8. Đời Sống Tâm Linh

Hạnh Phúc – Chương 3: Tình Yêu - 1. BA NGUYÊN NHÂN TẠO NÊN TÌNH YÊU

Mọi tình yêu đều dựa trên ba chân, nghĩa là mọi tình yêu đều dựa trên ba nền tảng là sự thiện, sự hiểu biết và sự tương đồng.

Trước hết hãy xét đến sự thiện: một người có thể bị lầm lẫn trong việc lựa chọn điều mà xem ra là tốt đối với anh ta, tuy nhiên anh ta sẽ chẳng bao giờ có thể ước ao bất cứ điều gì trừ phi anh ta tin vào tính cách tốt lành nội tại của điều ấy. Gã con hoang cũng đang gắng tìm sự thiện đối với hắn đấy chứ, nghĩa là hắn đang tìm một điều gì đó để thoả mãn cơn đói của hắn – khi hắn cố gắng tọng vỏ trấu vô họng, có điều hắn chỉ sai lầm trong phán đoán của mình khi nghĩ rằng vỏ trấu là thức ăn thích hợp đối với một con người. Tất cả chúng ta cũng đều ở trong tình cảnh khó xử giống như hắn ta. Chúng ta luôn luôn gắng lấp đầy cuộc sống mình, tâm trí mình, xác thân mình, nhà cửa mình bằng những “điều thiện” và chúng ta sẽ chẳng chấp nhận điều gì nếu nó không ẩn chứa một cái gì tốt trong đó. Tuy nhiên sự đánh giá của chúng ta không phải lúc nào cũng chính xác, chúng ta có thể lầm lẫn giữa cái bề ngoài và cái tốt thực sự, và điều đó đã làm hại chính chúng ta.

Nếu không nhắm đến sự thiện thì cũng sẽ chẳng có tình yêu dù là yêu tổ quốc, yêu khoái lạc, yêu bè bạn hay yêu tình nhân. Qua yêu thương, mỗi con tim cố gắng tạo cho mình một sự hoàn hảo mà nó thiếu, hoặc cố gắng biểu lộ sự hoàn hảo mà nó đã có được. Mọi tình yêu phát sinh từ sự thiện, hướng về sự thiện thì tự bản chất nó thật đáng yêu đối với con người.

Sự thiện mà chúng ta yêu mến nơi kẻ khác không hẳn luôn luôn là sự thiện thuộc lãnh vực luân lý; nó có thể thuộc lãnh vực thể lý hoặc tiện ích. Trong những trường hợp như thế, cá nhân nào đó được chúng ta yêu có thể vì lạc thú người ấy mang lại cho chúng ta, hoặc người ấy hữu ích đối với chúng ta hoặc vì người ấy sinh lợi cho chúng ta và cũng có thể vì một lý do ích kỷ nào đó. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp như thế cũng vẫn có một điều tốt nào đó mà chúng ta kiếm tìm khi chúng ta yêu và nếu chẳng có điều gì xem ra tốt với chúng ta hết thì chắc chắn chúng ta đã chẳng thể nào quan tâm đến.

Tuy nhiên trong mọi tình yêu cũng đều hàm chứa sự hiểu biết: chúng ta không thể yêu những gì mà chúng ta chẳng biết (vô tri bất mộ). “Hãy giới thiệu tôi cho cô ấy” là câu nói mà một người đàn ông đang tìm cách làm quen với một phụ nữ thường nói khi anh ta biết rằng đây là điều kiện để anh ta có thể thực sự yêu cô nàng. Ngay cả “nàng tiên trong mộng” của một chàng độc thân nào đó cũng phải được chàng ta xây dựng nên từ những mảng tri thức anh ta có trong trí về cô nàng. Sự căm ghét đến từ thiếu hiểu biết như thế nào thì tình yêu cũng đến từ sự hiểu biết như vậy; bởi thế mà sự cố chấp liên quan đặc biệt với sự ngu dốt.

Trong những thời gian đầu, hiểu biết là điều kiện mang lại tình yêu; tuy nhiên một khi mối tương giao càng sâu đậm thì tình yêu càng làm tăng hiểu biết. Một cặp vợ chồng chung sống với nhau nhiều năm thì sẽ có được một loại hiểu biết mới mẻ về nhau, sâu sắc hơn bất cứ lời nói hay bất cứ sự phân tích động cơ nào có thể cung cấp được. Sự hiểu biết này (vào những tuần trăng mật không thể có được) dần dà đến từ yêu đương bằng hành động, giống như một loại trực giác nhờ đó mà ta hiểu được những gì ẩn chứa nơi tâm trí của người kia. Như thế chúng ta có thể yêu thương dù chưa biết nhiều về người đó. Chúng ta có thể để cho sự thành tín lấp đầy khiếm khuyết của trí năng chúng ta. Vì thế mà một người thành tín có thể yêu mến Chúa nhiều hơn một nhà thần học, và tình yêu này có thể giúp người ấy hiểu được sâu sắc những đường lối của Chúa đối với trái tim con người hơn bất cứ một nhà tâm lý nào khác.

Một trong những lý do khiến người đàng hoàng thường tránh bàn luận tầm thường về tính dục là vì trong một tương quan thân mật như thế, sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai người không thể nào thông truyền cho người khác được. Cuộc trao đổi giữa hai người ấy quá nồng nàn đến nỗi không thể chia sẻ với kẻ bên ngoài; không thể dung tục hoá mối thâm tri thánh thiện ấy được. Có sự kiện tâm lý này là những người đã cảm nhận được kinh nghiệm về vấn đề tính dục trong tình yêu kết hiệp của hôn nhân thường rất ít muốn phô diễn sự huyền bí mà mình đã cảm nghiệm ấy ra trước ánh sáng cho đám đông bàn bạc. Chẳng phải là vì họ “mất ảo tưởng” về tính dục mà chẳng qua bởi vì giờ đây nghệ thuật yêu đương siêu vượt của họ đã biến đổi được hành vi tính dục đến nỗi những kẻ đứng bên ngoài không thể nào có thể hiểu được bản chất của kinh nghiệm chia sẻ đó.

Trái lại, những kẻ không thăng hoá được hành vi tính dục thành mầu nhiệm của tình yêu (những người này thường thấy thất vọng) lại là những kẻ khoái bàn bạc về tính dục. Những người vợ người chồng bất trung thường hay bàn bạc về những đề tài tính dục chứ các bậc làm cha làm mẹ sống hạnh phúc với nhau thì chẳng bao giờ muốn nhắc đến những câu chuyện ấy.

Khi sự hiểu biết giữa hai người đã chuyển biến thành tình yêu thì tâm hồn người ta cảm thấy tràn đầy đến nỗi chẳng cần một kẻ khác thêm thắt điều gì nữa cũng chẳng bao giờ cần phô bày mối thâm tình ấy ra cho ai cả. Kẻ nào mà bộc lộ những tương giao mật thiết ấy ra cho người khác nghe thì chứng tỏ tình yêu của kẻ ấy chưa cao vời đủ để đáng gọi là một mầu nhiệm: tình yêu đó vẫn còn nằm ở phạm vi những kẻ đi tìm tính dục mà thôi!

Điểm tựa thứ ba của tình yêu là sự tương đồng: tương đồng dẫn hai người đến tình yêu không nhất thiết là hai người ấy hoàn toàn giống y hệt nhau. Tương đồng ở đây chỉ muốn nói là điều mà người này đang có trong tiềm thể. Bởi vì tự bản chất tâm hồn con người là khiếm khuyết nên nó luôn ao ước sự hoàn thiện; và qua tình yêu chúng ta tìm cách bổ túc những khiếm khuyết của mình. Anh thanh niên chất phác sẽ mong cưới được một cô gái xinh đẹp bởi vì sắc đẹp tiềm tàng (cái mà anh ta không có nhưng hằng ao ước) lôi kéo anh ta tìm đến cái sắc đẹp vượt quá con người anh ta.

Nhờ vào đặc tính tương tự này mà ngay cả những gì tầm thường vô giá trị nhất trong tình yêu của chúng ta cũng được thăng hoa. Một phụ nữ đua tranh danh vọng thường say mê các bậc “anh hào” bởi vì các vị này đang có điều mà cô ta mong muốn nhưng chưa có. Xét về cấp độ cao hơn, các thánh thường yêu thương kẻ tội lỗi, không phải vì kẻ tội lỗi đã chia sẻ được các đặc tính đã được tâm hồn các thánh triển khai, mà chính vì một vị thánh có thể hiểu được cái nhân đức đang tiềm ẩn nơi kẻ tội lỗi. Đó là lý do tại sao Con của chính Thiên Chúa đã trở nên Con người: bởi vì Ngài yêu mến cái khả thể nơi con người hay nói theo lời thánh Augustinô “Ngài đã trở thành người ngõ hầu con người có thể trở thành Thiên Chúa”.

Gm. Fulton Sheen

Niềm Tín Thác – Chương XI: CHÚA GIÊSU RẤT ĐẦY ĐỦ CHO NHỮNG LINH HỒN ĐỒNG NHẤT VỚI NGÀI

I.  CUỘC SỐNG CỦA LINH HỒN ĐỒNG NHẤT VỚI CHÚA GIÊSU LÀ MỘT SỰ LUÔN LUÔN CHẠY LẠI VỚI SỰ ĐẦY ĐỦ THẦN LINH CỦA NGÀI.

– CUỘC SỐNG ĐÓ RẤT ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA.

– LINH HỒN SẼ LUÔN LUÔN VUI VẺ VÀ TÍN THÁC.

– CHÚA GIÊSU THỎA MÃN NHỮNG NHU CẦU CỦA NÓ VỀ ĐỀN TẠ.

Cuộc sống của linh hồn đồng nhất với Chúa Giêsu là một sự luôn luôn chạy lại với sự đầy đủ thần linh của Ngài.

– Chạy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đầy đủ của chúng ta là một điều ngọt ngào. Điều này đem ánh sáng huy hoàng của Chúa Giêsu vào cuộc đời tối tăm và buồn rầu của chúng ta. Tuy nhiên những linh hồn quảng đại và thân mật của Chúa Giêsu còn có một cách chạy đến khác nữa, đó là luôn luôn chạy đến với Chúa Giêsu đang ở trong linh hồn họ, và sự chạy đến này có những lợi điểm và những niềm vui riêng của nó. Không phải đi đâu xa, không phải đi ra khỏi bản thân mình, linh hồn thấy ngay trong đáy lòng mình tất cả mọi sự phong phú của Chúa cứu thế. Chạy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, tuy là việc có thể làm bất cứ lúc nào, nhưng tự nhiên chỉ xứng hợp vào những giờ phút hiếm hoi chúng ta ở trước nhà Tạm. Còn như chạy đến với Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, đang sống trong các chi thể của Ngài là tất cả chúng ta, thì có thể dễ dàng làm được ở mọi nơi và mọi lúc, nhất là trong những lúc chúng ta gặp khó khăn.

Thật ra đối với những linh hồn đã đạt tới mức thân mật với Chúa Giêsu, đã luôn luôn cố gắng trở nên đồng nhất với Ngài, biến đổi thành hình ảnh sống động của Ngài, thì tất cả cuộc sống sẽ là luôn luôn chạy đến với Chúa Giêsu, Đấng vô cùng đầy đủ cho họ trong mọi sự. Mỗi giờ phút trong ngày, cách minh nhiên hoặc tiệm nhiên, họ kết hiệp với những tâm tình thánh thiện của Chúa Giêsu. Họ hoà tiếng nói yếu ớt của họ vào những lời cảm tạ, ngợi khen và tôn thờ mà Chúa Giêsu hằng dâng lên Cha chí ái của Ngài. Cuộc sống của họ là một thánh thi của lòng mến yêu luôn được cùng với Chúa Giêsu ca lên, để tôn vinh Thiên Chúa Cha.

Họ luôn luôn sống trong tinh thần hiệp thông sâu xa với Đấng là tất cả của họ. Họ biết rằng đời sống của họ không còn là cuộc đời của họ nữa : nơi bản thân họ, một cuộc sống đồng nhất với Chúa Kitô đã thay thế cho cuộc sống thân mật với Ngài. Một hôm, Chúa Giêsu đã đề nghị sẽ sống hoàn toàn một mình ở trong họ. Ngài cho họ hiểu rằng nếu họ muốn yêu mến đến cùng, họ phải hiến dâng tất cả, không giữ lại chút nào. Khi đó họ đã hiểu cuộc đời riêng của họ đã chấm dứt, từ nay họ sẽ không có một sợ hãi nào, không có một ước ao, một niềm vui, một nỗi buồn nào của bản thân nữa, y như thể họ đã chết thật rồi. Trong một sự hiến dâng trọn vẹn, họ đã hiến thân cho Chúa, trọn vẹn là của Ngài, y như thể không còn con người của họ nữa. Họ đã vĩnh viễn từ bỏ quyền hưởng đời sống của mình, và nay lý tưởng của họ là trở thành không, để Chúa Giêsu trở thành mọi sự trong họ, để Ngài sử dụng cuộc đời của họ theo ý Ngài, để Ngài trở nên như linh hồn mới của họ, một linh hồn đã được thần linh hóa và luôn chỉ sống cho Chúa.

Ôi những linh hồn được Chúa Giêsu mời gọi sống kết hiệp như thế, thật diễm phúc dường nào ! Chắc chắn đó chưa phải là cuộc sống lý tưởng mà các linh hồn thánh thiện mơ ước, bởi vì cuộc sống đó vẫn còn pha trộn những niềm vui ty tiện nho nhỏ, những niềm vui riêng của bản thân, và những lo nghĩ tư kỷ có hại cho đời sống của Chúa Giêsu ở trong họ. Nhưng, trong những nét chính của nó, cuộc sống như thế của họ đã là cuộc sống của Chúa Giêsu, và họ có thể đến với Chúa Cha với hình ảnh Chúa Giêsu.

Tất cả cuộc sống của họ là sự tỏa sáng của con người Chúa Kitô, của lòng mến yêu vô biên của Chúa Giêsu đối với Cha Ngài. Chính Chúa Giêsu cố gắng trở nên khiêm nhường ở trong họ để tôn thờ Chúa Cha. Chính Chúa Giêsu tỏ bày sự dịu hiền, lòng thương xót và lòng nhiệt thành đối với các linh hồn qua sự sống hằng ngày của họ. Các nhân đức của họ, mặc dầu còn những bất toàn và những bóng tối, được Chúa Cha coi là những tâm tình của Chúa Giêsu để tỏ bày lòng mến yêu đối với Cha chí ái của Ngài.

Một cuộc sống như thế rất đẹp lòng Thiên Chúa.

– “Cuộc sống mới này của Chúa Giêsu” rất đẹp lòng Cha Ngài. Chúa Cha coi đó như một sự nới rộng cuộc sống của Con Một Ngài, Con chí ái của Ngài. Ngài âu yếm nhìn những cuộc sống tràn đầy sự hiện diện của Con Ngài. Ngài âu yếm ôm lấy những linh hồn sáng chói hình ảnh Con Ngài, và thơm ngát những nhân đức thần linh của Con Ngài. Thánh Phaolô đã nói một cách chí lý : “Chúng ta là hương thơm của Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa” (2 Cr 2,15). Chúa Cha vui sướng nhìn tạo vật bé nhỏ đầy những tâm tình của Chúa Giêsu Con chí ái của Ngài, y như một bánh thánh nhỏ chứa đầy Chúa Giêsu Con Một Ngài. Các thiên thần và các thánh cũng vui mừng nhìn ngắm sự biến đổi kỳ diệu này, một tạo vật bé nhỏ và Đấng tạo thành nó, cả hai đã gần như biến thành một !

Linh hồn sẽ luôn luôn vui mừng và tín thác.

–Những linh hồn đã đồng nhất với Chúa Giêsu, hoặc đang cố gắng để trở thành đồng nhất với Ngài, ý thức rằng mình được biến đổi và được thần linh hóa trong Chúa Giêsu. Nhất là có những lúc họ cảm thấy họ rất đẹp lòng Đức Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, mặc dầu họ vẫn còn vướng nhiều bất toàn. Đôi khi Thiên Chúa cho họ cảm thấy một cách khôn tả rằng họ được Ngài yêu thương và chính vì cuộc sống đồng nhất với Chúa Kitô đã làm cho họ được Thiên Chúa ban cho những hồng ân đặc biệt đó.

Như vậy trái tim họ nở rộng ra đến vô cùng và tâm hồn họ tràn ngập ánh sáng của niềm tín thác trìu mến, nay trở nên rất tự nhiên. Làm sao các linh hồn này không vui sướng và tín thác, khi họ đã như hoà nhập hoàn toàn với Chúa Giêsu, và họ đã hoà tan những sự thiếu thốn của họ với những nhân đức vô cùng toàn thiện của Chúa Giêsu ? Chúa Giêsu luôn nhắc lại với họ một cách yêu dấu : “Mọi sự của Cha là của con” (Lc 15,31). Vâng, họ đã trọn vẹn hiến thân cho Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu cũng đã trọn vẹn thuộc về họ. Giữa Chúa Giêsu và họ, không còn có sự phân chia nào nữa. Hỡi cô ăn xin rách rưới và cùng khổ, cô không còn khốn khó và nghèo hèn nữa, không đói khát và đau khổ nữa, vì cô đã trở thành hiền thê của Đức Vua trời đất, cô là nữ hoàng với các nhân đức và các kho tàng của Chúa trời đất !

Như thế có phải linh hồn không còn nhu cầu nào nữa chăng ? Ồ không phải thế đâu. Xưa kia là một kẻ ăn xin, linh hồn chỉ có những nhu cầu rất nhỏ mọn. Không cần gì nhiều lắm để thỏa mãn những ước vọng của nó, để thỏa mãn những khát vọng mến yêu và khát khao nhân đức của nó. Nay linh hồn đã mở rộng ra đến vô cùng, những nhu cầu của nó đã gia tăng rất nhiều. Là một nữ hoàng, linh hồn có những nhu cầu của một nữ hoàng. Những khát vọng và những nhu cầu xưa kia của nó, nay bị nó coi là nhỏ nhen và nực cười. Nay linh hồn có những nhu cầu lớn lao, và mỗi ngày mỗi lớn lao hơn, nhu cầu đón nhận thêm nhiều ân sủng, nhu cầu đền tạ, nhu cầu mến yêu Chúa và được Chúa thương yêu. Nhưng những nhu cầu lớn lao này sẽ luôn được thỏa mãn, nhờ sự hiệp thông vô cùng mật thiết với Chúa Giêsu là Đấng vô cùng đầy đủ của các linh hồn.

Chúa Giêsu luôn thỏa mãn mọi nhu cầu về cầu khẩn của linh hồn.

– Linh hồn cảm thấy những nhu cầu lớn lao về ân sủng, cho mình và cho những người khác. Xưa kia chân trời của nó rất nhỏ hẹp. Nó chỉ hiểu lơ mơ về sự thánh thiện và đời sống hiệp nhất với Chúa Giêsu. Nó ước ao trở nên khiêm nhường, hiền lành, quên mình, mến yêu Chúa. Nhưng nó chưa hiểu thế nào là khiêm nhường đích thực, là yêu mến tinh ròng. Nay linh hồn đã lớn lên nhiều, đã có những nhân đức mà nó đã mơ ước xưa, và nay nó có cái nhìn mới với những chân trời mới. Nó thoáng nhìn thấy những viễn ảnh của lòng mến yêu tinh ròng. Và nó khát khao tình yêu tinh ròng này, nó thấy mình chưa đạt được gì hết, vì lòng mến yêu tinh ròng này cao qúi như nó chưa hề nghĩ tới. Nó mơ ước sự trọn lành đó, lòng mến yêu đó, nó cảm thấy khát khao vô cùng, vì trái tim nó đã mở rộng đến vô cùng dưới sức ép của đức ái thần linh đang hoạt động trong nó. Ôi ! Có biết bao hồng ân nó cần phải cầu xin cho bản thân nó, biết bao ân sủng nó cảm thấy còn thiếu cho nó. Tuy nhiên những nhu cầu này không là gì hết so với những nhu cầu mênh mông hơn, và khẩn thiết hơn. Thật ra nó nghĩ đến bản thân nó ít, mà nghĩ nhiều đến các linh hồn… Biết bao linh hồn cần được cứu vớt ! Biết bao linh hồn nguội lạnh và trống rỗng một cách thảm hại ! Nó rất đau khổ khi thấy những linh hồn ở trong trạng thái đó. Nó muốn mang tình thương của Chúa đến cho họ. Nó muốn biến đổi những linh hồn đó, cũng như chính bản thân nó đã được biến đổi. Rồi biết bao tâm hồn cũng khát khao yêu mến Chúa như nó : nó muốn khẩn cầu Chúa vì những hy sinh và nhờ việc tông đồ của nó, ban cho các linh hồn kia cũng được vui thỏa uống suối ân sủng mà nó đang được uống.

Thầy chí thánh đã trao cho nó trách nhiệm về một số linh hồn, có thể là một con số khá lớn. Nhưng nó còn nhìn thấy muôn ngàn linh hồn rải rác khắp thế giới, họ đều là giá máu Chúa Kitô. Cùng một ân sủng của Chúa Giêsu lưu thông trong nó và trong tất cả các linh hồn đó. Cùng một sự sống thần linh làm cho nó và các linh hồn kia sống động. Nó đau khổ khi nhìn thấy những nỗi cơ cực của những linh hồn đó. Những sự khốn nạn về luân lý, những tội lỗi của họ làm nó đau khổ. Bệnh ung thư của những nết xấu của họ khiến nó rất khổ tâm. Nó ước nguyện dùng những lời cầu xin không ngừng và lòng nhiệt thành hy sinh, để xin Chúa Giêsu làm cho nó trở nên một trong những tế bào đầy sức sống thần linh, mau lẹ nhân lên nhiều, để chữa lành những chi thể bệnh tật của Chúa Kitô, và như thế đi đến chỗ lành mạnh hóa và cải tạo thế giới !

Linh hồn sống đồng nhất với Chúa Giêsu sẽ cảm thấy cần phải có những ân sủng lớn lao và rất nhiều để thỏa mãn những khát vọng thiết tha của nó. Những nhu cầu của nó thật là mênh mông ! Nhưng Chúa Giêsu sẽ không để cho linh hồn dấu yêu loanh quanh với những khát vọng nóng nảy đó của nó. Ngài luôn cầu nguyện ở trong nó và với nó. Ngài cầu xin Cha Ngài với nó. Ngài không chỉ cầu nguyện với nó như thế trong các giờ cầu nguyện chính thức, nhưng suốt ngày. Cuộc sống của linh hồn đồng nhất với Chúa Giêsu là một sự cầu khẩn không ngừng, một sự cầu khẩn được coi là tiếp nối việc cầu khẩn của Chúa Kitô xưa, khi còn sống trên mặt đất này. Những lời cầu xin của Ngài tại xứ Galilêa, tại xứ Giuđêa, cầu nguyện ban đêm trên những sườn đồi vắng vẻ, và nay Ngài cầu nguyện trong sự thinh lặng của linh hồn dấu yêu này, nơi Ngài được tự do hành động và cầu nguyện, tất cả vẫn chỉ là lời cầu xin của Con chí ái của Chúa Cha toàn năng.

Lẽ nào Chúa Cha không vui lòng ban cho linh hồn những hồng ân nó xin, vì tựu trung đó cũng chính là những lời xin của Chúa Giêsu. Khi linh hồn này ước ao điều gì, nó có thể tin chắc sẽ được Thiên Chúa nhận lời nó cầu xin, vì chính Chúa Giêsu đã nói : “Bất cứ điều gì anh em xin Cha Thầy nhân danh Thầy, Ngài sẽ ban cho anh em. Cho đến nay, anh em chưa xin gì hết nhân danh Thầy, anh em hãy xin thì sẽ được, để niềm vui của anh em được trọn vẹn” (Ga 16,23). Làm sao nó không tin tưởng vào lời cầu nguyện của nó, bởi vì chính Chúa Giêsu cầu xin ở trong nó và với nó, mà Chúa Giêsu là Con chí ái của Thiên Chúa, đẹp lòng Thiên Chúa mọi đàng. Thiên Chúa từ chối nó sẽ là từ chối lời cầu xin của chính Chúa Giêsu ? Tất nhiên, nó không bị Chúa Giêsu quở trách, như Ngài đã quở trách nhiều người. Không những nó chỉ luôn luôn cầu xin nhân danh, và cùng với Chúa Giêsu, mà cả cuộc sống của nó cũng là sống với và trong Chúa Giêsu[1].

Chúa Giêsu thỏa mãn những nhu cầu lớn lao về đền tạ của linh hồn.

– Những nhu cầu lớn lao khác của linh hồn là nhu cầu đền tạ. Chúa Giêsu muốn sử dụng linh hồn này để tiếp nối cuộc sống trần gian xưa của Ngài, mà cuộc sống đó trước hết đã chẳng là một cuộc đời đền tạ sao ? Từ sự khó nghèo và thiếu thốn của hang đá máng cỏ, cho đến sự trần truồng và cái chết cực kỳ đau đớn trên thập giá, tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu là một sự đau khổ liên miên. Vậy Ngài muốn tiếp tục cuộc sống đền tội và chuộc tội này trong những linh hồn đã thánh hiến cho Ngài. “Tôi hoàn tất trong thân xác tôi những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô” (2 Cr 1,24). Lời nói này của vị tông đồ vĩ đại đã được các linh hồn quảng đại và khẳng khái lặp lại ở mọi nơi và mọi thời, nhưng nhất là ở thời đại chúng ta, một thời đại của sự hưởng thụ điên khùng :

Vị sáng lập tu hội “Những bạn thân của người nghèo” đã kêu lên rằng : “Ôi cần phải có những tâm hồn biết cảm thương, và nhất là cần có những linh hồn quảng đại, sẵn sàng chứng tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu bằng việc đền tội”.

“Cần phải có những linh hồn như thế để thức tỉnh những tâm hồn đang say sưa và mơ màng trong cuộc sống chiều dưỡng xác thịt, chỉ lo đến tiện nghi và an nhàn bản thân. Cần phải có những linh hồn hiến thân làm hy lễ. Chúa Giêsu đang tìm kiếm những linh hồn như thế. Không thể chịu đau khổ nữa trong thân xác hiển vinh của Ngài, Trái Tim Ngài đau khổ vì thương các linh hồn bị hư đi, nên Ngài muốn có những linh hồn giúp Ngài xin Chúa Cha những ân sủng để mang ơn Phục Sinh đến cho những người đang nằm yên trong những ngôi mộ kinh hoàng…”

Chúng ta đang ở vào giờ phút quyết định. Những người lành thánh đã chịu đau khổ nhiều, những lời kêu van và những việc đền tội của họ đã gần xin được ơn thương xót. Nhưng để đạt được thành qủa tối hậu, để Chúa Giêsu Thánh Thể toàn thắng, cần phải có những vị tình nguyện tử đạo của tình mến yêu. Cán cân của lòng thương xót đang chờ có những người công chính anh hùng… Chúng ta hãy là những tấm bánh thánh đó, để Chúa Giêsu có thể hoàn tất cuộc khổ nạn của Ngài, hầu có thể cứu vớt thế giới đang hư đi trong tội lỗi…”

Đối với những linh hồn đồng nhất với Chúa Giêsu, khát vọng hiến thân chịu đau khổ làm hy lễ là một khát vọng tha thiết, không nguôi. Chị Xavérine de Maistre muốn được trở nên một thứ chất xốp để hút lấy các sự gian ác của thế giới để mang lên cho Chúa Giêsu, xin Ngài thiêu hủy. Đau khổ dưới mọi hình thức, những đau khổ không mấy ai để ý của cuộc sống hằng ngày, cũng như những đau khổ đặc biệt đau đớn, đã trở nên nhu cầu của những linh hồn tận hiến đó, như khí trời cần cho con người. Chị Consumata thường nói : “Đau khổ sẽ là điều thiếu duy nhất cho tôi ở trên trời”.

Có biết bao nhiêu sự bất trung, biết bao nhiêu sự gian ác, biết bao nhiêu tội lỗi cần phải được đền tạ! Chỉ nhìn vào bản thân mình, linh hồn đã thấy cần phải chịu đau khổ để tẩy rửa biết bao lầm lỗi và bất trung ! Còn nói gì khi nó đưa mắt nhìn tất cả thế giới đang chìm đắm trong tội ác và hận thù. Đôi mắt của nó luôn nhìn thấy sự công chính của Thiên Chúa sẵn sàng nổi cơn thịnh nộ và giáng những hình phạt ghê sợ xuống trên những con người cố chấp chống lại ân sủng của Ngài. Ôi, có biết bao điều cần được tẩy xóa, cần phải đền tạ. Mà linh hồn tận hiến tự cảm thấy mình chỉ là bụi cát bé mọn, làm sao nó có thể thực hiện công việc vô cùng lớn lao này ?

Trong lúc túng cực đó, linh hồn đã không quên Chúa Giêsu ở trong nó, đang cùng chịu đau khổ và đền tạ với nó. Đúng thế, những đau khổ của nó chẳng là gì hết, và không đủ để tẩy xóa và đền tạ ngay những sai phạm của bản thân nó. Nhưng nay nó biết rằng những đau khổ của nó cũng là những đau khổ của Chúa Giêsu ở trong nó và đồng nhất với nó. Chính Chúa Giêsu, Con Chiên vẹn sạch của Thiên Chúa đang hoàn tất cuộc khổ nạn của Ngài bằng những đau khổ của nó. Đó là niềm an ủi lớn lao của nó. Đó là điều đã biến đổi những đau khổ của nó, khiến nó ham chịu đau khổ, vui nhận tất cả những gì có thể đóng đinh nó vào thập giá của Chúa Giêsu, giúp nó hiệp thông với công việc đền tạ của Ngài. Nó ý thức rằng những hy sinh và những đau khổ của nó đã tan biến trong lễ hy sinh đền tạ của Chúa Giêsu, những hy sinh và những đau khổ để đền tạ của nó đã tan hòa trong lễ đền tạ vô cùng lớn lao của Chúa Giêsu, khởi đầu từ hang đá Bethleêm và sẽ chỉ chấm dứt vào ngày tận thế.

Chúa Giêsu nói với chị Thérèse Durnerin rằng: “Cha công bằng, cho nên khi một linh hồn đã hoàn thành nhiệm vụ của nó, Cha lấy phần dư của việc đền tội của nó và góp vào phần của Cha. Cha gom vào số công nghiệp lớn lao của Cha : sự gom góp các việc đền tạ của những linh hồn tốt lành và của Cha như thế sẽ làm thành một kho tàng vô cùng qúi báu. Đó là lý do tại sao nhiều linh hồn đã lãnh nhận những việc đền tội thái qúa, khiến đời sống của họ giống như những cuộc tử đạo không ngừng. Nhận thấy những nhu cầu cứu độ, Cha đã thúc giục những linh hồn tận hiến hãy gia tăng chịu đau khổ”.

II.  LINH HỒN ĐỒNG NHẤT VỚI CHÚA KITÔ CÓ KHÁT VỌNG MẾN YÊU VÔ CÙNG, VÀ ĐƯỢC CHÚA GIÊSU THỎA MÃN HOÀN TOÀN.

–   LINH HỒN LUÔN DÂNG CHÚA GIÊSU CHO THIÊN CHÚA.

–   LỜI KHUYÊN : HÃY SỐNG HOÀN TOÀN TÍN THÁC.

Linh hồn sống đồng nhất với Chúa Kitô có khát vọng mến yêu vô cùng, và được Chúa Giêsu thỏa mãn hoàn toàn.

– Khát vọng căn bản nhất, chủ yếu nhất của linh hồn sống đồng nhất với Chúa Kitô, khát vọng phát sinh ra các khát vọng khác, là khát vọng mến yêu. – Nếu một linh hồn sống thân mật với Chúa Kitô đã khát khao yêu mến Ngài đến độ niềm khát khao này đã trở nên một nỗi đau khổ, thì chúng ta sẽ nói gì về sự khát khao mến yêu của những linh hồn đã trở thành đồng nhất với Ngài ?

Để thiêu đốt linh hồn bằng lửa của đức ái thần linh của Ngài, và để gia tăng những khát vọng của linh hồn, đôi khi Chúa Giêsu chiếu dọi vào linh hồn những luồng ánh sáng thần linh của Ngài. Và đôi khi, trong các giờ chiêm niệm của linh hồn đó, Chúa Giêsu hé mở cho nó thấy những vẻ vô cùng đáng mến của Chúa Cha chí thánh. Với ơn hiểu biết và ơn khôn ngoan, Ngài làm cho nó trở nên như Ngài, để nó say mê và xuất thần vì được chiêm ngưỡng vẻ đẹp và tình thương vô cùng của Thiên Chúa. Nhờ đó mỗi ngày nó mỗi hiểu biết thêm về sự Thiên Chúa đáng mến yêu. Và nó càng hiểu biết thêm như thế, nó càng thấy Ngài đáng yêu mến vô cùng, hơn cái mức mà nó mến yêu Ngài hiện nay vô cùng.

Và sự hiểu biết này khiến nó khát khao yêu mến Thiên Chúa một cách không nguôi ; sự khát khao yêu mến này làm nó đau khổ và hao mòn. Bởi vì nó biết rằng, dầu nó làm gì đi nữa, không bao giờ nó có thể yêu mến Chúa cho xứng. Nó không bao giờ yêu mến Chúa cho xứng về phần nó, và muôn ngàn lần không xứng về phần những linh hồn nguội lạnh và bội bạc, khi nó nghĩ đến bổn phận phải yêu mến Chúa thay cho các linh hồn đó.

Tuy nhiên những khát vọng đó vẫn chưa là gì hết, khi so với khát vọng lớn lao nhất và tha thiết nhất của nó. Đúng, nó thấy phải yêu mến Thiên Chúa nhân danh nó và nhân danh những linh hồn khác, nhưng nhất là nay nó biết nó phải yêu mến Chúa Cha thay cho Chúa Giêsu, và nhân danh Chúa Giêsu, Con chí ái của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã muốn sống trong nó, đồng hóa nó với Ngài và Ngài với nó, để tiếp tục mến yêu Cha Ngài ở trong nó và với nó. Ngài luôn luôn nói với nó : “Con hãy để Cha được tự do mến yêu Chúa Cha ở trong con và với con”. Như vậy cuộc sống của nó phải tràn đầy tình yêu mến. Nó biết Chúa Giêsu muốn dùng miệng nó để thưa với Chúa Cha muôn ngàn lần rằng : “Cha ơi, con yêu mến Cha vô cùng”. Nó biết Chúa Giêsu muốn dùng trái tim nó để yêu mến và tự hiến thân cho Chúa Cha. Vậy làm sao nó có thể thỏa mãn sự nóng nảy khát khao yêu mến đó của Chúa Giêsu ?

Bây giờ nó mới hiểu tại sao trái tim nó bị thiêu đốt bởi một niềm khát khao yêu mến lớn lao như thế. Đó chính là lòng mến yêu của Chúa Giêsu đối với Cha Ngài, chính lửa mến yêu đó nung nấu trái tim nó. Đúng như thánh tông đồ đã nói : “Đức ái của Chúa Kitô thôi thúc chúng ta” (2 Cr 5,14). Chính lòng mến yêu của Chúa Giêsu đối với Cha Ngài đang thiêu đốt trái tim của linh hồn tận hiến. Chính lòng mến yêu đó khơi dậy trong nó những khát khao chịu đau khổ và hiến tế đền tạ. Chúa Giêsu yêu mến ở trong nó, và bởi vì nó đã hiến dâng trái tim của nó cho Ngài, Ngài đã yêu mến Cha Ngài bằng trái tim của nó, nay cũng là trái tim của Ngài. Cho nên ai có thể đoán trước được những tỏ bày lạ lùng của lòng yêu mến đó của Ngài? Vì Ngài được tự do sử dụng trái tim của nó để yêu mến Cha Ngài, ai có thể nói Ngài sẽ ngưng ở mức nào những tỏ bày vô cùng nồng nàn của Ngài đối với Cha Ngài ?

Linh hồn sẽ làm gì trong sự bất lực hoàn toàn của mình ? Nó sẽ lấy gì để đáp lại tình thương vô cùng của Thiên Chúa ? Ôi, nó tự cảm thấy mình thiếu thốn qúa ! Nhưng nó biết làm thế nào để thỏa mãn những khát vọng và những sự thiếu thốn của nó. Nó biết tìm ở đâu một lòng mến yêu lớn lao để đáp lại tình thương bao la của Chúa. Nó biết Chúa Giêsu đang sống ở trong nó, và Ngài muốn dùng nó để yêu mến Cha Ngài. Nó biết và đôi khi nó cảm thấy những tâm tình yêu mến của nó có thể là những rung động của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đôi khi nó tự cảm thấy mình chỉ là một đốm lửa bé nhỏ của lò lửa yêu mến lớn lao. Đúng là nó cháy yếu lắm. Lửa yêu mến thần linh của Thánh Tâm Chúa vất vả lắm mới làm cho cục đá nhỏ này nóng rực lên trong lò kia. Nhưng nó kể như biến mất trong lò than lửa lớn lao của Thánh Tâm. Ai còn có thể phân biệt nó với Chúa Giêsu, Đấng đã đồng hóa nó với Ngài ? Ai còn thấy cục đá đã trở thành cục than hồng trong lò than lửa ? Chắc không phải Cha trên trời, cũng không phải là thần thánh trên trời. Được đồng hóa với Chúa Giêsu như thế, và luôn sống kết hiệp với Ngài, nhiều lúc nó không còn cảm thấy sự bất lực của nó nữa. Khả năng yêu mến Chúa của nó đã được nhân lên gần như vô cùng, nhờ tình mến yêu của chính Chúa Giêsu. Nay lòng mến yêu của nó chính là lòng yêu mến của Chúa Giêsu, Thầy chí thánh của nó.

Nó không ngừng dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha.

– Yêu thương thì ban tặng. Ban tặng là một nhu cầu chủ yếu của yêu thương. Vậy linh hồn sẽ tặng gì cho Thiên Chúa để đáp lại tình thương của Ngài, và cho thỏa lòng nó ? Nó biết nó sẽ làm gì. Nó vô cùng nghèo khó, nhưng cũng vô cùng giầu có trong Chúa Giêsu Kitô. Qùa tặng nó dâng lên Thiên Chúa, chính là Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã ban cho nó nhiều, rất nhiều, nhưng tạo vật bé nhỏ của Ngài sẽ tặng lại Ngài nhiều hơn : nó tặng lại Ngài Chúa Giêsu, tất cả Chúa Giêsu, và nó chắc sẽ thắng trong sự thi đua quảng đại này.

Vâng, tất cả đời sống của nó sẽ là luôn luôn dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha toàn năng và khả ái. Đối với nó, sống là để dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha. Mỗi tư tưởng của nó, mỗi ước muốn của nó, mỗi hành vi của nó, đều là những hành vi dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha chí thánh.

Khi nó cầu nguyện, và nó cầu nguyện liên, nó dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha. Những việc tôn thờ sâu thẳm của nó, những lời tán tụng ngợi khen, những tâm tình đội ơn và đền tạ đầy mến yêu, tất cả đều là để Chúa Giêsu dùng nó mà thờ lạy và yêu mến Cha Ngài. Giữa nó và Thiên Chúa Cha luôn có một sự qua lại vô cùng mến thương : tình thương thần linh đổ xuống trên nó, và lòng mến yêu lại từ nó dâng lên Thiên Chúa trong Chúa Giêsu và với Chúa Giêsu.

Như vậy, linh hồn đồng nhất với Chúa Giêsu sẽ ý thức sâu xa về sứ mạng và hạnh phúc của mình: có những ngày nó cảm thấy những khoái trá mênh mông của bình an và vui mừng của thiên đàng. Vâng nó có những khát vọng lớn lao về yêu mến, và như vậy nó chỉ vui mừng khi yêu mến và ban tặng. Nhưng chính khi mến yêu và tặng Chúa Giêsu cho Cha trên trời như thế, nó cảm thấy niềm vui nó vẫn ước mơ ! Nó kính tặng nhiều vô kể ! Nó dâng tiến nhiều vô cùng ! Tất cả cuộc đời nó diễn ra trong niềm hân hoan khôn tả, mặc dầu ít khi cảm thấy, bởi vì nó luôn dâng hiến Chúa Giêsu cho Chúa Cha chí ái là Thiên Chúa vô cùng đáng mến yêu.

Một linh hồn đã sống cách tuyệt hảo cuộc sống đồng nhất với Chúa Giêsu, mà người ta chỉ biết dưới bí danh “Consumata” (Nghĩa là Bị tiêu hủy), đã có lần phát biểu như sau về niềm vui rất thiêng liêng của mình : “Thưa Mẹ, làm thế nào để nói cho Mẹ hiểu về hạnh phúc của con ? Thiên Chúa vẫn ẩn náu, tất cả các thần thánh trên trời có vẻ như đang ngủ cả, cũng không thấy dấu hiệu nào về Đức Mẹ Maria, nhưng con có Thiên Chúa cách trọn vẹn, con ý thức rằng mình không ngừng dâng Ngài lên cho Ngài và tôn vinh Ngài vô cùng. Con ý thức rõ ràng về sự kết hiệp với Ngài. Con có cảm tưởng như mình có một báu vật gói kín, đem tặng tất cả cho người mình yêu, còn mình thì không hưởng gì hết. Hạnh phúc của mình khi dâng hiến tất cả như thế, không giữ gì lại cho mình, đã là hạnh phúc lớn lao, vượt xa niềm vui người ta có được khi hưởng báu vật đó. Hạnh phúc của con hiện nay, và điều con coi là tuyệt diệu, đó là con có thể yêu mến Thiên Chúa bằng một lòng mến yêu xứng với Ngài, vì đó là một lòng yêu mến vô cùng. Con thấy như nói một điều điên rồ, nhưng đó là sự thật, bởi vì Chúa và con là một, nên con có thể yêu mến Ngài bằng chính tình yêu của Ngài, và khi con hiến thân con thì cũng là dâng hiến chính bản thân Ngài. Đứng trước những mầu nhiệm của tình mến yêu và hiệp nhất như thế, đứng trước những sự cao cả mà Ngài làm nơi tạo vật bé nhỏ này, vì vinh quang của Ngài, con chỉ biết đắm mình trong sự khốn nạn của con và để cho niềm tri ân tràn ngập tâm hồn con”[2].

Lời khuyến dụ hãy sống tín thác trọn vẹn.

– Hỡi những linh hồn diễm phúc đã nghe tiếng Chúa kêu gọi sống cuộc đời đồng nhất với Ngài, các bạn hãy dấn thân vào sứ mạng cao cả này, hãy sống cuộc sống thần linh tốt lành này. Giữa những biến động của cuộc lưu đày này, các bạn đã tìm thấy sự bình an trong sáng và vững vàng của những hiền thê Chúa Giêsu. Các bạn hãy tập bỏ mình đi nhiều hơn nữa, để Chúa Giêsu đổ đầy sức sống của Ngài vào linh hồn các bạn, làm cho các bạn thấm nhuần mọi tâm tình và ý muốn của Ngài. Các bạn muốn dâng Chúa Giêsu lên Chúa Cha, các bạn muốn không ngừng dâng Ngài lên Cha chí ái của Ngài. Chính Chúa Giêsu sẽ đổ đầy linh hồn các bạn bằng thần lực của Ngài, để các bạn có thể dâng hiến Ngài lên, khi các bạn hiến dâng bản thân mình. Các bạn hãy an tâm, Chúa Giêsu sẽ vui sướng làm công việc đó của Ngài.

Nhất là các bạn hãy sống với tâm tình tín thác trọn vẹn, vì đó là tâm tình tự nhiên của các bạn. Các bạn luôn luôn tặng Chúa Giêsu cho Chúa Cha, cho nên bây giờ chắc chắn Chúa Cha yêu thương các bạn rất nhiều. Và Chúa Giêsu thì hạnh phúc và vui sướng lắm, vì các bạn đã giúp Ngài thỏa mãn ước nguyện thiết tha của Ngài, là nhờ các bạn mà yêu mến Cha chí ái của Ngài.

Vâng, các bạn hãy tín thác, hãy sống tín thác trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Nhất là vào những giờ phút các bạn cảm nghiệm thấy sự hiện diện của Ngài trong linh hồn các bạn, những lúc các bạn cảm thấy sự sống của Ngài lưu thông mạnh mẽ trong các bạn, các bạn cảm thấy không phải bản thân mình sống nữa, nhưng là Chúa Giêsu đang sống trong các bạn : vào những giờ phút đó, các bạn hãy sống rất đầy đủ niềm tín thác nơi Chúa Giêsu. Nhưng các bạn cũng hãy vững tâm, hãy củng cố niềm tín thác vào những giờ phút Chúa ẩn mình đi nơi đáy linh hồn các bạn, vào những giờ phút tối tăm và lo âu, khi các bạn tưởng như mình đã mất ơn nghĩa với Chúa Giêsu, đã đánh mất Ngài ! Các bạn hãy nhớ rằng và hãy tin rằng không bao giờ Ngài bỏ rơi các bạn. Hãy tin tưởng tuyệt đối nơi Thánh Tâm đầy lòng thương xót của Ngài, hãy tin rằng không bao giờ để các bạn sa ngã vào những lỗi phạm cố tình, dầu là những lỗi phạm nhỏ mọn nhất. Hãy tin rằng giữa muôn ngàn nỗi khó khăn, giữa muôn ngàn cơn cám dỗ nặng nề, Ngài sẽ ở bên các bạn, ở trong các bạn, và giữ gìn các bạn qua khỏi một cách an toàn. Chỉ cần các bạn hãy hứa với Chúa Giêsu, Đấng rất đầy đủ của các bạn, rằng không bao giờ các bạn quên chạy đến với Ngài, đổ tất cả mọi sự yếu đuối và bất trung của các bạn vào lò lửa Thánh Tâm Ngài, để mọi sự được tiêu hủy trong tình thương, cả những khi Chúa Giêsu ẩn mặt đi và các bạn có cảm tưởng như đã đánh mất Ngài.

Còn các bạn, những linh hồn từ lâu đã sống thân mật với Chúa Giêsu, nhưng chưa biết đến đời sống đồng nhất với Ngài, các bạn có ước ao sống cuộc đời đầy ánh sáng, vui tươi và hạnh phúc như các linh hồn đó không ? Chúa Giêsu đang mời gọi các bạn đó. Chắc đã nhiều lần các bạn tự hỏi mình có thể làm gì hơn nữa cho Ngài. Vậy thì bây giờ bạn hãy tận hiến cho Ngài đi ! Hãy từ bỏ mọi vui buồn, mọi đau khổ, mọi ước ao, mọi sợ hãi của riêng mình. Hãy từ bỏ mọi hạnh phúc thầm kín được sống cho mình, để từ nay Chúa Giêsu có thể tự do sống trong bạn. Hãy mở rộng cửa tâm hồn bạn cho Ngài. Hãy trao cho Ngài chìa khóa của ý muốn bạn. Hãy tận hiến con người của bạn cho Ngài, để Ngài hoàn toàn sử dụng bạn theo ý Ngài. Để Ngài yêu mến Cha Ngài nhờ bạn và với bạn, để Ngài tiếp tục nơi bạn cuộc sống trần gian xưa của Ngài.

Bạn đừng sợ gì hết ! Cuộc sống như thế rất cao siêu và thánh thiện, còn bạn lại thấy mình vẫn yếu đuối và nhu nhược, như kinh nghiệm bản thân cho bạn thấy rõ. Nhưng Chúa Giêsu sẽ làm tất cả. Bạn hãy thưa Chúa Giêsu : “Lạy Chúa Cứu Chuộc con mến yêu, con yếu đuối lắm, con không thể làm gì hết, nhưng xin Chúa ban sức cho con có thể thi hành những gì Chúa muốn con làm. “Hãy cho con đủ sức làm điều Chúa truyền dạy, và Chúa hãy truyền dạy những gì Ngài muốn”[3]. Bạn đừng sợ đau khổ, không bao giờ Chúa để bạn chịu qúa sức chịu đựng của mình đâu. Nhưng nhất là Ngài sẽ ban cho bạn yêu mến Ngài nhiều, rất nhiều đến nỗi bạn sẽ ước ao được chịu đau khổ nhiều hơn nữa, để đền đáp sự ngọt ngào của tình thương Ngài dành cho bạn.

Paul De Jaegher S.J. 

[1] Xem La Vie d’indentification au Christ-Jésus, tr.49

[2] R.Plus. S.J. Vie de Marie-Antoinette de Geaser 1928, tr.236

[3] St. Augustin, Confess, liv.X, ch.29, 31, 37

Niềm Tín Thác – Chương X: CHÚA GIÊSU, ĐẤNG ĐẦY ĐỦ CHO TA TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ

I.  CHÚNG TA RẤT CẦN ĐẾN SỰ ĐẦY ĐỦ CỦA CHÚA GIÊSU. CHÚA GIÊSU RẤT CẦN THIẾT VÀ HOÀN TOÀN ĐẦY ĐỦ CHO VIỆC TÔN THỜ.

– CHO VIỆC ĐỀN TẠ.

– CHO VIỆC TẠ ƠN.

– CHO VIỆC YÊU MẾN.

Chúa Giêsu rất cần thiết và hoàn toàn đầy đủ cho việc tôn thờ.

– Những suy niệm trên đây đã mang lại cho chúng ta những bài học qúi giá về niềm tín thác nơi Chúa Giêsu. Trong cuộc sống công khai của Ngài trên Núi Sọ, trên bàn thờ hoặc trong tâm hồn ta, Chúa Giêsu luôn an ủi ta và kêu gọi ta hãy trọn vẹn tín thác nơi Ngài.

Tuy nhiên, để được hạnh phúc một cách trong sáng, không những chúng ta phải trọn vẹn tín thác nơi Chúa Giêsu, Đấng cứu độ ta, mà còn phải tín thác nơi Thiên Chúa, Đấng tạo thành và Đức Chúa của ta nữa. Thoạt tiên tưởng như sự tôn kính và kính sợ phải là những tâm tình tự nhiên và thường xuyên của tâm hồn ta khi tiếp xúc với Thiên Chúa tối cao. Ấy là nếu chúng ta chỉ là cát bụi và hư vô. Nhưng buồn thay ! Chúng ta còn là những kẻ tội lỗi. Và khi chúng ta tiến ra trước mặt Thiên Chúa, ý nghĩ đầu tiên của chúng ta là nhớ đến tội lỗi mình…. Cho nên lời nói đầu tiên phát ra từ miệng chúng ta là lời thú tội. Vậy điều gì sẽ giúp chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa ? Nguyên việc Ngài nhìn thấy sự bần cùng xấu xa của ta cũng khiến Ngài ngoảnh mặt đi, thì làm sao chúng ta có thể van xin Ngài ban ơn cho chúng ta ?

Đây chính là lúc Chúa Giêsu, Đấng trung gian của chúng ta, Đấng đền tạ và đầy đủ cho chúng ta sẽ can thiệp để khích lệ tâm hồn ta và mang lại cho ta niềm tín thác trong sáng. Chúng ta biết rất rõ những tâm tình yêu thương và cảm thương của Ngài đối với chúng ta : Ngài sẽ là trạng sư rất trung thành của chúng ta trước mặt Cha Ngài. Ngài là chiếc cầu duy nhất và hoàn toàn vững chắc bắc giữa ta và Cha Ngài. Ngài là Đấng trung gian toàn năng và là vị Đền tạ toàn hảo. Ngài là Đấng đầy đủ cho mọi nhu cầu của chúng ta, miễn là chúng ta biết chạy lại với Ngài. Ngài là Alpha và Omêga. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, Ngài là mặt trời sáng chói của sự thánh thiện và tình thương, và Ngài là trung tâm điểm của mọi diễn tiến lịch sử của thế giới. Không có Ngài, mọi sự sẽ chỉ là tối tăm và hoang tàn. Đúng như thánh tông đồ đã nói : “Thiên Chúa đã không ban cho ta một thánh danh nào khác ngoài thánh danh Giêsu để được ơn cứu độ”.

Vậy chúng ta hãy tìm hiểu rõ hơn vai trò của Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc chúng ta, trong việc củng cố niềm tín thác của chúng ta nơi Thiên Chúa bằng cách siêng năng chạy lại với Ngài, như là Đấng rất đầy đủ cho ta.

Trước hết chúng ta hãy xét đến vai trò của Chúa Giêsu, Đấng rất đầy đủ của chúng ta trong bí tích Thánh Thể.

Có lẽ chúng ta đã quên lãng vai trò này của Chúa Giêsu Thánh Thể. Chúng ta thường đến với Chúa Giêsu Thánh Thể như đến với một người cha, một người bạn thân, một thầy thuốc, nhưng ít khi ta nghĩ đến Ngài là một vị Đền tạ cho ta và một Đấng rất đầy đủ cho ta.

Trước hết Chúa Giêsu Thánh Thể là Đấng rất cần thiết và rất đầy đủ cho ta trong việc tôn thờ Thiên Chúa. Tôn thờ là bổn phận đầu tiên của chúng ta, xét như chúng ta là những vật thọ tạo của Thiên Chúa. Nhưng phải chăng đó là bổn phận chúng ta chu toàn một cách ít đầy đủ nhất ? Chúng ta là loài rất hèn mọn, rất bé nhỏ, vậy mà chúng ta không biết hạ mình xuống cho phải phép trước mặt Đấng Tối Cao ! Chúng ta là hư vô, vậy mà chúng ta lại rất ít hiểu sự vô cùng của Thiên Chúa ! Chúng ta hiểu qúa ít về sự xa cách vô cùng và đáng kinh sợ giữa quyền uy vô cùng của Thiên Chúa và sự bé mọn rất mực của chúng ta, cho nên chúng ta chưa biết cách hạ mình xuống trước mặt Thiên Chúa. Mà nếu không có lòng khiêm nhường đích thực, làm sao sự tôn thờ của chúng ta đáng được Thiên Chúa chấp nhận ?

Chúng ta sẽ làm gì trong sự bất lực của mình? Ngã lòng chăng ? Không, chúng ta không ngã lòng, những hãy chạy đến với Chúa Giêsu với tâm tình rất khiêm nhường, nhận biết sự bất lực của mình, và cậy nhờ vào Chúa Giêsu, Đấng tôn thờ Thiên Chúa cách rất xứng đáng và hoàn hảo. Chúa Giêsu Thánh Thể, là con người và là Thiên Chúa, Ngài biết rõ quãng cách vô cùng giữa Thiên Chúa và con người. Là Thiên Chúa làm người, Ngài vừa vô cùng cao trọng vừa vô cùng bé nhỏ, Ngài nhìn thấu cái vực thẳm bao la phân cách sự cao cả của Thiên Chúa và bản chất hư vô của con người. Bởi vậy tôn thờ là một việc rất tự nhiên đối với Ngài.  Sự tôn thờ luôn phát ra từ tâm hồn Ngài như phát ra từ một nguồn mạch không bao giờ cạn. Ngài và chỉ mình Ngài có thể tôn thờ Thiên Chúa đến muôn đời, với một sự khiêm nhường sâu xa, để tôn thờ Thiên Chúa toàn năng đã tạo thành trời đất.

Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã là một hành vi tôn thờ tuyệt hảo dâng lên Cha Ngài. Từ khi nhập thể cho đến lúc hy sinh trên thập giá, chỉ mình Ngài là Người tôn thờ Thiên Chúa cách toàn hảo và xứng đáng, và Ngài đã luôn luôn thờ lạy Cha Ngài. Thiên Chúa Cha đáng tôn thờ vô cùng đã được Con Ngài thờ lạy cách vô cùng xứng đáng. Và việc tôn thờ này, Chúa Giêsu đã không ngừng tiếp tục ở trên trời và trên các bàn thờ. Vào mỗi Thánh Lễ, Ngài lại tự hiến tế một cách mầu nhiệm, lặp lại sự hy sinh và tôn thờ trên Núi Sọ xưa, để dâng lên Chúa Cha của lễ tôn thờ của Ngài và của nhân loại. Đúng như lời vị linh mục đọc sau khi truyền phép : “Nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, xin Cha toàn năng hãy cùng với Chúa Thánh Thần nhận lấy mọi vinh quang và vinh dự !”. Rồi tự hủy mình đi và tự giam tù trong tấm bánh nhỏ nơi các nhà tạm, Chúa Giêsu Thánh Thể là một sự tôn thờ vô cùng thánh thiện và vô cùng đẹp lòng Chúa Cha.

Sự tôn thờ rất hoàn hảo, rất xứng đáng của Chúa Giêsu là vực thẳm vô cùng thánh thiện để chúng ta gửi vào đó những của lễ tôn thờ hèn hạ và bất xứng của chúng ta. Đó là điều an ủi ta vì những thiếu thốn và bất xứng của ta. Đó là cơ sở cho niềm tin tưởng và tín thác của ta. Khi chúng ta cảm thấy mình đã lỗi phạm vì thiếu khiêm nhường, rất cần thiết cho loài thọ tạo và rất chủ yếu cho của lễ tôn thờ của chúng ta, khi sự lo sợ xâm chiếm tâm hồn chúng ta, chúng ta hãy đến qùi trước nhà Tạm, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha đức khiêm nhường vô cùng sâu thẳm của Chúa Giêsu Thánh Thể đã hạ mình xuống mặc lấy ngoại hình một tấm bánh nhỏ mọn, để đền tạ tất cả những lỗi phạm do tính kiêu ngạo và tính tự phụ dại dột của chúng ta. Của lễ tốt lành này, kèm theo một hành vi khiêm nhường và hối lỗi của chúng ta sẽ đền tạ mọi tội lỗi của chúng ta, nhất là những lỗi phạm của tính kiêu căng tự phụ và sẽ làm cho Cha trên trời lại đoái thương đến chúng ta.

Chúa Giêsu rất đầy đủ cho ta trong việc đền tạ.

– Chúa Giêsu Thánh Thể còn là Đấng rất đầy đủ để giúp ta đền tạ, và đó là kho tàng qúi giá cho ta, vì chúng ta luôn luôn và rất cần phải đền tạ Chúa vì những lỗi phạm của chúng ta. Chúng ta đã lỗi phạm rất nhiều, đã phạm tội rất nhiều trong đời sống của mình. Đường đời của chúng ta đầy những tội lỗi, ấy là chưa kể những lỗi phạm mà mình không ý thức, như lời Thánh Vịnh đã kêu xin Chúa : “Xin Chúa tẩy rửa con khỏi những lỗi phạm mà con không hay biết” (Tv 18,13). Những lỗi lầm của chúng ta nhiều hơn tóc trên đầu chúng ta, và mỗi ngày con số những lỗi phạm vẫn tăng thêm. Ôi nếu chúng ta không có Chúa Giêsu để tha thứ và đền tạ các tội lỗi của ta, thì chúng ta sẽ khốn nạn dường nào !

Phúc cho chúng ta vì Chúa Giêsu đã hy sinh chuộc tội và đền tội chúng ta. Chỉ một giọt máu thánh của Ngài cũng đủ tẩy rửa hết mọi tội của thế giới. Và máu thánh Chúa hằng tuôn chảy qua các phép bí tích để thanh tẩy chúng ta. Máu thánh này chảy trong bí tích Thánh Tẩy và trong bí tích Giải Tội. Máu thánh này cũng tuôn chảy trong bí tích bàn thờ, nơi đây Chúa Cứu Thế lặp lại cách mầu nhiệm cuộc hiến tế mà Ngài đã hoàn tất xưa trên Núi Sọ. Trong mỗi Thánh Lễ, Chúa Giêsu lại giang hai tay ra trên thập giá để cứu chuộc chúng ta : Ngài lại chịu chết cách mầu nhiệm để đền tội lỗi chúng ta: Ngài đưa cho Cha Ngài thấy chân tay Ngài bị đóng đinh để xin ơn tha thứ cho chúng ta và cả thế giới.

Trong khi bị thử thách và trong những lúc nản lòng, sự nghi nan có thể quấy phá chúng ta. Nếu chúng ta có cảm tưởng Thiên Chúa không vui với chúng ta, Ngài vẫn nghĩ đến những lỗi lầm trước kia của chúng ta, và hình như có một sự lạnh lùng giữa Thiên Chúa và chúng ta. Những khi đó, chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, xin Ngài lập lại sự tin tưởng và tín thác cho tâm hồn chúng ta.

Chắc chắn chúng ta phải trách mình về trăm ngàn lần đã bất trung với Chúa. Nếu bị hướng dẫn sai bởi một niềm tín thác giả dối, chúng ta tìm cách chữa lỗi mình; nếu giống như những người Biệt phái, chúng ta tìm những lý do chống chữa những lỗi phạm của mình, hoặc để tự nhủ rằng mình không có lỗi gì hết, thì chúng ta sai lầm lắm. “Trăm điều, ta sẽ không thưa lại được một điều đâu” (Gióp 9,3). Trong một ngàn điều Chúa trách ta, ta không thể tìm ra một lời chữa mình đích đáng. Và đó không phải là cách hành xử của ta. Đó không phải là cách mang lại bình an và hạnh phúc cho ta. Điều chúng ta phải làm là thú nhận sự bất trung và bất xứng của mình, và đặt tất cả niềm tin tưởng tín thác nơi Chúa Giêsu Thánh Thể, của lễ đền tội vô cùng trong trắng của chúng ta. Hãy đổ tất cả mọi tội lỗi chúng ta, những tội chúng ta nhận ra và những tội không nhận ra, trong máu châu báu của Con Chiên vẹn sạch đã tự hiến tế cho tất cả chúng ta.

Chúa Giêsu Thánh Thể rất đầy đủ cho việc tạ ơn.

– Một bổn phận khác, rất khẩn cấp và chúng ta cũng tỏ ra hoàn toàn bất lực, là bổn phận cảm tạ Thiên Chúa vì muôn vàn hồng ân Ngài ban cho chúng ta.

Một linh hồn đạo đức, một hôm đã kêu lên : “Ôi nếu Chúa chỉ ban cho tôi một vật gì rất nhỏ mọn, tôi cũng sẽ rất trân trọng và yêu mến nhận lấy với niềm tri ân sâu xa, vì Chúa là Đấng cao trọng vô cùng, đã đoái thương đến tôi là vật hèn mọn và bất xứng. Cho nên tôi rất buồn khi nghĩ đến sự vô ơn bội nghĩa của tôi”. Điều này rất thật. Nhưng chúng ta không cần nghĩ đến sự cao cả của Thiên Chúa và sự hư vô của chúng ta để thấy mình bị đè nặng bởi những hồng ân của Thiên Chúa. Chỉ ba ơn vô cùng trọng đại : ơn tạo thành, ơn cứu chuộc và bí tích Thánh Thể, đủ cho ta thấy tình thương vô cùng của Thiên Chúa. Và đó là cả một thế giới những hồng ân của Chúa ban cho ta. Ngoài ba hồng ân vô cùng lớn lao này mà tất cả mọi người chúng ta đều chịu ơn Thiên Chúa, Chúa còn ban riêng cho bản thân mỗi người chúng ta biết bao nhiều hồng ân khác, cho nên chúng ta cảm thấy khổ tâm vì không có cách nào cảm tạ Chúa phần nào cho xứng.

Có những giờ phút chúng ta cảm thấy bổn phận tạ ơn này một cách sâu sắc, và chúng ta thấy rằng đáp lại muôn vàn ơn lành phần hồn và phần xác Chúa luôn luôn ban cho ta trong cuộc đời, chúng ta đã thiếu sót qúa nhiều trong bổn phận tri ân và tạ ơn Thiên Chúa.

Và ở đây cũng vậy, Chúa Giêsu Thánh Thể đến giúp sự bất lực của chúng ta. Đúng thế, Thánh Lễ và Thánh Thể, do từ Eukharistia tiếng Hy Lạp có nghĩa là lễ tạ ơn. Giáo hội dâng Thánh Lễ trên các bàn thờ để tạ ơn Thiên Chúa vì muôn ơn lành Chúa hằng ban cho mọi người. Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói về vấn đề này như sau : “Con người không thể nào tạ ơn Thiên Chúa cho xứng được, bởi vậy Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu Chúa chúng ta, đã đặt mình làm việc đó thay cho chúng ta : Ngài đã làm tất cả mọi điều cần thiết để làm việc này thay cho chúng ta”.

Tư tưởng này phải an ủi ta và mang lại cho ta niềm vui. Và chúng ta phải năng chạy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, xin Ngài cảm tạ Cha trên trời thay cho chúng ta. Trong số các thánh, có lẽ không vị nào đã siêng năng chạy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể cho bằng thánh nữ Giêtruđê , vị đáng có biệt hiệu là thánh nữ của nhân tính Chúa Giêsu. Người ta biết những bản kinh rất tốt đẹp mà thánh nữ đã soạn ra : tất cả các kinh này đều mang cảm hứng Chúa Giêsu là Trung gian của ta, là Đấng Đền tạ của chúng ta, là Đấng bổ túc sự thiếu thốn lớn lao của chúng ta. Chúng ta phải cầu nguyện như thánh nữ, theo gương thánh nữ. Điều này sẽ củng cố rất nhiều niềm tín thác của chúng ta, một niềm tín thác tinh ròng và đích thực nơi Thiên Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi sự tín thác dại dột nơi những nhân đức quá bất toàn và nơi sự công chính mơ hồ của bản thân mình. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu như thánh nữ thường làm : “Lạy Chúa Giêsu con yêu mến, xin Chúa cảm tạ Cha Ngài thay cho con, vì chỉ mình Chúa có thể làm việc này cách xứng đáng và tuyệt hảo”.

Chúa Giêsu Thánh Thể rất đầy đủ giúp ta yêu mến Thiên Chúa.

– Trái tim con người được tạo nên để yêu mến. Tình yêu giữ vai trò hàng đầu trong cuộc sống con người, và không có yêu thương, cuộc đời sẽ không đáng sống. Tất cả chúng ta đều yêu thương. Tất cả chúng ta đều cảm thấy cần phải dành tình yêu của mình cho một đối tượng xứng đáng với sự yêu thương của ta. Người đời cũng yêu thương, nhưng đáng buồn thay ! Họ phí phạm trái tim đã được Thiên Chúa tạo thành cho tình yêu cao cả để yêu thương những vật thọ tạo hèn hạ.

Tình yêu của họ như thế nhất định là tồi tàn. Một tình yêu đích thực, vô cùng cao qúi hơn, mạnh mẽ và nồng nàn hơn, chỉ thấy được nơi những linh hồn đã chọn Thiên Chúa là tất cả cho mình, bởi vì linh hồn cảm thấy mình được tạo thành cho Ngài.

Hạnh phúc thay ! Chúng ta đứng vào số những linh hồn ưu tuyển đó, những linh hồn đã được Thiên Chúa tỏ cho thấy Ngài là Đấng đáng mến yêu vô cùng. Chúng ta càng bước đi trên đường đời, chúng ta càng thấy rõ chỉ có Chúa là tuyệt đối đáng mến yêu, còn tất cả mọi tạo vật đều là hư vô. Tình mến yêu Chúa đã lớn lên trong trái tim chúng ta, một cách khó thấy, nhưng một cách chắc chắn. Tình yêu đó đã trở thành một thứ lửa nồng nàn. Chúng ta muốn yêu mến Thiên Chúa nhiều, rất nhiều, yêu mến vô cùng, vì chúng ta thấy Chúa vô cùng đáng mến, nhưng chúng ta cũng thấy rõ mình không có khả năng yêu mến Chúa như Ngài đáng mến yêu. Sau cùng, lòng mến yêu này đã trở thành một nỗi đau, một vết thương trong trái tim ta. Ôi ! Ai sẽ cho ta bí quyết của tình yêu thần linh ? Ai sẽ giúp ta thoát ra khỏi bản thân mình để trọn vẹn dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa, Đấng vô cùng mến yêu ? Ai sẽ giúp ta yêu mến Chúa đến mức điên rồ, bởi vì chính Ngài yêu thương ta vô cùng và vì Ngài đáng mến yêu vô cùng !

Làm thế nào để làm dịu bớt nỗi đau khổ ước ao yêu mến này ? Yêu mến, vâng, không phải chỉ chúng ta phải yêu mến, mà còn biết bao linh hồn khác, từng triệu con người kia, họ là anh em của ta trong Chúa Kitô, họ cũng là những chi thể của Chúa Kitô như chúng ta… Vậy mà đáng buồn thay, nếu trái tim chúng ta còn có chút lửa yêu mến Chúa, thì trái tim họ hoàn toàn giá lạnh ! Chúng ta phải ước ao sưởi nóng những trái tim đó, rót vào đó đức ái của chúng ta, để những trái tim đó cũng phập phồng vì lòng mến yêu Chúa !

Ai sẽ an ủi tôi trong niềm ước ao khổ tâm và không nguôi này ? Thật vậy, tự mình tôi, tôi hoàn toàn bất lực. Thật là vô ích, nếu tôi gia tăng những nỗ lực để trở thành quảng đại hơn, yêu mến hơn. Lòng mến yêu thiếu tinh ròng và bất thường của tôi sẽ mãi mãi còn rất xa với lý tưởng tôi mơ ước, còn rất xa lòng mến yêu vô biên mà tôi muốn dâng lên Thiên Chúa. Ai sẽ giúp tôi đây ? Ai sẽ ban cho tôi tình yêu mến tôi cần phải có để yêu mến Chúa tôi ?

Chúa Giêsu Thánh Thể mời gọi tôi và nói : “Con hãy nhận lấy Trái Tim yêu thương của Cha, và trong Đại dương của tình mến thương này, con hãy gìm trái tim của con và trái tim của những người mà con muốn dùng để yêu mến Cha, rồi con hãy dâng tất cả cho Cha trên trời như của lễ đức ái toàn hảo. Nhất là con hãy dâng lên Chúa Cha lòng mến yêu vô cùng của Cha, những cái đập sau cùng của Trái Tim Cha đã dâng mình làm lễ hy sinh trên thập giá xưa, và còn dâng mình hằng ngày trên các bàn thờ !”.

Ôi ! Hạnh phúc của tôi thật là lớn lao, miễn là tôi không tự cô lập mình, nhưng vẫn hãy chạy lại với Chúa Giêsu, Đấng rất đầy đủ của tôi. Vâng, tôi đã tìm được tình mến yêu tôi mơ ước, không phải thứ mến yêu bất toàn, còn pha trộn tính ích kỷ và tự ái như thứ mến yêu của trái tim tôi, nhưng là thứ mến yêu tuyệt hảo của Thánh Tâm Chúa Giêsu, hiện thân của tình yêu. Tôi đã tìm thấy một lò than hồng của tình mến yêu, cho nên nhờ lòng mến yêu vô cùng của Thánh Tâm Chúa Giêsu, tôi có thể đền đáp tình thương vô cùng của Thiên Chúa.

Ôi Chúa Giêsu của con, con mến yêu Chúa rất nhiều vì niềm vui lớn lao và sự ngọt ngào khôn tả Chúa ban cho con, khi Chúa yêu mến Chúa Cha với con. Chúa đã thỏa mãn nguyện vọng sâu xa nhất và nóng nảy nhất của con. Nhờ Thánh Tâm Chúa, con đã có thể dâng lên Chúa Cha vô cùng đáng mến, một của lễ tình yêu xứng đáng với tình thương của Ngài.

Nhiều linh hồn đã lãng quên vai trò này của Chúa Giêsu Thánh Thể. Thường chỉ nghĩ đến bản thân mình và qúa ích kỷ trong con đường thiêng liêng của mình, họ thường chỉ yêu mến Chúa Giêsu để đáp lại lòng Chúa yêu thương họ thôi. Họ ít nghĩ đến tình Chúa Giêsu yêu mến Cha Ngài. Nhưng đối với những linh hồn quên mình đi nhiều hơn, và lòng mến yêu của họ cũng trong sáng và tinh ròng hơn, tình mến yêu của Chúa Giêsu đối với Cha Ngài tỏ ra rất hấp dẫn, đồng thời cũng đáp lại nhu cầu mà tâm hồn họ muốn mến yêu Cha trên trời.

Chúng ta thường tham dự Thánh Lễ, và là những linh mục của Đấng Tối Cao, chúng ta dâng Thánh Lễ mỗi ngày. Chúng ta cũng thường đến viếng Chúa Giêsu Thánh Thể trong nhà Tạm. Vậy từ nay chúng ta hãy nhớ đến vai trò này của Chúa Giêsu Thánh Thể, hãy xin Chúa cùng thờ lạy Chúa Cha với ta. Hãy xin Chúa Giêsu Thánh Thể làm thông ngôn cho ta bên cạnh Cha Ngài. Chúng ta  hãy cầu xin Chúa như thánh nữ Giêtruđê  rằng : “Lạy Thánh Tâm Thánh Thể Chúa Giêsu, trong Trái Tim Chúa như trong một lư hương đầy than hồng lửa mến, con đặt trái tim con vào như một hạt trầm hương nhỏ. Xin lửa mến của Thánh Tâm Chúa hãy đốt cháy và thiêu hủy trái tim con, để nó bốc lên sự yêu mến và tôn vinh Chúa Cha muôn đời ! Lạy Chúa Cha vô cùng đáng tôn thờ, con xin dâng lên Chúa tình yêu vô cùng của Thánh Tâm Chúa Giêsu Con Cha rất yêu dấu. Tình yêu của Thánh Tâm Ngài sẽ bổ túc mọi sự thiếu thốn của con”.

II.  CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ RẤT ĐẦY ĐỦ CHO MỌI LỜI CẦU XIN CỦA TA.

–   NHỮNG NHU CẦU CỦA TA CÀNG LỚN LAO, CHÚA CÀNG THỎA MÃN CÁCH ĐẦY ĐỦ.

–   HÃY NĂNG CHẠY LẠI VỚI CHÚA GIÊSU, ĐẤNG ĐẦY ĐỦ CỦA CHÚNG TA.

Chúa Giêsu rất đầy đủ cho mọi lời cầu xin của chúng ta.

– Sẽ phải nói khá dài về vấn đề này, nếu chúng ta muốn trình bày đầy đủ về sự Chúa Giêsu Thánh Thể rất đầy đủ cho mọi nhu cầu của chúng ta. Chúng ta sẽ chỉ xem xét đến sự Ngài sẵn sàng giúp đỡ sự bất lực của chúng ta trong việc cầu xin.

Chúng ta qúa hèn mọn, lại tội lỗi và bất xứng, cho nên chúng ta không vững dạ khi dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin của mình. Nhiều khi những ý nghĩ về sự bất xứng đó xâm chiếm tâm hồn chúng ta. Những khi đó chúng ta hãy nhớ Chúa Giêsu là Đấng chuyển cầu rất mạnh thế và đầy lòng thương xót của chúng ta bên cạnh Chúa Cha. Đúng như lời thánh Phaolô tông đồ đã dạy : “Ngài có thể cứu vớt những kẻ nhờ Ngài mà đến với Thiên Chúa, bởi vì Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7,25). Ngài là trạng sự rất tốt lành của chúng ta, nếu chúng ta cậy nhờ Ngài cầu xin và bênh vực chúng ta, chúng ta chắc chắn không sai lầm trong sự mong chờ của mình. Ngài vô cùng mạnh thế nơi Thiên Chúa và luôn đạt được những gì chúng ta cậy nhờ Ngài. Thiên Chúa Cha đã chẳng nói Ngài là Con chí ái đó sao ? Khi Thiên Chúa thấy Con Ngài đứng ra xin điều gì cho chúng ta, Ngài liền động lòng thương ta. Chỉ cần Chúa Cha quay ra nhìn Con của Ngài, Ngài liền vui lòng ban tất cả những gì Con Ngài xin cho chúng ta. Cho nên, chúng ta đi thẳng tới xin Thiên Chúa thì rất khó được Ngài thương ban ơn. Còn ta xin nhân danh Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu thì chắc chắn sẽ được như lòng sở nguyện.

Để giúp chúng ta vững lòng tin vào lời chuyển cầu của Ngài, chính Chúa Giêsu đã tuyên  bố : “Thật, Thầy bảo thật anh em, tất cả những gì anh em xin Cha nhân danh Thầy, Ngài sẽ ban cho anh em” (Ga 16,23). Chúa Kitô đã muốn dùng lời khẳng định mạnh mẽ này, đồng thời là một lời hứa long trọng, để xua đi tất cả mọi nghi ngờ của ta về vấn đề này. Như vậy Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta bí quyết để thành công trong mọi lời cầu xin. Chúa sẽ mở kho các hồng ân cho kẻ cầu xin. Chúng ta không nên và không có lý do nào nữa để hồ nghi và ngần ngại.  Chúng ta tin rằng nếu chúng ta gõ cửa thì Chúa sẽ mở cho ta, miễn là ta phải cầu xin nhân danh Chúa Giêsu, và đầy lòng tin tưởng vào lời hứa của Ngài.

Danh thánh Chúa Giêsu là chìa khóa vạn năng, mở mọi kho tàng ơn phúc cho ta. Danh thánh Chúa Giêsu có sức thần linh kỳ diệu : khi nghe thánh danh Chúa Giêsu, cả triều thần trên trời qùy lạy Thiên Chúa và hợp lòng cầu nguyện với ta và cho ta. Chúa Cha nghe đến thánh danh Con của Ngài, liền động lòng thương nghe lời cầu xin của chúng ta.

Chúng ta đừng bao giờ quên dùng bí quyết mà chính Chúa Giêsu đã tỏ cho ta biết, để lời cầu xin của ta chắc chắn được Thiên Chúa lắng nghe và ban cho như ta cầu xin. Người thế gian, khi nắm được bí quyết làm giầu, có bao giờ họ coi thường hoặc bỏ quên không ? Không lẽ ở đây, con cái thế gian cũng khôn ngoan hơn con cái sự sáng ? Đúng thế, Chúa Giêsu đã dạy ta bí quyết để trở nên giầu có về mọi ơn lành, tại sao chúng ta lại thường bỏ qua, hoặc lãng quên bí quyết đó ? Thật, chúng ta cũng đáng trách như Chúa đã trách các môn đệ của Ngài xưa : “Cho đến nay, anh em chẳng xin gì nhân danh Thầy. Anh em hãy xin thì sẽ được, để niềm vui của anh em được trọn vẹn” (Ga 16,24).

Tất nhiên người ta có thể đã cầu xin nhân danh Chúa Giêsu một cách không ý thức. Chúng ta đã cầu xin trong niềm hiệp nhất với Ngài mỗi khi chúng ta sống trong tình trạng có ân sủng, vì chúng ta là những chi thể của Ngài. Thánh Augustinô đã nói : “Chính Chúa Kitô là Đầu : Ngài cầu nguyện ở trong chúng ta” (St. Augustin, In Psalm 84). Tất cả mọi lời cầu xin của Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế của Ngài xưa, tất cả mọi lời cầu xin của Ngài trong bí tích Thánh Thể và ở trên trời, một cách nào đó, là của chúng ta, vì chúng ta là những chi thể của Ngài. Những lời khẩn nài của Ngài cũng là của chúng ta. Khi nhìn chúng ta, Cha trên trời nhìn đó là những chi thể của Chúa Giêsu, Con chí ái của Ngài.

Nhưng các lời cầu nguyện của Chúa Kitô là những kho báu Ngài ban cho ta, sẽ được chúng ta khai thác nhiều cách khác nhau. Nếu sống trong trạng thái nguội lạnh, chúng ta không xin Ngài giúp ta và cầu nguyện với ta, thì kho tàng kia có ích gì cho ta đâu ? Còn như nếu làm theo lời Ngài dạy, một đàng chúng ta kết hiệp chặt chẽ với Ngài trong tình mến yêu, đàng khác cậy vào lời hứa long trọng của Ngài, chúng ta đến cầu xin Cha trên trời nhân danh Ngài, chúng ta chắc chắn sẽ được Chúa Cha nhận lời và ban ơn cho ta.

Chúng ta có thể trở nên rất giầu có trong Chúa Giêsu Kitô, nhưng chúng ta phải biết cách chiếm lấy các kho tàng của Cha trên trời : phải sống kết hiệp chặt chẽ với Chúa Kitô, phải cầu nguyện nhân danh Ngài cách tỏ tường, luôn cầu xin “nhân danh Chúa Giêsu Con chí ái của Thiên Chúa”. Làm sao Thiên Chúa có thể từ chối ta điều gì, khi chúng ta cầu xin nhân danh Con chí ái của Ngài, và nhắc lại lời hứa của Ngài qua miệng Con chí ái của Ngài ?

Chúng ta càng có nhiều nhu cầu, Chúa Giêsu càng lo cho chúng ta.

– Chúng ta thấy, trong cảnh nghèo khổ cùng cực của chúng ta, chúng ta lại có thể trở nên rất giầu có trong Chúa Kitô. “Như không có gì, nhưng lại có tất cả mọi sự” (2 Cr 6,10). Đúng là những nhu cầu và thiếu thốn của ta rất nhiều, và càng tiến xa trên đường trọn lành, chúng ta càng thấy mình thiếu thốn qúa nhiều, bởi vì mỗi ngày chúng ta mỗi ý thức sâu xa hơn về sự yếu đuối của mình. Linh hồn đạo đức ngày càng cảm thấy những thiếu thốn của mình trong việc tôn thờ, đền tạ, đội ơn, yêu mến và các bổn phận khác. Những sự thiếu thốn này khiến linh hồn lo âu, bị dằn vặt và khổ tâm.

Nhưng Chúa Giêsu đã không để mặc kệ linh hồn với những thiếu thốn và những lo âu của nó. Càng tiến tới trong tình mến yêu Chúa Kitô, linh hồn càng cậy dựa vào Ngài. Và như vậy nó càng thấy rõ tự mình nó, nó không là gì hết, không làm được gì hết, nhưng nhờ Chúa Giêsu và với Chúa Giêsu, nó có thể làm rất nhiều. Và tự nhiên, càng ngày nó càng thấy Chúa Giêsu là Đấng rất đầy đủ cho nó trong mọi sự. Cho nên nó có thể kêu lên cách thật sự rằng : “Sự đầy đủ của tôi là do Thiên Chúa” (2 Cr 3,5).

Linh hồn than thở vì thấy mình thiếu khiêm nhường, nhưng nó trình diện Thiên Chúa với đức khiêm nhường vô cùng sâu thẳm của Chúa Giêsu Thánh Thể. Nó cũng thường nản lòng khi thấy những biểu hiện của tính tự ái của mình, và lòng mến của mình qúa bất toàn, nhưng nó cậy vào lò lửa bừng cháy mến yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu; rồi nó tự biết mình còn qúa ít hãm mình, chưa biết yêu đau khổ, nhưng nó nhìn vào Chúa Giêsu Thánh Thể đang hiến thân làm lễ hy sinh mỗi ngày trên các bàn thờ. Nó đau khổ thấy mình sa đi ngã lại hằng ngày trong nhiều lỗi phạm và bất toàn, nhưng nó thấy sự thánh thiện vô cùng sáng chói của Chúa Giêsu, và vui mừng thấy mình là chi thể của Chúa.

Vậy bất cứ linh hồn đau khổ vì sự thiếu thốn nào, nó cũng thấy Chúa Giêsu Thánh Thể là sự nâng đỡ và bổ túc cho nó. Bất cứ nó có niềm ước ao nào, nó cũng có thể thực hiện được một cách toàn hảo nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu Thánh Thể là sự Thiện tuyệt đối, là nguồn mạch mọi ơn phúc, Chúa có công nghiệp vô cùng và các nhân đức toàn hảo, nay Chúa nói với linh hồn cách âu yếm rằng : “Mọi sự của Cha là của con”. Linh hồn có thể trình lên Chúa Cha tất cả các công nghiệp của Chúa Giêsu Con chí ái của Ngài, để cầu xin cho những nhu cầu của mình. Linh hồn có thể thưa Chúa Cha cách đơn sơ và đầy lòng tin tưởng rằng : “Lạy Cha hằng hữu, con xin Cha ban cho con ơn này… vì công nghiệp vô cùng của Con Cha. Cha hãy nhận lấy phần con mắc nợ Cha về ơn trọng này, bởi vì công nghiệp của Chúa Giêsu Con Cha thì vô cùng”.

Làm thế nào để năng chạy đến với Chúa Giêsu, Đấng đầy đủ của chúng ta.

– Nếu chúng ta phần nào hiểu được kho tàng vô cùng lớn lao chúng ta có nơi Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta sẽ thấy mình rất đáng trách vì đã không biết khai thác nguồn phong phú đó. Chúng ta hãy thử xét mình và xem xét cách thức chúng ta đã khai thác nguồn phong phú vô cùng là Thánh Tâm Chúa Giêsu. Chúng ta đã thấy mình có thể lấy làm của mình tất cả công nghiệp vô cùng của Chúa Giêsu, các nhân đức mến yêu, khiêm nhường, nhẫn nhục, quên mình của Ngài. Chúng ta có thể dâng lên Chúa Cha tất cả các công nghiệp và các nhân đức đó như của lễ tôn thờ, đền tạ và tạ ơn rất xứng đáng với Ngài.

Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, có nhiều
cách để chiếm lấy và lợi dụng nguồn ơn phúc vô giá và vô tận này. Trước hết, ý muốn của ta càng kết hiệp với thánh ý Chúa Kitô, và ta càng sống thân mật với Ngài, chúng ta càng có thể khai thác nguồn ơn phúc này. Nhưng chúng ta có thể làm nhiều hơn nữa. Chúng ta có thể minh nhiên chạy đến với Ngài trong các nhu cầu của ta. Các nhu cầu đủ loại. Chúng ta cố gắng ý thức rõ ràng hơn và sâu sắc hơn về sự thiếu thốn của mình và sự vô cùng đầy đủ của Chúa Giêsu Thánh Thể trong nhà Tạm.

Chẳng hạn biết bao lần chúng ta đọc kinh Lạy Cha, kinh rất tốt đẹp này. Lẽ ra chúng ta đã có thể đọc kinh này với một lòng sùng kính sâu xa hơn ! Ôi, nếu chúng ta đọc kinh này, nếu chúng ta cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu và với Chúa Giêsu, lời cầu xin của ta sẽ đi thẳng vào Trái Tim Chúa Cha, là Cha của Chúa Giêsu và cũng là Cha chúng ta. Khi nghe ta đọc kinh này, Chúa Cha tưởng như nghe chính Chúa Giêsu Con chí ái của Ngài. Ngài sẽ vui sướng biết bao khi nghe ta cầu xin như thế.

Chúng ta cũng hãy cầu nguyện như thế khi tham dự Thánh Lễ, vì đó chính là tinh thần cầu nguyện của Giáo hội. Giáo hội luôn cầu xin với Chúa Kitô, “vì công nghiệp Chúa Giêsu Kitô”. Tất cả mọi lời cầu nguyện trong Phụng vụ của Giáo hội đều kết thúc bằng những lời “chúng con cầu xin nhờ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen”.

Nếu chúng ta là linh mục của Chúa, và ngay cả khi chúng ta chỉ là giáo dân, chúng ta cũng có thể mỗi ngày đặt trên đĩa thánh mọi hành động, tư tưởng, tâm tình và những hối lỗi của chúng ta, để hợp với công nghiệp của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha cực thánh.

Và từ nay, mỗi khi đi viếng Thánh Thể, chúng ta sẽ đến với Chúa Giêsu như trung gian tốt lành, như Đấng đền tạ rất đầy đủ cho mọi nỗi thiếu thốn của chúng ta. Và bất cứ giờ phút nào trong ngày, dầu không đến nhà thờ, chúng ta cũng có thể dâng lên Cha trên trời của lễ đền tội và khẩn cầu, là Chúa Giêsu Thánh Thể, đang được dâng lên từ các bàn thờ, ở một nơi nào đó trên khắp địa cầu.

Chắc chắn chúng ta sẽ thấy mình được nâng đỡ và phấn khởi, nếu chúng ta tập thường xuyên chạy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng luôn đầy đủ cho mọi nhu cầu và mọi khốn khó của ta. Khi chán nản và những lúc khô khan, cũng như những khi cảm thấy mình không có gì tốt lành, chúng ta sẽ vững tâm biết bao, nếu chúng ta nhớ đến Chúa Giêsu Thánh Thể, và quên đi sự khốn khổ của mình, chúng ta dâng lên Chúa Cha toàn năng. Trái Tim Thánh Thể của Chúa Giêsu Con chí ái của Ngài, của lễ vô cùng thánh thiện và qúi giá trong trời đất. Điều này sẽ mang lại cho chúng ta sự can đảm và niềm vui thánh thiện và sẽ giúp ta quên mình đi. Và khi chúng ta sa ngã cách nào, thay vì giận mình và bực tức với mình, tốt nhất chúng ta hãy khiêm nhường chạy đến với Chúa Giêsu là Đấng chuộc tội và đền tội cho ta : hãy thành tâm và khiêm nhường thống hối, và dâng công nghiệp của Chúa Giêsu lên Chúa Cha để xin ơn tha thứ.

Sau cùng, cách làm này khi đã được hiểu biết và được chúng ta lặp đi lặp lại, sẽ khiến chúng ta yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn. Chúng ta sẽ yêu mến Ngài vì một lý do mới : chúng ta yêu mến Ngài vì Ngài là Đấng đầy đủ cho mọi thiếu thốn và mọi nhu cầu của chúng ta. Chúng ta sẽ cảm tạ Ngài vì ơn trọng đại này, cũng như chúng ta đã quen cảm tạ Ngài vì tình thương và ơn cứu chuộc, chúng ta còn cảm tạ Ngài, không những vì tình thương Ngài dành cho chúng ta, mà còn vì lòng yêu mến Ngài dâng lên Cha Ngài thay cho chúng ta và cùng với chúng ta. Nhờ việc đạo đức này sự kết hiệp của ta với Chúa Giêsu sẽ thêm khắng khít. Chúng ta sẽ bám chặt vào Ngài như cây leo nhỏ mọn bám vào thân cây sồi: cây leo bé nhỏ và yếu đuối sẽ sống vững vàng và an vui nhờ sức mạnh lớn lao của cây sồi.

Paul De Jaegher S.J.

Hạnh Phúc – Chương 2: NHỮNG KẺ NHÀN RỖI NGOÀI PHỐ CHỢ

Một nhà tâm lý học vĩ đại và xuất chúng nọ có lần đã nói thảm kịch của con người ngày nay là họ không còn tin rằng mình có một linh hồn cần được cứu độ. Chúa chúng ta đã trả lời cho nhóm người ấy bằng một dụ ngôn thú vị về những người thợ làm vườn nho. Vào cuối ngày, chủ vườn nho đến nơi phố chợ và nói: “Tại sao các anh lại đứng đây suốt ngày chẳng làm gì cả” Trong một số vùng ở mạn Đông, tập tục này vẫn còn thịnh hành, người ta tụ nhau trước các giáo đường Hồi giáo hay những chỗ phố chợ tay cầm sẵn cuốc xẻng chờ được thuê mướn.

Câu chuyện này nói lên một bài học siêu nhiên và liên hệ đến những loại người rỗi rảnh khác nhau. Thêm vào những kẻ nhàn rỗi theo đúng nghĩa, có những kẻ cà lơ thất thơ chẳng biết làm gì. Nhiều người thì nhàn rỗi trong ý nghĩa là những kẻ tà lọt chăm chỉ cần cù nhưng lại quá mỏi mệt vì lao khổ đến nỗi chả làm được một việc gì gọi là có giá trị. Nhiều người khác nhàn rỗi vì cứ mãi do dự còn những kẻ khác thì vì thất vọng lo âu chẳng biết được mục đích của cuộc sống. Trước mắt người đời thì quả có ít người nhàn rỗi, nhưng trước cặp mắt từ trời cao nhìn xuống trái đất thì quả đây là chốn phố chợ thênh thang có ít người thực sự lao động. Đối với Chúa, mọi hoạt động như tìm kiếm của cải, dựng vợ gả chồng, mua bán, nghiên cứu sáng tác… đều là những phương tiện để đạt đến cùng đích tối thượng là sự cứu rỗi linh hồn. Mọi sự sử dụng năng lực con người để biến phương tiện thành cứu cánh, để cô lập cuộc sống khỏi mục đích cuộc sống đều là một sự nhàn rỗi gây mệt mỏi, một sự không thực tế đáng buồn.

Mặc dầu Chúa chúng ta đưa ra cái định nghĩa mới mẻ và gai góc này về sự nhàn rỗi, chúng ta vẫn còn nhiều hy vọng khi đọc câu chuyện trên bởi vì một số người vẫn được thuê mướn vào giờ thứ mười một và họ lại nhận được đầy đủ như những kẻ đã lao động suốt cả ngày dài. Đối với ân sủng Chúa thì chẳng bao giờ là quá trễ. Có một sự kiện tâm lý đặc biệt là những kẻ quay về Chúa muộn màng trong cuộc sống thường xem tất cả quãng đời trước kia của họ là phí phạm. Thánh Augustinô khi hồi tưởng lại tuổi trẻ phí phạm của mình đã thốt lên: “Ôi, Vẻ Đẹp ngàn xưa, con đã yêu Ngài trễ quá rồi!” Không hề có những trường hợp đến mức không còn hy vọng được nữa, không cuộc sống nào tiêu tan đi đến mức không thể bù đắp được, không sự nhàn rỗi lâu dài nào trở được vài giây phút làm việc hữu ích trong vườn nho của Chúa ngay cả những giây phút cuối đời như trường hợp tên trộm lành.

Vào lúc cuối ngày, khi Chúa ban cho mọi người cùng tiền lương như nhau thì những kẻ dầm nắng suốt ngày phàn nàn tại sao những kẻ vào làm giờ thứ mười một cũng được được lãnh nhiều như thế. Chúa chúng ta liền vặn lại: “Tại sao ánh mắt các ngươi lại nhìn thấy điều xấu xa chỉ vì ta làm điều tốt?” Ý tưởng về phần thưởng không hề có trong việc phụng sự ở trên trời. Những người sống tử tế suốt 40 năm để rồi phản đối ơn cứu độ của những kẻ mới đến sau cùng là những kẻ có tinh thần thuê mướn. Mọi hành vi đích thực của một con người sống siêu nhiên đều phát xuất từ tình yêu chứ không phải lòng ước muốn được thưởng. Không thể nào nói chuyện phần thưởng cho một tình yêu đích thực trong một cuộc hôn nhân mà lại không lăng nhục đôi vợ chồng ấy. Người ta không thể đền bù cho xứng hợp cái tình thương khiến đứa bé ôm quàng cổ mẹ hay khiến mẹ nó thức đêm canh đứa con bị bệnh. Người ta cũng không thể trao phần thưởng nào cho xứng hợp với hành vi anh hùng của một người liều mạng để cứu kẻ khác. Xét theo cách thức này thì những kẻ thực hành sự đạo đức và tôn giáo mỗi ngày cũng thấm đầy nét duyên dáng, hấp dẫn và vinh quang của lòng nhiệt tình quên mình hệt như bất cứ hành vi anh hùng nào đã nêu.

Sự nhàn rỗi thể lý làm hư hại tâm trí, sự nhàn rỗi thiêng liêng làm hư hại trái tim. Hành vi liên kết giữa không khí và nước có thể biến một thanh sắt thành rỉ sét. Vì thế vào mỗi giờ nơi phố chợ, người ta đều phải tự vấn mình: “Tại sao tôi lại đứng nhàn nhã ở đây?”

Gm. Fulton Sheen

 

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO VÀ VIỆC TRUYỀN GIÁO

         Giáo hội hiện rất quan tâm đến vấn đề “ Trí Tuệ Nhân Tạo” và  cũng vì mối quan tâm ấy, Học Viện Công Giáo Việt Nam  đã tổ chức hội thảo trong 02 ngày ( 01 và 02/03/2024 ) với chủ đề: “ AI: Cơ hội và thách đố đối với Ki Tô Hữu Việt Nam ). Trong cuộc hội thảo, cha giáo sư JB Lê Đình Phương  đã nêu lên công hiệu của Trí Tuệ Nhân Tạo đối với Việc Truyền Giáo như sau:

“ Thúc đẩy truyền giáo và giáo dục đức tin: AI hỗ trợ Giáo Hội trong việc truyền tải giáo lý, tạo ra tài liệu giáo dục đức tin phù hợp với từng cá nhân, giúp mọi người  dễ dàng tiếp cận và đào sâu kiến thức công giáo, bất kể khoảng cách hay hoàn cảnh…

……..Nâng cao hiệu quả trong hoạt động bác ái và công tác xã hội: AI giúp quản lý và phân phối nguồn lực, tối ưu hoá các chương trình hỗ trợ người nghèo và các nhóm yếu thế. Phản hồi nhanh  và hiệu quả  trước các nhu cầu xã hội, từ đó củng cố sứ mệnh bác ái của giáo hội” ( Nguồn: Diễn Đàn Phải Làm Gì ? / Truyền Thông – Công Nghệ ).

Qua sự trình bày của cha giáo sư JB Lê Đình Phương cho thấy Giáo Hội không hơn không kém chỉ là một “ Tổ Chức Cứu Tế Xã Hội”  và cũng chính vì thế  Trí Tuệ Nhân Tạo  mới được coi là công cụ hữu hiệu cho Việc Truyền Giáo ???

Từ lâu, Giáo Hội đã  đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về Việc Truyền Giáo. Thoạt đầu, Truyền Giáo có nghĩa là được sai đi và người được sai đi ấy gọi là Tông Đồ ( Apostolos ). Người được sai đi ấy mang một sứ mệnh  thế nên  Truyền Giáo được gọi là Missio. Sau này Truyền Giáo lại được hiểu là truyền bá đức tin ( Propagatio ). Thế nhưng việc truyền bá  ấy bị hiểu lầm là…tuyên truyền nên đã được đức giáo hoàng Phao Lô VI đổi lại là Phúc Âm Hoá ( Evangelizatio ).

Thật ra, Phúc Âm Hoá  hoàn toàn chẳng có liên quan gì đến sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Đức  Giê Su Ki Tô  đã trao cho các Tông Đồ trước khi Ngài về trời: “ Hãy ra đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Ai tin và chịu phép rửa thì được cứu. Còn ai không tin thì bị luận phạt. Những kẻ tin sẽ có những dấu lạ này cặp theo: Họ sẽ nhân danh Ta mà đuổi quỷ, nói tiếng lạ, bắt rắn độc, có uống nhằm thuốc độc chi cũng chẳng hại gì. Đặt tay trên kẻ đau yếu, kẻ ấy sẽ được lành mạnh” ( Mc 16, 15 -18 ).

Chúa Giê Su nói rất rõ về điều kiện tiếp nhận Tin Mừng: Ai tin thì sẽ được cứu, còn ai không tin sẽ bị luận phạt. Vậy, tin ở đây là tin vào điều gì ? Xin thưa là tin vào Tin Mừng mà Ngài rao giảng: “ Thời đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần, các ngươi hãy ăn năn, sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ).

Để có được lòng tin vào Tin Mừng của Đức Ki Tô  thì nhất thiết cần  có sự ăn năn, sám hối chừa cải tội lỗi mình. Giữa lòng tin vào Tin Mừng và sự sám hối ăn năn có một mối liên hệ khăng khít  không rời. Sự sám hối, ăn năn càng chân thành bao nhiêu thì lòng tin càng triển nở bấy nhiêu, trái lại thì không !.

Tại sao cần có sự ăn năn, sám hối, chừa cải tội lỗi mới có thể có được lòng tin vào Tin Mừng của Đức Ki Tô ? Đó là bởi Tin Mừng ấy là về Nước Trời mầu nhiệm nội tại  cũng chính là Chân Tâm Bản Tính của mỗi người: “ Người Pharisieu  hỏi Chúa Giê Su về Nước Thiên Chúa chừng nào đến ? Ngài đáp: Nước Thiên Chúa không đến cách mắt thấy được. Người ta cũng không thể nói: Đây này hay đó kia vì này Nước Thiên Chúa ở trong lòng các  ngươi” ( Lc 17, 20 -21 ).

Với Nước Trời  mà Đức Ki Tô rao giảng thì không thể nói: Đây này hay đó kia bởi vì đó là một Thực Tại Tâm ( Chân Tâm ) siêu việt cả không gian lẫn thời gian. Bởi Nước Trời là một Thực Tại Tâm mầu nhiệm như thế  nên lý trí con người không cách chi hiểu được. Nếu lý trí có thể hiểu thì không còn  chi  là mầu nhiệm nữa ?

Nước Trời là một mầu nhiệm khôn tả, bởi đó mỗi khi rao giảng về mầu nhiệm này Chúa Giê Su đều thốt lên: “ Ai có tai nghe thì hãy nghe !” Trừ  ra những kẻ  tai bị điếc thì không nghe, ngoài ra, ai mà chẳng nghe ? Tuy nhiên ở đây Chúa Giê Su muốn nói là khi nghe Tin Mừng thì  cần  lắng nghe với Tâm Vô Phân Biệt !

Để có thể nghe với Tâm Vô Phân Biệt như thế  thì cần xoay cái Tâm vào bên trong để nhận ra Bản Tánh Chân Thật  vốn sẵn có ở nơi mình gọi là “Phản Văn, Văn Tự Tánh”. Nghe lại tiếng nói chân thật  phát  ra từ Chân Tâm Bản Tánh , Chúa Giê Su gọi đó là Nghe Tiếng Cha và Ngài cũng mời gọi chúng ta thực hiện điều đó: “ Ta chẳng còn gọi các ngươi là tôi tớ nữa vì tôi tớ thì chẳng biết việc chủ mình làm. Nhưng Ta gọi các ngươi là bạn hữu  vì Ta từng tỏ cho các ngươi những điều Ta đã nghe biết ở nơi Cha Ta” ( Ga 15, 15 ).

Nghe được Tiếng Cha  ở nơi mình, đó là ơn phúc vô cùng lớn lao và ơn phúc đó các tiên tri và người công chính trước đây đã từng  ước ao mà không được: “ Vì phúc cho các ngươi vì thấy được. Cho tai các ngươi vì nghe được. Quả thật Ta nói cùng các ngươi: Có nhiều tiên tri và người công chính  đã ước ao điều  các ngươi thấy mà không  được thấy. Đã ước ao nghe điều các ngươi nghe mà không  được nghe” ( Mt 13, 16 -17 ).

Ước ao thấy mà không được thấy đó là thấy Đấng Cứu Thế Giê Su  xuất hiện nơi đời. Còn ước ao nghe mà không  được nghe đó là nghe Chúa rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Có  biết được ơn phúc lớn lao  do việc…nghe Tin Mừng của Đức Ki Tô như thế thì mới hiểu được  giá trị của Việc Truyền Giáo và ra công thực hiện ! Tại sao ?

Bởi vì tất cả sứ mạng cao cả của Việc Truyền Giáo chỉ hệ tại ở việc rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô về Nước Trời Mầu Nhiệm Nội Tại. Chính là với Tin Mừng ấy mà muôn dân trông đợi  chứ không phải là việc “ Cứu Tế Xã Hội” ? Truyền Giáo tất nhiên phải là việc rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô. Thế nhưng để thực hiện công cuộc lớn lao ấy lại đòi hỏi cần có những chứng nhân thực thụ  chứ không phải là những giáo sư, tiến sĩ bằng cấp, khoa bảng đủ loại…

“ Hãy nhớ đến Đức Ki Ti Tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết. Đấng thuộc dòng dõi Đa Vít như đã nói  trong Tin Mừng mà tôi  rao giảng. Vì Tin Mừng ấy mà tôi đã chịu nhiều khổ nhục. Tôi còn phải mang xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng Tin Mừng đâu thể bị xiềng xích. Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự để mưu ích cho những người được Thiên Chúa chọn lựa để họ cũng đạt tới Ơn Cứu Độ  trong Đức Giê Su Ki Tô  và được hưởng vinh quang muôn đời” ( 2Tm 2, 8 -10 ).

Mục đích của Việc Truyền Giáo là để rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô, hầu cho những ai tiếp nhận, cuối cùng sẽ  được hưởng vinh quang Nước Trời chứ không phải để đào sâu kiến thức giáo lý đủ loại  của Trí Tuệ Nhân Tạo, chẳng những chẳng đem lại ơn ích gì cho việc Rỗi Linh Hồn mình  mà  ngày càng xa rời Đạo Thánh Chúa là Đạo Chân Thật ( Ga 17, 17 ).

Như vậy, sự cứu rỗi tất cả là do ở việc tin và sống với Tin Mừng của Đức Ki Tô chứ không phải là am hiểu giáo lý hoặc ngay cả  những việc làm bác ái nếu chỉ theo ý riêng mình: “ Ấy là Đấng đã cứu chúng ta, đã kêu gọi chúng ta bởi  ơn kêu gọi thánh. Chẳng phải theo công việc của chúng ta bèn là theo chỉ định và ơn sủng của Ngài là ơn sủng đã ban cho chúng ta  trong Chúa Giê Su Ki Tô từ trước muôn đời mà hiện nay mới được tỏ ra bởi sự hiện diện của Chúa chúng ta  là Đức Giê Su Ki Tô, Đấng đã bãi bỏ sự chết nhờ Tin Mừng  mà phơi bày sự sống  và sự chẳng hay hư nát ra. Cũng vì Tin Mừng đó mà  ta đã được lập làm nhà truyền giáo, tông đồ và giáo sư. Lại cũng vì cớ ấy  mà ta  chịu những nỗi khổ này. Dẫu vậy, ta chẳng hổ thẹn  đâu vì ta biết Đấng mà ta đã tin và cũng tin chắc rằng  Ngài có thể giữ sự ta đã phó thác cho Ngài đến ngày đó” ( 2Tm 1, 9 -12 ).

Để rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô thì nhất định cần có những chứng nhân: “ Các ngươi là những chứng nhân về mọi việc đó” ( Lc 21, 48 ). Những việc cần làm chứng  đó là Chúa Giê Su đã chết, sống lại và rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Chính do việc…làm chứng ấy, Giáo Hội Công Giáo đã được khai sinh và tồn tại cho đến  ngày nay. Thế nhưng nên nhớ, việc làm chứng ấy luôn đòi hỏi cần có những hy sinh, thậm chí nếu không có hy sinh, cho đến cả  mạng sống mình thì không thể có Đạo Thánh Chúa đúng như lời thánh Tertuliano đã nói: “ Các thánh tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu” ( Sanguis martyrum  semen  christianorum ).

Việc làm chứng  đòi hỏi rất nhiều hy sinh, chịu đựng gian khổ và không kém phần nguy hiểm, vì vậy Chúa Giê Su đã ví việc  được sai đi ấy giống như chiên con đi vào giữa bầy sói dữ: “ Này Thầy sai anh em  đi như chiên con vào giữa bầy sói” ( Lc 10, 3 ). Lý do khiến việc làm chứng nhân cho Tin Mừng…nguy hiểm như thế bởi vì Đạo Chúa là Đạo Xuất Thế Gian: “ Con đã ban đạo Cha cho họ mà thế gian ghen ghét họ vì họ không thuộc về thế gian cũng như Con không thuộc về thế gian vậy. Con chẳng xin Cha cất họ khỏi thế gian nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi sự ác. Họ không thuộc về thế gian cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy lẽ thật  để khiến họ nên thánh. Đạo Cha là đạo thật” ( Ga 17, 14 -17 ).

Làm chứng cho Tin Mừng là làm chứng cho sự thật, thế  nhưng  trong thực tế đời sống, điều ấy thật không hề dễ chút nào…Bằng chứng rõ nhất đó là qua  cuộc bách hại Đạo Công Giáo  diễn ra tại miền bắc sau năm 1954. Sự bách hại ấy trước hết là nhằm cô lập, làm khó dễ  những vị mục tử chăn dắt đoàn chiên như các hồng y, các đức giám mục và sau nữa là toàn thể các Linh Mục, những con người không chịu khuất phục nhà cầm quyền.

Trong số những vị mục tử ấy, đặc biệt có linh mục Nguyễn Văn Vinh ( 1912 – 1971 ) thường được gọi là cha chính Vinh ( TGP Hà Nội ), người  từng du học tại Pháp gần 20 năm, đã đậu bằng tiến sĩ triết học Sorbone, tốt nghiệp Khoa Sáng Tác Âm Nhạc tại Nhạc Viện Quốc Gia…Ngài đã được bề trên ( ĐHY Giu Se Maria Trịnh Như Khuê ) cho phép đem chủng sinh vào nam nhưng đã tình nguyện ở lại để tiếp tục phục vụ  giáo hội,  rồi bị bắt sau vụ ( Noel 1958 ), và  chết dũ tù trong trại giám Cổng Trời ( Hà Giang ) là nơi chuyên  giam giữ  các  tử tù.

Theo lời kể của nhà thơ Tuân Nguyễn ( Không phải nhà văn Nguyễn Tuân ), được nhà văn Phùng Quán kể lại cái chết của cha chính Vinh nguyên văn như sau: “ Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai, ba lần  anh ta mới mở mắt  chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró hình như thoáng có nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta  thè lưỡi liếm mấy giọt nước mắt  rớt trúng vành môi rồi anh ta thều thào nói:

  • Tuân ở lại, mình đi đây…đưa bàn tay đây cho mình…Anh ta  nắm chặt

bàn tay mình  hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi  được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với  một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên  than viết vào lòng bàn tay mình một chữ Nho: Chữ NHẪN.

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than  và lên cơn co giật…Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ  NHẪN ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng  đó là một ám hiệu gì đó…Giám thị hỏi: Cái hình nguệc ngoạc  này có ý nghĩa gì ? Anh mà không thành thật khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam !

Mình nói: Thưa cán bộ, thật tình tôi cũng không rõ, anh ta chỉ nói: Tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa  để xua đuổi bệnh tật và tà khí. Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…” ( Nguồn: Quảng Ngãi Nghĩa Thục – Thằng Khùng – Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá ).

Chữ NHẪN được giải thích cho viên giám thị trại giam  như là một thứ…bùa để trừ bệnh tật, tà khí, nghe như có vẻ đùa  nhưng đó lại là  đức tính quan trọng nhất trong đời sống tâm linh, có liên quan đến niềm hy vọng đời sau của người Công Giáo: “ Vì chúng ta được cứu trong sự hy vọng nhưng sự hy vọng đã thấy được thì không còn là hy vọng nữa. Vì có ai lại hy vọng điều đã thấy rồi ư ? Song nếu chúng ta hy vọng điều chưa thấy thì chúng ta mới nhẫn nại mà đợi trông” ( Rm 8, 24 -25 ).

Cha chính Vinh trong cơn hấp hối, thập tử nhất sinh mà còn…ráng viết một chữ NHẪN  trên lòng bàn tay của người bạn tù. Điều ấy chứng tỏ ngài đã sống chữ  NHẪN  theo gương Thầy Chí Thánh Giê Su của mình một cách trọn vẹn. Tuy nhiên để có thể sống được như thế thì nhất định không được thoả hiệp với thế gian dù trong bất kể hoàn cảnh nào…

“ Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh nói: Đảng và chính phủ muốn anh được tha về nhưng với điều kiện là phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh ( CT/ UBLLCG ). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi. Ngài khẳng khái đáp: Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”

Đường lối của ông Vịnh, một linh mục quốc doanh là thoả hiệp với thế gian. Còn của cha Vinh là Đường Thập Giá Chúa Ki Tô. Thoả hiệp với thế gian  chỉ có thể đưa đến sự hư mất đời đời.  Trái lại Đường Thập Giá Chúa Ki Tô đưa đến vinh quang bất diệt. Người Công Giáo chúng ta chỉ có thể chọn một trong hai con đường ấy mà thôi, không thể có con đường….lưng chừng nào khác !

Nhận ra như thế để cho thấy trong ý nghĩa sâu xa của Việc Truyền Giáo đó cũng là việc thông truyền niềm hy vọng cho nhân loại, một nhân loại đã và đang sống bên bờ tuyệt vọng !!! Thế nhưng làm sao có thể có được niềm hy vọng ấy nếu không có lòng nhẫn nại, đợi trông ?

 

Phùng  Văn  Hoá