuyệt đối chẳng có gì đẹp hơn là được nhìn thấy một đứa trẻ như Fred thực sự phục sinh trước mắt của bạn.

Đôi khi sự phục sinh chúng ta nhìn thấy đó là sự phục sinh hoàn toàn và tuyệt đối.

Một đứa trẻ bơ vơ và lạc lõng trên đường phố sẽ đến với chúng ta, và chúng ta sẽ có thể từng bước xây dựng lại cuộc đời cho chúng. Chúng ta sẽ tìm cho đứa trẻ ấy là một mái ấm. Chúng ta sẽ tìm cho đứa trẻ ấy một công việc. Chúng ta sẽ từng bước góp phần tái tạo lại từng phần trong cuộc đời của một đứa trẻ.

Nhưng trong trường hợp của Fred thì sao?

Đối với Fred, sự phục sinh của nó là một cuộc phục sinh bên trong, thuộc về tâm hồn. Thân xác của Fred có sống được hay không, và sống được bao lâu nữa không phải là điều tôi muốn đề cập đến ở đây. Tôi chỉ biết rõ một điều sâu thẳm bên trong: nhu cầu cần được yêu thương và cảm nghiệm được yêu thương là nhu cầu tuyệt đối mà mọi đứa trẻ đều cần thiết, đều xứng đáng, đều đáng được tôn trọng và đáng được quan tâm – và đó là điều đã phục sinh bên trong con người của Fred.

Và tất cả điều đó là nhờ các bạn.

Tôi có ý nói, tôi hy vọng các bạn nhận ra Fred là món quà Phục Sinh Thiên Chúa gửi đến cho các bạn. Những đứa trẻ như Fred không thể một mình trỗi dậy ra khỏi vũng bùn nhơ đường phố. Chúng tuyệt đối cần có một ai đó kéo chúng ra. Trong tuần này, chính bàn tay các bạn đã cứu thoát Fred.

TÌNH YÊU CỦA CHÚNG TA

Đôi khi tôi tự hỏi không biết người ta

Đánh giá về tình yêu của chúng ta như thế nào,

Dường như họ chẳng bao giờ thèm để ý

Tình yêu ấy xuất phát từ trời cao,

Nhưng nếu như tình yêu của chúng ta mãnh liệt, chân thật

Và có giá trị đối với tâm hồn,

Thì chúng ta không cần

Phải nghe họ làm gì.

Tình yêu của chúng ta sẽ nên kiên cường.

Tình yêu chúng ta sẽ chiếu sáng

Vượt qua giông tố,

Cho dù thời gian có phũ phàng đến đâu đi nữa.

Mãi mãi và mãi mãi,

Chúng ta sẽ giống như mặt trời.

Phải, nó sẽ chiếu sáng.

Do một trẻ ở Nhà Giao Ước viết ra

 

Sr. Mary Rose McGeady

Lạy Chúa xin cứu con – Chương 6: Ông ấy nói với em: “Mày chịu hay là chết”

Sáng nay, thằng bé gầy đét ấy đã nói với tôi:

“Ông ấy cố nhét 500 đô la vào túi áo của em…

“Thưa Soeur, đó là điều khó khăn nhất đối với em. Em rất muốn lấy số tiền ấy, nhưng em không thể. Em biết mình không thể.”

Thằng bé lắc đầu chầm chầm và kể tiếp:

“Thực ra, em có thể đã được món tiền ấy. Em rất cần, rất cần.”

Paul nhìn vào tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi, lo lắng, sợ hãi và không biết tôi sẽ phản ứng như thế nào.

Cách đây một tháng, Paul cũng đã đến với chúng tôi. Đó là một đứa trẻ đã cùng đường, tìm đến cơ hội cuối cùng để sống còn.

Những gì Paul cảm thấy trong lòng rõ ràng là đau đớn, não nề và thê thảm hơn so với hầu hết những đứa trẻ chúng tôi vẫn thường gặp ở đây mỗi ngày.

Từ dáng điệu đi đứng của Paul, chúng tôi biết ngay đó là một đứa trẻ phải chiến đấu; một chiến sĩ dãi dầu, kiệt sức, cùng đường, không còn lối thoát từ những mặt trận trên các đường phố của nước Mỹ.

Từ ánh mắt của Paul, chúng tôi biết cuộc chiến để sống còn của nó rất dai dẳng, nhọc nhằn và kiệt quệ.

Khi đến với chúng tôi, Paul là một đứa trẻ tuy vẫn còn sống, nhưng đã thoi thóp. Những gì Paul đeo sau lưng là tất cả gia tài của nó. Nghị lực và tinh thần còn lại của nó là vai áo của nó.

May mắn cho chúng tôi và cho cả Paul, trên vai áo của nó vẫn còn đó một niềm tự hào và dũng khí. Tôi tin chắc đó là điều đã giúp Paul tiếp tục sống.

Sáng nay, tôi nói với Paul:

“Chắc hẳn rất khó khăn cho em khi khước từ món tiền đó!”

Paul đáp:

“Phải nói là cơn cám dỗ ấy cực kỳ khủng khiếp.”

Tôi lại hỏi:

“Khi chuyện đó xảy ra, em đã nghĩ gì?”

Paul nhìn tôi và cố gắng chặn dòng nước mắt đang tràn ướt trên mắt. Nó cứ chớp mắt, nhưng không sao cầm được nước mắt. Hai hàng nước mắt lại tiếp tục chảy xuống.

Paul nói:

“Lúc đó là lần đầu tiên trong đời em nghĩ đến điều ấy, em nghĩ mình đang có một cơ hội để tìm lại một cuộc sống đích thực.

“Giả như em cầm số tiền và làm theo điều ông ấy muốn em làm, thì em đã vứt bỏ cơ hội cuối cùng để làm lại cuộc đời của em.”

Tôi đáp:

“Soeur hiểu.”

Và tôi nói với Paul:

“Soeur rất tự hào về em, Paul ạ!

“Soeur biết em phải chiến đấu rất cam go.”

Và khi đứng ở đó, tôi nhớ lại lần đầu tiên tôi đã gặp Paul trước đó một tháng. Cuộc hành trình đến giây phút này của Paul chắc hẳn là khó khăn và cam go hơn hầu hết các trẻ em khác. Thật là một phép lạ khi Paul đã hoàn tất được cuộc hành trình ấy….

Ngay hôm đầu tiên đến sống tại trung tâm của chúng tôi, Paul kể:

“Từ đó, em cứ sống trên các đường phố…

“Cha dượng của em đã bắt đầu lạm dụng tình dục đối với em kể từ khi em là một đứa trẻ.

“Em không thể chịu đựng thêm một ngày nào nữa…

“Em phải bỏ đi mà thôi.

“Em không muốn bỏ nhà, nhưng chẳng còn một lựa chọn nào khác.”

Khi gặp Paul lần đầu tiên, tôi đã hỏi:

“Thế hồi đó em bao nhiêu tuổi, hở Paul? Mười lăm hay mười sáu?”

Paul đáp:

“Hồi đó em mới mười một tuổi.”

Tôi ngạc nhiên:

“Mới mười một tuổi à?”

Rất nhiều lần tôi đã kể cho người ta biết trên đường phố có rất nhiều đứa trẻ mới ở vào độ tuổi ấy, nhưng nhiều người đã không tin tôi. Paul là chứng nhân mới nhất cho lời của tôi.

Mười một tuổi đầu! Một thân một mình, bơ vơ vất vưởng giữa những đường phố của một thành phố lớn. Các bạn có thể tưởng tượng được không? Điều đó đã làm tôi ứa nước mắt.

Paul đã sống sót… nhưng là một lối sống khốn khổ nhất. Hoảng hốt, lạc lõng, không tiền bạc, không bạn bè, Paul đã phải phấn đấu hết mình để sống còn.

Paul kể cho tôi:

“Ông ấy đã nói với em, ‘Mày chịu hay là chết…

“Em muốn sống. Vì thế, em đã làm điều đó… trong năm năm trời.”

Paul thừa nhận:

“Em không thích điều đó… điều đó thật kinh tởm.

“Nhưng vì em muốn sống.”

Paul năn nỉ để tôi cảm thông:

“Em không còn một lựa chọn nào khác…

“Em định tự tử. Em không thể chịu nổi như vậy nữa.”

Quay sang nhìn tôi, Paul nói tiếp:

“Nhưng rồi có người đã nói với em về Nhà Giao Ước.”

Từ khi tìm được Nhà Giao Ước cách đây một tháng, Paul quả thật như được sinh lại một lần nữa vào cuộc đời. Bất chấp những đớn đau quá khứ, bất chấp những trở ngại phải đương đầu để xây dựng một tương lai, Paul vẫn từng bước xây dựng một cuộc sống cho bản thân.

Và hôm nay, sáng nay, Paul đã vượt qua được chướng ngại vật lớn nhất.

Sáng nay, tôi đã hỏi Paul:

“Vậy, em đã nói gì khi người đàn ông ấy trao tiền cho em?”

Paul đáp:

“Em bảo ông ấy hãy giữ lấy.

“Em bảo ông ấy rằng, thứ ấy chẳng là gì đối với em nữa.

Vừa nói, Paul vừa mỉm cười:

“Em bảo ông ấy, em đang cố gắng tìm một công việc bình thường, và ông ấy nên đi chỗ khác thì hơn.”

Paul mới mười bảy tuổi, một đứa trẻ tốt lành vừa mới trải qua một cuộc chiến mà không ai trong chúng ta thực sự có thể hiểu nổi.

Và hôm nay, sau cùng, Paul đã quay lưng lại với quá khứ để hướng cuộc đời sang một trang khác.

Paul nói:

“Em bảo ông ấy rằng, thứ ấy chẳng là gì đối với em nữa.”

Cảm ơn các bạn đã ở đó vì Paul. Cảm ơn các bạn đã ở đấy vào tháng trước, khi Paul bước vào ngưỡng cửa nhà chúng tôi, mong tìm một người biết quan tâm đến em. Và cảm ơn các bạn vì đã ở đấy, trong tâm hồn của Paul sáng nay, tại góc phố ấy, khi em cương quyết nhìn lại quá khứ và nói:

“Không… đủ rồi.. thứ ấy chẳng là gì đối với tôi nữa… tôi sẽ xây dựng một cuộc đời tốt đẹp hơn.”

Tháng trước, các bạn đã giúp đỡ một đứa trẻ. Thực vậy, các bạn đã cộng tác để cứu vớt rất nhiều. Cảm ơn các bạn rất nhiều vì tất cả những gì các bạn đang làm và đã làm.

Tôi thành tâm cảm tạ Thiên Chúa từng giây phút vì các bạn đã tìm gặp chúng tôi!

XIN GIÚP CON

Xin giúp con, lạy Chúa,
Khi con đến cùng Chúa.
Có rất nhiều nẻo đường quanh co
Sẽ làm con chệch hướng
Xa rời Chúa
Xin giúp con khi con đi trên nẻo đường
Yêu mến cha mẹ mà Chúa đã ban cho con.
Xin giúp con biết gắng sức trong mọi gian nan
Dù thành công hay thất bại.
Xin giúp con đừng bao giờ chán nản
Cho dù sẽ có nhiều lúc rất khó khăn.
Xin giúp con chọn được những người bạn tốt.
Xin giúp con chọn được người bạn đời lý tưởng,
Để mai sau con có một cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Xin giúp con, dù con có thể thất bại,
Biết tiếp tục dấn bước trên con đường đến cùng Chúa.
Xin giúp con, lạy Chúa.
Con rất muốn được sống với Chúa. Amen.

Lời kinh do một trẻ viết tại Nhà Giao Ước

Sr. Mary Rose McGeady