1. Hôn Nhân & Gia Đình

VAN HÓA VÀ GIA ĐÌNH - LỄ HỘI HALLOWEEN

  •  
    Chi Tran -LEYEN

     
     
     
     
     


    HALLOWEEN HAY REQUIEM?

     

    Lễ hội Halloween ngày nay đã biến tướng thành những hình thức ăn chơi mang dáng dấp của những trò ma thuật hay những tập tục mê tín dị đoan về người chết.

     

    Những ngày cuối tháng 10, trên các phương tiện truyền thông đại chúng và ngay cả tại các Trung tâm Ngoại ngữ có yếu tố người nước ngoài, người ta đưa những tin liên quan đến việc chuẩn bị cho lễ hội Halloween. Nào là những biểu tượng, trò chơi, những trang phục quái lạ và nghệ thuật trang điểm khuôn mặt quái dị như những thây ma đang bị thối rữa ….

    Halloween là từ rút gọn của “All Hallows Eve” trong tiếng Anh, nghĩa là “đêm trước ngày lễ các Thánh”. Trước thế kỷ X, dân Celtic ở Tây Âu mừng ngày đầu năm mới vào ngày 1 tháng 11 bằng việc tổ chức lễ hội đình đám và đêm trước đó là những nghi thức tưởng nhớ những người đã khuất.

     

    Nhưng thực ra việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã chết đã có từ thời Cựu Ước (x. 2 Macabê 12,44-46) và vẫn được duy trì trong thời Tân Ước khi cộng đoàn các tín hữu họp nhau cử hành nghi thức bẻ bánh và cùng nhau nghe lại những câu chuyện sống đạo anh hùng của các thánh tử đạo. Dần dần, các cộng đoàn mở rộng việc tưởng nhớ đến những tín hữu đã tử vì đạo nhưng không được biết tới, và cả đến những tín hữu là chứng nhân sống Tin Mừng nhưng không tử đạo.

     

    Vào năm 835, Giáo hội Công giáo đã quy định lấy ngày 1 tháng 11 hàng năm là ngày lễ kính các Thánh nam nữ và ngày hôm sau là lễ cầu cho các linh hồn để nhắc nhở tất cả các tín hữu, còn sống hay đã chết, có công trạng hay không đều được hợp nhất với nhau trong một Nhiệm Thể Chúa Kitô.

    Chắc những người đã hoặc đang chuẩn bị bước vào tuổi thất thập vẫn còn nhớ ngày xưa khi tiếng La tinh còn được sử dụng trong các Thánh lễ. Sau lễ chiều kính các Thánh Nam Nữ người ta khiêng ra giữa nhà thờ 1 chiếc quan tài giả được phủ tấm nhung đen có thêu hình Thánh giá mầu trắng trông như thật. Đèn trong nhà thờ cũng được tắt bớt để những ánh nến lung linh lập lòe quanh quan tài nhắc nhở những người dự lễ nhớ đến linh hồn những người đã khuất.

     

    Lúc này trên gian Cung Thánh cũng không còn vẻ huy hoàng tráng lệ của ngày lễ trọng kính các Thánh mà thay vào đó là màu sắc ảm đạm của ngày lễ cầu hồn. Khi vị chủ tế với lễ phục màu đen tuyền như tấm nhung phủ trên quan tài tiến lên bàn thờ, ca đoàn cất tiếng hát “Requiem  aeternam  dona  eis, Domine ! Et  lux  perpetua  luceat  eis…” (Lạy Chúa! Xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời! Và được hưởng ánh sáng ngàn thu...) với cung giọng bình ca làm cho không khí trong nhà thờ lúc ấy như trầm lắng xuống trong bóng chiều nhạt nhòa …

     

    Khi phong trào Cải Cách bắt đầu vào thế kỷ XVI, những người Tin Lành đã bác bỏ tín điều các Thánh thông công và tập tục cầu nguyện cho người chết. Từ đó, ngày vọng Lễ các Thánh (Halloween) đã mất dần ý nghĩa nguyên thủy của nó. Halloween đã biến thành một lễ hội trần tục và bị thương mại hóa. Lễ hội đã mất đi tính thánh thiêng và những người tham dự lễ hội không còn biết đến những vị thánh tốt lành, những mối tương quan gắn bó giữa người sống và người chết.

     

    Lễ hội Halloween ngày nay đã biến tướng thành những hình thức ăn chơi mang dáng dấp của những trò ma thuật hay những tập tục mê tín dị đoan về người chết. Vài năm trở lại đây, lễ hội này cũng đã du nhập vào Việt Nam và được nhiều người đón nhận, nhất là các bạn trẻ đang tập tành lối sống phương Tây.

     

    Người Việt Nam thường lấy chữ hiếu làm trọng, nhà có người qua đời được gọi là “nhà hiếu”. Chữ hiếu cũng đã được cha ông ta nâng lên thành đạo: Đạo Hiếu. Đạo Công giáo cũng luôn nhắc các tín hữu hãy nhớ công sơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên. Trong kinh Mười điều răn, điều răn thứ bốn buộc các Kitô hữu phải thảo kính cha mẹ và kinh Thương linh hồn bảy mối cũng khuyên răn ta phải cầu nguyện cho người sống và kẻ chết.

     

    Trong các bậc tổ tiên, có những vị đã biết đưa tinh thần Tin Mừng vào cuộc sống đời thường. Các ngài dám chiến đấu quên thân để chiếm hữu được Chúa và lập nên những công trạng được Giáo hội tôn vinh lên bậc hiển Thánh. Có những vị âm thầm sống hiền hòa, bác ái, vị tha, tín thác vào tình thương của Thiên Chúa mà chỉ có Chúa mới biết và ân thưởng. Nhưng cũng có những vị tuy đã sống cuộc đời Kitô hữu nhưng cũng còn có những thiếu sót do yếu đuối và thân phận bất toàn.

     

    Giáo huấn của đạo Công giáo cho biết có thiên đàng để thưởng người lành, có địa ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết. Các linh hồn chính là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người thân … trước đó đã từng sống kiếp làm người với những tội lỗi như chúng ta. Họ là những người đã ra đi trước chúng ta để trở về nơi mà họ đã được Thiên Chúa tạo dựng từ bụi đất.

     

    Giờ đây, họ không còn khả năng lập công chuộc tội mà chỉ biết  trông chờ vào chúng ta là những người còn sống cầu thay, nguyện giúp! Nhưng thường thì người sống thường hay quên kẻ chết vì không còn dịp gặp mặt; có chăng chỉ là những ngày giỗ, tết. Khi thực hiện mầu nhiệm tín điều các Thánh cùng thông công, có lẽ không gì quý hơn là chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn. Khi cầu nguyện cho họ là ta thể hiện lòng biết ơn, tinh thần hiệp thông, liên đới trong đức ái.

    Vì thế, đạo Công giáo dành trọn tháng 11 hằng năm, là tháng cuối cùng trong niên lịch phụng vụ, để cầu nguyện cho các linh hồn đồng thời để nhắc nhở chúng ta nhớ đến những ngày cuối cùng của thế giới và của mọi người chúng ta. Trong tháng này, nhiều hoạt động mang tính hiếu nghĩa được các Kitô hữu thực hiện như: xin lễ, đọc kinh cầu nguyện cho ông bà tổ tiên, viếng đất thánh giáo xứ, chỉnh trang những ngôi mộ ...

     

    Người Công giáo và nhất là các bạn trẻ hãy bình tâm để đừng sa đà vào một lễ hội còn xa lạ, có lẽ không phù hợp với truyền thống dân tộc và người Kitô hữu chúng ta. Thay vào đó hãy dùng những lời kinh, tiếng hát để cầu nguyện cho các linh hồn được đón nhận trong tình thương của Thiên Chúa.

       Với tín điều các thánh cùng thông công, chúng ta tin tưởng các linh hồn luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta như Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Những kẻ Cha đã ban cho con, con muốn rằng con ở đâu thì họ cũng ở đấy với con”.

     

    Jos. Hoàng Mạnh Hùng

     
     

BÁNH SỰ SỐNG LC - ONE BREAD, ONE BODY

  •  
    Presentation Ministries
    ONE BREAD, ONE BODY
     
    Sunday, October 30, 2022, 31st Sunday Ordinary Time

    Wisdom 11:22—12:2
    2 Thessalonians 1:11—2:2
    Psalm 145:1-2, 8-11, 13-14
    View Readings

    MY SAVIOR
    “The Son of Man has come to search out and save what was lost.” —Luke 19:10

    Although God is omnipotent and almighty, He rebukes us gently, little by little, so that we may be able to bear it and be encouraged by His mercy to grow in faith, obedience, and holiness.

    Thus, Jesus stayed with sinners. He came to seek and save sinners (Lk 19:10). Even at the end of His life, Jesus was crucified between two sinners (Lk 23:33). He was made to be sin, as it were, for those who need salvation from sin (2 Cor 5:21). Sinners at least are in the position to eventually know they need Jesus (see Lk 18:9ff). Self-righteous people don’t think they need Jesus. They are in danger of becoming, in effect, their own gods and not realizing they are in need of a Savior.

    We need to realize that we cannot save ourselves (Ps 49:8; Is 26:18). We are less than “a drop of morning dew” (Wis 11:22). Once we know that our salvation is in God and in Him alone, we then know that we cannot stand before God on our own. God is far greater than the universe, and we are so small before Him. We need a Savior. The Good News is that we have a Savior! (Acts 4:12) Accept Jesus, “the Savior of the world” (Jn 4:42).



    Prayer: Father, “be merciful to me, a sinner” (Lk 18:13).

    Promise: “We pray for you always that our God may make you worthy of His call, and fulfill by His power every honest intention and work of faith.” —2 Thes 1:11

    Praise: “I have the same hope in God as these men have that there is to be a resurrection of the good and the wicked alike” (Acts 24:15). Risen Jesus, grace me to be among Your elect.

    (This teaching was submitted by a member of our editorial team.)
    (Married couples, we have a retreat just for you Nov. 11-12. Spend time with the Lord and other faith-filled couples at our beautiful retreat center in Adams Co. Ohio. Call 513-373-2397 or see www.presentationministries.com for information or to register.)

    -----------------------------------------------------------------

    You can find One Bread, One Body archives, the letter to readers, OBOB eBook edition, and an online donation form at http://www.presentationministries.com/series/obob

    -----------------------------------------------------------------

ĐỜI SỐNG TÂM LINH -NHỮNG HÌNH THỨC

  •  
    Chi Tran - LEYEN
     
     
     
     
     


    NHỮNG HÌNH THỨC
    CÓ TÂM LINH MÀ KHÔNG CÓ ĐẠO" KHÁC NHAU
     
    Chúng ta đều biết câu, ‘chúng tôi có đời sống tâm linh nhưng không có đạo’ (dùng cho những người cởi mở với chuyện có Chúa nhưng không cởi mở với chuyện liên quan đến Giáo hội).
    Không gì giống với ngôn ngữ của Thiên Chúa bằng im lặng, nhà thần học Đức Meister Eckhart đã nói như thế.
    Một trong những hàm ý của ngài là một hoạt động nội tâm sâu sắc nào đó chỉ có thể thực hiện trong thinh lặng, một mình, riêng tư.
    Dĩ nhiên ngài đúng, nhưng chuyện này còn có một khía cạnh khác. Dù có một số hoạt động nội tâm sâu sắc chỉ có thể được thực hiện trong thinh lặng, nhưng cũng có một số hoạt động tâm linh, trọng yếu và sâu sắc chỉ có thể được thực hiện khi cùng làm với người khác, khi ở trong một mối quan hệ, gia đình, giáo hội và xã hội. Sự thinh lặng có thể là con đường đặc biệt để đi đến chiều sâu của linh hồn. Nhưng nó cũng có thể là một con đường nguy hiểm. Ted Kaczynski, hay còn gọi là kẻ khủng bố Unabomber, đã sống trong thinh lặng, cô độc, và nhiều người bị rối loạn tâm thần sâu sắc khác cũng thế. Các chuyên gia về sức khỏe tâm thần cho chúng ta biết, để giữ mình tỉnh táo thì phải có tương tác với người khác. Sự tương tác xã hội giúp chúng ta đứng vững, cân bằng và tỉnh táo. Tôi nhìn vào một vài người trẻ thời nay đang tương tác với người khác (trực tiếp hoặc qua mạng xã hội), liên tu bất tận khi họ không ngủ, và dù không lo lắng về sự tỉnh táo thì cũng đáng lo cho chiều sâu của họ.
    Chúng ta cần nhau. Triết gia Pháp Jean-Paul Sartre từng nói câu lừng danh “tha nhân là địa ngục”. Ông không thể sai hơn. Xét cho cùng, tha nhân là thiên đàng, là cứu rỗi mà chúng ta được định cho. Tuyệt đối cô độc mới là địa ngục. Hơn nữa, sự cô độc hiểm ác này có thể lẻn vào chúng ta dưới lớp vỏ tôn giáo và vị tha tốt đẹp nhất.
    Tôi xin đưa ra một ví dụ. Tôi lớn lên trong một gia đình gắn bó với cộng đồng nông thôn nhỏ, nơi gia đình, hàng xóm, giáo xứ giao tiếp với người khác là tất cả, nơi mà mọi thứ đều được chia sẻ và hiếm khi chúng tôi ở một mình. Tôi đã sợ ở một mình, tránh né và thậm chí tôi chỉ thoải mái khi ở bên người khác.
    Tốt nghiệp trung học, tôi vào Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ, và trong tám năm ở đó, tôi sống trong một cộng đồng lớn và cũng là nơi mọi thứ đều được chia sẻ và hiếm khi chúng tôi ở một mình. Khi sắp khấn trọng và khấn vĩnh viễn với đời sống tu trì và chức linh mục, điều tôi sợ nhất là lời sống độc thân khiết tịnh và sự cô đơn đi kèm. Không vợ, không con, không gia đình và sự cô lập của đời sống độc thân.
    Hóa ra mọi chuyện lại không phải thế. Dĩ nhiên đời sống độc thân có những cái giá của nó, và nó cũng không phải là cuộc sống bình thường mà Thiên Chúa dự định cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, sự cô đơn mà tôi đã e sợ (dù chỉ trong những khoảnh khắc ngắn ngủi) lại hiếm khi xảy ra, thực tế ngược lại thì đúng hơn. Tôi thấy cuộc đời của tôi đầy ắp các mối quan hệ, tương tác, bận rộn, áp lực thường nhật và những cam kết lấp đầy mọi giờ trong ngày. Thay vì cảm giác cô đơn, tôi thấy mình lại thường khao khát được cô tịch, được tĩnh lặng, được ở một mình, và tôi dần cảm thấy khá thoải mái với chuyện ở một mình. Thật sự là quá thoải mái với nó.
    Trong hầu hết những năm đời linh mục, tôi sống trong cộng đồng dòng tu lớn, và cộng đồng cũng như bất kỳ một gia đình nào, luôn có những đòi hỏi. Tuy nhiên, khi tôi làm Viện trưởng Trường Thần học, tôi được phân ở ngôi nhà dành riêng cho Viện trưởng và trong một thời gian, tôi ở một mình. Mới đầu, tôi hơi hoang mang vì chưa hề ở một mình, nhưng sau một thời gian, tôi quen dần. Tôi lại thích thế. Tôi không có trách nhiệm phải ở nhà vì ai cả ngoài chính tôi.
    Nhưng tôi sớm nhận ra những nguy cơ của chuyện này. Sau một năm, tôi bỏ đặc quyền này. Một trong những nguy cơ của sống một mình và một trong những nguy cơ của đời sống độc thân, kể cả khi chúng ta trung thành sống với nó, là chúng ta không có người khác để nhắc nhở và đòi hỏi chúng ta. Chúng ta phải tự nhắc bản thân và có thể tránh cái mà Dorothy Day gọi là “sự khổ hạnh của sống trong một gia đình”. Khi sống một mình, chúng ta dễ dàng lên kế hoạch và sống theo ý mình, tự do kén chọn giao thiệp, chọn người nào trong gia đình, cộng đồng nào chúng ta thích, tránh những người gây khó khăn cho mình.
    Có những chuyện ban đầu là nhân đức rồi dễ dàng biến thành thói xấu. Như bận rộn chẳng hạn. Chúng ta hy sinh thì giờ ở bên gia đình để đi làm kiếm tiền nuôi sống gia đình, nhưng rồi nó làm chúng ta xa sinh hoạt gia đình. Mới đầu, đây là hy sinh, nhưng cuối cùng nó lại thành lối thoát, một miễn trừ cố hữu để chúng ta khỏi phải đương đầu với những chuyện nào đó trong đời sống gia đình. Đời sống độc thân theo lời khấn và đời linh mục cũng có cùng nguy cơ đó.
    Chúng ta đều biết câu, ‘chúng tôi có đời sống tâm linh nhưng không có đạo’ (dùng cho những người cởi mở với chuyện có Chúa nhưng không cởi mở với chuyện liên quan đến Giáo hội). Tuy nhiên, với hình thức này, chúng ta chật vật hơn là chúng ta nghĩ. Ít nhất là với tôi. Là một linh mục đã khấn sống đời độc thân, tôi cũng có thể sống kiểu như vậy với những lý do cao đẹp nhất, tôi có thể tránh được những khổ hạnh thường nhật vốn có nơi những người sống trong gia đình.
    Tuy nhiên, đây là nguy cơ cho tất cả chúng ta, dù là độc thân hay lập gia đình. Khi chúng ta, dù với những lý do tốt đẹp, có thể kén chọn phần nào trong gia đình và cộng đồng mà chúng ta thích để giao thiệp và phần nào gây khó khăn cho chúng ta để tránh né, thì đó chính là kiểu có đời sống tâm linh mà không có đạo.
    Ronald Rolheiser,
    J.B. Thái Hòa dịch
     

CAC BÀI ĐỘC GIẢ GỞI TỚI - TS DUYỆT -

  •  

    THEO ĐẠO VÀ CHÚA THƯỞNG PHẠT NHƯ THẾ NÀO SAU KHI CHẾT

     

    Trần Mỹ Duyệt

     

    Thưa chú, hôm nay cháu có mấy câu hỏi nhờ chú giúp ý kiến:

     

    Con của cháu nó hỏi con: “Một người tin vào Chúa thì được lên Thiên đàng? Nhưng nếu một người sinh ra ở North Korea nơi bị cấm giảng đạo thì làm sao họ biết Chúa được, không lẽ họ không được lên Thiên đàng sao?”

     

    Và : “Một người tội ác ngập đầu, nhưng biết tin Chúa vào phút cuối cuộc đời thì lại được  lên thẳng Thiên đàng (như người trộm lành), như vậy có công bằng không? Còn những người suốt đời như mẹ tin Chúa, tối ngày lo đọc kinh, đi lễ không lẽ cũng bằng một người chỉ tin vào phút chót mà cả đời toàn là tội lỗi sao? Như vậy Chúa có “fair” trong trường hợp này không? Con thấy người Công giáo nào cũng khoe mình tin Chúa, vậy họ lên thiên đàng hết sao?” 

     

    Những câu hỏi mà nó làm cháu nhức óc. Cháu cãi không lại nó thưa chú.

     

    TN Ph.

     

     

    Trả lời góp ý:

     

    Hai câu hỏi bao gồm một số vấn đề của con cháu cũng là những câu hỏi mà rất, rất nhiều bạn trẻ đã hỏi, đã thách thức với cha mẹ. Cũng như cháu, nhiều cha mẹ “cãi” không lại với bọn trẻ. Vậy sau đây là vài tư tưởng góp ý, hy vọng cháu sẽ dùng để có dịp nói chuyện lại với con của cháu.

     

    Trước khi đi vào những chi tiết, có một điều mà tôi muốn nói ngay, đó là khi một số phụ phụ đến than thở với linh mục về tình trạng con cái bỏ nhà thờ, bỏ cầu nguyện, bỏ sống đạo thì thường được nghe những câu, đại khái: “Con cái thời nay là thế. Mình đã cố gắng hết sức rồi, hãy để mặc Chúa lo liệu. Sẽ có ngày nó quay về với Chúa, với Giáo Hội.” Phụ huynh nào nghe những câu an ủi như vậy cũng thấy được an lòng, tuy nhiên vấn đề không đơn giản và dễ dàng như vậy. Thế nào là “đã cố gắng hết sức?” Thế nào là “Hãy để mặc Chúa lo liệu?” Nói như vậy là nói huề vốn, nói cho vui tai, và vừa lòng người hỏi.

     

    Điểm quan trọng là khi con cái bỏ nhà thờ, bỏ lễ lạy, kinh hạt, bỏ cầu nguyện, bỏ Chúa thì người có trách nhiệm trực tiếp nhất vẫn là cha mẹ, vẫn phụ huynh. Và điều mà chúng ta phải hỏi lòng mình là thực sự “đã cố gắng hết sức chưa?” Bằng cách nào? Có phải là bằng những việc làm rõ ràng, cụ thể và những cố gắng đôi khi đòi phải hy sinh, chịu đựng, nhẫn nại và bền bỉ, hay chỉ bằng những hành động, lời nói sơ sài, chiếu lệ như khuyên bảo vài câu, la mắng vài lần rồi bỏ mặc. Trong thực hành, vợ chồng, cha mẹ có siêng năng đọc kinh, cầu nguyện sáng tối với nhau không? Có tham dự thánh lễ mỗi ngày, tham dự các giờ kinh nguyện, giờ chầu Thánh Thể trong giáo xứ, có tha thứ, chịu đựng, làm gương sáng cho con cái không? Hay ngược lại, vẫn rượu chè, vẫn cãi vã, vẫn chôm chỉa, vẫn gian lận, vẫn ngoại tình, vẫn chửi thề, vẫn khô khan, nguội lạnh, vẫn lười biếng cầu nguyện, bỏ lễ, bỏ thực hành đạo?

     

    Sau khi đã cố gắng hết sức thì “hãy để mặc Chúa lo liệu?”. Đúng vậy, đây cũng là cách mà Monica đã áp dụng, có nghĩa là thánh nữ đã phải mất ròng rã 17 năm trong hy sinh, trong kinh nguyện, và trong nước mắt để mới có một Augustine trở lại. Đó cũng là cách thức mà bố mẹ của Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã làm, là đã phó thác cho Chúa khi trọn đời sống đạo tốt lành để nêu gương sáng cho các con. Thánh nữ đã nói về cha mẹ mình: “Thiên Chúa đã ban cho con một người cha mẹ xứng với Thiên Đàng hơn trần thế.” Kết quả là chính hai ông bà đã được phong thánh, Têrêsa cũng được phong thánh, mà hơn thế, còn được phong làm Tiến Sỹ Hội Thánh và Bổn Mạng Các Xứ Truyền Giáo. Còn lại 4 người chị của thánh nữ đều là những nữ tu thánh thiện, 3 trong đan viện Carmelô ở Lisieux, và 1 thuộc Dòng Thăm Viếng. Đó mới là trọn vẹn ý nghĩa của “cố gắng hết sức” và “phó mặc cho Chúa”.

     

    Sau đây là bước vào phần những câu hỏi:

     

    “Một người tin vào Chúa thì được lên Thiên đàng? Nhưng nếu một người sinh ra ở North Korea nơi bị cấm giảng đạo thì làm sao họ biết Chúa được, không lẽ họ không được lên Thiên đàng sao?”

     

    Đúng vậy, “Những ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu rỗi, còn những ai không tin thì sẽ bị luận phạt.” (Mác-cô 16:16). Đây là điều kiện cần phải có để được lên Thiên Đàng. Nhưng lời Chúa nói tự nó đã diễn tả giữa hai trạng thái lên hoặc không được lên Thiên Đàng. Đó là “tin” hoặc “không tin.”

     

    “Không biết không có tội.” Một người không được nghe, không được biết, không được giảng giải làm sao bắt tội người ta là “không tin”. Chỉ có những người đã biết, đã nghe, và đã được học hỏi về Chúa, về giáo lý của Chúa và về ơn cứu độ, mà vẫn không tin, không chấp nhận, và không thực hành mới là đối tượng của luận phạt - mất hạnh phúc Thiên Đàng. Vậy đừng lo cho những người ở North Korea hay ở bất cứ nơi nào trên thế giới mà ở những nơi đó ánh sáng Phúc Âm chưa chiếu soi, và Tin Mừng của Chúa chưa được truyền rao đến. Chúa có cách cứu độ những người ấy, vì theo Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, thì trên trái đất có bao nhiêu người là có bấy nhiêu con đường lên Thiên Đàng. Tại sao?

     

    Vì mỗi người khi sinh vào đời, Thiên Chúa đều ban cho một lương tâm, hay còn được gọi là cán cân lành dữ. Nếu không được học cách sử dụng cán cân này bằng những giáo lý, giáo huấn của Giáo Hội, những hướng dẫn của đạo đức của luân lý, và những soi dẫn Phúc Âm, thì ít nhất cũng phải sống và hành động theo hướng dẫn của lương tâm chân chính, của luật lành và dữ. Sống và thực hành những điều lương tâm mách bảo với một niềm tin tưởng vào Đấng Tối Cao như vậy cũng đủ để được Ngài ân thưởng. Tuy nhiên, nếu đã biết Ngài, đã nghe nói về Ngài, và đã được hướng dẫn đầy đủ mà vẫn nhất định không tuân theo thì lúc ấy không những Ngài sẽ loại bỏ, mà chính lương tâm người ấy cũng sẽ loại bỏ họ. 

     

    : “Một người tội ác ngập đầu, nhưng chỉ cần biết tin Chúa vào phút cuối cuộc đời như người trộm lành mà cũng được lên thẳng Thiên đàng, như vậy có công bằng không? Còn những người suốt đời như mẹ tin Chúa, tối ngày lo đọc kinh, đi lễ không lẽ cũng bằng một người chỉ tin vào phút chót mà cả đời toàn là tội lỗi sao? Như vậy Chúa có “faire” trong trường hợp này không? Con thấy người Công giáo nào cũng khoe mình tin Chúa, vậy họ lên thiên đàng hết sao?” 

     

    Không phải vậy. Đây là một ý nghĩ phiến diện và cho thấy là chưa thông hiểu về tình thương Thiên Chúa và đức công chính của Ngài. Người trộm lành. Tôi không thích danh từ này, vì đã đi ăn trộm, ăn cướp thì không bao giờ gọi là “lành”, đúng ra phải gọi anh ta là “người trộm thống hối”, bởi vì anh ta đã nhận ra tội của mình, đã thống hối, ăn năn và xin Chúa thương xót:

          

    “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Ðấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Ðức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng”. (Luca 23: 39-43)

     

    Cái giá Thiên Đàng cho anh trộm thống hối không hề rẻ. Anh ta không chỉ nhận ra lỗi lầm của mình, chấp nhận hình phạt, và còn dám tuyên xưng Đức Tin và tin vào Đấng Cứu Thế. Dĩ nhiên, Thiên Chúa không thể nào không đón nhận một người con thống hối. Chúng ta hãy nghe để hiểu được tình thương của Cha trên trời đối với những đứa con tội lỗi nhưng biết xám hối:

     

    “Nhưng nếu kẻ gian ác từ bỏ mọi tội lỗi mình đã phạm mà tuân giữ mọi quy tắc của Ta, cùng thi hành điều chính trực công minh, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết. Mọi tội phản nghịch nó phạm, người ta sẽ không còn nhớ đến; nó sẽ được sống vì đã thi hành lẽ công minh. Chẳng lẽ Ta lại vui thích vì kẻ gian ác phải chết – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – Ta lại không muốn cho nó từ bỏ đường lối của nó mà được sống sao?” (Ezekiel 18:21-23).

     

    Nhưng thử hỏi là được bao nhiêu tội nhân suốt đời ăn chơi, hoang đàng, đĩ điếm, gian dâm, trộm cướp, tham lam, giết người… mà trước giờ chết biết nhận ra lỗi lầm, biết xin lỗi, và biết kêu cầu lòng thương xót Chúa? Điều này xét theo mặt tự nhiên đã là khó, và càng khó hơn nữa khi lúc đó còn có ma quỉ vây quanh cám dỗ, làm cho mất niềm tin, và sự cậy trông nơi Thiên Chúa thì việc ăn năn, hối lỗi không hề dễ.

     

    Trở lại việc người trộm thống hối và những tội nhân thống hối khác nếu được vào Thiên Đàng thì chắc chắn phần thưởng, hạnh phúc và sự cảm thấu về Thiên Chúa sẽ không bằng những vị suốt đời hy sinh, cầu nguyện, sống tiết độ, làm việc thiện. Lý do vì Thiên Chúa yêu thương hết mọi người nhưng cũng công bình với hết mọi người. Thánh nữ Têrêsa diễn giải về hạnh phúc Thiên Đàng bằng một hình ảnh rất hay, rất dễ hiểu và rất ý nghĩa. Đại khái có chị em hỏi Thánh Nữ về Thiên Đàng và hạnh phúc trên đó có đồng đều như nhau không, thì Thánh Nữ đã trả lời qua một thí dụ:

     

    Nếu gọi hạnh phúc Thiên Đàng như suối nguồn hạnh phúc, thì khi lên đó nếu ta có một chiếc ly, một chiếc bát, một chiếc bình, một cái thùng, một cái hũ…là những gì chúng ta tạo được trên cõi đời này bằng hy sinh, cầu nguyện, chịu khó và những việc lành phúc đức, thì lúc đó Thiên Chúa sẽ làm tràn đầy những chiếc ly, chiếc bát, chiếc bình, cái thùng, cái hũ…đó. Điều này có nghĩa là mọi người đều được hạnh phúc tràn đầy, nhưng rõ ràng là mức độ tràn đầy không như nhau.

     

    Như vậy thì cháu cứ việc hy sinh, cầu nguyện và sống tốt lành. Phần thưởng Thiên Đàng của cháu sẽ tràn đầy theo những gì đã sắm được trên cõi đời này trước khi đem vào cõi trường sinh. Thiên Chúa sẽ không unfair (bất công) với cháu, hoặc cũng không thiên vị với bất cứ ai. Vì mỗi người đều lãnh công theo việc lành mình đã làm: “Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình.” (1 Corintho 3: 8) 

     

    Và sau cùng là “Con thấy người Công giáo nào cũng khoe mình tin Chúa, vậy họ lên thiên đàng hết?”

     

    Ồ! Không. Chính Chúa Giêsu đã dạy rằng:

     

    “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” Và bấy giờ, Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7: 21-23)

     

    Căn cứ vào lời Chúa vừa trưng dẫn trên, thì việc lên Thiên Đàng hay được cứu rỗi chắc chắn không hề lệ thuộc vào việc ai đó xưng mình là người Công Giáo. Theo như Chúa Giêsu thì “nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ” mà còn bị Chúa coi như không hề biết, huống hồ chỉ mang danh Công Giáo mà lại sống như người không có Đức Tin. Thiên Chúa không cưỡng ép ai lên Thiên Đàng, nhưng Ngài cũng không ném ai vào hỏa ngục. Lên hay xuống là tùy mỗi người, tùy sự đón nhận, và đáp lại tiếng mời gọi đầy tình thương của Ngài.

     

    Hy vọng những gì vừa trình bày trên giúp cháu có thêm chút kiến thức để nói chuyện với tuổi trẻ ngày nay.

     

    Trần Mỹ Duyệt

     

     ---------------------------------------------

       

     

     

VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH - LÌA XA CHA MẸ

  •  
    Chi Tran -LEYEN
     
     
     


     
    XA LÌA MẸ CHA
     
    Người ta có thể chia tay người yêu, ly dị với bạn đời, chấm dứt tương quan với người khác, nhưng chẳng ai có thể làm gì để trở nên “không còn là con cái hay là cha mẹ” của ai đó được.
    Tình cảm gia đình là một cái gì đó rất thiêng liêng và cao cả. Gia đình là một sáng kiến tuyệt vời của Tạo Hoá, để qua đó, Ngài tiếp tục thực thi công trình sáng tạo với sự góp sức của con người. Từ tình yêu và sự kết hợp giữa người nam và người nữ, một mầm sống mới ra đời. Hơn ai hết, cha mẹ cảm nếm được niềm hạnh phúc lớn lao khi thấy thành quả tình yêu của mình hiển hiện ngay trước mắt. Ngay từ lúc đứa con ấy còn đang thành hình trong dạ mẹ, đã có một sự mong chờ thấp thỏm ngày đêm trong lòng. Đứa con ấy ra đời, là hình ảnh của chính cha mẹ, là máu là xương là thịt của cha mẹ, là bản sao di truyền tiếp nối từ đời này đến đời kia, và cứ thế, sự sống lan ra qua từng thế hệ.
    Niềm hạnh phúc khi được làm cha làm mẹ chắc hẳn là chỉ có ai trong cuộc mới hiểu được. Niềm hạnh phúc ấy bao gồm cả những lắng lo, trách nhiệm. Cha mẹ là những người duy nhất trên thế giới này đã, đang và sẽ luôn cho con cái mình mọi thứ mà không cần chúng đền đáp gì, chỉ mong sao chúng được nên người, trở thành những công dân hữu ích cho xã hội. Bởi thế, cha mẹ luôn dành cho mọi sự tốt nhất cho con cái, tình yêu thương, sự săn sóc, gần gũi… Đối với cha mẹ, con cái là cả thế giới, là mục đích sống, là niềm an vui, niềm hy vọng… là tất cả, nên dù con mình có lớn thế nào, thành công thế nào, thì vẫn chỉ là một đứa con bé bỏng trong mắt bố mẹ.
    Là người theo dấu chân con từ khi con còn chưa biết gì cho đến khi con khôn lớn, cha mẹ luôn khắc ghi trong lòng từng phút giây đánh dấu sự phát triển của con. Thoáng một chốc, đứa bé ngày nào còn nằm gọn trong vòng tay mình, nay đã là những chàng trai cô gái trưởng thành, tung cánh bay đi tìm hạnh phúc cho bản thân. Đây sẽ là một khoảnh khắc vô cùng khó khăn đối với những bậc cha mẹ, vừa vui lại vừa buồn. Vui vì con đã lớn, đã có thể tự mình đứng trên đôi chân, tung cánh bay muôn phương. Buồn là vì từ nay, chúng sẽ không còn “kè kè” bên mình nữa, sẽ ít dành thời gian cho mình và mình cũng không còn là ưu tiên hàng đầu của con nữa. Có một chút ích kỷ rất riêng của người làm cha mẹ, khi lúc nào cũng luôn muốn giữ con cho riêng mình, không muốn san sẻ chúng với ai cả. Sự ích kỷ đó cũng nói lên tình thương rất đỗi thiêng liêng của cha mẹ khi sợ rằng khi con mình vào đời, nó có thể sẽ bị tổn thương, không được che chở, sẽ phải chịu đói chịu khát…
    Khi con đã tìm được một tình yêu đích thực dành cho mình, cha mẹ nào cũng hiểu rằng đã đến lúc mình phải buông tay và nhường con mình cho một người khác. Gia đình vốn dĩ là điều rất thiêng liêng nhưng tự nó không đóng kín trong chính mình. Nó mở ra với những tình yêu khác, một tình yêu dành cho người không cùng máu huyết. Kinh Thánh đã diễn tả nó qua hình ảnh “lìa bỏ cha mẹ mình để kết hợp với người bạn đời.” Thật khó để có thể đón nhận điều này, dù rằng cha mẹ nào cũng vui nếu con mình tìm thấy được hạnh phúc riêng của bản thân. Xét cho cùng, cha mẹ sinh con vào đời, nhưng đâu làm chủ cuộc sống của con. Con được cha mẹ đưa vào hiện hữu, nhưng mỗi người đều có thụ hưởng một sự sống riêng. Con đã từng là tất cả cha mẹ, và vẫn mãi luôn là tất cả, chỉ có điều, giờ đây, cha mẹ phải tập buông tay, để con được tự do dựng xây hạnh phúc riêng của mình.
    Giây phút con lập gia đình đánh dấu một chặng đường mới, nơi đó, nó tập gánh lấy một trách nhiệm chung với một người khác để tạo lập một gia đình riêng. Kể từ giờ phút đó, người con đã đồng thời trở thành người vợ hoặc người chồng, cũng hệt như mình năm xưa. Nếu nói một cách phũ phàng, cha mẹ giờ đây đã được xếp vào hàng thứ hai rồi, vợ-chồng-con cái mới nằm ở vị trí ưu tiên số một. Có lẽ vì không muốn chấp nhận sự thật này nên nhiều bậc cha mẹ đã luôn tìm cách níu kéo, khống chế, và hay can thiệp quá sâu vào gia đình riêng của con cái mình. Họ cứ cố khăng khăng cầm giữ con mình trong tay, không chịu mở lòng ra để đón nhận thêm một người con khác. Cũng chính từ đây là biết bao bi kịch, xung khắc trong gia đình xảy đến.
    Trong ý định của Tạo Hoá, cha mẹ đóng vai trò là người cộng tác để sản sinh con cái và nuôi dạy chúng thành người. Thiên Chúa đã đặt giữa cha mẹ và con cái một mối dây gắn kết bền chặt đến nỗi không ai và không gì trên thế giới này có thể cắt đứt nó. Người ta có thể chia tay người yêu, ly dị với bạn đời, chấm dứt tương quan với người khác, nhưng chẳng ai có thể làm gì để trở nên “không còn là con cái hay là cha mẹ” của ai đó được. Tương quan cha mẹ – con cái gắn liền với chính sự hiện hữu của mình, với chính mình. Chẳng ai có thể tồn tại mà không đồng thời là con của một người nào đó, bởi lẽ, ta hiện diện trên đời là nhờ được sinh ra chứ không phải tự nhiên mà có. Dù là bền chặt như vậy, tất cả đều được mời gọi để đảm nhận lấy sứ mạng của mình theo một cách thức riêng. Gia đình là nơi ta thành hình, và cũng là nơi ta khởi hành ra đi.
    Cha mẹ là người đưa ta vào đời, nuôi ta lớn khôn để rồi vẫy tay tiễn đưa ta đi vào thế giới. Có một sự cắt đứt nào đó diễn ra, và dĩ nhiên, nó luôn khiến cả hai mang những nỗi niềm bâng khuâng. Nhưng chính nhờ sự cắt đứt này mà con người được lớn lên và sự sống được tiếp tục lan toả đến tận cùng bờ cõi theo lệnh truyền của Thiên Chúa.
    Pr. Lê Hoàng Nam, SJ