8. Đời Sống Tâm Linh

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO VÀ VIỆC TRUYỀN GIÁO

         Giáo hội hiện rất quan tâm đến vấn đề “ Trí Tuệ Nhân Tạo” và  cũng vì mối quan tâm ấy, Học Viện Công Giáo Việt Nam  đã tổ chức hội thảo trong 02 ngày ( 01 và 02/03/2024 ) với chủ đề: “ AI: Cơ hội và thách đố đối với Ki Tô Hữu Việt Nam ). Trong cuộc hội thảo, cha giáo sư JB Lê Đình Phương  đã nêu lên công hiệu của Trí Tuệ Nhân Tạo đối với Việc Truyền Giáo như sau:

“ Thúc đẩy truyền giáo và giáo dục đức tin: AI hỗ trợ Giáo Hội trong việc truyền tải giáo lý, tạo ra tài liệu giáo dục đức tin phù hợp với từng cá nhân, giúp mọi người  dễ dàng tiếp cận và đào sâu kiến thức công giáo, bất kể khoảng cách hay hoàn cảnh…

……..Nâng cao hiệu quả trong hoạt động bác ái và công tác xã hội: AI giúp quản lý và phân phối nguồn lực, tối ưu hoá các chương trình hỗ trợ người nghèo và các nhóm yếu thế. Phản hồi nhanh  và hiệu quả  trước các nhu cầu xã hội, từ đó củng cố sứ mệnh bác ái của giáo hội” ( Nguồn: Diễn Đàn Phải Làm Gì ? / Truyền Thông – Công Nghệ ).

Qua sự trình bày của cha giáo sư JB Lê Đình Phương cho thấy Giáo Hội không hơn không kém chỉ là một “ Tổ Chức Cứu Tế Xã Hội”  và cũng chính vì thế  Trí Tuệ Nhân Tạo  mới được coi là công cụ hữu hiệu cho Việc Truyền Giáo ???

Từ lâu, Giáo Hội đã  đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về Việc Truyền Giáo. Thoạt đầu, Truyền Giáo có nghĩa là được sai đi và người được sai đi ấy gọi là Tông Đồ ( Apostolos ). Người được sai đi ấy mang một sứ mệnh  thế nên  Truyền Giáo được gọi là Missio. Sau này Truyền Giáo lại được hiểu là truyền bá đức tin ( Propagatio ). Thế nhưng việc truyền bá  ấy bị hiểu lầm là…tuyên truyền nên đã được đức giáo hoàng Phao Lô VI đổi lại là Phúc Âm Hoá ( Evangelizatio ).

Thật ra, Phúc Âm Hoá  hoàn toàn chẳng có liên quan gì đến sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Đức  Giê Su Ki Tô  đã trao cho các Tông Đồ trước khi Ngài về trời: “ Hãy ra đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Ai tin và chịu phép rửa thì được cứu. Còn ai không tin thì bị luận phạt. Những kẻ tin sẽ có những dấu lạ này cặp theo: Họ sẽ nhân danh Ta mà đuổi quỷ, nói tiếng lạ, bắt rắn độc, có uống nhằm thuốc độc chi cũng chẳng hại gì. Đặt tay trên kẻ đau yếu, kẻ ấy sẽ được lành mạnh” ( Mc 16, 15 -18 ).

Chúa Giê Su nói rất rõ về điều kiện tiếp nhận Tin Mừng: Ai tin thì sẽ được cứu, còn ai không tin sẽ bị luận phạt. Vậy, tin ở đây là tin vào điều gì ? Xin thưa là tin vào Tin Mừng mà Ngài rao giảng: “ Thời đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần, các ngươi hãy ăn năn, sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ).

Để có được lòng tin vào Tin Mừng của Đức Ki Tô  thì nhất thiết cần  có sự ăn năn, sám hối chừa cải tội lỗi mình. Giữa lòng tin vào Tin Mừng và sự sám hối ăn năn có một mối liên hệ khăng khít  không rời. Sự sám hối, ăn năn càng chân thành bao nhiêu thì lòng tin càng triển nở bấy nhiêu, trái lại thì không !.

Tại sao cần có sự ăn năn, sám hối, chừa cải tội lỗi mới có thể có được lòng tin vào Tin Mừng của Đức Ki Tô ? Đó là bởi Tin Mừng ấy là về Nước Trời mầu nhiệm nội tại  cũng chính là Chân Tâm Bản Tính của mỗi người: “ Người Pharisieu  hỏi Chúa Giê Su về Nước Thiên Chúa chừng nào đến ? Ngài đáp: Nước Thiên Chúa không đến cách mắt thấy được. Người ta cũng không thể nói: Đây này hay đó kia vì này Nước Thiên Chúa ở trong lòng các  ngươi” ( Lc 17, 20 -21 ).

Với Nước Trời  mà Đức Ki Tô rao giảng thì không thể nói: Đây này hay đó kia bởi vì đó là một Thực Tại Tâm ( Chân Tâm ) siêu việt cả không gian lẫn thời gian. Bởi Nước Trời là một Thực Tại Tâm mầu nhiệm như thế  nên lý trí con người không cách chi hiểu được. Nếu lý trí có thể hiểu thì không còn  chi  là mầu nhiệm nữa ?

Nước Trời là một mầu nhiệm khôn tả, bởi đó mỗi khi rao giảng về mầu nhiệm này Chúa Giê Su đều thốt lên: “ Ai có tai nghe thì hãy nghe !” Trừ  ra những kẻ  tai bị điếc thì không nghe, ngoài ra, ai mà chẳng nghe ? Tuy nhiên ở đây Chúa Giê Su muốn nói là khi nghe Tin Mừng thì  cần  lắng nghe với Tâm Vô Phân Biệt !

Để có thể nghe với Tâm Vô Phân Biệt như thế  thì cần xoay cái Tâm vào bên trong để nhận ra Bản Tánh Chân Thật  vốn sẵn có ở nơi mình gọi là “Phản Văn, Văn Tự Tánh”. Nghe lại tiếng nói chân thật  phát  ra từ Chân Tâm Bản Tánh , Chúa Giê Su gọi đó là Nghe Tiếng Cha và Ngài cũng mời gọi chúng ta thực hiện điều đó: “ Ta chẳng còn gọi các ngươi là tôi tớ nữa vì tôi tớ thì chẳng biết việc chủ mình làm. Nhưng Ta gọi các ngươi là bạn hữu  vì Ta từng tỏ cho các ngươi những điều Ta đã nghe biết ở nơi Cha Ta” ( Ga 15, 15 ).

Nghe được Tiếng Cha  ở nơi mình, đó là ơn phúc vô cùng lớn lao và ơn phúc đó các tiên tri và người công chính trước đây đã từng  ước ao mà không được: “ Vì phúc cho các ngươi vì thấy được. Cho tai các ngươi vì nghe được. Quả thật Ta nói cùng các ngươi: Có nhiều tiên tri và người công chính  đã ước ao điều  các ngươi thấy mà không  được thấy. Đã ước ao nghe điều các ngươi nghe mà không  được nghe” ( Mt 13, 16 -17 ).

Ước ao thấy mà không được thấy đó là thấy Đấng Cứu Thế Giê Su  xuất hiện nơi đời. Còn ước ao nghe mà không  được nghe đó là nghe Chúa rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Có  biết được ơn phúc lớn lao  do việc…nghe Tin Mừng của Đức Ki Tô như thế thì mới hiểu được  giá trị của Việc Truyền Giáo và ra công thực hiện ! Tại sao ?

Bởi vì tất cả sứ mạng cao cả của Việc Truyền Giáo chỉ hệ tại ở việc rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô về Nước Trời Mầu Nhiệm Nội Tại. Chính là với Tin Mừng ấy mà muôn dân trông đợi  chứ không phải là việc “ Cứu Tế Xã Hội” ? Truyền Giáo tất nhiên phải là việc rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô. Thế nhưng để thực hiện công cuộc lớn lao ấy lại đòi hỏi cần có những chứng nhân thực thụ  chứ không phải là những giáo sư, tiến sĩ bằng cấp, khoa bảng đủ loại…

“ Hãy nhớ đến Đức Ki Ti Tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết. Đấng thuộc dòng dõi Đa Vít như đã nói  trong Tin Mừng mà tôi  rao giảng. Vì Tin Mừng ấy mà tôi đã chịu nhiều khổ nhục. Tôi còn phải mang xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng Tin Mừng đâu thể bị xiềng xích. Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự để mưu ích cho những người được Thiên Chúa chọn lựa để họ cũng đạt tới Ơn Cứu Độ  trong Đức Giê Su Ki Tô  và được hưởng vinh quang muôn đời” ( 2Tm 2, 8 -10 ).

Mục đích của Việc Truyền Giáo là để rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô, hầu cho những ai tiếp nhận, cuối cùng sẽ  được hưởng vinh quang Nước Trời chứ không phải để đào sâu kiến thức giáo lý đủ loại  của Trí Tuệ Nhân Tạo, chẳng những chẳng đem lại ơn ích gì cho việc Rỗi Linh Hồn mình  mà  ngày càng xa rời Đạo Thánh Chúa là Đạo Chân Thật ( Ga 17, 17 ).

Như vậy, sự cứu rỗi tất cả là do ở việc tin và sống với Tin Mừng của Đức Ki Tô chứ không phải là am hiểu giáo lý hoặc ngay cả  những việc làm bác ái nếu chỉ theo ý riêng mình: “ Ấy là Đấng đã cứu chúng ta, đã kêu gọi chúng ta bởi  ơn kêu gọi thánh. Chẳng phải theo công việc của chúng ta bèn là theo chỉ định và ơn sủng của Ngài là ơn sủng đã ban cho chúng ta  trong Chúa Giê Su Ki Tô từ trước muôn đời mà hiện nay mới được tỏ ra bởi sự hiện diện của Chúa chúng ta  là Đức Giê Su Ki Tô, Đấng đã bãi bỏ sự chết nhờ Tin Mừng  mà phơi bày sự sống  và sự chẳng hay hư nát ra. Cũng vì Tin Mừng đó mà  ta đã được lập làm nhà truyền giáo, tông đồ và giáo sư. Lại cũng vì cớ ấy  mà ta  chịu những nỗi khổ này. Dẫu vậy, ta chẳng hổ thẹn  đâu vì ta biết Đấng mà ta đã tin và cũng tin chắc rằng  Ngài có thể giữ sự ta đã phó thác cho Ngài đến ngày đó” ( 2Tm 1, 9 -12 ).

Để rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô thì nhất định cần có những chứng nhân: “ Các ngươi là những chứng nhân về mọi việc đó” ( Lc 21, 48 ). Những việc cần làm chứng  đó là Chúa Giê Su đã chết, sống lại và rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Chính do việc…làm chứng ấy, Giáo Hội Công Giáo đã được khai sinh và tồn tại cho đến  ngày nay. Thế nhưng nên nhớ, việc làm chứng ấy luôn đòi hỏi cần có những hy sinh, thậm chí nếu không có hy sinh, cho đến cả  mạng sống mình thì không thể có Đạo Thánh Chúa đúng như lời thánh Tertuliano đã nói: “ Các thánh tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu” ( Sanguis martyrum  semen  christianorum ).

Việc làm chứng  đòi hỏi rất nhiều hy sinh, chịu đựng gian khổ và không kém phần nguy hiểm, vì vậy Chúa Giê Su đã ví việc  được sai đi ấy giống như chiên con đi vào giữa bầy sói dữ: “ Này Thầy sai anh em  đi như chiên con vào giữa bầy sói” ( Lc 10, 3 ). Lý do khiến việc làm chứng nhân cho Tin Mừng…nguy hiểm như thế bởi vì Đạo Chúa là Đạo Xuất Thế Gian: “ Con đã ban đạo Cha cho họ mà thế gian ghen ghét họ vì họ không thuộc về thế gian cũng như Con không thuộc về thế gian vậy. Con chẳng xin Cha cất họ khỏi thế gian nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi sự ác. Họ không thuộc về thế gian cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy lẽ thật  để khiến họ nên thánh. Đạo Cha là đạo thật” ( Ga 17, 14 -17 ).

Làm chứng cho Tin Mừng là làm chứng cho sự thật, thế  nhưng  trong thực tế đời sống, điều ấy thật không hề dễ chút nào…Bằng chứng rõ nhất đó là qua  cuộc bách hại Đạo Công Giáo  diễn ra tại miền bắc sau năm 1954. Sự bách hại ấy trước hết là nhằm cô lập, làm khó dễ  những vị mục tử chăn dắt đoàn chiên như các hồng y, các đức giám mục và sau nữa là toàn thể các Linh Mục, những con người không chịu khuất phục nhà cầm quyền.

Trong số những vị mục tử ấy, đặc biệt có linh mục Nguyễn Văn Vinh ( 1912 – 1971 ) thường được gọi là cha chính Vinh ( TGP Hà Nội ), người  từng du học tại Pháp gần 20 năm, đã đậu bằng tiến sĩ triết học Sorbone, tốt nghiệp Khoa Sáng Tác Âm Nhạc tại Nhạc Viện Quốc Gia…Ngài đã được bề trên ( ĐHY Giu Se Maria Trịnh Như Khuê ) cho phép đem chủng sinh vào nam nhưng đã tình nguyện ở lại để tiếp tục phục vụ  giáo hội,  rồi bị bắt sau vụ ( Noel 1958 ), và  chết dũ tù trong trại giám Cổng Trời ( Hà Giang ) là nơi chuyên  giam giữ  các  tử tù.

Theo lời kể của nhà thơ Tuân Nguyễn ( Không phải nhà văn Nguyễn Tuân ), được nhà văn Phùng Quán kể lại cái chết của cha chính Vinh nguyên văn như sau: “ Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai, ba lần  anh ta mới mở mắt  chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró hình như thoáng có nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta  thè lưỡi liếm mấy giọt nước mắt  rớt trúng vành môi rồi anh ta thều thào nói:

  • Tuân ở lại, mình đi đây…đưa bàn tay đây cho mình…Anh ta  nắm chặt

bàn tay mình  hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi  được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với  một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên  than viết vào lòng bàn tay mình một chữ Nho: Chữ NHẪN.

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than  và lên cơn co giật…Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ  NHẪN ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng  đó là một ám hiệu gì đó…Giám thị hỏi: Cái hình nguệc ngoạc  này có ý nghĩa gì ? Anh mà không thành thật khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam !

Mình nói: Thưa cán bộ, thật tình tôi cũng không rõ, anh ta chỉ nói: Tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa  để xua đuổi bệnh tật và tà khí. Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…” ( Nguồn: Quảng Ngãi Nghĩa Thục – Thằng Khùng – Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá ).

Chữ NHẪN được giải thích cho viên giám thị trại giam  như là một thứ…bùa để trừ bệnh tật, tà khí, nghe như có vẻ đùa  nhưng đó lại là  đức tính quan trọng nhất trong đời sống tâm linh, có liên quan đến niềm hy vọng đời sau của người Công Giáo: “ Vì chúng ta được cứu trong sự hy vọng nhưng sự hy vọng đã thấy được thì không còn là hy vọng nữa. Vì có ai lại hy vọng điều đã thấy rồi ư ? Song nếu chúng ta hy vọng điều chưa thấy thì chúng ta mới nhẫn nại mà đợi trông” ( Rm 8, 24 -25 ).

Cha chính Vinh trong cơn hấp hối, thập tử nhất sinh mà còn…ráng viết một chữ NHẪN  trên lòng bàn tay của người bạn tù. Điều ấy chứng tỏ ngài đã sống chữ  NHẪN  theo gương Thầy Chí Thánh Giê Su của mình một cách trọn vẹn. Tuy nhiên để có thể sống được như thế thì nhất định không được thoả hiệp với thế gian dù trong bất kể hoàn cảnh nào…

“ Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh nói: Đảng và chính phủ muốn anh được tha về nhưng với điều kiện là phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh ( CT/ UBLLCG ). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi. Ngài khẳng khái đáp: Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”

Đường lối của ông Vịnh, một linh mục quốc doanh là thoả hiệp với thế gian. Còn của cha Vinh là Đường Thập Giá Chúa Ki Tô. Thoả hiệp với thế gian  chỉ có thể đưa đến sự hư mất đời đời.  Trái lại Đường Thập Giá Chúa Ki Tô đưa đến vinh quang bất diệt. Người Công Giáo chúng ta chỉ có thể chọn một trong hai con đường ấy mà thôi, không thể có con đường….lưng chừng nào khác !

Nhận ra như thế để cho thấy trong ý nghĩa sâu xa của Việc Truyền Giáo đó cũng là việc thông truyền niềm hy vọng cho nhân loại, một nhân loại đã và đang sống bên bờ tuyệt vọng !!! Thế nhưng làm sao có thể có được niềm hy vọng ấy nếu không có lòng nhẫn nại, đợi trông ?

 

Phùng  Văn  Hoá

 

Hạnh Phúc – Chương 2-2. NGHỈ NGƠI

Trước đây chưa bao giờ con người có được nhiều thiết bị giúp tiết kiệm thời giờ như hiện nay. Thế mà chưa bao giờ con người lại có ít thời gian dành cho việc rảnh rang hay ngơi nghỉ như hiện nay. Tuy nhiên ít người để ý đến điều này: quảng cáo đã nhồi nhét trong tâm trí người hiện đại khái niệm giả dối là nhàn rỗi và không lao động đồng nghĩa như nhau – là chúng ta càng có bên cạnh đủ thứ linh tinh như then cửa, vỏ xe, cầu dao và những tiện nghi gia dụng khác thì chúng ta càng tiết kiệm được thời gian cho chính mình.

Tuy nhiên sự phân chia ngày giờ của chúng ta thành lao động và không lao động như thế thật là quá đơn giản. Trong thực tế, đối với đa số việc phân chia như thế không đếm xỉa gì đến khả năng để có được sự nhàn rỗi thực sự. Người ta phí đi hàng giờ trống vào việc lơ ngơ láo ngáo không mục đích, vào việc tiêu cực chờ đợi một điều thú vị nào đó sẽ xảy đến cho mình…

Việc nghỉ ngơi đích thức không phải chỉ là khoảng cách giữa những hành vi trong sinh hoạt đời sống. Nó cũng là một thứ hoạt động mãnh liệt tùy thuộc vào một loại khác. Cũng như giấc ngủ không phải là sự ngưng lại của sự sống mà chính là sự sống dưới một hình thức khác so với lúc thức thì sự nghỉ ngơi cũng là một hoạt động chẳng kém về mặt sáng tạo so với hoạt động của những giờ lao động của chúng ta.

Sự nghỉ ngơi – xét như sự nhàn rỗi đích thực – không thể nào có được nếu không kèm theo vài nhận thức về thế giới tinh thần. Bởi vì mục đích đầu tiên của sự nghỉ ngơi là để chiêm ngắm điều thiện… đích nhắm đích thực của nó là nhìn ra tương giao giữa các sự cố nhỏ mọn trong cuộc sống hàng ngày và sự tốt đẹp rộng lớn hơn đang vây phủ quanh chúng ta. Sách Sáng Thế kể cho cho chúng ta là sau khi tạo dựng thế giới: “Thiên Chúa đã nhìn tất cả mọi thứ Ngài đã làm và nhận thấy chúng rất tốt đẹp”. Việc chiêm ngưỡng như thế về công việc của mình quả là tự nhiên đối với con người bất cứ lúc nào họ dấn thân vào phận sự sáng tạo. Anh hoạ sĩ đứng sau khung vẽ để xem coi những chi tiết cảnh biển có được đặt đúng chỗ không. Sự nghỉ ngơi đích thực chính là lùi lại để duyệt xem những hoạt động xảy đến với mọi ngày của chúng ta.

Chúng ta chỉ có thể mãn nguyện thực sự với công việc của mình nếu chúng ta thường xuyên dừng lại để tự hỏi xem tại sao chúng ta đang làm công việc ấy và mục đích của nó có phải là điều mà tâm trí chúng ta hoàn toàn ưng thuận không. Có lẽ một lý do khiến cho tại sao rất nhiều dự án kinh tế và chính trị của chúng ta bị thất bại là bởi vì những dự án này nằm trong tay những người chỉ biết quá dán chặt đôi mắt vào những gì họ đang làm đến nỗi chẳng bao giờ dừng lại để chất vấn xem có nên làm điều ấy không. Chỉ biết bận bịu để lo kiếm được tiền thì chẳng bao giờ có thể thoả mãn nhu cầu của con người về một công việc mang tính sáng tạo.

Bất cứ loại công việc nào cũng đều có thể được thăng hoa và khoác cho một mục đích siêu nhiên nếu công việc ấy được nhìn dưới viễn cảnh vĩnh cửu. Lau nhà, đổ rác, dò bảng số xe chở hàng… tất cả mọi điều này đều có thể được “thực hiện tốt đẹp” nhờ vào một cử chỉ đơn giản của ý chí hướng chúng vào việc phụng sự Chúa. Phận vụ đơn giản nhất cũng có thể mặc lấy ý nghĩa thiêng liêng và được thần thánh hoá là thế đấy.

Nếu chúng ta biết hướng công việc mình lên cùng Chúa thì chúng ta sẽ làm việc tốt hơn chúng ta thường nghĩ. Việc nhìn nhận điều này cho thấy chúng ta cần nghỉ ngơi. Trong khi nghỉ việc một tuần một lần, con người nên đến trước mặt Thiên Chúa của mình để nhìn nhận bao nhiêu công việc mình làm suốt tuần qua đều là công việc của Đấng Tạo Dựng: lúc ấy anh ta có thể nhắc nhớ cho mình rằng mọi thành quả lao động của mình đều đến từ đôi tay khác, rằng các ý tưởng mà tâm trí anh sử dụng cũng đến từ nguồn cội cao siêu hơn, và ngay cả năng lực anh ta sử dụng cũng là quà tặng của Thiên Chúa.

Trong tâm trạng nghỉ ngơi thực sự như thế, nhà khoa học sẽ thấy rằng chính mình không phải là tác giả những sưu tập của mình về luật thiên nhiên, mà chẳng qua chỉ là người đọc và sửa bản in. Chỉ có Chúa mới là Đấng viết ra cuốn sách ấy. Cũng trong lúc nghỉ ngơi như thế, người thầy giáo sẽ thú nhận mọi chân lý mà ông ta truyền lại cho học sinh của mình chỉ là tia nắng từ Mặt Trời Khôn Ngoan Thần Linh. Anh đầu bếp chuyên gọt khoai thì sau một thời gian nghỉ ngơi như thế sẽ biết cầm nắm những củ khoai như là những quà tặng khiêm tốn của chính Thiên Chúa.

Sự nghỉ ngơi giúp chúng ta chiêm ngắm những sự việc nhỏ bé mà chúng ta làm trong mối tương giao của chúng với những sự việc to tát là những thứ mới mang lại cho chúng giá trị và ý nghĩa. Nhờ nghỉ ngơi chúng ta mới nhớ rằng mọi hành động đều tìm được giá trị từ nơi Thiên Chúa: “Từ ngữ Worship (thờ phụng) có nghĩa là phục hồi lại cho cuộc sống lao động hằng ngày giá trị đích thực của nó bằng cách đặt nó trong tương giao với Chúa là cùng đích của nó và cũng là của chúng ta.

Sự thờ phụng như thế cũng là một hình thức nghỉ ngơi – là hình thức chiêm ngắm hết sức tích cực và sáng tạo những sự việc của Chúa nhờ đó chúng ta được phục hồi sinh lực trở lại; bởi vì lời hứa của Phúc âm thánh Matthêu vẫn luôn luôn chờ đợi những kẻ biết sẵn sàng lắng nghe: “Hãy đến với Ta, tất cả các ngươi là những kẻ lao nhọc và vác nặng, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ”.

Gm. Fulton Sheen

Hạnh Phúc – Chương 2 - 1. CÔNG VIỆC

Thời buổi này có rất ít người được sinh sống bằng công việc mà mình thích. Vì nhu cầu kinh tế nên thay vì được chọn nghề mình thích, người ta bị buộc phải làm những phận việc mà họ chẳng thích. Nhiều người trong họ nói rằng: “Lẽ ra tôi giờ này phải làm một điều gì to tát hơn” hoặc: “Công việc tôi hiện đang làm có quan trọng chẳng qua là vì nhờ nó tôi kiếm được tiền”. Một thái độ như thế thường khiến cho công việc khó được hoàn tất hay khó được thực hiện tươm tất. Người nào biết chọn lựa công việc vì việc ấy chu toàn được một mục đích mà anh tán đồng thì mới là người tăng tiến bản thân nhờ vào công việc. Chỉ mình anh ta mới có thể nói được câu này khi đã chấm dứt công việc đó: “Nó đã hoàn tất xong!”

Ngày hôm nay thật đáng buồn khi nhiều người thiếu sót trong ý thức về nghề nghiệp như thế. Không nên trách móc cái hệ thống kinh tế phức tạp mà nên trách móc sự đổ vỡ những giá trị tinh thần của chúng ta. Nhìn với viễn cảnh thích hợp thì bất cứ công việc nào cũng đều có thể được dùng để cao đẹp hoá chúng ta, nhưng để thấy điều đó thì trước tiên cần hiểu rõ triết lý về lao động.

Mọi phận việc chúng ta làm đều bao gồm hai khía cạnh: thứ nhất là mục đích tức là lý do khiến chúng ta cho rằng việc ấy đáng làm và thứ hai là chính công việc được nhìn tách biệt với cùng đích của nó. Chúng ta chơi quần vợt để mà tập luyện, tuy nhiên chúng ta lại phải chơi hết mình như chỉ để được vui vì đã chơi hay. Kẻ nào lập luận rằng mình vẫn tập luyện nhiều bằng việc chơi cẩu thả trong sân chơi thì kẻ ấy sẽ đánh mất sự hiểu biết khía cạnh thứ hai của tất cả mọi hoạt động đó là phải chu tất mọi phận việc phù hợp với tiêu chuẩn tuyệt hảo riêng của nó. Tương tự như thế, mục đích đầu tiên của một công nhân làm việc ở một xưởng xe hơi có thể là để kiếm tiền, tuy nhiên mục đích của chính công việc lại là sự hoàn tất công việc. Người công nhân lúc nào cũng nên ý thức đến mục đích thứ hai, giống như người hoạ sĩ ý thức đến mục đích là cái đẹp trong khi vẽ, hay bà nội trợ ý thức đến nhu cầu sạch sẽ khi bà ta lau bụi.

Ngày nay, khía cạnh thứ nhất của lao động đã trở nên ưu thắng và người ta có khuynh hướng bỏ lơ khía cạnh thứ hai… đến nỗi nhiều công nhân đã lui hui nửa đời người vào việc lao động. Tuy nhiên họ giống như những người làm vườn chỉ biết bắt buộc cây cải phải đem lại cho họ nước sốt cải nhưng lại chẳng để ý đến việc chọn miếng đất gieo cải cho thích hợp hoặc chăm sóc cây cải cho tươi tốt. Đây quả là một thái độ lầm lẫn: vì chính Chúa cũng đã lao động khi Ngài tạo lập thế gian và rồi khi ngắm nhìn công việc của mình Ngài đã gọi công việc ấy là: “Tốt!”

Niềm hãnh diện chính đáng khi thấy công việc được hoàn tất tốt đẹp sẽ giúp cho công việc giảm đi nhiều nỗi cơ cực. Một số người tuân theo tiêu chuẩn “nghệ tinh” này thường tìm được sự hưng phấn trong bất cứ công việc nào của họ. Họ nhận ra được thoả mãn khi “một công việc được làm chu tất” dù là bện một chiếc ghế mây, chùi chuồng ngựa hoặc khắc một bức tượng cho ngôi thánh đường. Vinh dự và lòng tự trọng của họ được nâng cao dựa vào cái kỷ luật làm cho cẩn thận các công việc ấy. Họ đã giữ lại được thái độ xưa kia của thời trung cổ; vào thời đó công việc được xem là một sự cố thánh thiện, một nghi thức, một nguồn công trạng thiêng liêng. Thời bấy giờ, người ta không làm việc chỉ nhằm lợi ích kinh tế mà còn do sự thúc dục từ bên trong, từ niềm ước muốn phóng chiếu ra quyền năng tạo dựng của Chúa qua nỗ lực riêng của con người chúng ta.

Không nên thực hiện bất cứ phận vụ nào mà không quan tâm đến một trong hai khía cạnh ưu tiên này của công việc. Muốn nối kết được hai điều này với nhau… chẳng hạn niềm vui khi làm ra cái bàn đẹp và mục đích làm ra nó, tức là để kiếm sống… Chúng ta cần ghi vào tâm trí những nguyên tắc sau đây:

Công việc là một bổn phận luân lý chứ không phải chỉ là một nhu cầu vật lý như nhiều người thường nghĩ. Thánh Phaolô từng nói: “Ai không chịu làm việc thì không đáng ăn”. Khi công việc được coi như một bổn phận luân lý thì rõ ràng là nó không chỉ đóng góp vào thiện ích xã hội mà còn tạo ra những ích lợi khác cho chính người công nhân, nó tránh cho anh ta “sự nhàn cư vi bất thiện” cũng như giúp cho xác thân anh ta biết phục tùng ý chí.

“Làm việc là cầu nguyện”. Cuộc sống qui củ không loại sự cầu nguyện qua một bên cho đến lúc làm việc xong mà là biến công việc thành một lời cầu nguyện. Chúng ta chu tất được điều này nếu chúng ta biết hướng về Chúa khi khởi đầu và hoàn tất một phận việc và dùng tâm trí dâng nó lên cho Ngài vì lòng yêu mến Ngài. Như thế, dù đang nuôi một đứa trẻ, hay đang sửa một bình chứa hoà khí, đang xoay cái máy tiện hoặc đang điều khiển thang máy, phận việc nào cũng đều được thánh hoá hết. Không việc đạo hạnh nào trong các giờ rảnh rỗi có thể bù đắp sự cẩu thả trong khi làm việc. Tuy nhiên, bất cứ phận sự nào, nếu làm chu đáo, thì cũng có thể biến thành một lời cầu nguyện.

Antonio xứ Florence, một nhà kinh tế thời Trung cổ, tóm lược mối tương giao giữa công việc và cuộc sống trong công thức mang lại hạnh phúc sau đây: “Mục đích việc kiếm tiền là giúp chúng ta có thể nuôi mình và những người khác là để mọi người có thể sống cho nhân đức. Mục đích việc sống nhân đức là để cứu rỗi linh hồn chúng ta và để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu”.

Xét cho công bằng, mọi công việc phải nhận được hai loại phần thưởng, vì công việc không chỉ mang tính cách cá nhân mà còn mang tính cách xã hội nữa. John Jones làm việc trong một hầm mỏ, vào cuối ngày anh ta bị mệt mỏi, đây là sự hy sinh của cá nhân anh ta. Vì sự hy sinh này, John nhận được lương. Tuy nhiên, suốt cả ngày, John Jones cũng đã thực hiện sự đóng góp mang tính xã hội vào thiện ích của đất nước và của thế giới. Thế mà, ngày hôm nay, mặc dù có đóng góp cho xã hội, John Jones đã chẳng được nhận thêm gì hết, dầu rằng về mặt luân lý anh ta có quyền được chia sẻ cái thiện ích xã hội mà công việc anh ta tạo ra.

Vì thế, chúng ta cần điều chỉnh lại hệ thống lương sao cho người công nhân có thể chia sẻ về mặt lợi nhuận, về quyền sở hữu quyền điều hành ngành công nghiệp của mình. Khi các nhà lãnh đạo công nhân và các nhà tư bản đồng ý với nhau để cho công nhân một số vốn để bảo vệ họ, thì bấy giờ sẽ không còn hai nhóm đối nghịch trong ngành công nghiệp nữa; công nhân và giới điều hành sẽ trở nên những phần tử cùng hợp tác làm việc với nhau, giống như hai chân của một người cùng hợp lại để giúp anh ta bước đi vậy.

Gm. Fulton Sheen

Niềm Tín Thác – Chương IX: THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU VÀ NIỀM TÍN THÁC

I. VIỆC TÔN SÙNG THÁNH TÂM CHÚA DÀNH CHO MỘT THẾ GIỚI ĐÃ TRỞ NÊN NGUỘI LẠNH DO GIÁO PHÁI JANSÊNIÔ. TẦM QUAN TRỌNG VÀ VIỆC TRUYỀN BÁ LẠ LÙNG CỦA VIỆC SÙNG KÍNH NÀY.

–   NHỮNG LỜI HỨA CỦA THÁNH TÂM CHÚA.

–   NIỀM TÍN THÁC MẶC DẦU NHỮNG BẤT TOÀN CỦA TÔI.

–   NHỮNG VỰC THẲM CỦA TÌNH THƯƠNG CỦA CHÚA.

Việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu dành cho một thế giới đã trở nên nguội lạnh do giáo phái Jansêniô.

– Thánh Tâm Chúa Giêsu là vực thẳm khôn lường của tình thương và lòng thương xót, một vực thẳm đầy tràn và không bao giờ vơi cạn. Chúng ta không biết Chúa Giêsu còn có thể tìm ra cách nào khác để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Chúa đã nhập thể, đã sống cuộc sống khó nghèo giữa loài người, đã trải qua cuộc khổ nạn và cái chết vô cùng đau đớn trên thập giá. Ngài đã lập phép Thánh Thể và lễ hy sinh hằng ngày trên các bàn thờ để lặp lại lễ hy sinh thập giá của Ngài cho đến tận thế. Ngài lại muốn trở thành lương thực để nuôi dưỡng và kết hiệp với linh hồn mỗi người chúng ta. Bằng ấy hy sinh lạ lùng của Chúa, giống như những khâu của chiếc dây chuyền tình thương Chúa dùng để trói buộc tâm hồn ta trong tình thương của Ngài. Nhưng có vẻ như Chúa Giêsu chưa lấy thế làm đủ. Vậy Ngài sẽ tìm thêm được phương thế nào nữa để tỏ lòng thương yêu ta ?

Thật ra Chúa Giêsu vẫn còn dự trữ một cách nữa để thổ lộ tình thương của Ngài. Ngài đã muốn làm hơn nữa để mỗi người chúng ta có thể như sờ thấy tình thương rất dịu dàng của Ngài đối với mỗi người chúng ta, và để nói với ta rằng Ngài muốn được ta đáp lại tình thương của Ngài. Đó là việc sùng kính Thánh Tâm Chúa, một việc sùng kính được Ngài dành cho cái thế giới đã trở nên nguội lạnh vì giáo phái Janseniô.

Margarita Maria, người nữ tỳ anh hùng của Thánh Tâm Chúa, đã được tuyển chọn để rao giảng tình thương nồng nàn và những lời hứa vô cùng qúy giá của Thánh Tâm Chúa. Thánh nữ đã nói cho ta biết những gì Chúa Giêsu đã nghĩ và những nỗi niềm đau khổ Chúa đã chịu. Thánh nữ cho ta biết Chúa nóng lòng ước ao tìm được những linh hồn quảng đại để an ủi Thánh Tâm đau khổ của Ngài. Tất cả chúng ta đều đã nghe biết về những sự mặc khải và những yêu cầu của Thánh Tâm Chúa. Chúng ta cũng đã nghe biết về những lời hứa rất đặc biệt, chưa từng nghe thấy bao giờ của Thánh Tâm. Đó là những mặc khải về tình thương bao la, không những Thánh Tâm Chúa dành cho nhân loại nói chung, mà là cho từng người chúng ta nói riêng : Chúa yêu thương mỗi người chúng ta và mong chờ được mỗi người chúng ta yêu mến Ngài. Những mặc khải này thật hết sức kỳ diệu. Nếu không có cuộc khổ nạn vô cùng đau đớn của Chúa, nếu không có phép Thánh Thể, nguyên những mặc khải của Thánh Tâm Chúa tại Paray-le-Monial có lẽ cũng đủ tỏ cho ta thấy tâm tình của Chúa Giêsu đối với chúng ta, để trấn an những sợ sệt hẹp hòi và thiển cận của ta, và để kêu gọi ta hãy trọn vẹn tín thác nơi Ngài.

Cần phải đọc những gì các vị tông đồ đầu tiên của Thánh Tâm Chúa đã viết, nhất là của thánh nữ Margarita Maria, của chân phước De la Colombière, của Cha Rolin và một số vị khác. Phải đặt mình vào bầu không khí đã trở nên giá lạnh hồi đó, do giáo phái Jansêniô, để hiểu được tất cả tầm vóc của việc sùng kính mới mẻ này đối với Thánh Tâm Chúa. Đây được coi là một trong những biến cố lớn lao và trọng đại nhất của lịch sử Giáo hội, từ sau khi Chúa chịu chết trên thập giá. Và đó cũng là sự mặc khải lạ lùng và diễm phúc nhất của tình thương của Chúa. Rồi khi người ta nhớ lại cái không khí đã cản trở sự truyền bá lòng tôn sùng này, người ta mới hiểu được những lời hứa đầy ơn phúc Chúa đã dành cho những người tham gia vào việc cổ động việc sùng kính Thánh Tâm Ngài, cổ động cho có nhiều người nhận biết tình thương vô cùng Chúa dành cho mỗi người chúng ta.

Vào thời kỳ sơ khai của Giáo hội, Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá đã dùng các tông đồ và các môn đệ của Ngài để nói cho thế giới biết tình thương vô biên của Ngài đối với toàn thể nhân loại tội lỗi : Chúa đã trang bị họ bằng những ân sủng đặc biệt mạnh mẽ, để họ chinh phục và biến cải cái xã hội ngoại giáo. Vào thế kỷ thứ XVII, Thánh Tâm Chúa cũng đã tìm được những tông đồ của Ngài, để truyền bá khắp nơi về tình thương vô cùng âu yếm của Thánh Tâm Chúa, mặc dầu những chống phá điên cuồng của satan và của giáo phái Jansêniô, một giáo phái xấu xa nhất từ trước đến giờ. Chúa cũng đã trang bị những vị tông đồ này bằng đủ thứ ân sủng và phép lành đặc biệt của Ngài, cho nên việc rao giảng lòng sùng kính này đã sớm thâu lượm được những kết qủa và gây được ảnh hưởng lớn lao nơi các linh hồn.

Những lời hứa của Thánh Tâm Chúa có giá trị cho mọi thời, có giá trị muôn đời, bởi vì sứ mạng truyền bá tình thương vô cùng của Thánh Tâm Chúa sẽ chỉ chấm dứt với ngày tận thế. Mỗi thế kỷ đã mang lại một chiến thắng mới cho việc chinh phục của tình thương Thánh Tâm. Thế kỷ XIX đã kết thúc với chiến thắng huy hoàng : Đức Lêô XIII đã hiến dâng toàn thể nhân loại cho Rất thánh Trái Tim Chúa. Và mới đây, trong thế kỷ XX của chúng ta, Đức Thánh Cha Piô XI vừa ban hành thông điệp Miserentissimus Rédemptor (Chúa Cứu Chuộc rất thương xót), để khuyến khích các tín hữu tôn sùng Thánh Tâm Chúa, bằng cách cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Chúa, an ủi Thánh Tâm Ngài, thông phần vào cuộc khổ nạn của Ngài, để tẩy xóa và đền bù tội lỗi nhân loại nơi bản thân chúng ta là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.

Bức Thông Điệp này, cùng với việc lập ra lễ Thánh Tâm có tuần bát nhật, việc đền tạ trọng thể Thánh Tâm Chúa và lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, tất cả được coi như đỉnh cao của sự tôn vinh và tôn sùng Thánh Tâm Chúa.

Những lời hứa của Thánh Tâm.

– Tất cả chúng ta đều biết những lời hứa trọng đại mà Thánh Tâm Chúa đã nói với thánh nữ Margarita Maria, dành cho những ai tôn sùng Thánh Tâm Ngài. Chúng ta quen nghe qúa, cho nên có lẽ những lời hứa đó không còn đánh động chúng ta lắm. Nhưng thỉnh thoảng nên đọc lại và suy gẫm những lời hứa này. Những lời hứa của Thánh Tâm Chúa liên hệ đến toàn bộ đời sống chúng ta, về phần xác và nhất là về phần linh hồn.

Ở đây chúng tôi không nhắc lại từng lời hứa đó. Chúng tôi chỉ rút ra bài học rất qúi giá về niềm tín thác của những lời hứa đó mà thôi.

Trước hết Thánh Tâm hứa ban phước lành tràn đầy xuống cho công việc vật chất và tinh thần của những người có lòng tôn sùng.

Có thể chúng ta đã nghe kể về những ơn lành rất trọng đại và rất lạ lùng Chúa ban cho những nơi đã dựng đài kính tượng Thánh Tâm Chúa, hoặc đã tổ chức những cuộc lễ cầu xin và đền tạ Thánh Tâm Chúa. Những ơn lành lớn lao này chứng tỏ rõ ràng có sự can thiệp đặc biệt của Chúa, nên không thể không coi đó là sự thực hiện những lời hứa của Thánh Tâm.

Nhưng nhất là Thánh Tâm Chúa thường ban rất nhiều ơn lành vô cùng qúy giá cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Những ơn lành này chứng tỏ Thánh Tâm Chúa là Đại dương bao la của tình thương, của mọi nhân đức, của sự thánh thiện, và Chúa chỉ mong ước một điều, là đổ các ân sủng và các ơn lành đó xuống linh hồn những ai chạy đến với Thánh Tâm. Như chúng ta đều biết, Chúa chỉ mong ước một điều, và Chúa rất nóng lòng mong ước, là có thể thánh hóa chúng ta, biến đổi chúng ta, biến đổi trái tim chúng ta nên giống Trái Tim Ngài.

Chúng ta muốn trở nên khiêm nhường và hiền lành. Vậy hãy chạy đến với Thánh Tâm Chúa rất dịu hiền và khiêm nhường. Hãy thưa với Thánh Tâm về những tai hại và những vết thương mà tính kiêu ngạo còn để lại nơi trái tim ta. Hãy thưa Chúa về những khó khăn để trở nên hiền hậu. Hãy tâm sự với Chúa về những khó khăn lớn lao trong việc trở nên giống như những trẻ nhỏ. Hãy kể lại cho Chúa nghe từng trăm lần chúng ta đã quyết tâm, thế rồi lại trăm lần sai lỗi. Chúa biết. Ngài biết rõ những nỗi khó khăn của ta, những sự yếu đuối của ta. Nhưng Ngài có cách giúp ta vượt thắng, vì chính Ngài đã nói : “Anh em hãy đến và hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).

Chúng ta hãy năng cầu xin với Chúa : “Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin làm cho trái tim con nên giống Trái Tim Chúa!”. Chúa Giêsu rất khiêm nhường và rất ước ao thấy chúng ta trở nên giống Ngài, cho nên Ngài không thể bỏ qua lời cầu nguyện của ta, và chắc chắn Ngài sẽ ban ân sủng giúp ta mỗi ngày mỗi nên khiêm nhường hơn như Ngài.

Chúng ta ước ao quên mình đi để yêu mến Thiên Chúa bằng một lòng mến vô vị lợi và hoàn toàn tinh ròng. Ta hãy chạy lại với Thánh Tâm, hãy đưa cho Ngài thấy trái tim lạnh lẽo và ích kỷ của ta. Hãy xin Chúa đặt trái tim ta bên cạnh lò lửa bừng bừng của Thánh Tâm, nơi mà trái tim của biết bao vị thánh đã được thanh tẩy và đốt lửa yêu mến. Ta hãy nài xin Thánh Tâm ban cho ta một tàn lửa của Thánh Tâm Ngài, để trái tim ta cũng trở nên nồng nàn tình mến yêu Chúa và sốt sắng phụng sự Ngài. “Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu đang bị thiêu đốt bởi tình thương chúng con, xin Chúa hãy thiêu đốt trái tim con bằng lửa mến yêu Chúa !”.

Chúng ta hãy khát khao nên thánh và nên trọn lành, nhưng đáng buồn thay ! Chúng ta thấy mình còn qúa xa sự thánh thiện hằng mong ước. Có vẻ như sẽ chẳng bao giờ chúng ta đạt được lý tưởng hằng mơ ước đó. Vậy chúng ta hãy thưa với Thánh Tâm Chúa Giêsu tất cả những mong ước đó của chúng ta, và chúng ta hãy tin tưởng có ngày sẽ được Chúa ban ơn và sẽ được thỏa lòng mong ước. Đúng thế, Chúa Giêsu rất hài lòng về những ý định và ước ao nên thánh của ta. Ngài vui nhận tất cả những khát vong thầm kín tốt lành của ta, những lời rên rỉ chân thành của ta. Đừng sợ thưa Ngài cả trăm lần những ước ao của ta. Đừng sợ quấy rầy Thánh Tâm Chúa bằng những lời cầu khẩn như thế của ta. Ngài là sự thiện tuyệt đối, là Đấng chí thánh, Ngài rất yêu qúy những ước nguyện thánh thiện của ta và từng hơi thở của lòng mến yêu của ta. Ngài muốn cho lòng mến yêu của ta lớn thêm mãi, để trở thành một lò lửa bừng bừng của đức mến. Ngài là Chúa chiên lành không sợ bỏ chín mươi chính con chiên trung thành để đi tìm một con chiên lạc, thì có gì mà Ngài chẳng làm cho những con chiên sùng kính Thánh Tâm Ngài ? Ngài nóng lòng ước ao giúp ta nên thánh, nên trọn lành, như chính Ngài đã nói : “Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).

Phải tín thác, mặc dầu những sự bất toàn của tôi.

– Tôi có qúa nhiều sự bất toàn, những nỗ lực của tôi thì ươn ái, tôi lại hay sa ngã. Ôi ! Chắc Thánh Tâm Chúa chán tôi lắm rồi. Chắc Ngài thất vọng khi thấy tôi thiếu quảng đại. – Nếu chúng ta có những tư tưởng như thế, thì đó là dấu chúng ta hiểu qúa ít về Thánh Tâm Chúa Giêsu. Chúa là tình thương vô cùng, Ngài rất vui mừng khi nhìn thấy một vài bông hoa nhỏ xíu của tình mến yêu nảy mầm và mọc lên trên mảnh đất khô cằn của linh hồn ta, giữa những cỏ dại và gai góc. Ngài là người làm vườn kiên trì và nhẫn nại, Ngài quen vun trồng linh hồn ta với một sự chăm lo rất dịu dàng. Ngài biết mấy bông hoa nhỏ này qúa yếu ớt và dễ bị tổn thương, cần phải được Ngài luôn luôn chăm sóc. Lúc thì Ngài tưới, lúc thì bón phân, lúc thì cắt tỉa. Mỗi lá non, mỗi chồi non, mỗi cái nụ đều được Ngài để ý săn sóc và cảm thấy vui lòng. Mỗi dấu hiệu về sự tăng trưởng điều hòa đều mang lại niềm vui cho Ngài.

Ngài thương hại khi thấy sự bất lực của những ước vọng của ta. Ngài rất muốn giúp đỡ ta, nâng đỡ ta, giúp ta làm được những điều mà sức ta không thể làm được. Ngài luôn lo sửa lại những gì ta đã làm hư, giúp ta sửa lại những lỗi lầm ta đã mắc phải trong cuộc đời. Khi sự nhẫn nại của ta xem ra cạn kiệt, thì sự nhẫn nại của Ngài vẫn còn nguyên : Không có gì làm Ngài chán nản, không có gì khiến Ngài so đo, bởi vì qua tất cả những thiếu sót của ta, qua tất cả những buồn rầu mà sự hèn nhát của ta gây nên cho Ngài, Thánh Tâm Ngài vẫn nhìn thấy có ngày mấy bông hoa tình yêu tinh ròng sẽ tươi nở, và sẽ trả công cho những chăm lo và những nỗ lực của Ngài…

Tôi phải năng suy gẫm về vực thẳm tình thương của Thánh Tâm, trong đó tôi làm tan biến tất cả mọi nết xấu, mọi thiếu sót và yếu đuối của tôi, như thánh nữ Margarita Maria đã nói một cách rất hùng hồn.

“Thánh Tâm Chúa Giêsu là vực thẳm tình thương trong đó ta có thể làm tan biến mọi tính tự ái và tư kỷ của ta, cùng với tất cả những sản phẩm xấu xa của tính xấu này, là chỉ ước ao thỏa mãn ý riêng mình và sợ miệng người đời.

“Nếu bạn cảm thấy mình nghèo khó các nhân đức, bạn hãy đắm mình trong Thánh Tâm, Chúa Giêsu sẽ làm cho bạn trở nên giầu có.

“Nếu bạn thấy mình ở trong vực thẳm của sự yếu đuối, và thấy mình hay sa ngã, bạn hãy gieo mình vào vực thẳm của sức mạnh là Thánh Tâm : Chúa sẽ ban sức mạnh cho bạn và sẽ giải thoát bạn.

“Nếu bạn thấy mình ở trong vực thẳm của những sự khốn nạn, bạn hãy gieo mình vào vực thẳm lòng thương xót của Thánh Tâm.

“Nếu bạn thấy mình ở trong vực thẳm của tính kiêu căng và tự phụ, bạn hãy gieo mình vào vực thẳm khiêm nhường của Thánh Tâm.

“Nếu bạn thấy mình ở trong vực thẳm của tối tăm, bạn hãy gieo mình vào trong vực thẳm ánh sáng huy hoàng của Thánh Tâm : bạn hãy để Thánh Tâm dắt đi như dắt một người mù.

“Khi bạn thấy mình rớt xuống vực thẳm của buồn rầu, bạn hãy chạy đến gieo mình vào trong vực thẳm của niềm vui thần linh là Thánh Tâm Chúa : Thánh Tâm sẽ làm tan biến mọi ưu phiền và khổ tâm của bạn.

“Khi bạn bị rối trí và bất an, bạn hãy gieo mình vào vực thẳm của bình an là Thánh Tâm Chúa: bạn sẽ tìm thấy sự bình an mà không ai cướp lấy được.

“Nếu bạn thấy mình ở trong vực thẳm của sợ hãi, bạn hãy gieo mình vào vực thẳm của niềm tín thác là Thánh Tâm Chúa : tình thương của Chúa sẽ xua đuổi mọi nỗi sợ hãi của ta”[1].

Tôi sẽ năng suy gẫm về những vực thẳm của tình thương, của sức mạnh, của đức khiêm nhường v.v… nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu : Trong các vực thẳm này tôi có thể gieo mình vào để được tẩy sạch mọi vết nhơ, mọi nết xấu, trút bỏ được mọi ưu phiền và lo lắng. Tôi càng hiểu nhiều về vực thẳm của tình thương và lòng thương xót của Thánh Tâm Chúa Giêsu, tôi sẽ càng tìm thấy phương dược để chữa những yếu đuối và những bất lực của tôi, và niềm tín thác của tôi sẽ càng trở nên vững vàng và trọn vẹn.

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu là Đại dương bao la của tình thương và lòng nhân hậu, con đặt tất cả niềm cậy trông của con nơi Thánh Tâm Chúa. Từ nay con sẽ chỉ biết cậy trông vào Chúa trong mọi sự: tất cả những gì con ước ao, nhất là niềm ước ao lớn nhất của con, gồm tóm tất cả mọi ước nguyện của con, là yêu mến Chúa hết tâm hồn con, con sẽ chỉ trông đợi nơi Thánh Tâm dịu hiền của Chúa. Chúa đã nói với con và đã nhắc lại nhiều lần nhiều cách về tình thương và lòng nhân hậu của Chúa. Chúa muốn ban cho con sự bình an và hạnh phúc. Chúa ước ao thấy con hạnh phúc trọn vẹn, và đó là niềm vui của Chúa. Vậy, lậy Chúa Giêsu, con xin nói với Chúa cách đơn sơ và ngây thơ như một đứa bé : Con sẽ không bao giờ thật sự hạnh phúc, nếu Chúa không cho con thấy thực hiện niềm ao ước lớn nhất và duy nhất của con là được kết hợp với Chúa trong tình mến yêu tinh ròng và thánh thiện. Con ước ao thấy ngày có thể nói được rằng : “Người yêu của tôi là của tôi, và tôi là của Ngài”. (Dc 2,16)

Chúa có thể ban cho con tất cả các phước lành và các ân huệ của Ngài, tất cả các ân sủng về chiêm niệm, nhưng bao lâu Chúa chưa ban cho con ơn đó, con sẽ không hạnh phúc. Vâng, lạy Chúa Giêsu dịu hiền, chỉ ơn đó mới mang lại hạnh phúc cho con, con tin chắc Chúa sẽ ban ơn đó cho con. Chúa hãy hứa cho con ngay từ bây giờ đi ! Khi nào và cách nào? Sau biết bao thử thách và chán nản nữa ? Điều đó tùy ở nơi Chúa, con không bận tâm. Nhưng bây giờ con sẽ ra đi với niềm tin tưởng ngọt ngào : Chúa đã nhận lời con, và một ngày nào đó con sẽ thuộc trọn vẹn về Chúa và Chúa sẽ trọn vẹn là của con. “Con sẽ lấy gì tạ ơn Chúa, vì những hồng ân ngài đã ban cho con ?”. (Tv 115,12).

Ôi, lạy Chúa Giêsu, giờ đây con cảm thấy hạnh phúc hơn, tín thác hơn. Từ nay con sẽ yêu mến Chúa hơn, vì một lý do mới, đó là Chúa đã thỏa mãn khát khao sâu xa nhất của linh hồn con.

II.  LÀ NHỮNG NGƯỜI AN ỦI THÁNH TÂM CHÚA, CHÚNG TA HÃY TRÔNG ĐỢI MỌI SỰ NƠI NGÀI.

– LỜI HỨA THỨ TÁM, LỜI HỨA LỚN LAO CỦA THÁNH TÂM.

Là những người an ủi Thánh Tâm Chúa, chúng ta hãy trông đợi mọi sự nơi Ngài.

– Chúng ta đã thấy : Trong bầu không khí ấm cúng của Thánh Tâm Chúa Giêsu, tâm hồn chúng ta tự nhiên tươi nở trong niềm cậy trông mãnh liệt. Sau những lời tỏ tình đầy yêu thương, những lời mời gọi tha thiết và những lời hứa sẽ ban đủ ân sủng của Thánh Tâm để giúp đỡ ta, làm sao còn có thể có những nghi nan ẩn khuất trong tâm hồn ta ? Điều này đúng cho những người tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Điều này đặc biệt đúng cho những người cổ động việc tôn sùng Thánh Tâm, đồng thời cố gắng trở thành những người đền tội và đền tạ, an ủi Thánh Tâm Chúa bằng cách cố gắng trở nên thánh thiện.

Thánh Ý Chúa để chúng ta sống giữa thế gian, hay Chúa gọi chúng ta sống thánh hiến cho Ngài trong chức linh mục, hoặc đời sống tu sĩ, điều này không quan trọng. Điều quan trọng là tất cả chúng ta phải dành một chỗ trong đời sống ta để đền tội và đền tạ, chúng ta phải trở thành những người lo an ủi Thánh Tâm buồn rầu của Chúa. Và Chúa sẽ dành cho chúng ta những kho tàng vô cùng quảng đại của Thánh Tâm Ngài.

Chúa Giêsu đã nhắc đi nhắc lại với thánh nữ Margarita Maria rằng điều Ngài hết sức ước mong là có những linh hồn sẵn sàng an ủi Thánh Tâm Ngài, sẵn sàng chịu đau khổ để đền tội thay cho kẻ phản bội Chúa, đền tạ Thánh Tâm Chúa thay cho những kẻ vong ân bội nghĩa. Thánh Tâm Chúa ước mong tìm được những linh hồn quảng đại, không mệt mỏi trong việc chịu đau khổ để xoa dịu nỗi buồn phiền của Chúa và thỏa mãn phần nào sự khát khao yêu mến của Ngài.

Nhưng Chúa Giêsu biết qúa rõ tình yêu mến Thánh Giá, sẵn sàng đền tạ, quên mình đi để yêu mến Chúa, không dễ dàng nảy mầm trên mảnh đất khô cằn của linh hồn ta. Ai muốn cứu cánh thì phải muốn các phương tiện, Chúa Giêsu muốn có nhiều tình mến yêu đền tạ, nhiều sự thánh thiện, thì Ngài phải gieo vãi nhiều hạt giống thánh thiện là các ân sủng phi thường trong các linh hồn. Và Ngài phải lo vun trồng cho chúng phát triển cho tới khi sinh hoa trái, mặc dầu gặp nhiều gai góc của tính tự ái của ta. Chúa Giêsu biết qúa rõ điều đó, và sự tận tâm quảng đại của Ngài không để ta phải chờ đợi : Chúa Giêsu đã hứa cho những ai tôn sùng Thánh Tâm Ngài, những ai dâng mình sống cuộc đời đền tạ và an ủi Thánh Tâm Chúa sẽ nhận được những ơn đặc biệt lớn lao, có thể giúp chúng ta nên thánh, mặc dầu những căm hờn của satan và những yếu hèn của tính tư kỷ của ta.

Vậy chúng ta hãy tin tưởng đến với Chúa, nếu chúng ta cảm thấy thương những nỗi đau khổ của Thánh Tâm Ngài, nếu chúng ta cảm thấy những ước ao quảng đại, nếu chúng ta muốn thoát ra khỏi vũng lầy của tính tự ái. Chúng ta hãy đến với Thánh Tâm Chúa, nếu chúng ta quyết chí không từ chối Ngài sự gì và sẵn sàng dâng trọn thiện chí của ta cho Ngài. Chúng ta hãy nói với Thánh Tâm Chúa về sự ta ước ao đền tạ và an ủi Ngài, chúng ta ước ao nên thánh, thì chắc chắn chúng ta sẽ nhận được những ân sủng lạ lùng mà chúng ta không dám nghĩ tới.

Mà làm sao Chúa không nhận lời ta cầu xin ? Từ xa, Chúa vẫn ngóng và để ý tìm xem có linh hồn nào hiểu tình thương của Ngài và đáp lại lời mời gọi của Ngài. “Này Ngài đứng đó… nhìn qua cửa sổ, nhìn qua những chấn song” (Dc 2,9). Ngài để ý nhìn xem có ai đến an ủi Ngài chăng. Chúa tha thiết mong chờ gặp được những linh hồn quảng đại và thiết tha ước ao nên thánh. Đáng buồn thay ! Rất ít linh hồn đến với Thánh Tâm Chúa ! Càng ít linh hồn đáp lại những khát khao của Chúa, vì rất ít linh hồn biết quên mình đi để nghĩ đến những buồn phiền của Thánh Tâm Chúa và lo an ủi Ngài. Đa số người ta chỉ nghĩ đến bản thân, hoặc chỉ quảng đại nửa vời. Họ qúa tin tưởng vào bản thân, họ sợ cầu xin nhiều, sợ xin những ân sủng đặc biệt. Họ biết Chúa ban cách rất rộng rãi, nhưng Ngài đòi phải đáp lại bằng những hy sinh. Họ biết muốn an ủi Thánh Tâm Chúa thì phải chịu đau khổ với Ngài và vì Ngài. Họ biết các ân sủng đặc biệt của Chúa sẽ làm cho linh hồn họ khát khao chịu đau khổ: Các ân sủng đó nhất định sẽ dẫn họ vào con đường của Chúa Kitô là con đường thập giá. Bởi vậy họ thường dập tắt những ước ao thánh thiện mà đôi khi họ cảm nhận thấy trong tâm hồn họ. Họ sợ hy sinh, nhất là họ sợ ước ao chịu đau khổ. Họ sợ đi qúa xa, cho nên họ đi qua mà không dám gõ cửa Thánh Tâm Chúa.

Phần bạn, nếu bạn cảm thấy những đau khổ của Thánh Tâm Chúa, nếu bạn thành thực ước ao an ủi Chúa, nếu bạn cảm thấy khát khao nên thánh và đạt được những nhân đức anh hùng, và đó là những niềm ước ao chân thành, tha thiết và dai dẳng, bạn đừng bỏ qua, nhưng hãy tới gõ cửa Thánh Tâm Chúa! Từ xa, Chúa đã nhìn thấy bạn đi tới. Ngài sẽ giang hai cánh tay ra để đón bạn. Chúa Giêsu sẽ vui mừng vì đã tìm thấy thêm một linh hồn lo an ủi Ngài. Ngài sẽ ban cho bạn đầy đủ các ân sủng để bạn nên thánh và sống đẹp lòng Ngài.

Vậy bạn hãy đến với Thánh Tâm Chúa trong niềm tín thác trọn vẹn. Bạn hãy thưa Chúa : Lạy Chúa, con muốn lắm, nhưng Chúa biết con yếu đuối, con chưa thể được như Chúa ước ao cho con. Xin Chúa giúp con thực thi những gì Chúa muốn nơi con: Chúa sẽ thấy con sống đẹp lòng Chúa.

Chúng ta hãy chạy lại với Thánh Tâm Chúa, không phải một lần, nhưng nhiều lần. Hãy chạy lại với Chúa và đừng bao giờ thất vọng về những sa đi ngã lại của mình, những thiếu kiên cường, những yếu đuối. Hãy đặt những sai lỗi và những thất hứa của ta dưới chân Thánh Tâm Chúa. Chúa Giêsu vô cùng thương xót và dịu hiền, Ngài biết rõ sự khốn nạn bẩm sinh của tôi hơn tôi nhiều. Ngài biết, với những nỗ lực của bản thân tôi, không bao giờ tôi có thể chết cho bản thân mình, không bao giờ tôi từ bỏ được mình. Việc nên thánh của tôi trước hết và trên hết là công việc của Ngài. Phần tôi chỉ có thể quét tước và dọn sạch phía bên ngoài. Chỉ Ngài mới có thể đi vào đáy linh hồn tôi, tận diệt đến gốc rễ tính tự kiêu, tính tư kỷ và những nghi nan của tôi. Nếu cần những ơn trợ lực đặc biệt, Ngài sẵn lòng ban cho tôi. Nếu cần đến những luồng ánh sáng thần linh để tôi nhận ra vẻ vô cùng đáng mến của Thánh Tâm Chúa và vẻ xấu xa của tôi, nếu cần đến những ân sủng thiên phú của đức ái, những hồng ân thông minh, khôn ngoan và đạo đức của Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ không tiếc với tôi đâu.

Nhưng có một điều Ngài muốn và nhất thiết đòi hỏi tôi, là tôi phải tuyệt đối tin tưởng nơi Ngài, phải trọn vẹn tín thác nơi Ngài, sống hoàn toàn tín thác trong tay Ngài. Tôi phải bỏ thói tự ý hành động, không được âm thầm thích chí về hoạt động của các tài năng con người của tôi, không được chủ động trong việc nên thánh của mình. Tôi phải vui vẻ nhận vai trò ngày càng phụ thuộc, ngày càng thụ động. Để lên cao nơi các bầu khí trọn lành cao siêu, tôi phải sẵn sàng vứt bỏ tất cả những cái nhìn hẹp hòi của bản thân, những phương tiện loài người của tôi, những chương trình nên thánh của tôi. Tôi phải hoàn toàn tin tưởng nơi Ngài, cả khi mọi sự xem ra diễn tiến ngược với cách suy nghĩ con người của tôi, cả những khi tôi cảm thấy choáng váng, mất phương hướng. “Tôi biết tôi tin tưởng vào ai” (2Tim 1,12).

Tôi phải bỏ cái thói thích kiểm soát hành động của Thiên Chúa, thích đếm những giai đoạn Chúa dạy tôi phải vượt qua, thích biết rõ mình tiến bộ ra sao, mình đã đi tới đâu trên con đường nên thánh. Tất cả những điều này cho thấy tôi vẫn giữ phần nào thái độ nghi nan tự nhiên. Và cho thấy tôi mới chỉ tín thác nửa chừng, như nhiều người khác. Tôi vẫn giữ lại cho mình những phương tiện hành động sau cùng, những biện pháp cuối cùng, đề phòng trường hợp sự khôn ngoan và tình thương của Chúa… nhỡ ra hỏng việc !…

Tôi xin Chúa làm cho tôi nên thánh, nhưng tôi phải để cho Ngài tùy ý chọn sự thánh thiện cho tôi, và nhất là chọn các phương thế đưa tôi tới sự thánh thiện đó. “Qua những con đường của Ngài, xin dẫn chúng con tới, Ánh sáng nơi Chúa ngự trị”. Vâng lạy Chúa Giêsu xin dẫn con qua những con đường của Chúa, chớ không phải con đường của con, con trọn vẹn sống tín thác nơi Chúa. Xin Chúa sống hoàn toàn tự nhiên ở trong con, theo sở thích của Chúa. Xin Chúa hãy hành động theo ý Chúa. Chúa phải tăng lên và con phải giảm xuống. Dần dần phải tiến tới chỗ chỉ còn một mình Chúa sống trong con, như thể không còn có con nữa. Biến đi, chết đi, để Chúa sống cách viên mãn ở trong con : đó chính là sự thánh thiện của con. Ôi ! Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, con tin tưởng Chúa sẽ nhận lời con xin, vì đây là niềm ước ao sâu xa và mạnh mẽ, niềm ước ao nên thánh mà Chúa đã đặt vào linh hồn con, và Chúa biết sẽ có ngày Chúa thực hiện niềm khát vọng đó của con. “Thầy đã đến để chúng có sự sống thiêng liêng và có cách tràn đầy” (Ga 10,10).

Vâng, lạy Chúa, Chúa đã đến trong thế gian để ban sự sống thiêng liêng và sự thánh thiện cho chúng con.

Lời hứa thứ tám của Thánh Tâm.- Lời hứa trọng đại.

– Chúa Giêsu ước ao tìm được những linh hồn ước mong nên thánh và sẵn sàng an ủi Thánh Tâm Ngài. Niềm ước ao này của Chúa là một bảo đảm qúi giá về những ân sủng Chúa dành cho những ai đáp lại niềm mong ước của Ngài. Và nếu như thế vẫn chưa đủ để thuyết phục ta, khiến ta vững tin vào ơn trợ giúp của Chúa, thì những lời hứa tỏ tường của Thánh Tâm Chúa sẽ xua đuổi những nỗi nghi nan cuối cùng của ta. “Những linh hồn nhiệt thành sẽ mau lẹ bước tới bậc trọn lành lớn lao” : đó là lời hứa thứ tám Chúa dành cho những ai tôn sùng Thánh Tâm Ngài. Đó là lời Chúa hứa với tôi, vì không những tôi tôn sùng Thánh Tâm Chúa, cố gắng an ủi Thánh Tâm Ngài, tôi còn tìm mọi cách truyền bá lòng sùng kính này, vì tôi thấy sự tôn sùng kỳ diệu này đã được Chúa dành để cứu vớt thời đại lãnh đạm của chúng ta.

Như vậy Chúa Giêsu rất ước ao ban ơn nên thánh cho tôi. Người ta có thể nói : vì Ngài hết sức ước ao điều đó, nên Ngài muốn bảo đảm với ta rằng Ngài liên kết sự nên thánh của ta với quyền năng vô cùng của Ngài bằng một lời hứa long trọng của Thánh Tâm Ngài. Kể như Ngài nói với tôi rằng : “Con hãy thành tâm tôn sùng Thánh Tâm Cha và cổ động cho nhiều người cũng tôn sùng. Con hãy nhiệt thành truyền bá tình thương của Thánh Tâm Cha thì con chắc chắn sẽ đạt tới mức trọn lành lớn lao”. Chúa Giêsu không đặt ra những điều kiện, Ngài không đưa ra những dè dặt. Không, Chúa chỉ nói : Con hãy nhiệt thành với Thánh Tâm Cha, Cha sẽ làm mọi việc còn lại. Vậy còn cần thêm điều gì nữa, để tôi tin tưởng và tín thác trọn vẹn nơi Ngài, cả những khi bị các trận phong ba ?

Ở đời này có những giờ phút chán nản : khi đó những tư tưởng mến yêu không nói lên gì hết. Cả những linh hồn sốt sắng nhất cũng cảm thấy niềm tín thác của mình chao đảo, bởi vì linh hồn họ bị xâm chiếm bởi những cơn sợ sệt và nghi nan. Họ thấy sự thánh thiện của Thiên Chúa qúa cao xa, sự công thẳng của Thiên Chúa qúa nghiêm khắc, vấn đề ơn tiền định qúa lo âu, nên họ run sợ tự hỏi không biết mình có được vào “số nhỏ bé những người được kén chọn” chăng. Và điều kỳ lạ là : chính những linh hồn có vẻ được che chở khỏi những phút hoảng sợ đó, chính những linh hồn đang tiến bước trên đường thánh thiện, lại là những linh hồn bị như thế hơn cả. Họ phải trải qua những sự thanh tẩy thụ động đó, “những đêm tối của tâm trí”, vì Thiên Chúa muốn luyện lọc đức tin, đức cậy và đức mến của họ trong lò lửa của những gian truân ghê sợ. Có những lúc họ cảm thấy rõ ràng họ bị luận phạt và đáng Chúa ghét bỏ.

Chính vào những giờ phút vô cùng đau khổ vì nghi nan và xao xuyến đó, chúng ta cần phải dựa đầu trên Trái Tim Chúa Giêsu, phải củng cố lại niềm tín thác bằng việc nhớ lại những lời hứa vô cùng dịu dàng của Thánh Tâm Chúa. Lời hứa thứ mười một của Thánh Tâm là : “Những người truyền bá lòng sùng kính này sẽ có tên của mình được ghi  trên Trái Tim Cha, không bao giờ bị bôi tẩy”. Những lời ngọt ngào và an ủi dường nào cho linh hồn bị dằn vặt vì nghi nan ! Có tên mình được ghi trên Trái Tim Chúa là có tên mình ghi trên sổ hằng sống. Ôi còn gì có sức trấn an hơn ?

Nhưng còn lời hứa thứ mười hai rất lạ lùng của Thánh Tâm Chúa, một lời hứa gần như khó tin, nhưng đó thật là lời hứa của Chúa Giêsu. Đó là lời hứa được gọi là lời hứa trọng đại của Thánh Tâm. Người ta không nên quên lời hứa này vào những giờ phút bị khủng hoảng. “Những ai rước lễ ngày thứ sáu đầu tháng chín lần liền, sẽ được ơn thống hối sau cùng”. Đây là một lời hứa rõ ràng và tỏ tường, một lời hứa mà Thánh Tâm ban cho ta “do qúa thương xót ta”, như chính Chúa đã nói khi đưa ra những lời hứa này. Vậy những lời hứa của Thánh Tâm đã qúa đủ để đánh tan mọi nghi nan và sợ hãi, lập lại một sự bình an trong sáng trong linh hồn sầu khổ của ta.

III.  NHỮNG ƠN LÀNH LỚN LAO DÀNH CHO CÔNG VIỆC TÔNG ĐỒ CỦA TA, MIỄN LÀ TA ĐỪNG CẬY VÀO SỨC MÌNH.

–   CHÚA GIÊSU SẼ NGHE LỜI CẦU XIN CỦA CÁC TÔNG ĐỒ CỦA NGÀI.

–   CHÚA HỨA ĐÁNH ĐỘNG NHỮNG TÂM HỒN CHAI ĐÁ NHẤT.

Những ơn lành lớn lao dành cho công việc tông đồ của ta, miễn là ta đừng cậy vào sức mình.

– Nên thánh và được ơn cứu độ, đó là niềm ước ao lớn nhất của đời ta, và cũng là điều ta có thể và phải cậy trông cách vững vàng nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Nhưng ta biết một vị thánh không nên thánh một mình, và không lên thiên đàng một mình. Bên tai Ngài luôn vang lên tiếng kêu “Ta khát” của đồi Golgotha. Trong tâm hồn vị tông đồ, luôn văng vẳng những lời Chúa Giêsu than vãn với thánh nữ Margarita Maria về sự Ngài khát khao lòng mến yêu của mọi người. Vị tông đồ dành cho Chúa Giêsu tất cả tình mến yêu của mình, yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết tâm hồn mình. Nhưng Ngài vẫn thấy chưa đủ, Ngài vẫn muốn và ước ao thỏa mãn tình thương vô biên của Thánh Tâm Chúa.

Đúng thế, vị tông đồ không lấy thế làm đủ, Ngài cảm thấy đau đớn trong lòng : điều Ngài ước ao là yêu mến Chúa Giêsu với trăm ngàn con tim, như chính Chúa mong chờ. Ngài muốn có được trăm ngàn trái tim để thỏa mãn tình thương vô cùng của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Ngài biết mình có thể tìm thấy cả triệu con tim và con người đó trong Chúa Giêsu, vì Ngài biết mình là một chi thể của Nhiệm Thể Chúa Giêsu, liên kết chặt chẽ với tất cả các chi thể khác. Những buồn phiền, những nhu cầu của các chi thể khác cũng là những buồn phiền và nhu cầu của Ngài. Trái tim của họ cũng phần nào là trái tim của Ngài. Ngài có thể yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu bằng cả triệu trái tim này bằng cách rót vào đó lòng mến yêu và các nhân đức của Ngài.

Đó chính là niềm vui và cũng là nỗi buồn của Ngài, của vị tông đồ. Ngài muốn yêu mến Chúa Giêsu với linh hồn của những người khác, nhưng đáng buồn thay ! Họ đâu có làm như Ngài mong ước để yêu mến Thánh Tâm Chúa ! Ngài ít ảnh hưởng đối với họ qúa ! Và Ngài đau khổ vì chuyện này. “Sự nhiệt thành nhà Chúa tôi làm hao tổn thân tôi” (Tv 68,10). Lòng nhiệt thành đối với Thánh Tâm Chúa luôn nung nấu và làm hao tổn con người vị tông đồ. Hoạt động không mệt mỏi, Ngài ước ao mỗi ngày chinh phục thêm được những tâm hồn cho Chúa Giêsu. Ngài muốn an ủi và làm cho Thánh Tâm Chúa vui vì có thêm những linh hồn yêu mến Chúa. Ngài muốn đưa thêm những con chiên lạc về đàn chiên của Ngài.

Nếu chúng ta sốt sắng và quảng đại, chúng ta cũng sẽ cảm thấy những nhu cầu này. Chúng ta càng cảm thấy rõ và càng đau khổ, khi chúng ta càng gần mức trọn lành hơn. Ở trong cuộc sống chiêm niệm hay ở trong hoạt động tông đồ, chúng ta đều cảm thấy như vậy, bởi vì cả hai lối sống, chiêm niệm hoặc hành động, đều là những phương tiện để dẫn đưa các linh hồn về với Chúa.

Chỉ cần một điều là, cũng như để bản thân mình đạt tới mức trọn lành, cần thiết phải có một niềm tín thác tinh ròng, không vương một chút cậy mình nào, thì cũng vậy, để dẫn dắt người khác nên thánh, giúp cho họ nhận được những ân sủng cần thiết mà nếu không có, mọi nỗ lực nhiệt thành của ta sẽ vô ích, chúng ta cần phải tuyệt đối tín thác nơi Chúa, một niềm tín thác tẩy sạch mọi ý tưởng cậy dựa vào những nỗ lực tự nhiên của ta, một điều thường thấy một cách vô ý thức trong mọi hoạt động tông đồ.

Đáng buồn thay ! Nhiều linh hồn nhiệt thành đã không phải là không đáng trách về phương diện này. Họ ý thức sâu xa về những năng khiếu tự nhiên của họ, về những sở trường của họ, cho nên họ không cảm  thấy cần thiết chạy đến cầu khẩn sự trợ lực của ân sủng, mà nếu không có ân sủng thì chúng ta không thể nói : “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Việc cầu nguyện của họ không tương xứng với những nỗ lực và hoạt động của họ. Họ đã quên không nối kết lời cầu nguyện với những hoạt động tự nhiên của họ. Họ chưa nhận định đủ giá trị của nhân tố chủ yếu của mọi thành công là lời cầu nguyện tha thiết và tín thác. Hoạt động của họ quá tự nhiên. Bởi vậy những nỗ lực của họ thường vô ích, và những kết qủa không vững bền, hoặc có phần nào thành công nhờ lời cầu nguyện của những tâm hồn siêu nhiên hơn.

Không lạ gì họ hay than phiền về sự đã nhiệt thành vô ích. Họ than phiền về những thất bại trong công việc. Bởi vì họ đã không chạy đến cầu khẩn Thánh Tâm Chúa là Đại dương mọi ân sủng và là nguồn mạch mọi sự thánh thiện. Và nếu họ có cầu nguyện thì lại cầu nguyện qúa ít và với một niềm tín thác nửa vời…

Với tâm tình thánh thiện, chúng ta hãy gạt bỏ mọi tư tưởng cậy vào sức mình. Đừng bao giờ cậy mình, vì chúng ta chỉ là cây sậy yếu mềm. Hãy chạy lại với Thánh Tâm Chúa Giêsu, tín thác mọi nỗ lực và mọi toan tính, mọi công việc cho Thánh Tâm, vì chúng ta làm mọi sự vì yêu mến và để vinh danh Ngài. Hãy chạy lại và cầu xin với Thánh Tâm tất cả những gì chúng ta thấy cần cho việc tông đồ của mình, biết chắc rằng Chúa sẽ nghe lời ta cầu xin, vì ta hoàn toàn tin tưởng và tín thác mọi sự nơi Thánh Tâm Ngài.

Chắc chắn có những linh hồn đặc biệt cưỡng lại ân sủng của Thiên Chúa và Chúa không muốn lấn át sự tự do của con người. Như vậy có thể Chúa không thể nhận lời ta cầu xin cho mấy linh hồn đó, nhưng một cách tương đương hoặc tốt hơn, Ngài sẽ áp dụng những ơn đó cho những linh hồn khác đáng thương hơn và sẵn sàng tiếp nhận ơn của Ngài hơn. Dầu sao, những nguyện vọng của ta đã được thực hiện, Thánh Tâm Chúa đã nhờ lời cầu nguyện tha thiết của ta mà được các linh hồn mến yêu nhiều hơn. Thánh Tâm Chúa đã được an ủi.

Dầu sao chúng ta nên nhớ rằng Thiên Chúa có những bí quyết lạ lùng để chinh phục những tâm hồn cứng cổ nhất : Chúa có những ơn đặc biệt hữu hiệu. Chắc chúng ta đã chứng kiến, và có thể chính chúng ta đã là những kẻ được hưởng nhờ những phép lạ đó, những phép lạ mà Thánh Tâm Chúa đã làm vì lời cầu xin tha thiết của các tông đồ dấu yêu của Ngài.

Ngay trong thời đại chúng ta, vị tông đồ khổ hạnh lừng danh người Ái-Nhĩ-Lan là Cha Doyle thường nói rằng : Chưa bao giờ thấy một linh hồn cưỡng lại được những nỗ lực của lời cầu xin của Ngài. Những người tội lỗi tuyệt vọng nhất, cuối cùng cũng đầu hàng Ngài do một thứ bùa phép mầu nhiệm nào đó. Bùa phép nhiệm mầu của Ngài chính là niềm cậy trông tín thác tuyệt đối của Ngài nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thêm vào đó, Ngài đã làm tất cả những gì về phần của Ngài : yêu thương rất mực, tận tụy không mệt mỏi, cầu nguyện tha thiết và những sự hãm mình có tính anh hùng để cầu cho những người tội lỗi.

Thánh Tâm Chúa sẽ nghe lời cầu xin của những tông đồ của Ngài.

– Chúng ta phải trông cậy nhiều, trông cậy rất nhiều nơi Thánh Tâm Chúa, chỉ tuyệt đối tin cậy nơi Chúa, đừng cậy vào sức mình, đừng cậy vào những năng khiếu và sức hoạt động của mình. Hãy nài xin Thánh Tâm Chúa ban cho những ơn sức mạnh để chinh phục những người tội lỗi cứng lòng, hoặc để dẫn đưa những người đạo đức nên bậc trọn lành, nên thánh. Chúng ta hãy tin tưởng và hãy có một niềm tín thác táo bạo, vì chúng ta không xin cho bản thân chúng ta, nhưng là xin cho chính Chúa: để có nhiều người mến yêu Thánh Tâm Chúa, để Thánh Tâm Chúa được an ủi.

Những lời cầu nguyện của ta cho kẻ tội lỗi trở lại và cho những người đạo đức nên thánh, nếu thấm nhuần lòng mến yêu và tin tưởng nơi Thánh Tâm, sẽ rất đẹp lòng Chúa và chắc chắn sẽ được Chúa lắng nghe. Chính khi chúng ta cầu nguyện như thế, chúng ta thấy lời hứa của Chúa không bao giờ sai : “Anh em hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ mở ra cho anh em”.

Nếu Chúa không nhậm lời cầu xin của ta, những tông đồ của Ngài, đang tận tụy hoạt động cho Ngài, đã thêm việc hãm mình vào lời cầu nguyện, vâng, nếu Chúa không nghe lời ta cầu xin cho những linh hồn Ngài yêu thương, thì ai còn tin tưởng nơi Ngài? Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu đã nói như sau vào cuối cuộc đời của Ngài : “Tôi đã luôn luôn làm theo thánh ý của Chúa Giêsu, bởi vậy Chúa cũng sẽ làm theo tất cả các ý muốn của tôi”. Điều này cũng phần nào thật đối với chúng ta, vì từ lâu chúng ta đã có thói không từ chối Chúa điều gì, khi đã ý thức và cố tình. Hạnh phúc lớn lao của ta vẫn là làm vui lòng Chúa và thực hiện các ước muốn của Ngài. Vì thế chúng ta luôn cố gắng chinh phục cho Chúa nhiều linh hồn, chúng ta cầu nguyện và chúng ta hy sinh. Vậy chúng ta cũng có thể thưa với Chúa mà không sợ bị Ngài hất hủi : “Ôi lạy Chúa Giêsu, hạnh phúc của con là làm vui lòng Chúa. Con chỉ xin Chúa ơn đó thôi. Con luôn làm trọn thánh ý Chúa và làm thỏa mãn mọi ước ao của Chúa theo sức yếu hèn của con. Vì vinh quang của Chúa, xin Chúa hãy dùng quyền năng của Ngài mà thỏa mãn những nguyện ước của con”.

Hãy cầu xin, hãy khẩn nài, đừng bao giờ thối chí. Đừng để mình mất tin tưởng hoặc chán nản vì lời cầu nguyện và việc tông đồ của mình xem ra thiếu kết qủa. Chúng ta không nên luôn luôn kiểm soát sự hữu hiệu của việc cầu nguyện và việc tông đồ của mình. Thiên Chúa muốn chúng ta làm việc trong bóng tối và chỗ bí mật, để bảo đảm công phúc và đức khiêm nhường của ta. Trong khi những nỗ lực của ta xem ra không có hiệu qủa xung quanh ta, nhưng có thể Chúa dùng công phúc của ta để cứu vớt những linh hồn cơ cực hơn ở những nơi khác. Hơn nữa, để lôi kéo một số linh hồn ra khỏi chốn tội lỗi, hoặc đưa một số khác lên bậc trọn lành, cần phải có những lời cầu nguyện sốt sắng hơn và kiên trì hơn. Đó là những lời cầu nguyện phải kèm theo những lời năn nỉ thiết tha, những ước ao thánh thiện, những lời cầu nguyện kèm theo những hy sinh, những sự hãm mình, những hành vi quảng đại, những hành vi đền tội và phạt tạ : với những lời cầu nguyện như thế, sau cùng chúng ta sẽ chắc chắn nhận được những ơn mình cầu xin, và có khi nhiều hơn và tốt hơn. Lời cầu nguyện của Chúa nhật thứ mười một sau lễ Hiện Xuống đã khẳng định như thế : “Lạy Thiên Chúa hằng hữu và toàn năng, lòng nhân hậu Chúa vượt quá những công nghiệp và những ước ao của chúng con, xin đổ tràn lan lòng thương xót của Chúa trên chúng con, để tha thứ những gì lương tâm chúng con có vẻ khiển trách chúng con, và ban cho chúng con cả những gì lời cầu nguyện của chúng con không dám cầu xin. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen”.

Lời Chúa hứa sẽ đánh động những tâm hồn chai đá nhất.

– Sau cùng chúng ta đừng quên những lời hứa hết sức trọng đại của Thánh Tâm dành cho những người lo việc cứu vớt các linh hồn : “Cha sẽ đổ tràn các ơn phúc trên mọi công việc của họ. Cha sẽ ban cho các linh mục được ơn cảm hóa những tâm hồn chai đá nhất”.

Chúng ta không thể ước mong lời hứa nào tỏ tường hơn và đầy khích lệ hơn cho việc tông đồ của chúng ta. Vậy khi niềm tín thác của ta xem ra muốn buông xuôi, chán nản, vì thấy các linh hồn cưỡng lại lòng nhiệt thành của ta, chúng ta hãy nhớ lại những lời hứa này của Chúa, và nhất là hãy nhắc lại với Chúa Giêsu những lời hứa này của Ngài, những lời hứa mà Ngài không thể và không muốn bỏ qua. Hãy có sự táo bạo thánh thiện, một sự táo bạo rất đẹp lòng Chúa, hãy thưa Chúa rằng vinh dự của Chúa bị lâm nguy và Ngài bó buộc phải làm như lời đã hứa, là ban cho ta ơn ta đang khẩn khoản cầu xin Ngài.

Chân phước De la Colombrière là người đầu tiên đã thử làm theo những lời hứa rất an ủi này và Ngài đã đạt được những thành qủa chính Ngài phải ngạc nhiên. Chúng ta cũng hãy làm cuộc thí nghiệm rất ngọt ngào và an ủi này. Như vị tông đồ của Thánh Tâm Chúa, chúng ta cũng hãy có một niềm tin tưởng tín thác vô biên vào lòng thương xót và nhân hậu, cũng như vào những lời hứa chẳng hề sai của Thánh Tâm, như thế sẽ có ngày chúng ta vui mừng ca tụng lòng thương xót và những chiến thắng của Ngài. “Con sẽ ca tụng lòng thương xót Chúa đến muôn đời” (Tv 88,2).


 

[1] Sainte Marguerite-Marie, Écrits divers, t.II, p.463

Paul De Jaegher S.J.

Niềm Tín Thác – Chương VIII: CHÚA GIÊSU SỐNG TRONG LINH HỒN ĐÃ TRỞ NÊN GIỐNG HỆT NHƯ NGÀI

–  CUỘC SỐNG CỦA LINH HỒN TRỞ NÊN GIỐNG HỆT CHÚA GIÊSU LÀ GÌ ?

– SỰ CHUẨN BỊ MÀ CUỘC SỐNG ĐÓ ĐÒI HỎI. TIẾNG GỌI HIỆU NGHIỆM CỦA CHÚA GIÊSU.

–  PHẢI DỰ TRỮ NHIỀU TÍN THÁC.

Cuộc sống của một linh hồn đã trở nên giống hệt với Chúa Giêsu.

– Sau khi linh hồn đã tập sống một thời gian trong sự thân mật với Chúa Giêsu, và trong sự đồng hành liên lỉ như thế của Chúa, nó đã dần dần phù hợp với những ý nghĩ, những sở thích và những ước ao của nó với những ý nghĩ và những ước ao của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu sẽ mời nó tiến xa hơn nữa. Ngài nói với nói : “Hãy căng buồm ra khơi !” (Lc 5,4). Giai đoạn thứ nhất nay đã vượt qua, Ngài đề nghị với linh hồn trung tín một cuộc sống mới, không chỉ là sống thân mật với Ngài, nhưng là sống cuộc sống giống hệt như Ngài.

Bởi vì Chúa Giêsu Thánh Thể không chỉ đến trong linh hồn ta, để nhận lấy những sự tôn thờ của ta. Ngài không ở thường trực trong linh hồn ta, để nhận lấy những lời cầu xin và những lễ tế của tình mến yêu của ta mà thôi. Ngài đến và cư ngụ trong ta, nhất là để sống trong ta, với ta, để thánh hóa ta và biến đổi ta nên giống hệt như Ngài.

Thánh Phaolô đã nói rất rõ ràng về điều này. Đó là một trong những đề tài thường xuyên các bài giảng dạy của Ngài. “Nhờ phép thánh tẩy, chúng ta cùng chết và cùng sống lại với Chúa Kitô”. Chúa Kitô sống trong chúng ta để phát triển tới tuổi hoàn hảo. Chúng ta, những Kitô hữu, là chi thể của Chúa Kitô : “Anh em là thân thể Chúa Kitô, anh em là các chi thể của Ngài”. (1Cr 12,27).

Chúng ta phải mặc lấy Chúa Giêsu Kitô. “Anh em hãy mặc lấy Chúa Kitô” (Rom 13,14). Chúa Giêsu xin tôi, cũng như xin mọi người, hãy cho Ngài chỗ ở trong tôi, hãy để Ngài sống tự do và sống cách đầy đủ ở trong tôi. Cuộc sống trần gian của Ngài đã không chấm dứt tại Núi Sọ… Ngài muốn tiếp tục sống cách mầu nhiệm trong các Kitô hữu, và nhờ họ mà kéo dài cuộc sống ba mươi năm của Ngài. Ngài muốn tiếp tục tôn thờ, yêu mến và tôn vinh Cha Ngài ở trong họ và với họ.

“Chúa Kitô đã nhập thể vì lòng yêu mến Cha Ngài. Ngài đã sống ba mươi ba năm nơi trần gian này, luôn chỉ lo yêu mến và tôn vinh Cha Ngài. Giai đoạn đầy xúc động của tấm thảm kịch tình mến yêu này đã diễn ra trên đồi Golgotha. Nhưng Chúa Giêsu đã sống lại : Ngài đã chết nhưng Ngài vẫn sống. Tình yêu của Thiên Chúa làm người đã không bị tắt đi ở trong mồ. Tình yêu này vượt ra ngoài những giới hạn của cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu. Lời kêu la “Tôi khát” trên Núi Sọ vẫn được Chúa Giêsu hiển vinh cảm thấy hôm nay. Như thế nghĩa là gì ? Nghĩa là Chúa Giêsu không lấy việc yêu mến Cha Ngài trên thiên đàng và trong các Nhà tạm làm đủ. Không, mặc dầu tình mến yêu đó đã vô cùng lớn lao, nhưng chưa đủ để thỏa mãn niềm ao ước nồng nàn của Ngài. Chúa Giêsu muốn nhiều hơn nữa. Thảm kịch của tình mến yêu của Chúa Giêsu đối với Cha Ngài sẽ phải tiếp nối trên trái đất này. Qua mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu chuộc của Ngài, Chúa Giêsu Kitô đã tự tạo cho mình một thân thể mầu nhiệm, qua và trong Nhiệm thể này, Ngài sẽ tiếp tục sống, mến yêu và tôn vinh Cha Ngài. Ngài đã kết hiệp với những nhân tính mới, không phải cách bản thể như tại Nazareth, nhưng cách mầu nhiệm; một sự kết hiệp tuy mầu nhiệm, nhưng hiện thực, rất mật thiết và rất kỳ diệu. Chúa Kitô đầy đủ là Chúa Kitô hiệp nhất với toàn thể các Kitô hữu của Ngài, là Đầu kết hiệp với Nhiệm thể của Ngài. Và tình mến yêu đầy đủ của Chúa Giêsu là tình mến yêu của Trái Tim Chúa Giêsu kết hiệp với tình yêu mến của muôn triệu trái tim Kitô hữu sẽ yêu mến Thiên Chúa ngàn đời, cho đến tận thế. Đó là kỳ công kiệt tác của tình yêu Thiên Chúa. Chỉ tình mến yêu này mới làm thỏa lòng Chúa Giêsu trong tình mến yêu vô cùng của Ngài đối với Cha Ngài”[1]

“Chúa Giêsu yêu mến Cha Ngài vô cùng, yêu mến đến điên rồ. Ngài khát khao yêu mến Cha không chỉ bằng cuộc sống của Ngài, dầu là cuộc sống thần linh, và yêu mến Cha không chỉ bằng Trái Tim của Ngài, dầu là Trái Tim của Thiên Chúa làm người. Nhưng Ngài còn khát khao yêu mến Cha Ngài trong muôn triệu con tim của các Kitô hữu, chi thể của Ngài, cho đến tận thế. Tình mến yêu của Ngài muốn được biểu lộ đến vô cùng, nghĩa là Ngài muốn chúng ta hiến dâng trái tim của mình cho Ngài, trao cho Ngài được quyền hoàn toàn sử dụng để yêu mến Cha Ngài, cho thỏa lòng mến yêu vô cùng của Ngài. Ngài xin mỗi người chúng ta dâng hiến cho Ngài tất cả con người của chúng ta, thân xác và linh hồn chúng ta cùng với tất cả các tài năng của linh hồn ta, để Ngài nhận lấy làm của Ngài và có thể sống cuộc đời mến yêu Cha Ngài qua đời sống của chúng ta. Không! Ba mươi ba năm không đủ cho Ngài. Ngài muốn tiếp tục sống, cầu nguyện, yêu mến, chịu đau khổ thêm nữa. Ngài xin mỗi người chúng ta “thêm cho Ngài một tính loài người nữa”, như kiểu nói của chân phước Elisabeth Chúa Ba Ngôi, để Ngài tiếp tục yêu mến Cha Ngài nơi trần thế này. Ngài nói với mỗi người chúng ta rằng : “Con ơi ! Hãy dâng trái tim của con cho Cha, để nhờ trái tim đó, Cha kết hiệp với đời sống của con, và cùng với con, chúng ta yêu mến Chúa Cha hết lòng. Con hãy cho Cha môi miệng của con, để chúng ta cùng nhau hát lời ngợi khen Thiên Chúa. Con hãy dâng cho Cha tâm trí của con, đôi mắt của con, hai bàn tay của con, để chúng ta suy nghĩ và sống tình yêu Chúa Cha. Cha muốn sống thêm một cuộc đời thứ hai ở trong con, một cuộc đời chan chứa mến yêu, để bổ túc và kéo dài cuộc sống của Cha ở Nazareth xưa”[2]

Sự chuẩn bị mà cuộc sống này đòi hỏi. Lời kêu gọi hiệu nghiệm của Chúa Giêsu.

– Lời kêu gọi hãy sống đồng nhất với Ngài, Chúa Giêsu gửi tới hết mọi người. Ngài xin tất cả các Kitô hữu hãy kết hiệp với Ngài, hãy trở nên chi thể thật sự của Ngài, hãy sống như một chi thể của Ngài. Nhưng có một tiếng gọi mạnh mẽ hơn, tha thiết hơn, hiệu nghiệm hơn, được Chúa muốn cho một số linh hồn nghe rõ hơn. Lời mời gọi này, Chúa không thể gửi tới tất cả mọi linh hồn, vì như thế lời kêu gọi của Ngài không được lắng nghe và dễ bị quên lãng. Ngài chỉ dành lời mời gọi này cho những linh hồn quảng đại, đã biết chết cho bản thân và đã bắt đầu sống thân mật với Ngài.

Trước hết linh hồn đó phải dần dần từ bỏ những tâm tình và ý muốn riêng của mình. Nó đã phải nếm thử mùi cay đắng khi nhìn thấy sự xấu xa của mình, để cảm thấy chán ghét mình và dứt bỏ tính tự ái. Vào những giờ phút yêu mến thiết tha, Chúa phải vén lên một chút tấm màn che khuất thánh nhan Ngài, để linh hồn có thể say mê nhìn ngắm Ngài. Linh hồn phải nhiều lần nhận thấy sự đối nghịch giữa sự xấu xa của bản thân nó và sự tốt lành thần linh của Chúa Giêsu, để nó phải kêu lên lời nồng nàn này : “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô, và chết là một điều có lợi” (Philip 1,21). “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi” (Ga 3,30). Bây giờ giảm đi, mất đi, chết đi, không còn là một mất mát, một sự cay đắng, một hy sinh. Nhưng đó là một điều có lợi. Đó là mơ ước của nó. Người phong cùi trên con đường đang được chữa lành sẽ không khóc, không nuối tiếc những máu mủ hôi tanh và những vảy da gớm ghiếc đang rơi xuống từ thân xác nó. Chết đi để được sống trong Chúa Kitô, thôi là bản thân mình để trở nên chi thể của thân xác Chúa Kitô, đó là hạnh phúc lớn lao của những linh hồn sẵn sàng sống cuộc đời đồng hóa với Chúa Kitô : “Mỗi Kitô hữu là một Chúa Kitô khác”.

Từ đáy lòng họ, Chúa Kitô kêu gọi các linh hồn hãy sống cuộc sống mới này, và lời mời gọi của Ngài rất tha thiết. Lời mời gọi này cũng là một lời hứa, một cam kết sắp bắt đầu và Chúa Giêsu sẽ không để dở dang : “Đấng đã bắt đầu công việc tốt lành này nơi anh em, Ngài sẽ hoàn thành cho tới ngày của Chúa Giêsu Kitô” (Philip 1,6).

Bây giờ Chúa Giêsu có thể kêu gọi linh hồn, vì Ngài đã chuẩn bị nó bằng nhiều ân sủng, nhiều lần viếng thăm và nhất là bằng nhiều nguyện vọng nồng nàn. Ngài đề nghị với linh hồn, vì Ngài biết nó cũng đang tha thiết ước ao. Những ước ao và những khát khao của Chúa Giêsu đã hòa nhịp với những khát khao của linh hồn đạo đức. Đó là bảo đảm chắc chắn nhất của sự toàn thắng sau cùng của Chúa Giêsu : Chúa sẽ dẫn linh hồn tới sự thánh thiện như lòng Ngài mong ước, và như chính linh hồn tha thiết cầu mong.

Phải dự trữ nhiều tín thác.

– Hỡi những linh hồn diễm phúc đã được Chúa Giêsu khuôn đúc theo ý thích của Ngài, trong sự giao tiếp thân mật lâu ngày với Ngài, Ngài đã gợi hứng cho các bạn ước ao một cuộc sống toàn thiện hơn, hoàn toàn chết cho bản thân mình để sống đồng hóa với Ngài, các bạn hãy vui mừng, hãy nhảy mừng : “Các bạn hãy vui mừng, tôi nói lại một lần nữa, các bạn hãy vui mừng !” (Philip 4,4). Các bạn hãy mở rộng tâm hồn ra, hãy trọn niềm tín thác nơi Chúa Giêsu, Đấng yêu thương các bạn rất nhiều. Chúa đã chẳng gợi hứng cho các bạn tha thiết ước mong nên thánh và nên trọn lành như thế, nếu Ngài không nóng lòng muốn lo cho các bạn nên thánh. Những khát khao này, những ước mong này, chính Ngài đã sống và cảm nghiệm trong các bạn. Đó là những khát khao của Ngài, khát khao yêu mến Cha Ngài ở trong và nhờ các bạn.

Có thể đã hơn một lần, các bạn cảm nghiệm thấy những tâm tình ngọt ngào này. Những khát khao yêu mến nồng nàn này, những vui sướng mà Chúa đã cho bạn được nếm thử khi chiêm ngưỡng Thánh Tâm Ngài, đó không phải là tình mến yêu của bạn, do tập luyện nhân đức và do những nỗ lực của bạn. Không, đó là chính tình yêu của Chúa Giêsu đang sống trọn vẹn ở trong bạn. Ngài sống, suy nghĩ và mến yêu ở trong bạn. Vậy bạn hãy chạy nhảy, hãy bay lên với niềm tín thác trọn vẹn, trên những nẻo của con đường trọn lành. Nếu các ý nghĩ và các nguyện vọng của bạn hoàn toàn phù hợp với các ước vọng của Chúa Giêsu, nếu bạn không muốn gì khác ngoài những điều Ngài muốn, thì Chúa còn ước ao gì hơn ?

Chúa Giêsu sẽ thỏa lòng, vì Ngài sẽ có thể yêu mến Cha Ngài ở trong bạn bằng một tình mến yêu bao la vô cùng… Rất đáng buồn là nhiều linh hồn không hiểu ý Ngài, không cho Ngài mượn trái tim để yêu mến Cha Ngài. Bạn là trong số những linh hồn diễm phúc đã làm theo ý Ngài. Bạn đã an ủi và đền bù cho Ngài rất nhiều. Ngài rất vui sướng, và Ngài càng yếu mến Cha Ngài hơn và đổ xuống linh hồn bạn nhiều hồng ân yêu thương, vì Ngài đã không thể làm như vậy với nhiều linh hồn khác. Vâng, bạn có thể cậy trông mọi sự nơi Chúa Giêsu.

Chị thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu yêu dấu của chúng ta đã đi qua con đường trọn vẹn tín thác nơi  tình thương của Chúa, và chị thánh đã không bao giờ bị thất vọng vì những ước ao táo bạo và liều lĩnh của mình. Vào buổi chiều của cuộc đời ngắn ngủi của mình, chị thánh đã có thể vui sướng kêu lên : “Ôi lạy Chúa, tình thương của Chúa đã ấp ủ con từ lúc lọt lòng mẹ. Tình thương đó đã lớn lên với con, và nay thì đó là một vực thẳm con không thể nào đo lường được”.

Các bạn hãy bắt chước chị thánh Têrêxa trong tình mến yêu quảng đại và niềm tín thác trọn vẹn của chị thánh. Hãy dự trữ nhiều tin tưởng và tín thác. Hãy lắng nghe tiếng nói rất dịu dàng của Chúa Giêsu vào những giờ phút diễm phúc, khi bạn cảm thấy Ngài ở trong tâm hồn bạn. Rồi sẽ đến những giờ phút, có thể là lâu dài, của đêm tối và của lo âu, khi ánh sao thân mến sẽ ẩn mình đi. Có vẻ như Chúa Giêsu không muốn được bạn yêu mến Ngài nữa. Có thể bạn sẽ tưởng như Chúa Giêsu đã bỏ đi, mặc cho bạn với thân phận đáng buồn của mình, như những người hành khất qúa xấu xa, không đáng kết hiệp với Ngài là Vua các vua… Bạn hãy dự trữ nhiều tín thác cho những ngày dài đó, có thể là những năm tháng dài của “đêm tối tâm trí”.

Hôm nay, khi bạn đang ở trong niềm an vui của tình thương ngọt ngào của Chúa, bạn hãy ghi sâu vào đáy lòng những ước ao của Chúa Giêsu và những lời đầy yêu thương của Ngài, bạn hãy hứa với Chúa rằng bạn sẽ không bao giờ nghi ngờ tình thương bao la của Ngài, không bao giờ thôi tín thác nơi Ngài, cả những ngày Ngài sẽ ẩn mặt đi để thử thách lòng mến yêu và niềm tín thác của bạn. Bạn hãy thưa Chúa như thánh Phaolô : “Ai có thể làm tôi xa rời tình thương của Chúa Kitô ? Những gian truân chăng ? Những lo âu chăng ? Những bách hại chăng? Tôi chắc chắn rằng dầu sống hay chết, dầu bất cứ quyền hành nào, dầu bất cứ tạo vật nào cũng không thể tách tôi ra khỏi lòng mến yêu Thiên Chúa, trong Đức Giêsu-Kitô, Chúa chúng ta” (Rom 8,35-39).

Còn các bạn, các bạn diễm phúc hơn trong  hạnh phúc không cảm thấy của mình, hỡi các bạn đang sống trong “đêm tối của tâm trí”, các bạn đang bước đi trong lo âu, hướng tới sự giải thoát sau cùng. Các bạn hãy nhớ những gì Chúa Giêsu đã nói với các bạn trong những ngày êm ái, khi các bạn được dựa đầu trên trái tim Ngài. Ngài đã đòi hỏi các bạn phải có một niềm tín thác mù quáng và không lay chuyển, một niềm tín thác trọn vẹn vào sự trung tín vô cùng của Ngài. Ngài đã nói với các bạn : “Con đừng sợ những sự khốn nạn và những bất toàn của con, vì Cha có thể thắng tất cả. Con đừng sợ gì hết, cả những khi mọi sự xem ra hỏng hết, bởi vì Cha có thể chọn cho con con đường con không thấy và con không ngờ, chính con đường đó sẽ đưa con tới đỉnh cao của sự thánh thiện và biến đổi con trong tình mến yêu”. Ngài đã nói như thế với bạn, và đáp lại, bạn đã hứa trung thành với tình mến yêu Ngài, cho dầu sẽ gặp gian nan và thử thách.

Vậy thì bây giờ là lúc phải chứng minh sự trung thành của bạn, phải cậy trông khi không còn gì để cậy trông, phải tin tưởng khi không có vẻ gì là nên tin tưởng, phải tin rằng Chúa Giêsu là Đấng trung tín vô cùng, Ngài yêu thương bạn và vẫn yêu thương bạn rất nhiều như xưa : Ngài yêu thương bạn không phải vì bạn tốt lành và dễ thương, nhưng chỉ vì Ngài là Đấng tốt lành vô cùng và yêu thương ta là con cái Cha trên trời và là em Ngài. Đừng sợ gì hết, đừng thay đổi những tâm tình của bạn trước đây. Đây là giờ phút của niềm tín thác tinh ròng và tuyệt đối siêu nhiên. Hãy can đảm lên ! Đêm tối có thể còn kéo dài và đau đớn, nhưng nó sẽ chấm dứt. Hừng đông sẽ ló rạng, chắc chắn sẽ ló rạng, có khi sắp ló rạng, và Chúa Giêsu, Mặt trời sáng láng và vô cùng mến yêu sẽ xuất hiện, huy hoàng hơn bao giờ hết.

Paul De Jaegher S.J. 

[1] P. De Jaegher S.J, La vie d’identification au Christ- Jésus, Nhà xuất bản Cerf, Juvisy, 1931, tr. 23-24

[2] P. De Jaegher, Sđd. tr. 24-25