8. Đời Sống Tâm Linh

Bao Dung

Câu chuyện người con hoang đàng trong Tin Mừng Luca (Lc. 15: 11-32) nói đến trở về. Mùa chay là mùa xám hối. Ði tìm một khoảnh hồi tâm, ta hãy đọc lại đoạn Tin Mừng.

Người con hoang đàng

Từ xưa tôi vẫn nghĩ rằng hãy trở về như người con hoang đàng. Ðứa con hoang đàng như một mẫu mực trở về. Khi thấy con về, người cha vui mừng quá làm tôi thấy sự trở về của người con như một hành động anh hùng. Ðã bao năm tháng qua, tôi vẫn được nhắc nhở rằng hãy lên đường anh hùng, dứt khoát như người con ấy.

Ðọc kỹ đoạn Tin Mừng, tôi thấy man mác đó đây một mầu tím buồn. Một giải mây tím buồn rất xa. Ở một điểm nào đó, tôi thấy sự trở về của người con có làm cho cha vui, nhưng tôi vẫn không ra khỏi giải mây tím lặng lẽ. Trong sự trở về của người con hoang đàng tôi thấy có điều không ổn. Rồi chiều nay, mùa chay lại trở lại. Tôi muốn đọc lại đoạn Tin Mừng, chậm rãi hơn, lặng lẽ hơn để đi tìm cái không ổn của mầu tím đó.

Sau khi người con ra đi, thánh Luca viết về quãng đời của nó như sau:

Khi nó tiêu sạch cả rồi, thì khắp miền đó, lại sẩy ra nạn đói kém khủng khiếp và nó bắt đầu lâm phải túng thiếu. Nó đi sống bám một người dân trong vùng ấy; và người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó ước gì có thể lấy rau heo ăn mà thốn cho đầy bụng, mà cũng chẳng ai bố thí cho nó. Hồi tâm lại, nó nói: Biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi dậy! tôi sẽ về cùng cha tôi, tôi sẽ nói với người: “Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với Trời và trước mặt cha; con không còn đáng gọi là con cha nữa, xin cha xử với con như một người làm công của cha thôi”.

Ðộng lực nào khiến nó trở về? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: Biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi dậy, tôi sẽ về cùng cha tôi.” Như vậy động lực khiến nó trở về chỉ vì đói. Trước khi bị đói, không bao giờ thấy nó nhớ đến cha, không thấy xám hối vì bỏ cha đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về căn nhà cũ, nơi còn có cha chẳng biết già yếu ra sao, không thấy nuối tiếc vì phá tan cả sản nghiệp của cha. Sau khi bị đói nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái tự nhủ, băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với cha nó là nó trót phạm tội nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như một người làm công. Trong tự nhủ này có một ngập ngừng không đơn giản. Tại sao nó muốn được đối xử như một người làm công? Người làm công có dư bánh ăn! Có phải, bây giờ muốn có bánh thì chỉ cần xin được làm người làm công? Tôi không muốn khắt khe xét đoán sự trở về của nó. Nhưng vẫn có một u uẩn trong lối hành văn của thánh sử Luca. Ban đầu, vì đói nó mới về. Khi hồi tâm nó nghĩ đến miếng bánh của người làm công được ăn. Những ý tưởng này cho tôi nghĩ lời nói “trót phạm tội nghịch đến Trời và trước mặt cha; con không còn đáng gọi là con cha nữa”, mang một giá trị rất nhẹ của lòng xám hối.

Nếu nó được ăn rau của heo thì nó ngang hàng bằng heo. Nhưng trước mặt người ta, nó không được ăn rau của heo, nghĩa là nó không giá trị bằng heo. Cái hoang vu của mầu tím ở đây là nếu nó được ăn rau của heo thì liệu nó có trở về không? Cái dằn vặt của một mầu tím khó tìm được câu trả lời là tại sao phải đợi đến khi ngay cả rau cho heo cũng không có ăn lúc bấy giờ mới về. Ðó là cuộc lên đường về trọn vẹn sao? Ðấy là cuộc lên đường thúc đẩy từ lòng xám hối sao?

Mỗi mùa chay, nghĩ đến cuộc trở về trong Tin Mừng thánh Luca, tôi lại mơ ước một cuộc lên đường trọn vẹn. Tôi trở về trọn vẹn để xứng đáng lòng yêu thương của Chúa, hay chỉ có thể dựa vào lòng xót thương của Chúa mà tôi có thể trở về?

Thái độ của người cha

Khi nhớ thì mỗi chiều cách biệt là một quãng đời hoàng hôn xạm tím. Lần rở lại những trang đầu của câu chuyện. Ta thấy thánh sử Luca vẽ chân dung người cha bằng một sắc mầu rất đỗi chịu đựng.

Ngài còn nói: “Người kia có hai đứa con. Con thứ nói với cha: “Thưa cha, xin ban cho con phần gia sản thuộc về con!” Vậy người cha đã phân chia của cải cho chúng nó. Không mấy ngày sau, đứa con thứ thâu góp tất cả của cải mà trẩy đi phương xa. Và ở đó nó sống trác táng phá tan cả sản nghiệp”.

Bắt đầu câu chuyện là đã thấy mầu tím u uẩn như những giây đàn han rỉ. Nó như những giọt mưa buồn của một từ giã nặng nề. Nó như những tiếng chuông trầm, cũng rất thong thả, rơi trong một chiều cô tịch, gõ vào lòng người cha, rất đìu hiu. Khi người con từ giã, đi xa rồi, lòng người cha ở lại nghe những tiếng chuông ấy vọng về: “Xin ban cho con phần gia sản thuộc về con!”

Tôi không thấy mầu tím buồn trong hồn người cha than vãn, nuối tiếc vì số sản nghiệp bị mang đi. Nhưng có một ray rứt không buông thả trái tim người cha già tội nghiệp. Cha mẹ chia của cải cho con cái khi biết mình sắp chết. Con cái chia nhau sản nghiệp khi bố mẹ đã qua đời. Tài sản của cha mẹ, nên chỉ khi cha mẹ gọi con cái đến chia, con cái mới được nhận, không khi nào con cái được quyền đến đòi cha mẹ phải chia cho mình. Nhưng ở đây, người con không đợi nổi đến ngày cha mình chết. Nó mong sao ngày đó chóng đến. Nhưng bao giờ? Thôi! cha cứ chia cho tôi trước đi, đợi cha chết lâu quá! Cha cứ chia đi rồi ngày nào cha chết tùy cha!

Người cha không nổi giận. Ðưa cho con gói bạc mà thực ra nó chẳng có quyền đòi. Người cha không tiếc gia nghiệp, nhưng tiếc một tình nghĩa đang mất. Tiếng nói của người con: “Xin ban cho con phần gia sản thuộc về con” như những tiếng chuông báo tử của một linh hồn sắp lìa đời đang gõ xuống lòng người cha một sự thật đau đớn không thể chối từ. Người cha nhìn về chân trời để thấy hồn mình là một nỗi sầu tím. Người cha già giữ nỗi sầu tím ấy trong im lặng.

* * *

Lạy Chúa,
Bàn thờ đã giăng lên mầu tím của mùa chay. Ngày ngày dâng lễ con thấy mầu tím nhắc nhở con trở về. Con đã được dạy hãy lấy hình ảnh người con hoang đàng trở về làm mẫu mực. Ðọc lại câu chuyện, con thấy sự trở về của nó không phải là một mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về đến từ hồi tâm của tình yêu tha thiết.

Con thấy động lực thúc đẩy người con thứ trở về là miếng ăn. Một cuộc trở về man mác buồn. Nhưng, những tối một mình trong thinh lặng, rồi, những trang Lời Chúa nói với con bằng một ngôn ngữ rất sâu. Nếu cuộc trở về của nó mà trọn vẹn đến từ nước mắt thì câu chuyện thánh sử Luca trình bầy sẽ đẹp lắm, sẽ uy hùng lắm. Câu chuyện trở nên thiên anh hùng ca, nhưng sẽ là thách đố sợ hãi cho con.

Nhìn lại những cuộc lên đường về của con, con thấy cũng giống vậy. Con lên đường về cũng vì miếng ăn. “Khi tình yêu con còn mơ, tin yêu con dệt thơ thì tình Chúa hững hờ.” Con trở về khi cuộc đời dầm bập con. Nếu người cha chỉ hân hoan đón đứa con hoang đàng khi nó về với lòng xám hối ăn năn tận đáy lòng thì chắc Chúa ít có cơ hội đón con lắm. Con trở về vì con muốn thiên đàng. Con trở về vì con sợ hỏa ngục. Con trở về vì đời hắt hủi. Sự trở về của con vẫn đến từ nỗi sợ, từ sự thèm muốn, từ một cùng đường.

Cuộc trở về của đứa con hoang đàng trong Tin Mừng Luca không là mẫu mực lên đường về như một gương xám hối, mà con thấy là cuộc trở về dựa vào tình yêu của Chúa.

Làm sao định nghĩa được tình yêu. Người ta nói như thế. Người ta bảo không định nghĩa được tình yêu vì tình yêu phức tạp quá. Con không nghĩ vậy. Tình yêu khó hiểu không phải vì phức tạp mà vì nó quá sâu để hiểu. Khi tình yêu phức tạp là người ta đang đày đọa tình yêu mất rồi. Chỉ vì miếng ăn người con mới trở về mà cũng làm cho người cha quá đỗi vui mừng. Lòng xót thương của Chúa, con không hiểu được. Con không hiểu được chẳng phải tình yêu phức tạp mà vì tình yêu quá sâu.

Con không thấy người cha hỏi đến gia nghiệp nó mang đi. Con không thấy người cha thắc mắc bất cứ điều gì để làm cho tình yêu ra phức tạp. Con không thấy người cha hỏi lý do nào nó trở về. Con chỉ thấy người cha thương con của mình. Lạy Chúa, con chỉ trở về được vì dựa lòng thương xót quá bao dung của Chúa. Con sẽ chẳng bao giờ xám hối trọn vẹn được đâu, và như thế, bao giờ con về được nếu Chúa hỏi con bằng những câu hỏi phức tạp của một tình yêu phức tạp. Nhìn vào tình thương của Chúa con chỉ thấy một chiều sâu. Quá sâu. Dựa vào đó, lạy Chúa, con xin về.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ – 18. Triều Thiên Ta

Tính loài người quen ỷ lại, cái gì mượn hoặc sai người khác làm được, là ta không muốn làm. Có những hạng người chỉ quen miệng sai khiến, không khi nào, hoặc rất ít khi, họ chịu bắt tay vào công việc gì; từ những việc to tát, đến những việc nhỏ mọn… nhất nhất cái gì cũng sai hoặc mượn người khác làm thay.

Nhưng việc gì thì việc, chứ đến việc “ăn thay” thì quả là không ai mượn được: có đời nào Bạn ăn thay cho tôi mà tôi lại no được?

Trên đường thiêng liêng cũng có những thứ không ai làm thay được. Thứ ấy là thứ gì? Thứ ấy là Triều thiên của mỗi người. Mỗi người có triều thiên của mình, chính mình phải kết lấy, không thể cậy người khác kết thay. Triều thiên ấy quý hay không, đẹp nhiều hay đẹp ít, có đầy hạt trai đá ngọc hay không, có sáng chói ngần nào, là tùy ta có biết tô điểm cho nó hay không.

Nhưng mua đâu được những thức tô điểm triều thiên của mình? Bạn phải sắm cho thật nhiều vàng, vì có vàng thì Bạn sẽ mua được các thứ hạt trai, đá ngọc ấy. Vàng ấy là gì?

Truyện thần thoại có kể: Bà tiên nọ có một cái gậy, hễ chọc cái gậy ấy vào vật gì, thì vật ấy tức khắc biến ra vàng. Chắc Bạn ước được cái gậy ấy.

Nhưng Bạn chớ quên, cái gậy ấy có thể làm hại cho Bạn, vì nó có thể làm cho cơm Bạn ăn hóa vàng, nước Bạn uống hóa vàng… thì Bạn chết mất.

Về đàng thiêng liêng, ta không cần nhờ đến gậy của bà tiên, ta có một thứ gậy làm cho tất cả việc ta làm, hóa thành vàng. Gậy ấy là lòng mến. Vậy Bạn muốn có thật nhiều vàng để sắm triều thiên, thì Bạn hãy chịu khó vì lòng mến.

Vậy cũng như vàng vật chất ở đời không phải tự nhiên người ta có, nhưng người ta phải sắm nó, và phải vất vả chịu khó mới sắm được. Vàng mến cũng vậy. Phải cố công chịu khó mới sắm được, và mỗi người phải tự sắm lấy cho mình, chứ không ai sắm thay được cho ai. Đấy là chỗ khác với vàng vật chất, vì thứ vàng này còn có thể sắm thay người khác. Cũng vì thế vàng Mến khó sắm hơn, và Chúa bắt như vậy.

Bạn phải lấy gì mà sắm, mà mua vàng Mến ấy? Bạn phải sắm. Nghĩa là phải mua nhất là bằng sự đau khổ. Chúa muốn cho ta sắm vàng ấy, thì Chúa cũng đã chịu khổ trước. Đến lượt ta, ta muốn sắm cho ta, thì ta cũng phải làm cho Chúa, nghĩa là chịu đau khổ. Phi đau khổ, chúng ta khó sắm được triều thiên chúng ta.

Bạn thân ái, Bạn muốn sắm triều thiên ấy không? Hẳn là có, Bạn có muốn cho triều thiên Bạn được sáng láng chói lòa, được xinh đẹp mỹ miều không? Hẳn là có. Vậy thì Bạn hãy dùng sự đau khổ mà mua cho nhiều vàng, vàng ấy sẽ giúp Bạn sắm những hạt trai, những đá ngọc, một mai sẽ giát vào triều thiên Bạn. Mỗi ngày, mỗi việc, mỗi sự hy sinh nhỏ mọn, phải là một viên ngọc giát vào triều thiên ấy.

Tôi muốn nói, Bạn không được để qua ngày nào mà không chịu hết các sự khó, để triều thiên Bạn được nhiều hạt ngọc, nghĩa là được thêm vinh quang, hạnh phúc trước mặt Chúa. Tôi lấy một ví dụ. Một cậu học trò làm một bài toán. Một bài toán có biết bao con số phải viết. Có bài dài đến một trang giấy, hoặc hơn nữa. Nhưng cậu học trò không nản lòng. Cậu không nói: Thôi, nhiều con số thế này, thì bỏ bớt ra cho tiện. Cậu biết bỏ đi không được, vì mỗi con số đều quan hệ đến cả bài toán. Bỏ một con số, là có thể làm tổn hại đến cả bài, càng bỏ nhiều càng hỏng.

Đời ta cũng vậy. Mỗi ngày là một phần bài toán Chúa đã ra cho ta làm. Câu trả lời đúng, tức là điều kiện để được triều thiên Chúa đã hứa thưởng ta. Những con số tỉ mỉ chi chít làm đi làm lại trong bài toán tức là những sự khó chúng ta chịu hàng ngày. Nếu mọi con số đều quan hệ đến cả bài, nhất là đến câu trả lời, thì mỗi sự khó chúng ta chịu, cũng quan hệ đến cả đời ta, nhất là đến triều thiên Chúa bắt ta kết sau này. Bỏ một sự khó không chịu cho nên, tức là bỏ mất con số trong bài toán. Ta bỏ nhiều sự khó, tức là bỏ nhiều con số, tức là làm hỏng triều thiên ta. Mà hỏng triều thiên ấy ta mong gì khác nữa?

Đã đành, đó chỉ là một ví dụ, để so sánh, nhưng nó cũng không xa sự thực bao nhiêu.

Vậy Bạn thân mến, xin Bạn chịu khó làm xong bài toán Chúa đã ra cho Bạn. Bạn hãy kiên tâm, hãy nhẫn nại, viết cho hết các con số trong bài toán ấy và cặn kẽ làm cho đến cùng, vì nếu Bạn sơ suất bỏ quên, hoặc viết sai một con số, tức là bài toán của Bạn có thể đi đến chỗ hư hỏng. Sáng ngày dậy, Bạn hãy bảo mình: “Hôm nay tôi phải lo làm bài toán của tôi cho tử tế. Mỗi sự khó tôi chịu, là một hạt ngọc giát vào triều thiên của tôi, cũng như mỗi con số là một điều kiện cần thiết để tôi làm xong bài toán của tôi”

“Lạy Chúa, con xin nhất định làm xong bài toán của con, dù phải bóp trí nặn óc, con cũng vui lòng, miễn đến cuối ngày, nhất là đến cuối đời, con nộp bài cho Chúa, và sẽ được Chúa phê cho ba chữ: Tối ưu hạng.”

Trước khi kết luận bài này, tôi xin kể Bạn nghe vài câu truyện.

Có lẽ Bạn muốn thấy một điềm lạ, như thày ẩn tu nước Đan Mạch đã được. Thày ấy bị đau đớn quá sức, và bị đã lâu ngày. Để thêm sức mạnh cho Thày, Chúa cho Thày thấy nhiều thiên thần trên thiên đàng đang mải miết chạm một triều thiên bằng vàng và triều thiên ấy sắp xong. Bệnh nhân hỏi: “Triều thiên của ai thế?” Có tiếng đáp: “Triều thiên của con đấy! – Khi nào xong?- Khi nào con chịu khó đã đủ”. – Thầy hiểu bài học ấy, và để triều thiên của mình được hoàn thành, Thày đã nhẫn nại chịu khó đến chết.

Tôi xin hỏi Bạn: Bạn sẽ cảm tưởng thế nào với cảnh này. Sau khi Bạn tắt nghỉ, Chúa mở trước mắt Bạn sách Hằng sống và bảo Bạn: “Này con xem, hết các sự đau đớn con chịu đều đã được ghi chép bằng nét vàng. Nay là giờ lĩnh thưởng, con hãy đến chiếm ngai đã dọn sẵn thưởng con”. Bạn lên… và thoáng thấy một ngai lộng lẫy. Bạn hỏi: “Có phải tòa kia không, lạy Chúa? – Chưa phải, con hãy lên cao hơn”. Bạn sẽ ngạc nhiên và hỏi: “Lạy Chúa, con đã làm gì cho đáng những sự vinh hiển ấy?”. Chúa đáp lại: “Là vì con đã đau khổ nhiều và đã biết chịu đau khổ”. Tôi xin hỏi lại: Đứng trước cảnh tượng ấy, Bạn nghĩ thế nào?

Và sau đây là vài truyện nữa, trước khi kết luận hẳn truyện này.

Hôm ấy là ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời. Một bà công tước nói với hai cô con gái: “Hai con hãy mặc những áo đẹp nhất, mang triều thiên vàng, chúng ta sẽ cùng nhau đi lễ tại Nhà Thờ Đức Bà”. Hai cô công chúa trang điểm như mẹ bảo. Vào nhà thờ, họ quỳ trước một tượng Chuộc tội. Nhìn thấy Chúa chịu treo mình đầy những thương tích và hấp hối, cô em liền hạ triều thiên trên đầu xuống với tất cả các thứ nữ trang, rồi xuống quỳ trên nền gạch. Bà Mẹ thấy thế, tỏ vẻ không bằng lòng. Cô con liền nói: “Mẹ xem kìa, trước mặt con là Chúa Giêsu hiền lành nhân hậu, đầu đội mũ gai nhọn sắc, thân người trần trụi đầy những máu. Còn con, con chỉ là một loài thụ sinh hèn hạ, không lẽ con dám ở trước mặt Người, đầu đội triều thiên vàng và đầy những hạt trai… Làm thế, tức là con làm sỉ nhục Người”.  Nói rồi cô khóc lóc thảm thiết và tình yêu tự Trái Tim Chúa đã bắn ra đâm thủng tim cô. Cô bé lớn dần… cô đã vui lòng từ bỏ triều thiên vàng, để nhận lấy triều thiên gai Chúa trao cho… về sau, cô đã biến thành Bà thánh Elizabeth, Hoàng hậu nước Hung-Ga-Ri.

Phải, muốn được triều thiên bất diệt trên nơi hằng sống, từ đời này, ta cũng phải bắt chước Chúa, và các tôi trung của Người, ta hãy vui vẻ nhận lấy triều thiên gai, với tất cả các sự đau khổ trong cuộc đời ta.

Vua Carolô thứ năm nước Pháp, một hôm muốn thử hoàng tử, thì bảo đặt trên bàn triều thiên và vương trượng của Vua, còn trên bàn khác thì đặt một cái gươm. Vua cho gọi hoàng tử đến và bảo hoàng tử chọn. Vua ngạc nhiên biết mấy, khi thấy hoàng tử không nhìn gì đến triều thiên và vương trượng, lại chọn thuẫn và gươm. Vua hỏi? “Sao thế?”. Hoàng tủ đáp: “Nhờ cái này mà được cái kia, nhờ thuẫn và gươm, người ta chiếm được triều thiên và vương trượng.”

Chúa cũng xử với Bạn như thế, Chúa dọn sẵn triều thiên cho Bạn trên trời, nhưng khi Bạn còn sống, thì Bạn phải nhận lấy thuẫn và gươm mà chiến đấu. Ngày nào Bạn thắng trận, sau khi đã nhẫn nại chịu đau khổ, ngày ấy Bạn sẽ được lĩnh triều thiên. Gươm đau khổ chính là khí cụ để Bạn chiếm triều thiên hạnh phúc. Tô điểm triều thiên Bạn, đó phải là nguyện vọng tha thiết của đời Bạn, cũng như tô điểm triều thiên tôi, phải là nguyện vọng tha thiết của đời tôi. Chúng ta hãy giúp nhau bằng sự cầu nguyện và hy sinh, để triều thiên chúng ta được đúng với kích thước và khuôn mẫu Chúa đã chỉ cho mỗi người.

Chúc Bạn thành công.

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT

Lạy Chúa, xin cứu con – Chương 10: Đứa bé gái chỉ nói được hai tiếng “cám ơn” và lời đó nói lên tất cả

Việc ấy lại xảy ra một lần nữa mới ngày hôm qua.

Một đứa bé gái đến gõ cửa nhà chúng tôi vào lúc chập choạng tối. Nó đã sống ngoài đường phố suốt sáu tháng nay. Nó đã bị cha nó bỏ mặc, bị cha dượng lạm dụng tình dục, rồi bị mẹ đuổi ra khỏi nhà. (Một câu chuyện rất đặc trưng về các trẻ của chúng tôi).

Đứa bé gái xuất hiện trước ngưỡng cửa nhà chúng tôi, bẩn thỉu, lạnh lẽo và đói khát.

Đôi mắt nó có một ánh nhìn hoảng sợ, kinh hãi, dường như nói rằng:

“Tôi biết tôi sắp sửa bị ruồng bỏ và lại bị tổn thương một lần nữa.”

Tôi thường xuyên nhìn thấy ánh mắt ấy nơi các đứa trẻ giống như đứa bé gái này. Dường như chút hy vọng trong tâm hồn của nó cũng đã tắt ngúm.

Tôi lên tiếng:

“Chào em, Cindy. Tôi rất vui mừng vì em đã đến đây.”

Cindy nhìn chằm chằm vào tôi, tìm hiểu ánh mắt của tôi.

Và rồi nó òa khóc. Nhưng không phải tiếng khóc than van của một đứa trẻ biểu lộ niềm đau. Cái khóc của Cindy là một hình thức nước mắt khác hẳn.

Đôi mắt Cindy dịu lại, rồi sau đó rực sáng lên. Tôi có thể nhìn thấy nước mắt đã ướt trên hàng mi và khóe mắt của nó.

Sau đó, những giọt nước mắt chảy xuống thành dòng khi tâm hồn Cindy đã làm nó tin tưởng rằng tôi thực sự quan tâm đến nó, và sau cùng nó cũng đã tìm được an toàn.

Cindy cố nhoẻn một nụ cười ngượng ngịu trong lúc đôi dòng nước mắt vẫn chảy xuống trên đôi má.

Tất cả những gì đứa bé gái có thể nói ra được là hai tiếng: “Cám ơn.” Và lời đó nói lên tất cả.

Các bạn đã bao giờ khóc như vậy chưa? Những giọt nước mắt chảy ra vì được thanh thản? Những giọt nước mắt chảy ra vì biết rằng hy vọng lại trở về giữa lúc hầu như tuyệt vọng?

Đó là điều nhất định sẽ xảy ra khi một đứa trẻ cuối cùng đã tìm được một cơ may… một cơ may thực sự cho cuộc đời.

Trong tất cả những gì chúng tôi đã làm cho các trẻ em, thì việc cho chúng biết vẫn có một ai đó quan tâm đến chúng là điều tạo ra nhiều tác dụng nhất. Tôi nghĩ đó thực sự là điều cốt yếu của Nhà Giao Ước chúng tôi.

Dĩ nhiên, chúng tôi cũng cung cấp cho các trẻ những vật dụng cần thiết. Chúng tôi cho chúng ăn. Chúng tôi cho chúng áo quần để mặc. Chúng tôi giúp đỡ chúng tìm được những mái ấm, trường học, và công việc, vân vân và vân vân….

Nhưng trên hết, điều tuyệt đối cần thiết là chúng tôi cho chúng biết chúng là người tốt, là người hữu ích và xứng đáng với tình yêu thương của chúng tôi; và rất nhiều người trong chúng tôi – các bạn, tôi và Thiên Chúa – đang quan tâm đến chúng.

Khi chúng nghe biết, nhìn thấy và cảm nghiệm được tình yêu thương ấy, nhất định chúng sẽ khóc.

Thật khó tin, nhưng rất nhiều đứa trẻ của chúng ta chưa bao giờ có được cảm xúc ấy. Chúng đã bị xua đuổi, bị hà hiếp. Chúng bị đánh lên đập xuống. Chúng bị lạm dụng tình dục. Chúng bị bức hiếp oan ức.

Và cuối cùng, khi chúng cảm thấy an toàn… Khi chúng tin, thực sự tin rằng thế giới này vẫn còn dành cho chúng tình yêu thương… thì sự thanh thản của chúng sẽ rất dạt dào.

Tôi không thể nói cho các bạn biết việc nhìn thấy điều ấy sẽ đem lại thỏa nguyện như thế nào… Tôi không thể nghĩ ra được một món quà nào có giá trị hơn để trao tặng cho một đứa trẻ đang trong lúc cùng quẫn.

Tôi không thể nghĩ ra được một cách thức nào hiệu quả hơn để biến những giọt nước mắt loại thứ nhất mà chúng tôi vẫn thường nhìn thấy tại ngưỡng cửa nhà chúng tôi, những giọt nước mắt của đau thương – thành những giọt nước mắt loại thứ hai – những giọt nước mắt nhẹ nhõm và hy vọng.

Cảm ơn các bạn đã nhớ đến chúng tôi trong lời cầu nguyện. Phần tôi, tôi không bao giờ ngưng cảm tạ Thiên Chúa vì các bạn đã gặp thấy chúng tôi.

 

Lạy Chúa,

Con tin nơi Chúa nhưng con đầy hoang mang không biết mình sẽ đi về đâu – tất cả những gì con biết được là những nơi con đã từng đến. Con quá sợ hãi và chẳng có một ai để nói chuyện, ngoại trừ chính bản thân, và con giấu kín những cảm xúc của mình trong tiếng nhạc.

 

Lời kinh do một đứa trẻ viết
tại nguyện đường Nhà Giao Ước của chúng tôi

Sr. Mary Rose McGeady

Hạnh Phúc – Chương 1 - TÍNH VỊ KỶ

Là một người dối trá sống động, tính vị kỷ đặt mọi ham muốn nông nổi, mọi dục vọng và những ưa thích thuộc bản năng của chủ nhân nó lên trên lề luật luân lý, trên tình bằng hữu với tha nhân và trên cả ý muốn của chính Thiên Chúa. Kẻ ích kỷ được ví như quả lắc đòi quyền chống lại cái đồng hồ, hoặc như đám mây nổi loạn chống bầu trời, hoặc như là một cánh tay muốn phớt lờ toàn thân thể đang khi nó chỉ là một chi thể của thân thể ấy. Vì chỉ làm điều mà bản ngã ích kỷ đâm ra ghét tất cả mọi thứ hắn làm. Hắn giống như đứa bé than van trong một trường tiên tiến nọ: “Tôi có luôn luôn phải làm điều tôi muốn không?”

Chẳng chóng thì chầy tính bo bo cố chấp sẽ dẫn đến sự căm ghét chính bản ngã của mình. Một chú bé sau khi ăn tuốt hết mọi phần kem dành cho toàn thể gia đình, thì hẳn sẽ căm ghét mỗi lần nhìn thấy loại kem ấy: không chỉ mang tính cách thú vật, sự căm ghét “bị điều kiện hoá” đối với loại thức ăn này còn trở thành sự ghê tởm xét về mặt luân lý đối với chính bản thân sau khi đã phạm tội ham ăn hổ uống như thế. Lòng tự căm ghét mình như thế là hình phạt luân lý chúng ta phải trả cho tính háu ăn giống như sự chán ngấy món kem là hậu quả thể lý mang tính thú vật của chính sự vi phạm ấy.

Những người bị rơi vào tình trạng ngán ngẩm chính mình thì theo bản năng họ sẽ cảm thấy lồng ngực bị đá đè tựa như phải xua đuổi một điều xấu xa ra khỏi thâm cung linh hồn vậy. Người vô thần thường dễ rơi vào tình trạng nhờm tởm mình hơn người có tôn giáo: lý do là vì họ không nhận biết Lòng Xót Thương và Tình yêu của Chúa, Đấng sẽ chữa lành chúng ta khỏi nỗi tự nhờm tởm mình và rồi có lẽ họ sẽ đem nỗi tuyệt vọng về cho chính bản thân mình và cuối cùng đành phải tự sát. Tự huỷ mình là một phóng chiếu, một sự rập bóng mặt ngoài của bi kịch bên trong nơi đây cái ngõ nhỏ bé thách thức lại tất cả những gì cao cả hơn nó và rồi khổ đau vì các hậu quả của cuộc nổi loạn này, cái ngã ấy rơi vào nỗi căm ghét tàn nhẫn với chính sự sống của nó. Cả Phêrô lẫn Giuđa đều đã nổi loạn chống lại Sự Sống khi họ chối bỏ Chúa, cả hai đều đã được cảnh cáo trước về sự nổi loạn như thế, cả hai đều đã từng bị gọi là “quỷ sứ” bởi vì sự vi phạm của họ, và cả hai đều đã ân hận. Tuy nhiên Giuđa “đã ân hận đối với chính mình”, đã hướng cái tôi riêng của mình vào chính mình trong cơn hấp hối tuyệt vọng vô ích. Còn Phêrô thì biết ân hận đối với Chúa, biết giải phóng mình khỏi điều xấu xa nhờ vào lòng khiêm tốn và rồi ngài đã tìm lại được niềm vui.

Chỉ khi nào biết khuất phục cái ngã trước một điều gì cao cả hơn nó mới có thể chữa lành được nỗi tuyệt vọng, bởi vì một sự khiêm tốn như thế sẽ làm cho tâm hồn thoát khỏi sự kiêu ngạo cũng như sự tự kết án mình đồng thời tạo nên khoảng trống cho ân sủng của Chân lý và Tình yêu của Chúa tuôn vào. “Ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên, kẻ nào tự nâng lên thì sẽ bị hạ xuống… tuy nhiên sự tự căm ghét mình lại là sự nâng cái ngã mình lên thành vị phán quan tối hậu đầy chua chát. Cho đến khi nào tấm biển đề “rao bán” được treo lên trên một tâm hồn đã giải thoát khỏi nỗi âu lo về bản ngã riêng mình thì vị KHÁCH THUÊ THẦN LINH mới có thể bước vào được.

Để trắc nghiệm về đức khiêm tốn thực sự là thái độ của chúng ta đối với lời tán tụng. Bất cứ ai yêu thích sự quảng cáo đều là người kiêu ngạo, vì người ấy tìm cách biện minh mình trước mặt kẻ khác, còn kẻ khiêm tốn thì qui mọi lời tán tụng về cho Chúa. Nếu người ấy có tài năng, thì người ấy cũng nhận biết rằng đó là do Chúa ban cho và chúng phải được dùng để phụng sự Chủ nhân đích thực của chúng. Kẻ khiêm tốn tự cho mình giống như cánh cửa sổ bằng lòng cho ánh sáng của Chúa dọi xuyên qua mà không hề dám nghĩ rằng mình chế tạo ra ánh sáng ấy. Người khiêm tốn chấp nhận cả lời khen lẫn lời trách móc như là quà Chúa tặng: cả nỗi cay đắng lẫn ngọt ngào đều được gởi đến do một Đấng duy nhất là Đấng yêu mến mình. Như Gióp đã nói: “Chúa ban cho, Chúa lại lấy đi, xin tán tạ Ngài”.

Còn người kiêu ngạo thì không thể quên chính mình, mặc dù người ấy ngờ vực và căm ghét sự nhỏ bé của mình: hắn nghĩ rằng hắn có thể che dấu sự thấp kém bằng cách luôn luôn tự khoe mình. Người khiêm tốn thì qui phục Chúa, và không hề tuyệt vọng vì người ấy biết rằng mình được yêu mến bởi Đấng tự thân là Tình yêu. Kẻ ích kỷ thì liên lỉ phàn nàn là kẻ khác không yêu mình đủ, hắn ta không nhận thấy rằng đây chính là hậu quả của việc hắn chỉ biết bo bo lo chú tâm đến cái ngã của riêng mình. Giống như mọi hình thức bất hạnh khác, nỗi cơ cực của hắn phát xuất do sự khăng khăng từ chối không chịu từ bỏ ý riêng của chính mình.

Những lúc chúng ta hạnh phúc nhất là những lúc chúng ta tự quên mình, để thường xuyên ân cần với một ai đó. Thời gian hiến mình ngắn ngủi ấy chính là một hành vi khiêm tốn đích thực vì ai biết đánh mất chính mình thì sẽ gặp lại chính mình kèm theo nỗi hạnh phúc của mình.

Tự căm ghét và tuyệt vọng là những căn bệnh mà chỉ những kẻ ích kỷ mới thường hay bị rơi vào. Muốn chữa lành chúng thì luôn luôn chỉ có một phương thế là đức khiêm tốn. Và điều đó có nghĩa là yêu mến Chúa nhiều hơn yêu chính mình.

Gm. Fulton Sheen

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 17. Sốt Ruột

Bạn, ai trong ta đã không nhiều lần sốt ruột, vì cớ này hay vì cớ khác.

Chờ tàu, tàu không đến, sốt ruột; mong mẹ về, mẹ không về, sốt ruột; mong chóng đến ngày đi tu, ngày ấy không đến, sốt ruột; mong chóng được rửa tội, ngày ấy chậm đến, sót ruột; mong chóng được công ăn việc làm, mãi không được, sốt ruột… và bao nhiêu cái sốt ruột khác nữa. Trong đời Bạn, cũng như trong đời bất cứ ai, chúng ta đã gặp trăm cái sốt ruột, lắm lúc đến đổ mồ hôi, lắm khi đến quên ăn mất ngủ, lắm lúc đến phát điên phát khóc, phải không Bạn?

Nhưng ngồi nghĩ lại, sốt ruột làm gì cho mệt trí, và lắm khi sốt ruột chẳng ích gì… Mong tàu, tàu không đến, sốt ruột… được ích gì? Bạn có sốt ruột đến mấy nó vẫn không đến… Người khác không sốt ruột, thì tàu cũng đến một lúc với người sốt ruột. Thế có phải sốt ruột vô ích không?

Mong người Bạn đến chơi, người Bạn không đến như đã hẹn… sốt ruột, nhưng có ăn thua gì? Vì người Bạn vẫn chậm đến như lúc mình không sốt ruột.

Sốt ruột không ảnh hưởng gì đến giờ tàu, cũng không ảnh hưởng gì đến người bạn.

Sốt ruột thường đã không ích gì, nhiều khi có hại. Sốt ruột rồi đâm ra cáu, đâm ra gắt, cáu gắt với tất cả những người không có liên lạc gì đến căn cớ làm mình sốt ruột. Người chủ nhà sốt ruột, đâm ra la mắng hết cả vợ con, người giúp việc; người vợ sốt ruột, đâm ra lôi thôi to tiếng với tất cả chồng con, người nhà…

Thật là vô lý! Làm phiền cho người khác trong khi người ấy không đáng mình làm phiền. Ấy là chưa kể những lời nói phạm đến những người làm mình sốt ruột, nhưng thực ra họ không có lỗi gì… Một người Bạn đã hẹn lại thăm mình, nhưng rồi họ bị ngăn trở lớn mà chưa kịp báo tin cho mình, mình đâm ra nói hành, thóa mạ.

Sốt ruột đã làm phiền người khác, lại làm phiền cho chính mình, nhất là cho chính mình.

Trong khi chúng ta sốt ruột, chúng ta thấy mình tức bực, thấy mình đau khổ, trong người mất hẳn sự bằng yên, có phải thế không Bạn? Thì ai mượn mình sốt ruột, để làm cho mình đau khổ vô cớ?

Sốt ruột lắm khi đến cực độ, nó làm ta mất cả trí khôn, và nói, hoặc làm những điều phiền lòng Chúa. Người ta sốt ruột, không được nắng mưa như ý, người ta quên cả đức tin, cậy, kính mến, người ta nói phạm đến Chúa.

Tôi chắc Bạn chưa khi nào sốt ruột đến thế. Có một điều là người khác đã sốt ruột đến thế, thì có thể một ngày kia, nếu không cẩn thận, chúng ta cũng sa vào cái lỗi ấy.

Chúng ta hãy lấy Chúa làm gương. Bạn thử xét xem Chúa làm gì không được? Thế mà Chúa đã vui lòng nhẫn nại, chờ những mấy nghìn năm, mới xuống thế chuộc tội cho loài người. Trong khoảng thời gian ấy, thiên hạ làm biết bao điều cực lòng Chúa. Nhưng Chúa cứ chờ đợi, chờ ngày Đức Chúa Cha đã định mới xuống thế gian. Xuống thế gian, Chúa có thể xuống như một người lớn, hai, ba, mươi tuổi. Nhưng không, Chúa đã ngự trong lòng Đức Mẹ chín tháng… Chúa biết dùng trí tuệ, ngay từ giây phút đầu tiên trong đời Chúa, nhưng Chúa đã vui lòng giam hãm chín tháng. Chúa có sốt ruột đâu. Sinh ra, Chúa có thể “vươn mình một cái”, rồi đi giảng, rồi làm phép lạ, rồi chinh phục cả thế giới, dễ như trở bàn tay. Nhưng không, Chúa theo luật tự nhiên, tuần tự lớn dần cho đến ba mươi tuổi mới đi giảng đạo.

Về sau, Chúa lập Giáo hội, cần gì Chúa phải lập một Hội hèn yếu như thế, Chúa có thừa sức chinh phục thế giới một cách dễ dàng. Nhưng Chúa đâu có sốt ruột như chúng ta. Mỗi việc Chúa làm, đã dự định sẵn. Khi đến giờ thì Chúa làm, lúc chưa đến thì Chúa chưa làm, Chúa sẵn lòng chờ đợi… Chúa không biết sốt ruột.

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT