8. Đời Sống Tâm Linh

Hạnh Phúc – Chương 2 - 1. CÔNG VIỆC

Thời buổi này có rất ít người được sinh sống bằng công việc mà mình thích. Vì nhu cầu kinh tế nên thay vì được chọn nghề mình thích, người ta bị buộc phải làm những phận việc mà họ chẳng thích. Nhiều người trong họ nói rằng: “Lẽ ra tôi giờ này phải làm một điều gì to tát hơn” hoặc: “Công việc tôi hiện đang làm có quan trọng chẳng qua là vì nhờ nó tôi kiếm được tiền”. Một thái độ như thế thường khiến cho công việc khó được hoàn tất hay khó được thực hiện tươm tất. Người nào biết chọn lựa công việc vì việc ấy chu toàn được một mục đích mà anh tán đồng thì mới là người tăng tiến bản thân nhờ vào công việc. Chỉ mình anh ta mới có thể nói được câu này khi đã chấm dứt công việc đó: “Nó đã hoàn tất xong!”

Ngày hôm nay thật đáng buồn khi nhiều người thiếu sót trong ý thức về nghề nghiệp như thế. Không nên trách móc cái hệ thống kinh tế phức tạp mà nên trách móc sự đổ vỡ những giá trị tinh thần của chúng ta. Nhìn với viễn cảnh thích hợp thì bất cứ công việc nào cũng đều có thể được dùng để cao đẹp hoá chúng ta, nhưng để thấy điều đó thì trước tiên cần hiểu rõ triết lý về lao động.

Mọi phận việc chúng ta làm đều bao gồm hai khía cạnh: thứ nhất là mục đích tức là lý do khiến chúng ta cho rằng việc ấy đáng làm và thứ hai là chính công việc được nhìn tách biệt với cùng đích của nó. Chúng ta chơi quần vợt để mà tập luyện, tuy nhiên chúng ta lại phải chơi hết mình như chỉ để được vui vì đã chơi hay. Kẻ nào lập luận rằng mình vẫn tập luyện nhiều bằng việc chơi cẩu thả trong sân chơi thì kẻ ấy sẽ đánh mất sự hiểu biết khía cạnh thứ hai của tất cả mọi hoạt động đó là phải chu tất mọi phận việc phù hợp với tiêu chuẩn tuyệt hảo riêng của nó. Tương tự như thế, mục đích đầu tiên của một công nhân làm việc ở một xưởng xe hơi có thể là để kiếm tiền, tuy nhiên mục đích của chính công việc lại là sự hoàn tất công việc. Người công nhân lúc nào cũng nên ý thức đến mục đích thứ hai, giống như người hoạ sĩ ý thức đến mục đích là cái đẹp trong khi vẽ, hay bà nội trợ ý thức đến nhu cầu sạch sẽ khi bà ta lau bụi.

Ngày nay, khía cạnh thứ nhất của lao động đã trở nên ưu thắng và người ta có khuynh hướng bỏ lơ khía cạnh thứ hai… đến nỗi nhiều công nhân đã lui hui nửa đời người vào việc lao động. Tuy nhiên họ giống như những người làm vườn chỉ biết bắt buộc cây cải phải đem lại cho họ nước sốt cải nhưng lại chẳng để ý đến việc chọn miếng đất gieo cải cho thích hợp hoặc chăm sóc cây cải cho tươi tốt. Đây quả là một thái độ lầm lẫn: vì chính Chúa cũng đã lao động khi Ngài tạo lập thế gian và rồi khi ngắm nhìn công việc của mình Ngài đã gọi công việc ấy là: “Tốt!”

Niềm hãnh diện chính đáng khi thấy công việc được hoàn tất tốt đẹp sẽ giúp cho công việc giảm đi nhiều nỗi cơ cực. Một số người tuân theo tiêu chuẩn “nghệ tinh” này thường tìm được sự hưng phấn trong bất cứ công việc nào của họ. Họ nhận ra được thoả mãn khi “một công việc được làm chu tất” dù là bện một chiếc ghế mây, chùi chuồng ngựa hoặc khắc một bức tượng cho ngôi thánh đường. Vinh dự và lòng tự trọng của họ được nâng cao dựa vào cái kỷ luật làm cho cẩn thận các công việc ấy. Họ đã giữ lại được thái độ xưa kia của thời trung cổ; vào thời đó công việc được xem là một sự cố thánh thiện, một nghi thức, một nguồn công trạng thiêng liêng. Thời bấy giờ, người ta không làm việc chỉ nhằm lợi ích kinh tế mà còn do sự thúc dục từ bên trong, từ niềm ước muốn phóng chiếu ra quyền năng tạo dựng của Chúa qua nỗ lực riêng của con người chúng ta.

Không nên thực hiện bất cứ phận vụ nào mà không quan tâm đến một trong hai khía cạnh ưu tiên này của công việc. Muốn nối kết được hai điều này với nhau… chẳng hạn niềm vui khi làm ra cái bàn đẹp và mục đích làm ra nó, tức là để kiếm sống… Chúng ta cần ghi vào tâm trí những nguyên tắc sau đây:

Công việc là một bổn phận luân lý chứ không phải chỉ là một nhu cầu vật lý như nhiều người thường nghĩ. Thánh Phaolô từng nói: “Ai không chịu làm việc thì không đáng ăn”. Khi công việc được coi như một bổn phận luân lý thì rõ ràng là nó không chỉ đóng góp vào thiện ích xã hội mà còn tạo ra những ích lợi khác cho chính người công nhân, nó tránh cho anh ta “sự nhàn cư vi bất thiện” cũng như giúp cho xác thân anh ta biết phục tùng ý chí.

“Làm việc là cầu nguyện”. Cuộc sống qui củ không loại sự cầu nguyện qua một bên cho đến lúc làm việc xong mà là biến công việc thành một lời cầu nguyện. Chúng ta chu tất được điều này nếu chúng ta biết hướng về Chúa khi khởi đầu và hoàn tất một phận việc và dùng tâm trí dâng nó lên cho Ngài vì lòng yêu mến Ngài. Như thế, dù đang nuôi một đứa trẻ, hay đang sửa một bình chứa hoà khí, đang xoay cái máy tiện hoặc đang điều khiển thang máy, phận việc nào cũng đều được thánh hoá hết. Không việc đạo hạnh nào trong các giờ rảnh rỗi có thể bù đắp sự cẩu thả trong khi làm việc. Tuy nhiên, bất cứ phận sự nào, nếu làm chu đáo, thì cũng có thể biến thành một lời cầu nguyện.

Antonio xứ Florence, một nhà kinh tế thời Trung cổ, tóm lược mối tương giao giữa công việc và cuộc sống trong công thức mang lại hạnh phúc sau đây: “Mục đích việc kiếm tiền là giúp chúng ta có thể nuôi mình và những người khác là để mọi người có thể sống cho nhân đức. Mục đích việc sống nhân đức là để cứu rỗi linh hồn chúng ta và để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu”.

Xét cho công bằng, mọi công việc phải nhận được hai loại phần thưởng, vì công việc không chỉ mang tính cách cá nhân mà còn mang tính cách xã hội nữa. John Jones làm việc trong một hầm mỏ, vào cuối ngày anh ta bị mệt mỏi, đây là sự hy sinh của cá nhân anh ta. Vì sự hy sinh này, John nhận được lương. Tuy nhiên, suốt cả ngày, John Jones cũng đã thực hiện sự đóng góp mang tính xã hội vào thiện ích của đất nước và của thế giới. Thế mà, ngày hôm nay, mặc dù có đóng góp cho xã hội, John Jones đã chẳng được nhận thêm gì hết, dầu rằng về mặt luân lý anh ta có quyền được chia sẻ cái thiện ích xã hội mà công việc anh ta tạo ra.

Vì thế, chúng ta cần điều chỉnh lại hệ thống lương sao cho người công nhân có thể chia sẻ về mặt lợi nhuận, về quyền sở hữu quyền điều hành ngành công nghiệp của mình. Khi các nhà lãnh đạo công nhân và các nhà tư bản đồng ý với nhau để cho công nhân một số vốn để bảo vệ họ, thì bấy giờ sẽ không còn hai nhóm đối nghịch trong ngành công nghiệp nữa; công nhân và giới điều hành sẽ trở nên những phần tử cùng hợp tác làm việc với nhau, giống như hai chân của một người cùng hợp lại để giúp anh ta bước đi vậy.

Gm. Fulton Sheen

Niềm Tín Thác – Chương VIII: CHÚA GIÊSU SỐNG TRONG LINH HỒN ĐÃ TRỞ NÊN GIỐNG HỆT NHƯ NGÀI

–  CUỘC SỐNG CỦA LINH HỒN TRỞ NÊN GIỐNG HỆT CHÚA GIÊSU LÀ GÌ ?

– SỰ CHUẨN BỊ MÀ CUỘC SỐNG ĐÓ ĐÒI HỎI. TIẾNG GỌI HIỆU NGHIỆM CỦA CHÚA GIÊSU.

–  PHẢI DỰ TRỮ NHIỀU TÍN THÁC.

Cuộc sống của một linh hồn đã trở nên giống hệt với Chúa Giêsu.

– Sau khi linh hồn đã tập sống một thời gian trong sự thân mật với Chúa Giêsu, và trong sự đồng hành liên lỉ như thế của Chúa, nó đã dần dần phù hợp với những ý nghĩ, những sở thích và những ước ao của nó với những ý nghĩ và những ước ao của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu sẽ mời nó tiến xa hơn nữa. Ngài nói với nói : “Hãy căng buồm ra khơi !” (Lc 5,4). Giai đoạn thứ nhất nay đã vượt qua, Ngài đề nghị với linh hồn trung tín một cuộc sống mới, không chỉ là sống thân mật với Ngài, nhưng là sống cuộc sống giống hệt như Ngài.

Bởi vì Chúa Giêsu Thánh Thể không chỉ đến trong linh hồn ta, để nhận lấy những sự tôn thờ của ta. Ngài không ở thường trực trong linh hồn ta, để nhận lấy những lời cầu xin và những lễ tế của tình mến yêu của ta mà thôi. Ngài đến và cư ngụ trong ta, nhất là để sống trong ta, với ta, để thánh hóa ta và biến đổi ta nên giống hệt như Ngài.

Thánh Phaolô đã nói rất rõ ràng về điều này. Đó là một trong những đề tài thường xuyên các bài giảng dạy của Ngài. “Nhờ phép thánh tẩy, chúng ta cùng chết và cùng sống lại với Chúa Kitô”. Chúa Kitô sống trong chúng ta để phát triển tới tuổi hoàn hảo. Chúng ta, những Kitô hữu, là chi thể của Chúa Kitô : “Anh em là thân thể Chúa Kitô, anh em là các chi thể của Ngài”. (1Cr 12,27).

Chúng ta phải mặc lấy Chúa Giêsu Kitô. “Anh em hãy mặc lấy Chúa Kitô” (Rom 13,14). Chúa Giêsu xin tôi, cũng như xin mọi người, hãy cho Ngài chỗ ở trong tôi, hãy để Ngài sống tự do và sống cách đầy đủ ở trong tôi. Cuộc sống trần gian của Ngài đã không chấm dứt tại Núi Sọ… Ngài muốn tiếp tục sống cách mầu nhiệm trong các Kitô hữu, và nhờ họ mà kéo dài cuộc sống ba mươi năm của Ngài. Ngài muốn tiếp tục tôn thờ, yêu mến và tôn vinh Cha Ngài ở trong họ và với họ.

“Chúa Kitô đã nhập thể vì lòng yêu mến Cha Ngài. Ngài đã sống ba mươi ba năm nơi trần gian này, luôn chỉ lo yêu mến và tôn vinh Cha Ngài. Giai đoạn đầy xúc động của tấm thảm kịch tình mến yêu này đã diễn ra trên đồi Golgotha. Nhưng Chúa Giêsu đã sống lại : Ngài đã chết nhưng Ngài vẫn sống. Tình yêu của Thiên Chúa làm người đã không bị tắt đi ở trong mồ. Tình yêu này vượt ra ngoài những giới hạn của cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu. Lời kêu la “Tôi khát” trên Núi Sọ vẫn được Chúa Giêsu hiển vinh cảm thấy hôm nay. Như thế nghĩa là gì ? Nghĩa là Chúa Giêsu không lấy việc yêu mến Cha Ngài trên thiên đàng và trong các Nhà tạm làm đủ. Không, mặc dầu tình mến yêu đó đã vô cùng lớn lao, nhưng chưa đủ để thỏa mãn niềm ao ước nồng nàn của Ngài. Chúa Giêsu muốn nhiều hơn nữa. Thảm kịch của tình mến yêu của Chúa Giêsu đối với Cha Ngài sẽ phải tiếp nối trên trái đất này. Qua mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu chuộc của Ngài, Chúa Giêsu Kitô đã tự tạo cho mình một thân thể mầu nhiệm, qua và trong Nhiệm thể này, Ngài sẽ tiếp tục sống, mến yêu và tôn vinh Cha Ngài. Ngài đã kết hiệp với những nhân tính mới, không phải cách bản thể như tại Nazareth, nhưng cách mầu nhiệm; một sự kết hiệp tuy mầu nhiệm, nhưng hiện thực, rất mật thiết và rất kỳ diệu. Chúa Kitô đầy đủ là Chúa Kitô hiệp nhất với toàn thể các Kitô hữu của Ngài, là Đầu kết hiệp với Nhiệm thể của Ngài. Và tình mến yêu đầy đủ của Chúa Giêsu là tình mến yêu của Trái Tim Chúa Giêsu kết hiệp với tình yêu mến của muôn triệu trái tim Kitô hữu sẽ yêu mến Thiên Chúa ngàn đời, cho đến tận thế. Đó là kỳ công kiệt tác của tình yêu Thiên Chúa. Chỉ tình mến yêu này mới làm thỏa lòng Chúa Giêsu trong tình mến yêu vô cùng của Ngài đối với Cha Ngài”[1]

“Chúa Giêsu yêu mến Cha Ngài vô cùng, yêu mến đến điên rồ. Ngài khát khao yêu mến Cha không chỉ bằng cuộc sống của Ngài, dầu là cuộc sống thần linh, và yêu mến Cha không chỉ bằng Trái Tim của Ngài, dầu là Trái Tim của Thiên Chúa làm người. Nhưng Ngài còn khát khao yêu mến Cha Ngài trong muôn triệu con tim của các Kitô hữu, chi thể của Ngài, cho đến tận thế. Tình mến yêu của Ngài muốn được biểu lộ đến vô cùng, nghĩa là Ngài muốn chúng ta hiến dâng trái tim của mình cho Ngài, trao cho Ngài được quyền hoàn toàn sử dụng để yêu mến Cha Ngài, cho thỏa lòng mến yêu vô cùng của Ngài. Ngài xin mỗi người chúng ta dâng hiến cho Ngài tất cả con người của chúng ta, thân xác và linh hồn chúng ta cùng với tất cả các tài năng của linh hồn ta, để Ngài nhận lấy làm của Ngài và có thể sống cuộc đời mến yêu Cha Ngài qua đời sống của chúng ta. Không! Ba mươi ba năm không đủ cho Ngài. Ngài muốn tiếp tục sống, cầu nguyện, yêu mến, chịu đau khổ thêm nữa. Ngài xin mỗi người chúng ta “thêm cho Ngài một tính loài người nữa”, như kiểu nói của chân phước Elisabeth Chúa Ba Ngôi, để Ngài tiếp tục yêu mến Cha Ngài nơi trần thế này. Ngài nói với mỗi người chúng ta rằng : “Con ơi ! Hãy dâng trái tim của con cho Cha, để nhờ trái tim đó, Cha kết hiệp với đời sống của con, và cùng với con, chúng ta yêu mến Chúa Cha hết lòng. Con hãy cho Cha môi miệng của con, để chúng ta cùng nhau hát lời ngợi khen Thiên Chúa. Con hãy dâng cho Cha tâm trí của con, đôi mắt của con, hai bàn tay của con, để chúng ta suy nghĩ và sống tình yêu Chúa Cha. Cha muốn sống thêm một cuộc đời thứ hai ở trong con, một cuộc đời chan chứa mến yêu, để bổ túc và kéo dài cuộc sống của Cha ở Nazareth xưa”[2]

Sự chuẩn bị mà cuộc sống này đòi hỏi. Lời kêu gọi hiệu nghiệm của Chúa Giêsu.

– Lời kêu gọi hãy sống đồng nhất với Ngài, Chúa Giêsu gửi tới hết mọi người. Ngài xin tất cả các Kitô hữu hãy kết hiệp với Ngài, hãy trở nên chi thể thật sự của Ngài, hãy sống như một chi thể của Ngài. Nhưng có một tiếng gọi mạnh mẽ hơn, tha thiết hơn, hiệu nghiệm hơn, được Chúa muốn cho một số linh hồn nghe rõ hơn. Lời mời gọi này, Chúa không thể gửi tới tất cả mọi linh hồn, vì như thế lời kêu gọi của Ngài không được lắng nghe và dễ bị quên lãng. Ngài chỉ dành lời mời gọi này cho những linh hồn quảng đại, đã biết chết cho bản thân và đã bắt đầu sống thân mật với Ngài.

Trước hết linh hồn đó phải dần dần từ bỏ những tâm tình và ý muốn riêng của mình. Nó đã phải nếm thử mùi cay đắng khi nhìn thấy sự xấu xa của mình, để cảm thấy chán ghét mình và dứt bỏ tính tự ái. Vào những giờ phút yêu mến thiết tha, Chúa phải vén lên một chút tấm màn che khuất thánh nhan Ngài, để linh hồn có thể say mê nhìn ngắm Ngài. Linh hồn phải nhiều lần nhận thấy sự đối nghịch giữa sự xấu xa của bản thân nó và sự tốt lành thần linh của Chúa Giêsu, để nó phải kêu lên lời nồng nàn này : “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô, và chết là một điều có lợi” (Philip 1,21). “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi” (Ga 3,30). Bây giờ giảm đi, mất đi, chết đi, không còn là một mất mát, một sự cay đắng, một hy sinh. Nhưng đó là một điều có lợi. Đó là mơ ước của nó. Người phong cùi trên con đường đang được chữa lành sẽ không khóc, không nuối tiếc những máu mủ hôi tanh và những vảy da gớm ghiếc đang rơi xuống từ thân xác nó. Chết đi để được sống trong Chúa Kitô, thôi là bản thân mình để trở nên chi thể của thân xác Chúa Kitô, đó là hạnh phúc lớn lao của những linh hồn sẵn sàng sống cuộc đời đồng hóa với Chúa Kitô : “Mỗi Kitô hữu là một Chúa Kitô khác”.

Từ đáy lòng họ, Chúa Kitô kêu gọi các linh hồn hãy sống cuộc sống mới này, và lời mời gọi của Ngài rất tha thiết. Lời mời gọi này cũng là một lời hứa, một cam kết sắp bắt đầu và Chúa Giêsu sẽ không để dở dang : “Đấng đã bắt đầu công việc tốt lành này nơi anh em, Ngài sẽ hoàn thành cho tới ngày của Chúa Giêsu Kitô” (Philip 1,6).

Bây giờ Chúa Giêsu có thể kêu gọi linh hồn, vì Ngài đã chuẩn bị nó bằng nhiều ân sủng, nhiều lần viếng thăm và nhất là bằng nhiều nguyện vọng nồng nàn. Ngài đề nghị với linh hồn, vì Ngài biết nó cũng đang tha thiết ước ao. Những ước ao và những khát khao của Chúa Giêsu đã hòa nhịp với những khát khao của linh hồn đạo đức. Đó là bảo đảm chắc chắn nhất của sự toàn thắng sau cùng của Chúa Giêsu : Chúa sẽ dẫn linh hồn tới sự thánh thiện như lòng Ngài mong ước, và như chính linh hồn tha thiết cầu mong.

Phải dự trữ nhiều tín thác.

– Hỡi những linh hồn diễm phúc đã được Chúa Giêsu khuôn đúc theo ý thích của Ngài, trong sự giao tiếp thân mật lâu ngày với Ngài, Ngài đã gợi hứng cho các bạn ước ao một cuộc sống toàn thiện hơn, hoàn toàn chết cho bản thân mình để sống đồng hóa với Ngài, các bạn hãy vui mừng, hãy nhảy mừng : “Các bạn hãy vui mừng, tôi nói lại một lần nữa, các bạn hãy vui mừng !” (Philip 4,4). Các bạn hãy mở rộng tâm hồn ra, hãy trọn niềm tín thác nơi Chúa Giêsu, Đấng yêu thương các bạn rất nhiều. Chúa đã chẳng gợi hứng cho các bạn tha thiết ước mong nên thánh và nên trọn lành như thế, nếu Ngài không nóng lòng muốn lo cho các bạn nên thánh. Những khát khao này, những ước mong này, chính Ngài đã sống và cảm nghiệm trong các bạn. Đó là những khát khao của Ngài, khát khao yêu mến Cha Ngài ở trong và nhờ các bạn.

Có thể đã hơn một lần, các bạn cảm nghiệm thấy những tâm tình ngọt ngào này. Những khát khao yêu mến nồng nàn này, những vui sướng mà Chúa đã cho bạn được nếm thử khi chiêm ngưỡng Thánh Tâm Ngài, đó không phải là tình mến yêu của bạn, do tập luyện nhân đức và do những nỗ lực của bạn. Không, đó là chính tình yêu của Chúa Giêsu đang sống trọn vẹn ở trong bạn. Ngài sống, suy nghĩ và mến yêu ở trong bạn. Vậy bạn hãy chạy nhảy, hãy bay lên với niềm tín thác trọn vẹn, trên những nẻo của con đường trọn lành. Nếu các ý nghĩ và các nguyện vọng của bạn hoàn toàn phù hợp với các ước vọng của Chúa Giêsu, nếu bạn không muốn gì khác ngoài những điều Ngài muốn, thì Chúa còn ước ao gì hơn ?

Chúa Giêsu sẽ thỏa lòng, vì Ngài sẽ có thể yêu mến Cha Ngài ở trong bạn bằng một tình mến yêu bao la vô cùng… Rất đáng buồn là nhiều linh hồn không hiểu ý Ngài, không cho Ngài mượn trái tim để yêu mến Cha Ngài. Bạn là trong số những linh hồn diễm phúc đã làm theo ý Ngài. Bạn đã an ủi và đền bù cho Ngài rất nhiều. Ngài rất vui sướng, và Ngài càng yếu mến Cha Ngài hơn và đổ xuống linh hồn bạn nhiều hồng ân yêu thương, vì Ngài đã không thể làm như vậy với nhiều linh hồn khác. Vâng, bạn có thể cậy trông mọi sự nơi Chúa Giêsu.

Chị thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu yêu dấu của chúng ta đã đi qua con đường trọn vẹn tín thác nơi  tình thương của Chúa, và chị thánh đã không bao giờ bị thất vọng vì những ước ao táo bạo và liều lĩnh của mình. Vào buổi chiều của cuộc đời ngắn ngủi của mình, chị thánh đã có thể vui sướng kêu lên : “Ôi lạy Chúa, tình thương của Chúa đã ấp ủ con từ lúc lọt lòng mẹ. Tình thương đó đã lớn lên với con, và nay thì đó là một vực thẳm con không thể nào đo lường được”.

Các bạn hãy bắt chước chị thánh Têrêxa trong tình mến yêu quảng đại và niềm tín thác trọn vẹn của chị thánh. Hãy dự trữ nhiều tin tưởng và tín thác. Hãy lắng nghe tiếng nói rất dịu dàng của Chúa Giêsu vào những giờ phút diễm phúc, khi bạn cảm thấy Ngài ở trong tâm hồn bạn. Rồi sẽ đến những giờ phút, có thể là lâu dài, của đêm tối và của lo âu, khi ánh sao thân mến sẽ ẩn mình đi. Có vẻ như Chúa Giêsu không muốn được bạn yêu mến Ngài nữa. Có thể bạn sẽ tưởng như Chúa Giêsu đã bỏ đi, mặc cho bạn với thân phận đáng buồn của mình, như những người hành khất qúa xấu xa, không đáng kết hiệp với Ngài là Vua các vua… Bạn hãy dự trữ nhiều tín thác cho những ngày dài đó, có thể là những năm tháng dài của “đêm tối tâm trí”.

Hôm nay, khi bạn đang ở trong niềm an vui của tình thương ngọt ngào của Chúa, bạn hãy ghi sâu vào đáy lòng những ước ao của Chúa Giêsu và những lời đầy yêu thương của Ngài, bạn hãy hứa với Chúa rằng bạn sẽ không bao giờ nghi ngờ tình thương bao la của Ngài, không bao giờ thôi tín thác nơi Ngài, cả những ngày Ngài sẽ ẩn mặt đi để thử thách lòng mến yêu và niềm tín thác của bạn. Bạn hãy thưa Chúa như thánh Phaolô : “Ai có thể làm tôi xa rời tình thương của Chúa Kitô ? Những gian truân chăng ? Những lo âu chăng ? Những bách hại chăng? Tôi chắc chắn rằng dầu sống hay chết, dầu bất cứ quyền hành nào, dầu bất cứ tạo vật nào cũng không thể tách tôi ra khỏi lòng mến yêu Thiên Chúa, trong Đức Giêsu-Kitô, Chúa chúng ta” (Rom 8,35-39).

Còn các bạn, các bạn diễm phúc hơn trong  hạnh phúc không cảm thấy của mình, hỡi các bạn đang sống trong “đêm tối của tâm trí”, các bạn đang bước đi trong lo âu, hướng tới sự giải thoát sau cùng. Các bạn hãy nhớ những gì Chúa Giêsu đã nói với các bạn trong những ngày êm ái, khi các bạn được dựa đầu trên trái tim Ngài. Ngài đã đòi hỏi các bạn phải có một niềm tín thác mù quáng và không lay chuyển, một niềm tín thác trọn vẹn vào sự trung tín vô cùng của Ngài. Ngài đã nói với các bạn : “Con đừng sợ những sự khốn nạn và những bất toàn của con, vì Cha có thể thắng tất cả. Con đừng sợ gì hết, cả những khi mọi sự xem ra hỏng hết, bởi vì Cha có thể chọn cho con con đường con không thấy và con không ngờ, chính con đường đó sẽ đưa con tới đỉnh cao của sự thánh thiện và biến đổi con trong tình mến yêu”. Ngài đã nói như thế với bạn, và đáp lại, bạn đã hứa trung thành với tình mến yêu Ngài, cho dầu sẽ gặp gian nan và thử thách.

Vậy thì bây giờ là lúc phải chứng minh sự trung thành của bạn, phải cậy trông khi không còn gì để cậy trông, phải tin tưởng khi không có vẻ gì là nên tin tưởng, phải tin rằng Chúa Giêsu là Đấng trung tín vô cùng, Ngài yêu thương bạn và vẫn yêu thương bạn rất nhiều như xưa : Ngài yêu thương bạn không phải vì bạn tốt lành và dễ thương, nhưng chỉ vì Ngài là Đấng tốt lành vô cùng và yêu thương ta là con cái Cha trên trời và là em Ngài. Đừng sợ gì hết, đừng thay đổi những tâm tình của bạn trước đây. Đây là giờ phút của niềm tín thác tinh ròng và tuyệt đối siêu nhiên. Hãy can đảm lên ! Đêm tối có thể còn kéo dài và đau đớn, nhưng nó sẽ chấm dứt. Hừng đông sẽ ló rạng, chắc chắn sẽ ló rạng, có khi sắp ló rạng, và Chúa Giêsu, Mặt trời sáng láng và vô cùng mến yêu sẽ xuất hiện, huy hoàng hơn bao giờ hết.

Paul De Jaegher S.J. 

[1] P. De Jaegher S.J, La vie d’identification au Christ- Jésus, Nhà xuất bản Cerf, Juvisy, 1931, tr. 23-24

[2] P. De Jaegher, Sđd. tr. 24-25

Niềm Tín Thác – Chương VII: CHÚA GIÊSU NGÔI LỜI THIÊN CHÚA KHÁCH TRỌ THƯỜNG XUYÊN CỦA TÂM HỒN

–   LINH HỒN LÀ BÌNH THÁNH THƯỜNG XUYÊN CỦA CHÚA GIÊSU, NGÔI LỜI THIÊN CHÚA. MỘT CHÂN LÝ QÚA ÍT ĐƯỢC NHẬN BIẾT.

–   HẠNH PHÚC THAY NGƯỜI CẬY TRÔNG MỌI SỰ NƠI CHÚA GIÊSU. NIỀM TÍN THÁC CỦA NGƯỜI ĐÓ SẼ LIÊN LỈ.

–   NHẤT LÀ NGƯỜI ĐÓ TÍN THÁC TRONG VẤN ĐỀ NÊN THÁNH, VÌ CHÚA GIÊSU ƯỚC AO ĐIỀU ĐÓ HƠN NGƯỜI ẤY.

–   SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA GIÊSU GỬI CHO TÂM HỒN CÁC LINH MỤC.

Linh hồn là bình thánh thường xuyên của Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa.

– Những giây phút qúi báu dường nào, những giây phút tiếp theo sau lúc Chúa Giêsu ngự vào tâm hồn tôi, để tôi được dựa trái tim mình trên Trái Tim Ngài, tâm sự với Ngài cách thân mật. Người ta muốn kéo dài những giây phút diễm phúc này, nhưng chúng qua đi mau qúa ! Ôi Chúa Giêsu, phải chăng con sắp phải từ biệt Chúa, chào Chúa và hẹn gặp Ngài khi rước lễ ngày mai?

Không phải thế đâu ! Chúa Giêsu yêu mến của tôi không thể dứt tình thương yêu chúng ta như thế. Không lẽ nào người đời lại được thuận lợi hơn những người được Chúa yêu thương, không lẽ nào họ có thể ngồi với nhau và tâm sự với nhau lâu hơn linh hồn mến yêu được ở gần Chúa Giêsu rất mến yêu của mình. Chúa Giêsu không muốn chịu thua về bất cứ điều gì. Ngài vượt xa mọi người về khả năng yêu thương, Ngài cũng sẽ vượt xa họ về sự thân tình.

Xét như Ngài là Thiên Chúa làm người, với máu thịt của Ngài, Ngài không còn ở trong linh hồn tôi nữa, sau khi hình bánh hình rượu đã bị tiêu hóa đi. Nhưng Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ ở lại cách hiện thực đêm ngày ở trong tôi. Linh hồn tôi, nhờ ân sủng thánh hóa mà Chúa Giêsu hằng nuôi dưỡng bằng việc rước lễ, là như bình thánh và bàn thờ của thần tính của Ngài[1]. Từng giờ từng phút đêm ngày, Ngài cư ngụ trong tôi và chiếc đèn chầu nhỏ bé sẽ cháy sáng đêm ngày trước mặt Ngài, chính là chiếc đèn chầu của tình mến yêu trung thành và của sự thân mật của tôi với Ngài.

Rất nhiều linh hồn đạo đức đã không bao giờ hiểu biết sự hiện diện thật sự của Chúa Ba Ngôi trong linh hồn người công chính cũng như sự hiện diện của Ngôi Lời Thiên Chúa. Họ biết mình được kết hiệp với Chúa Giêsu bằng những sợi dây của tình yêu mến. Họ biết Ngài là đầu của nhiệm thể, và chúng ta là những chi thể của Ngài, Ngài là thân cây nho và chúng ta là những ngành nho được Ngài làm cho sống. Nhưng họ chưa bao giờ thật sự hiểu rằng Chúa Kitô đang hiện diện trong họ cách thật sự và cách hiện thực; rằng muốn thưa chuyện với Ngài, họ không cần phải ngửa mặt lên trời để chiêm ngưỡng Ngài trong vinh quang Chúa Cha, vì chính họ là trời và là ngai tòa của Ngài, nơi Ngài đang chờ mong họ từng giây từng phút. Ngài có thể nói với họ như đã nói với thánh nữ Catarina thành Siena, lúc đó còn là một thiếu nữ rằng : “Con đừng buồn vì không thể đi nhà thờ mỗi ngày như con muốn, bởi vì Ta ở trong linh hồn con : hãy coi đó là ngôi nhà nguyện con có thể gặp Ta ngày và đêm”[2].

Nếu như cho tới nay tôi vẫn chưa hiểu rõ sự hiện diện hiện thực của Chúa Giêsu trong linh hồn tôi do ân sủng thánh hóa, – nếu tôi chỉ hiểu như một cách nói bóng bảy, một thứ hiệp thông mơ hồ bằng tình cảm, thì từ nay tôi sẽ cố gắng suy gẫm nhiều hơn về sự hiện diện diễm phúc này. Và chúng ta cũng đừng ngạc nhiên về sự sai lầm này của mình. Rất nhiều linh hồn, cả những linh hồn quảng đại, đã không bao giờ nhận thức rõ ràng, hoặc chỉ hiểu cách sơ sài về sự Thiên Chúa cư ngụ trong linh hồn ta, và nhân đó họ không có thói quen than thở và tâm sự với Chúa Giêsu đang ở trong linh hồn họ. Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu coi những lời than thở và tâm sự này như cách thế tốt nhất để một ngày nào đó đạt tới đỉnh của việc chiêm niệm ! Chị thánh nói do đã có kinh nghiệm. Chị thánh đã đi qua những con đường đó, và chị muốn giúp các linh hồn khác đi qua. Nhiều khi chị thánh phàn nàn với các nữ tu Carmêlô rất sốt sắng, về sự nhiều linh hồn say mê cầu nguyện mà vẫn cứ đi tìm Thiên Chúa ở rất xa trên trời, thay vì đến với Chúa ngay trong linh hồn họ.

Như vậy ta thấy Chúa Giêsu dành phần rất tốt đẹp cho những ai yêu mến Ngài. Tình yêu thương của Ngài vượt xa tất cả mọi tình thương yêu trên trái đất này. Một người mẹ cũng nhiều lúc phải xa đứa con nhỏ bé rất yêu thương của mình. Người bạn tình ở đời cũng có những giờ phải đi làm ăn, không thể ở luôn bên cạnh bạn thân của mình. Trái lại những ai đã cảm thấy Chúa Giêsu trong linh hồn mình, những ai đã khám phá ra chân lý tốt lành này, sẽ biết rằng Chúa Giêsu không rời xa họ một giây phút nào : Ngài không bao giờ rời bỏ bình thánh là linh hồn ta. Cho nên bất cứ giờ phút nào, ta cũng có thể gặp Ngài, nhất là trong những khi khốn khó và những lúc gặp đau khổ.

Hạnh phúc thay những người cậy dựa vào Chúa Giêsu trong mọi sự.

– Bởi vậy họ chạy đến với Chúa Giêsu luôn luôn, vì Ngài là Đấng Toàn Năng và đầy lòng thương xót và đang cư ngụ trong linh hồn họ. Họ thấy điều đó qúa dễ dàng. Cũng không cần phải đọc bất cứ kinh nào, dầu rất vắn tắt. Chỉ cần họ nhìn lên Chúa, một tiếng kêu của đáy lòng, một lời than thở nồng nàn là đủ. Giữa những nghi nan, những khó khăn, những buồn phiền, các lời than thở đó tự động phát ra từ nơi thẳm sâu của linh hồn, không cần suy nghĩ gì hết. Trong khi những người khác quên chạy đến với Chúa Giêsu và chỉ cậy trông vào sức mình, vào tài năng của mình và vào những may rủi tự nhiên của cuộc đời, thì những linh hồn này luôn luôn tin cậy và tín thác nơi Chúa Giêsu. Và niềm tín thác của họ đã gia tăng cùng với sự thân mật như thế với Ngài. Dần dần, họ không xa rời Ngài một lúc nào. Họ không làm gì một mình nữa. Nếu họ làm thế, họ sẽ cảm thấy không ổn, như thiếu thốn một cái gì. Họ làm mọi sự với Chúa Giêsu đang ở trong họ. Họ cảm thấy sự hiện diện của Ngài rất ngọt ngào. Và sự ngọt ngào này đã vô cùng lớn lao vào những giờ phút diễm phúc, khi mà để tưởng thưởng họ, để khuyến khích họ thêm tín thác và sống thân mật với Ngài, Chúa Giêsu đã cho linh hồn họ cảm nghiệm thấy sự hiện diện thần linh của Ngài : đó là kinh nghiệm vô cùng diễm phúc của những bậc thần bí. Họ cảm thấy như được ôm lấy Chúa Giêsu, không những trong những giờ phút chiêm niệm, mà cả trong những lúc làm việc và hoạt động.

Người ta thuật lại rằng thánh nữ Rosa thành Lima thoạt tiên đã tỏ ra sợ sệt và nhút nhát, khi chiều xuống, không dám một mình đi lại trong khu vườn nhỏ của nhà mình. Một đêm, chị nhìn thấy một người hiền thê trẻ dựa đầu trên vị phu quân yêu mến của mình và bình thản bước đi trong đêm tối. Đó đã là một tia sáng cho Rosa, và từ đó chị không còn sợ nữa.

Hình ảnh tốt lành này là hình ảnh những linh hồn kết hiệp thân mật với Chúa Giêsu trong trái tim mình. Người ta có thể áp dụng cho họ những lời của sách Diễm Ca : “Cô nào đang đi lên từ hoang địa kia, dựa vào người yêu của mình ?” (Dc 8,5). Trong tất cả mọi sự, những linh hồn này tin cậy vào cánh tay uy quyền của Đấng mà họ yêu mến : họ tín thác trọn vẹn nơi Ngài và thanh thản, vui vẻ bước qua những chông gai của cuộc đời.

Hãy tín thác, nhất là trong việc nên thánh, vì Chúa ao ước điều đó hơn bạn.

– Những linh hồn kết hiệp thân mật với Chúa Giêsu thì tín thác mọi sự nơi Ngài. Họ tin tưởng và tín thác nhất là trong những chuyện mà người khác tỏ ra nhút nhát. Họ tin tưởng rằng : mặc dầu họ đã có những bất trung và những sự hèn nhát, họ sẽ có ngày đạt tới sự kết hiệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, sẽ nên thánh và nên giống Chúa. Nơi đáy lòng họ, Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa luôn ở đó và nói với họ : “Thầy ở trong con. Thầy đã chết vì yêu thương con. Chắc con yêu mến Thầy nhiều chứ !”. Đôi khi tiếng nói của Chúa Giêsu rất dịu dàng và thân ái, làm cho linh hồn xúc động vì yêu mến Chúa. Làm sao linh hồn không yêu mến Ngài hết lòng và trọn niềm tín thác nơi Ngài ? Chúa nói với linh hồn : “Hãy mến yêu Thầy cách nồng nàn, như Thầy yêu thương con. Hãy tín thác trọn vẹn nơi Thầy. Thầy là của con, con cũng hãy thuộc trọn về Thầy !”.

Lạy Chúa Giêsu, làm sao có thể như thế được! Vâng, con chỉ ước ao một điều, là mến yêu Chúa hết tâm hồn con. Con không mơ ước điều gì khác : con sẽ chỉ hoàn toàn hạnh phúc khi trọn vẹn thuộc về Chúa trong một tình mến yêu trọn vẹn. Niềm ước ao của Chúa cũng là niềm ao ước của con; ước mơ của Chúa là mơ ước của con; lý tưởng của Chúa là lý tưởng của con. “Như con nai khát nước mong sao tìm được suối nước, linh hồn con cũng khát khao Chúa như vậy”. Vậy ai có thể ngăn cản sự thực hiện của những ao ước chung của chúng ta ? Chướng ngại vật nào có thể chắn ngang sự khát khao chung của chúng ta ? Những khiếm khuyết và những lỗi lầm của con sẽ tan biến đi như nước đá dưới sức nóng của tình yêu. Vâng, lạy Chúa Giêsu yêu mến của con, bây giờ con đã thấy rõ, và con tin chắc rằng sẽ có ngày linh hồn con kết hiệp thân mật và hoàn toàn với Chúa bằng sợi dây của tình mến yêu tinh ròng, trong đó mọi ước nguyện của con và mọi ước ao của Chúa sẽ hoàn toàn được thực hiện, và con sẽ trở nên thánh thiện.

Ôi ! Bao giờ ngày diễm phúc đó mới đến ? Con hết lòng cầu chúc nó mau đến. Lạy Chúa Giêsu, bao giờ linh hồn sẽ chết cho bản thân nó, để hoàn toàn sống bằng sự sống của Chúa ? Ôi ! Con nóng lòng mong đợi ngày đó !

Hỡi linh hồn tôi ! Hãy nhẫn nại một chút ! Như thế sẽ thêm công phúc cho mi, và thêm vinh hiển cho Chúa Giêsu. Sẽ là điều ngọt ngào cho Chúa hơn, an ủi cho Ngài hơn, nếu Ngài chinh phục được linh hồn mi từng bước một. Những ước ao nóng nảy và thiếu kiên nhẫn của mi, nếu làm mi đau khổ, sẽ làm Ngài vui thỏa lắm. Chúng giống như một lời cầu nguyện, như một làn hương thơm bay lên tới Ngài từ bàn thờ linh hồn mi. Cây sồi to lớn, niềm kiêu hãnh của những cánh rừng của chúng ta, không một ngày mà thành như thế. Đã phải qua bao năm tháng, bao xuân hạ thu đông. Đã có bao nhiêu gió táp mưa ngàn, để tỉa bớt những nhánh nhỏ, hầu dành sức sống cho những ngành lực lưỡng. Tình mến yêu của mi cũng sẽ có ngày như cây sồi oai hùng, niềm vui và niềm kiêu hãnh của Chúa Giêsu. Chính Ngài đã giảng dạy như thế : “Nước trời giống như hạt cải. Nó là hạt bé nhỏ nhất trong các hạt giống, nhưng khi nó đã lớn lên và phát triển, nó sẽ là cây lớn nhất của loài thảo. Chim trời sẽ đến làm tổ nơi các ngành của nó” (Mt 13,31).

Sứ điệp của Chúa Giêsu gửi trái tim các linh mục.

 Trước đây vài năm, Chúa Giêsu đã gửi một sứ điệp qua một trong những linh hồn tâm phúc của Ngài, được biết dưới cái tên “sứ điệp của Thánh Tâm Chúa Giêsu gửi trái tim các linh mục”. Đó là một lời kêu gọi nồng nàn, xin hãy sống một cuộc sống thân mật và kết hiệp chặt chẽ với Chúa Giêsu. Người ta đọc được những lời thiết tha như sau : “Con hãy loan truyền lời kêu gọi của Trái Tim Cha đến tận cùng trái đất ! Nhất là con hãy đem tới các linh mục Cha yêu mến. Hỡi các linh mục, những Kitô khác của Cha, ước chi họ hiểu niềm ước ao nóng nảy của Cha là được kết hiệp thân mật với từng người trong số họ! Rất ít người trong số họ đạt tới sự hiệp nhất như Cha đã mong ước và đã chuẩn bị cho họ trên trái đất này. Muốn được như thế, họ phải làm gì ? Phải hồi tâm, phải thu tâm, dành tất cả mọi tâm tình của họ cho Cha, Cha đang chờ đợi ở đáy lòng họ. Ồ, con hãy kêu lớn tiếng cho họ nghe thấy, dầu họ đang chịu cực vì Cha nơi các miền băng giá Bắc cực, hoặc đang chịu thiêu đốt dưới cái nóng của miền xích đạo; những vị đang can trường chiến đấu dưới cờ thập giá của Cha; những vị ngày đêm hy sinh hao mòn để phục vụ các linh hồn; những vị đang gặp gian nan và bị bách hại vì danh Cha. Con hãy kêu lớn tiếng để họ có thể nghe và biết rằng Cha rất yêu thương họ. Con hãy nài xin họ hãy lắng nghe tiếng gọi đầy yêu thương và rất khẩn khoản của Trái Tim Cha, kêu mời họ hãy đến gặp Cha nơi đáy tâm hồn họ, hãy kết hiệp thân mật với Cha là Đấng không bao giờ lìa xa họ, và như vậy họ sẽ nhận được biết bao ân phúc Cha ban cho họ…

“Sự kết hiệp mầu nhiệm và thần linh này sẽ là khởi điểm cho một cuộc sống thánh thiện và phong phú, khác hẳn cuộc sống trước đây…

“Nhiều linh mục biết khá rõ học thuyết về sự kết hiệp của linh hồn với Cha; nhiều linh mục cũng ước ao sự kết hiệp này, nhưng rất ít vị thực hành sự kết hiệp đó. Được mấy linh mục đạo đức, nhiệt thành và tận tụy, nhận biết rằng Cha đang ở trong linh hồn họ, và nóng lòng chờ đợi hiệp nhất với họ ?

“Tại sao thế ? Tại vì họ sống hời hợt…. Ôi ! Nếu họ quyết tâm dứt mình ra khỏi những sự vật dễ cảm giác, những cảm nghĩ loài người… nếu họ đi sâu vào linh hồn họ, nơi Cha đang ở và đang chờ đợi họ, họ sẽ gặp thấy Cha, và họ sẽ có một cuộc sống kết hiệp đầy ánh sáng và tình thương !”.

Những lời thiết tha đầy yêu thương này đã phát ra từ lò lửa Thánh Tâm Chúa Giêsu, và sẽ trở nên vô cùng ngọt ngào cho những linh hồn sẽ nghe thấy Chúa Giêsu nói với mình như thế trong những giờ phút sống thân mật với Ngài. Nếu Chúa Giêsu hứa cho tất cả các linh mục của Ngài, cả những vị trước đây dù sống cách hời hợt, Chúa hứa một sự kết hiệp kỳ diệu và một cuộc sống thánh thiện khác hẳn với lối sống trước đây của họ, thì những vị đã lâu ngày sống trong tình thân mật với Ngài, càng phải trọn vẹn tín thác nơi Ngài cách êm ái ngọt ngào biết bao, bởi vì đó chính là niềm ước ao nồng nàn của Ngài !

 Paul De Jaegher S.J.

[1] Tất nhiên, để an ủi tôi, thần tính của Chúa Giêsu kết hiệp cách mật thiết và bất khả phân ly với nhân tính của Ngài, nhưng điều này không có nghĩa là đâu có thần tính của Ngài thì cũng có nhân tính của Ngài.

[2] Xem Lavie d’ identification au Christ-Jésus do Cha P.de Jaegher. Nhà xuất bản Cerf. – Cũng nên đọc thêm 2 tác phẩm Dieu en nous và Vivre avec Dieu của Cha R.Plus.

Hạnh Phúc – Chương 1- 13. TRIẾT LÝ VỀ LẠC THÚ

Mọi người chúng ta đều muốn được hạnh phúc. Chúng ta nên sống theo nhận thức khôn ngoan sau đây. Nó bao gồm ba quy luật về lạc thú mà nếu tuân theo chúng, người ta sẽ dễ dàng đạt được hạnh phúc hơn.

Luật thứ nhất: nếu lúc nào bạn cũng phải chơi đùa thoả thích thì chẳng thể nào bạn sắp xếp cuộc sống bạn cho có thêm được thứ gì khác ngoài những vui đùa thoả thích. Lạc thú cũng như sắc đẹp vậy, nó bị điều kiện hoá bởi sự tương phản. Một phụ nữ muốn phô bày chiếc áo đầm nhung đen của mình thì nếu chị ta khôn ngoan, chị ta sẽ không đứng vào tấm màn làm phông màu đen mà là đứng vào tấm màn màu trắng. Chị cần có sự tương phản. Pháo bông sẽ chẳng làm chúng ta khoái chí nếu chúng được bắn lên bức phông màu lửa hoặc trong ánh nắng rực nồng giữa trưa. Chúng cần được bắn lên trong màn đêm tăm tối. Hoa sen mang cho chúng ta sự thích thú đặc biệt, vì những cánh hoa của nó mọc lên diệu kỳ biết bao trên vũng nước ao hồ dơ bẩn. Sự tương phản là cần thiết để giúp chúng ta nhìn thấy mỗi sự vật hiển lộ ra một cách sống động.

Cũng theo nguyên tắc ấy, người ta sẽ hưởng được lạc thú trọn vẹn nhất khi mà lạc thú ấy đến với chúng ta như là một “thú vị bất ngờ” tương phản với những kinh nghiệm vốn thường là xoàng xĩnh. Sẽ lầm lẫn kinh khủng nếu đêm nào chúng ta cũng mở dạ tiệc. Chẳng ai còn vui thú gì dịp lễ Giáng sinh nữa nếu tối nào cũng ăn tiệc vào nửa đêm. Đêm giao thừa sẽ chẳng còn làm chúng ta cảm khoái nữa nếu như đêm nào ta cũng nghe pháo nổ tưng bừng.

Sự khôi hài cũng dựa trên tính cách tương phản. Và để có vui nhộn trước một tình cảnh khôi hài thì cũng đòi hỏi sự tương phản. Nếu một vị Giám mục đội chiếc mũ lệch qua một phía đầu do sai lầm của trưởng ban lễ nghi thì ắt hẳn chúng ta sẽ bật cười ngay; tuy nhiên nếu mọi Giám mục đều đội mũ lệch y như thế thì chúng ta sẽ chẳng cảm thấy buồn cười nữa.

Niềm vui sống của chúng ta sẽ gia tăng mãnh liệt nếu chúng ta biết tuân theo mệnh lệnh thiêng liêng này là biết tự chế, biết hãm mình và từ bỏ mình trong cuộc sống. Thực hành được điều này sẽ giúp chúng ta khỏi bị mệt nhoài, sẽ bảo tồn được hương vị và niềm vui sống.

Biết tự kỷ luật với bản thân sẽ giúp chúng ta tìm lại sự hào hứng của tuổi thơ, nghĩa là biết hưởng vui thú một cách chừng mực sau khi đã cố gắng làm việc. Tương tự như chúng ta ăn tráng miệng vào cuối bữa chứ chẳng bao giờ vào đầu bữa ăn.

Luật thứ hai: lạc thú càng sâu sắc và tươi tốt hơn khi nó đã trải qua một khoảnh khắc nhàm chán hay đau đớn: luật này giúp chúng ta làm cho những lạc thú quý giá của mình được kéo dài mãi suốt cuộc đời. Để được như thế, chúng ta phải bền gan với bất cứ điều gì mình làm cho đến khi chúng ta có được cơn gió thuận. Chúng ta càng hưởng được niềm vui của việc leo núi nếu trước đó đã phải sống những phút giây kiệt sức đến ngã lòng. Người ta sẽ càng chú tâm đến một công việc sau khi đã vượt qua được khó khăn bước đầu của nó.

Cũng tương tự như thế, các cuộc hôn nhân sẽ trở nên bền vững chỉ sau khi chấm dứt những mộng mơ thiếu thực tế của thời mới bắt đầu cuộc hôn nhân. Giá trị lớn lao của lời hứa hôn nhân là vẫn giữ được đôi bạn bên nhau trong cuộc cãi cọ đầu tiên: nó trợ giúp họ lướt qua thời kỳ ân hận lúc mới đầu cho đến khi họ gặp được cơn gió thứ hai đem lại niềm hạnh phúc được sống bên nhau. Những niềm vui hôn nhân, cũng giống như mọi niềm vui to tát khác, đều được sinh ra từ nỗi đớn đau nào đó. Chúng ta đã phải tách cái hạt để hút chất ngọt thế nào thì trong đời sống thiêng liêng thánh giá cũng phải là khúc dạo đầu của triều thiên vinh thắng như thế.

Luật thứ ba: lạc thú là một sản phẩm phụ, thứ chẳng phải là một mục đích. Hạnh phúc là nàng phù dâu chứ không phải là cô dâu của chúng ta. Nhiều người đã lầm lẫn rất lớn khi nhắm đến lạc thú như là mục đích trực tiếp; họ quên mất là lạc thú chỉ đến do sự chu toàn một bổn phận hay sự vâng giữ một lề luật – bởi vì con người đã được tạo dựng để vâng theo những luật lệ của bản thân mình một cách tất yếu giống như người ấy phải tuân theo luật trọng lực vậy. Một đứa bé cảm thấy khoái khi ăn kem bởi vì nó đang thi hành một trong những “phận vụ” của bản năng con người là phải ăn. Tuy nhiên nếu cậu ta ăn kem quá mức giới hạn mà xác thân cậu cho phép thì cậu sẽ không còn có được lạc thú cậu tìm kiếm nữa mà sẽ bị đau bao tử. Tìm lạc thú mà bất chấp lề luật tức là đánh mất nó.

Chúng ta nên khởi đầu hay nên kết thúc bằng lạc thú? Có hai câu trả lời cho câu hỏi này: đó là câu của người Kitô hữu và câu trả lời của người vô tín ngưỡng. Người Kitô hữu thì nói: “Hãy bắt đầu bằng chay tịnh và kết thúc bằng tiệc tùng, như thế bạn sẽ thực sự hưởng nếm được nó. Còn người vô tín ngưỡng sẽ nói: “Hãy bắt đầu bằng bữa tiệc và kết thúc với cơn nhức đầu sáng hôm sau”.

Gm. Fulton Sheen

Hạnh Phúc – Chương 1 - 12. TÌNH YÊU VÔ BIÊN

Có sự khác biệt sâu xa về chất lượng giữa những sở hữu chúng ta cần, chúng ta dùng, chúng ta thực sự hưởng dụng và sự tích luỹ những đồ vật vô dụng do lòng phô trương, ham hố hoặc để chơi trội hơn kẻ khác. Loại sở hữu thứ nhất là một phương tiện kéo dài nhân cách của chúng ta một cách hợp lý: những vật chúng ta dùng thường xuyên được tình yêu của chúng ta phong phú hoá lên, biến chúng thành những vật dụng thân thiết với chúng ta. Chúng ta có thể học được hai loại quyền sở hữu nơi bất cứ nhà trẻ nào: một đứa bé chỉ có một món đồ chơi thì sẽ làm sung mãn món đồ chơi ấy bằng tình yêu của nó; còn đứa trẻ được nuông chiều thì vì số đồ chơi dành cho nó rất nhiều, nên nó sớm trở thành chán ngán và chẳng còn khoái chơi một món não nữa hết. Chất lượng của tình yêu giảm dần theo số lượng đồ vật được trao tặng vì người ta yêu nó… khác nào một dòng sông càng thiếu độ sâu khi càng tràn ra các thảo nguyên.

Khi thăm viếng một toà nhà rộng mà chỉ có hai người cư ngụ, chúng ta thường cảm thấy căn nhà ấy lạnh lẽo và quá rộng lớn không thể làm nơi dành cho tình yêu của con người. Bằng sự hiện diện của mình, mỗi người chúng ta có thể tô điểm cho một khoảng không gian… nhưng không hơn đâu nhé. Càng rán tậu cho được quá số đồ vật mà người ta không thể dùng để làm tăng nhân cách và tình yêu của mình thì người ta sẽ gặp phải chán nản, buồn phiền và ngán ngẩm. Ấy thế mà người ta luôn luôn gắng tăng số của cải vượt quá giới hạn sự hưởng dụng rất xa. Điều này là do niềm tin sai lầm rằng nỗi đói khát vô biên của họ có thể được thoả mãn nhờ vào sự dư giả các đồ vật vật chất: thế nhưng điều họ thực sự ước muốn lại là sự vô tận của tình yêu nơi Thiên Chúa.

Tưởng tượng của chúng ta dễ bị dẫn lạc vào niềm ước muốn một sự vô biên giả tạo một khi chúng ta bắt đầu khát mong “của cải”. Bởi vì “của cải” và “tiền bạc’ là những điều khêu gợi trí tưởng tượng, là cái chả bao giờ no thoả trong các mơ ước của mình. Những nhu cầu thực sự, chẳng hạn những thứ mà thân xác chúng ta cần thì lại khác bởi vì luôn có một giới hạn chặt chẽ đối với số lượng thức ăn cần cho bao tử chúng ta và một khi đã no rồi thì ta không còn muốn ăn thêm nữa. Chúa đã thết đãi năm ngàn người trong hoang địa bằng bánh, cá và tất cả đều no đủ. Nhưng giả sử thay vào đó Ngài cho họ 20 ngàn đô la chiếu phí thì sẽ chẳng ma nào nói rằng “một đô là đủ cho tôi!”

Chẳng bao giờ có giới hạn cho các tài khoản tín dụng, cổ phần, tài khoản tồn quỹ ở ngân hàng… vì chẳng bao giờ chúng ta nói: “Thôi đủ rồi”. Những thứ này tự thân mang nơi chúng sự vô tận đầy nét biếm hoạ khiến người ta sử dụng chúng như những thứ tôn giáo “dỏm” thay thế cho sự vô biên đích thực của Thiên Chúa. Giống như tiền bạc, ái tình và quyền lực có thể trở thành những thứ “nguỵ tôn giáo”, những kẻ đeo đuổi chúng như là cùng đích sẽ chẳng bao giờ tìm được sự thoả mãn. Những người như thế thực ra đều đang theo đuổi việc tìm kiếm Thiên Chúa nhưng họ chẳng biết được tên Ngài mà cũng chẳng biết tìm Ngài ở đâu.

Bởi vì mỗi sự gia tăng về số lượng những thứ chúng ta yêu mến thường mang lại sự giảm suy về phẩm chất tình yêu, cho nên cần sử dụng hai phương thế hy vọng sẽ giúp chúng ta giữ được lòng yêu mến tinh tuyền. Thứ nhất là biết cho đi tuỳ theo tỷ lệ chúng ta nhận được: thói quen này nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta chỉ là những quản gia tài sản của Chúa chứ không phải là các chủ nhân có thực quyền. Dầu vậy có ít người mạo hiểm làm điều này bởi vì họ sợ phải đụng đến “vốn liếng” của họ, và mỗi xu họ góp thêm vào “vốn liếng” ấy trở thành một phần của cái đống linh thiêng không được quấy rầy đến. Họ từ từ đồng hoá mình với những gì họ yêu mến và nếu đó là của cải thì chắc chắn họ không thể nào chịu nổi việc phải từ bỏ đi bất cứ phần nào trong đống của cải đã được tích luỹ đó.

Phương thế thứ hai để giữ chúng ta khỏi lòng ham hố không chính đáng là một phương thế anh hùng… đòi hỏi sự siêu thoát hoàn toàn khỏi của cải như hành vi của thánh Phaxicô Assissi cũng như tất cả những kẻ khấn giữ đức khó nghèo. Quả là có sự nghịch lý trong sự khước từ như thế bởi vì kẻ đã từ bỏ chính niềm hy vọng “đảm bảo” cho mình lại là kẻ giàu có nhất trên trần gian, là kẻ an toàn hơn hết thảy chúng ta, vì kẻ ấy chẳng thiếu thốn thứ gì hết… và đó là điều chẳng nhà triệu phú nào có thể làm nổi. Quyền năng khước từ nơi mỗi người đều mạnh mẽ hơn quyền năng chiếm hữu bởi vì chẳng người nào có thể chiếm hữu trái đất nhưng bất cứ ai cũng đều có thể khước từ nó.

Kẻ keo kiệt có thể lấp đầy ví mà chẳng bao giờ lấp đầy trái tim bởi vì họ không thể đạt được tất cả của cải mà họ có thể tưởng tượng và ao ước. Tuy nhiên những kẻ nghèo khó trong tâm hồn lại là những kẻ giàu có về hạnh phúc. Chúa đã ban cho chúng ta đủ tình yêu để chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài ngõ hầu chúng ta có thể tìm ra Đấng vô biên ở đó chứ, Ngài có cho chúng ta dư tình yêu để tàng trữ đâu!

Gm. Fulton Sheen