8. Đời Sống Tâm Linh

Rác

Tuyết rơi từ bao giờ không biết, cứ mưa trong lặng lẽ một trời đêm. Tôi vén màn nhìn qua khuông cửa kính phòng ngủ. Ðường vắng tanh. Nghe ngoài trời gió tuyết rì rào đập xuống vuông kính cửa sổ. Có tiếng xe nặng nề. Tiếng cần trục cẩu chiếc thùng sắt ở đầu ngõ. Tôi đoán trời đã gần về sáng vì xe đổ rác đang đi thu rác. Vào mùa đông ở những tiểu bang miền Bắc Mỹ 6 giờ sáng trời vẫn tối mù sương.

Phòng tôi có một thùng rác. Trong nhà tắm và vệ sinh có một thùng nữa. Xuống khỏi cầu thang là phòng khách, cũng có một thùng rác. Từ phòng khách nếu đi thẳng xuống nhà bếp, đó mới lại là thùng rác lớn. Nếu rẽ mặt là phòng làm việc của cha xứ, cũng có một thùng rác. Cạnh đó là phòng làm việc của cha phó, dĩ nhiên cũng phải có một thùng. Bên cạnh phòng cha phó là văn phòng của nhà xứ, văn phòng chính, làm sao mà thiếu thùng rác được. Tính ra đã là 7 thùng rác. Chưa tính những phòng khác và ngoài đầu nhà. Người ta cần nhiều thùng rác vì cuộc đời, đâu cũng có rác.

Sáng nay, trời mù sương tuyết phủ. Gió lạnh bay về se sắt những nhánh cây khô. Từ đường phố còn vắng hoe, người phu đã đi dọn rác.

* * *

Chỉ mấy ngày, thùng rác trong căn bếp đã đầy. Ðặc tính của rác là rác gọi ruồi nhặng tới. Rác sinh dòi bọ.

Trong những thứ làm bẩn cuộc đời có hai loại rác. Rác bên ngoài và rác trong tâm hồn. Các Biệt phái và ký lục chất vấn Chúa:

Vì lẽ gì mà môn đệ Ngài lại không noi theo lệ truyền của tiền nhân, không rửa tay khi dùng bữa? (Mt. 15: 2). Chúa gọi dân chúng lại mà trả lời họ: Không có gì ở ngoài miệng vào có thể làm cho người ta ra dơ uế được. Nhưng chính các điều bởi miệng ra là những điều làm cho người ta ra dơ uế (Mt. 15: 11).

Sau đó Chúa giải thích thêm cho các môn đệ:

Ðiều tự người ta ra, điều đó làm cho người ta ra dơ uế. Vì tự bên trong, tự lòng người ta, mà xuất ra những suy tính xấu xa: Những dâm bôn, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo quyệt, phóng đãng, phân bì, gièm pha, kiêu hãnh, vô lương tri. Các điều xấu xa đó thay thảy đều tự bên trong mà xuất ra, và làm cho người ta ra dơ uế (Mt. 15: 17-20).

Con người đề cập đến rác rưởi bên ngoài thì Chúa lại soi dọi đến rác rưởi tâm hồn. Chúa đem nó ra ánh sáng vì loại rác này khó thấy, hoặc người ta không muốn thấy. Từ thái độ của Chúa về rác, có lẽ ta cũng cần có đôi chút thời giờ để gợi một vài ý:

– Gia đình tôi không thể sống mà thiếu thùng rác, vậy đâu là thùng rác thiêng liêng của gia đình tôi?

– Bao đựng rác cũng mất tiền, tại sao tôi không tiết kiệm tiền mua bao bằng cách cứ chứa rác trong nhà? Lý do nào làm tôi không nhạy cảm với rác tội lỗi?

– Khi đổ rác, người ta đổ tất cả rác trong nhà. Một thùng có mùi hôi, cả nhà vẫn hôi. Người ta không thể để cho rác của mình gây tanh tưởi và lập luận đó là rác của tôi, tôi có tự do giữ nó trong phòng tôi! Tôi có bao giờ cho những băn khoăn về tội riêng của tôi có liên hệ tới người chung quanh trong gia đình là một băn khoăn chính đáng?

– Người ta không đổ rác từ thùng này qua thùng phòng bên kia. Nhưng là đổ tất cả ra ngoài. Tôi có thái độ nào với rác thiêng liêng trong gia đình tôi?

– Khi phát mùi tanh, khi có dòi bọ mà bao rác hãy còn vơi, người ta vẫn đem đi đổ, sao không cứ đợi cho đầy? sao không cứ đợi đúng thời khóa biểu? Tôi hiểu thế nào trong đời sống thiêng liêng với các thứ rác tinh thần và bí tích giải tội?

Tất cả sang trọng trong căn nhà của tôi chẳng có gì là quyến rũ để Chúa vào. Rác tâm hồn đã biến nó thành ngôi mộ. “Các ông giống như những mồ mả quét vôi trắng, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy hài cốt và mọi mùi hôi thối” (Mt. 23: 27).

* * *

Lạy Chúa,
Ai cũng có rác. Nhà nào cũng có rác. Trong hai thứ rác, Chúa sợ rác rưởi trong tim con người. “Khốn cho các ngươi, vì các ngươi rửa sạch bên ngoài chén đĩa, còn bên trong thì chứa đầy cướp bóc và ô uế” (Mt. 23: 25). Căn nhà của con dù có trang trí mỹ thuật đến đâu mà đầy rác, thì đấy cũng chẳng thể là nơi sống được. Gia đình con có khi nào nhạy cảm với rác rưởi vô hình?

Dù đời đẹp đến đâu, nói đến đời cũng vẫn phải nói đến rác. Cuộc sống của con cũng có biết bao nhiêu sợi chỉ thêu bạc, nhưng cũng chẳng thể tránh được những đường may tội lỗi. Như vậy, xin cho con hàng ngày khi đổ rác biết suy tư về rác cũng là đủ cho con lắm rồi.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

MẸ TÊRÊSA GIÚP THĂNG TIẾN TRONG SỰ KHIÊM NHƯỜNG

Lời khuyên của Thánh Têrêsa Calcutta đặc biệt thích hợp trong thời đại kỹ thuật số ngày nay, cho chúng ta cơ hội suy ngẫm về cách chúng ta có thể sử dụng đức tin để giúp bản thân mình trở nên con người tốt nhất. Và trong việc này, không có tấm gương nào lớn hơn cuộc đời của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị thánh được nhiều người yêu mến.

Thánh nữ, đã cống hiến cả cuộc đời để phục vụ người nghèo, thường chia sẻ một số cách đơn giản để chúng ta có thể hoàn thiện bản thân hàng ngày. Và trong cuốn sách “Niềm vui của tình yêu: Hướng dẫn về cuộc sống hàng ngày”, một tuyển tập trí tuệ của Mẹ, chúng ta tìm thấy một số điều cần thiết để thêm một chút khiêm tốn vào cuộc sống của chúng ta.

Điều thú vị là Mẹ Têrêsa đã qua đời trước khi bước sang thế kỷ này, tuy nhiên lời khuyên của Mẹ là những gì mà ngày nay chúng ta thực sự nên tuân theo. Điều này đặc biệt đúng khi chúng ta điều khiển và định hướng thế giới truyền thông xã hội, trong đó mọi người đôi khi cảm thấy mình có khả năng chia sẻ ý kiến ​​và ý tưởng, nhưng lại không hề khiêm tốn.

Cuốn sách “Niềm vui trong tình yêu” của Mẹ Têrêsa chia sẻ những bước đi hướng tới sự khiêm nhường này, và như bạn sẽ thấy, hầu hết trong những bước đi đó đều cung cấp những hướng dẫn cơ bản để chúng ta trở thành những người giao tiếp tốt trên mạng xã hội:

  • Nói về bản thân mình càng ít càng tốt.
  • Để tâm đến việc riêng của mình.
  • Đừng xen vào công việc của người khác.
  • Tránh tò mò.
  • Bỏ qua lỗi lầm của người khác.
  • Chấp nhận những lời xúc phạm và những tổn thương.
  • Chấp nhận bị coi thường, bị lãng quên và không được ưa thích.
  • Hãy tử tế và dịu dàng ngay cả khi bị khiêu khích.
  • Đừng bao giờ yêu cầu được đối xử kính trọng như bạn nghĩ.
  • Luôn luôn chọn phần khó nhất.

Mặc dù chúng ta có thể sử dụng những viên ngọc trí tuệ này để sống một cuộc sống khiêm tốn hơn, nhưng chúng ta cũng có thể chia sẻ chúng với con cái, hay người thân của mình để giúp nhau cư xử không chỉ có đạo đức hơn trong cuộc sống hàng ngày mà còn tử tế khi lên mạng.

 

Cerith Gardiner - 14/02/24

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.

Từ https://aleteia.org

 

 

Thời Gian

Thiên Chúa là Alpha và Omega. Ngài là khởi nguyên và tận cùng (Kn. 22: 13). Ðiều ấy có thể diễn tả cách khác, Thiên Chúa là thời gian. Nhưng Thiên Chúa là thời gian trong ý nghĩa Thiên Chúa làm chủ thời gian chứ không phải thời gian là Thiên Chúa. Thời gian chỉ hiện hữu trong sự hiện hữu của Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa hiện hữu trong thời gian. Hiểu như vậy, thì ai sống trong Thiên Chúa mới thật sự sống trong thời gian. Còn sống trong thời gian chưa phải là sống trong Thiên Chúa.

* * *

Thiên Chúa là Alpha và Omega. Thánh Yoan còn định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Jn. 4: 16). Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình yêu. Như thế, thời gian và tình yêu song hành là một. Tôi sống trong Thiên Chúa là sống để yêu. Và sống trong thời gian là yêu để sống. Thời gian không có tình yêu sẽ thành lạnh lùng nghĩa trang, là củi mục buồn nản. Tình yêu ý nghĩa hóa và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó, kẻ đang yêu là người sống trong thời gian với đắp đầy niềm vui êm ả. Kẻ biết yêu là người biết nhìn thời gian như dòng ngọc bạc. Và kẻ sống trong Thiên Chúa là người phải biết quý thời gian.

* * *

Chúa dựng nên tôi bằng thời gian. Chúa cứu rỗi tôi bằng thời gian. Tôi sẽ gặp Chúa bằng thời gian. Thời gian là tất cả, bởi đó tôi nên dành cho thời gian một suy tư của tôi về cuộc sống.

Nói về thời gian thì sách Giảng Viên trong Kinh Thánh viết như sau:

Có thời để sinh – có thời để chết
Có thời để trồng – có thời để nhổ
Có thời để giết chết – có thời để chữa lành
Có thời để phá – có thời để xây
Có thời để khóc – có thời để cười
Có thời để than van – có thời để múa nhảy
Có thời để quăng – có thời để lượm
Có thời để ôm – có thời để xa nhau
Có thời để tìm kiếm – có thời để thất lạc
Có thời để gìn giữ – có thời để vất đi
Có thời để xé – có thời để khâu
Có thời để nín thinh – có thời để lên tiếng
Có thời để yêu – có thời để ghét
Có thời giặc giã – có thời bình an
(Giảng viên 3: 2-8)

Có thời quăng đi, có thời lượm lại. Có thời than van, có thời nhảy múa. Ðó là những lời hứa, thế nhưng khi nào được lượm lại, khi nào được nhảy múa. Thực tế trong cuộc sống có quá nhiều chịu đựng gian nan. Có những cơn bệnh kéo dài của thân xác, có những nặng nề năm tháng của tâm hồn. Nó là những đường hầm dài hun hút khổ đau. Tiếng thở dài của con người vẫn là: Khi nào tôi mới qua khỏi tháng ngày bất hạnh này.

Những lời nói về thời gian của sách Giảng Viên trong Cựu Ước có lẽ đã được Chúa Yêsu cắt nghĩa trong bài giảng trên núi. Tin Mừng thánh Luca ghi như sau: “Phúc cho các ngươi, khi thiên hạ oán ghét các ngươi, khi họ loại các ngươi đi cùng sỉ mạ, khi họ khử trừ tên các ngươi như đồ xấu xa vì cớ Con Người. Hãy vui sướng trong ngày ấy, hãy nhảy mừng, vì này: phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lao” (Lc. 6: 20-26).

Nếu tôi phải quăng đi vì đức tin, sẽ có ngày tôi được Ngài đưa về với triều thiên. Nếu có thời tôi bị xé rách vì đức tin, sẽ có thời tôi được Ngài khâu lành bằng ơn sủng. Nếu có ngày tôi bị khóc than vì đức tin, sẽ có ngày Ngài đưa tôi vào dự tiệc Nước Trời.

Nếu lấy thời gian để xây đắp cho riêng tôi, sẽ có thời gian tôi bị vứt sạch khi Nước Trời đến. Nếu lấy thời gian để kiếm tìm cho riêng tôi, sẽ có thời gian tôi bị lạc lõng khi Nước Trời đến. Nếu lấy thời gian để ôm ấp cho riêng tôi, sẽ có thời gian tôi phải xa nhau khi Nước Trời đến.

Mầu nhiệm của thời gian và biến cố trong cuộc sống
Ðêm Giáng Sinh nối kết với đêm tử nạn trong mộ đá sâu. Ðể rồi một thời trong mộ đá sâu dẫn tới một thời Phục Sinh bừng sống. Có ngày than van vì đức tin thì hãy trông ở đằng trước, sẽ có ngày ủi an. Và cũng để nhắc nhở, nếu có thời chỉ yêu riêng đời mình thì hãy thận trọng vì có ngày chua cay. Ðau thương của tháng ngày bị xé rách ẩn trong tháng ngày được khâu lành. Ðó là huyền nhiệm của thời gian.

Con người không làm chủ được thời gian. Tôi chẳng thể biết những gì sắp xẩy ra ở tương lai. Ðiều này ảnh hưởng đến niềm tin của tôi. Vì không nắm chắc nên có lo âu, nghi ngờ. Nhưng làm sao tôi hiểu được ý định của Thiên Chúa từ alpha đến omega, từ khi chưa có mặt trời đến vô cùng mờ mịt hư vô. Phải chăng vì thế, thánh Yoan đã củng cố niềm tin của tôi khi Ngài bảo tôi rằng hãy nhớ từ nguyên thuỷ đến tận cùng Thiên Chúa mãi mãi là yêu thương (1 Yn. 4: 16).

Tôi không biết được thời gian. Ðời là những biến cố. Có những biến cố hôm nay mới trả lời cho biến cố mà tôi đã chẳng hiểu trong quá khứ. Ðiều ấy cũng hàm ý, biến cố hôm nay có thể chỉ trọn nghĩa khi tôi chờ sống trọn biến cố ngày mai. Nếu biết được thời gian, tôi chẳng còn niềm tin nữa. Ðã biết rồi, còn gì để tin. Tâm sự của một người thao thức lo âu về tương lai, có lẽ cũng là tâm sự của một cây hồng.

Câu chuyện bắt đầu thế này:

Có một cây hồng được trồng trong thửa vườn, tôi tạm gọi đó là khu vườn cuộc đời. Ngày ngày người làm vườn vun sới. Ông nhổ cỏ, chăm sóc từng cánh lá. Cây hồng dần dần vươn lên trong dáng thèm muốn của khóm cúc, buồn tủi của đám lau sậy.

Chẳng bao lâu, cây hồng trổ bông. Hôm nay, mảnh vườn rực sắc vì cái thẫm đỏ của một loại hồng quý. Khách qua đường ai cũng trầm trồ khen ngợi. Cây hồng hãnh diện làm sao.

Năm tháng đong đưa chảy theo đời. Rồi đến một ngày, ngày mà lời Kinh Thánh nói: Có thời để khoe sắc, cũng có thời để tang thương. Người làm vườn đã từ lâu lắm rồi suy nghĩ. Ông biết nhân gian sẽ tiếc mầu thẫm đỏ. Ông biết nhân gian sẽ nhớ những giọt sương sáng long lanh trên cánh hồng. Nhưng ông đã quyết định chặt gốc hồng!

Sau cùng, những nhát dao định mệnh đã bổ xuống. Chỉ ngày hôm sau thôi, khách qua đường không còn thấy dập dờn trong gió một loài hồng qúy nữa. Một con nắng mùa hạ trôi qua. Những cánh hồng, hôm qua rực rỡ, hôm nay còn đâu. Nhân gian thương tiếc dáng hồng thủa xưa, và có lời than trách: Hỡi người làm vườn kia ơi, sao lại chặt một loài hồng quý?

Riêng người làm vườn hiểu rằng có một thời để xanh, thì cũng có một thời để khô héo. Có một thời để giết chết, cũng có thời để chữa lành.

Trước nhát dìu, cây hồng chẳng hiểu được đời mình.

Ông làm vườn đoan hứa rằng tất cả vì quý mến mà ông ta săn sóc cây hồng, tại sao ông lại chặt nó? Cây hồng nằm khô như những khúc củi khác. Giống như cái vinh quang rực rỡ của Chúa Kitô trong ngày biến hình trên núi đã hết rồi. Bây giờ là cây khổ giá buồn hiu. Và kẻ qua đường không muốn ngó nhìn.

Người làm vườn đem khúc gỗ hồng về treo trên gác bếp. Từ đó, khúc gỗ nằm lặng lẽ lãng quên trong gác bếp tối tăm. Bụi khói bám vào làm nghẹt thở đời nó. Nhớ về mảnh đời đã qua, còn đâu những buổi sáng long lanh. Khúc gỗ hồng lặng im thương nhớ đời mình.

Không biết bao lâu trong cái lặng lẽ ấy. Vẫn cái huyền nhiệm của thời gian là thế. Rồi đến một ngày. Lửa nóng đã làm hong khô, người nghệ sĩ đem khúc gỗ hồng khô ra đẽo gọt. Khúc gỗ đau đớn oán than. Ðã chết rồi thân xác cũng chẳng được nghỉ yên.

Có lẽ đau đớn hơn cả là khi người làm vườn hì hục nung đỏ mũi khoan rồi dùi thủng từng chiếc lỗ trên thân khúc gỗ. Mỗi lần mũi khoan đỏ cắm vào sớ thịt, khói xẹt bay lên cay mắt. Ðúng như có ngày bình yên thì cũng có ngày tan tác.

Rồi cũng đến một ngày. Vẫn cái huyền nhiệm của thời gian là thế. Những lát dao đã xong, khúc gỗ khô biến hình dần dần thành cây sáo trong tay người nghệ sĩ.

Và rồi cũng lại đến một ngày, lại một ngày nữa huyền nhiệm trong đời. Một ngày vô cùng trang trọng của người nghệ sĩ. Ngày đó, người nghệ sĩ đứng giữa trời đất bao la, nâng cây sáo hồng lên môi hôn. Cây sáo run lên xúc cảm, nó thấy đôi môi bát ngát của người nghệ sĩ đưa nó vào một thế giới vô cùng mênh mông. Với cả hồn người nghệ sĩ, một hơi ấm từ đôi môi người nghệ sĩ ấy kề bên khúc sáo hồng, để rồi một bài ca huyền diệu nhè nhẹ đẩy gió vươn vào thinh không.

Bấy giờ cây hồng mới hiểu vì sao nó đã bị chặt gẫy. Nó mất đi cái dáng hoa tuy có lời khen của khách qua đường nhưng sớm nở tối tàn. Giờ đây nó luôn luôn trong bàn tay người nghệ sĩ đi khắp vũ trụ. Từ nó, hôm qua, hôm nay, rồi mãi mãi ngàn sau, cứ đẩy gió đi vào thinh không để ru đời bằng ngàn bài ca vô tận.

* * *

Lạy Chúa,

Không thể coi thường thời gian thì con phải có thái độ nào đối với thời gian?

Thái độ đúng nhất là hãy yêu thời gian. Không có thời gian con không hiện hữu. Bởi đó, tất cả mục đích mà thời gian ban tặng là gọi con đi tới, là hãy sống, hãy quý trọn vẹn từng mẩu thời gian.

Ðặc tính của thời gian là không bao giờ chết. Thời gian vĩnh cửu. Bởi thế, con không giết được thời gian nhưng là thời gian giết con. Khi người ta “giết thời giờ” là lúc thời giờ đang giết họ. Nếu bản tính của thời gian đối với con là sự sống thì bất cứ hành vi nào làm phí phạm thời gian là hành vi xúc phạm đến sự sống, một tặng phẩm cao quý mà Chúa đã ban tặng con.

Cánh hoa làm cho cây hồng đẹp đấy, nhưng sớm nở tối tàn. Nó chỉ lẩn quẩn trong góc vườn chật hẹp. Nó có ngờ đâu khi rũ sắc đó để người nghệ sĩ biến mình thành cây sáo tre, nó đã thênh thang vũ trụ và ru đời.

Con chẳng nhìn rõ được tương lai. Xin cho con hiểu những quãng thời gian huyền nhiệm là sự khôn ngoan và quan phòng của Chúa săn sóc cho con. Mọi biến cố xẩy đến trong cuộc sống của con đều đến từ định nghĩa: Chúa là Tình Thương (1 Jn. 4:16) từ khởi nguyên cho đến tận cùng (Kn. 22: 13).

Lm. Nguyễn Tầm Thường

Nguồn: Đạo Binh Đức Mẹ www.daobinh.com

 

Trên đường về

Trên đường về với Chúa, tôi đã bao lần cất cánh bay lên, nhưng có mưa phùn làm đôi cánh lạnh giá.

Ðã bao lần tôi muốn đi tới, nhưng lối về có gai góc cản ngăn.

Ðã bao lần muốn giang tay ra, cho đi nhiều hơn, nhưng có nuối tiếc bảo đừng.

Vì thế, trong mơ ước có gian nan. Và, trên đường về với Chúa vẫn là khúc đường xa xăm.

* * *

Trong cuộc sống, những giấc mơ chưa trọn vẹn là những giấc mơ buồn. Vì không trọn vẹn nên mới buồn. Nhưng đặc tính của những giấc mơ buồn lại thường là những giấc mơ lớn. Vì lớn nên mới khó trọn vẹn. Bởi đó, cái buồn của giấc mơ không trọn vẹn dường như vẫn là cái buồn giá trị, giá trị vì nó mang một hoài bão rất cao.

Cái không trọn vẹn đó thúc bách, mời gọi đi tới. Con đường tình yêu không bao giờ có giới hạn thì giấc mơ tình yêu không bao giờ cùng. Do đấy, sự chưa được trọn vẹn trong ước mơ đi về với Chúa là sự chưa trọn vẹn dễ hiểu trong thân phận làm người của tôi nơi trần thế này. Ðường tình yêu càng dài thì giấc mơ tình yêu càng sâu. Tình yêu càng sâu thì trên đường ấy, tôi cần miệt mài đi mãi.

Trên đường về với Chúa, tôi chỉ hỏi lòng tôi là tôi đã đi xa tới đâu, đã bay cao thế nào. Chứ không thể có câu hỏi tôi đã yêu Chúa trọn vẹn chưa. Từ ngàn xưa, Ngài đã biết hồn tôi là dang dở, những lời thề của tôi là những lời đoan hứa dập gẫy. Bởi đấy, tôi không thể yêu Ngài trọn vẹn nhưng Ngài đòi tôi đi về trọn vẹn.

Trọn vẹn là một mơ ước. Dang dở vì chưa trọn vẹn có chiều sâu của nó là nó làm cho mơ ước tiếp tục còn là ước mơ. Tôi có thể cầu Chúa cho tôi đạt được mọi mơ ước không? Khi đạt được mọi mơ ước rồi thì tôi không còn mơ ước nữa. Không còn mơ ước thì còn gì để mà đi tới, còn gì để mà bay lên. Trong ý nghĩ ấy, đường về với Chúa nếu còn dang dở chỉ là lời gọi tôi đi tới. Mỗi lần sa ngã chỉ là bảo tôi nhìn lên cao. Tôi không thất vọng vì chưa đạt được mơ ước.

Mơ ước đã được rồi là hạnh phúc đã được đóng khung trong một bến bờ. Tôi muốn thứ hạnh phúc vô cùng. Tôi muốn hoài hoài mơ ước. Tôi muốn vào một không gian hạnh phúc mà càng bay cao thì càng bắt gặp trời thênh thang tự do. Càng bắt gặp thì càng si mê, càng si mê thì càng nuôi mộng đi tới nữa. Tôi tin rằng hạnh phúc ấy có thật. Ðó là chính Chúa. Bởi tôi biết, tôi không bao giờ uống cạn được ân sủng của trời cao. Vì thế, tôi không xin cho tôi đạt được điều tôi mơ ước mà chỉ xin cho tôi được mãi mãi, hoài hoài đi về Ngài, sống trung thành với mơ ước đó thôi.

Và vì thế, linh hồn tôi có vì bất toàn mà lầm lỗi, thì đấy chẳng thể là lý do làm tôi thất vọng, xuôi lòng. Trên đường về nhà Cha, nếu vì yếu đuối mà dừng nghỉ. Thì, đường về nhà Cha có xa xăm thật. Xa xăm ấy vẫn là xa xăm có Chúa. Nếu vì sa ngã mà làm cho giấc mơ gian nan. Thì, đường về nhà Cha có gian nan thật, gian nan ấy vẫn là gian nan ấm lòng.

* * *

Lạy Cha,

Cha cầu xin cho con không thuộc về thế gian, nhưng Cha đã chẳng đem con ra khỏi thế gian. Ngày nào con còn trong thế gian thì con còn nghe thấy tiếng dỗ dành của những rung cảm đam mê. Từ trong bào thai của mẹ, con đã là lỗi phạm. Con có thể vấp ngã vì bóng đêm, nhưng con có thể không thuộc về đêm tối. Con không thất vọng vì những đám mưa phùn làm con ướt cánh. Con không ủ dột vì bờ đá chênh vênh giữ chân con đi tới. Vì con biết, khi Cha dìu con, thì tình trời sẽ sưởi ấm chiều mưa lạnh ảm đạm, và ân sủng sẽ gieo trên gai nhọn. Khi Cha dìu con thì ước mơ sẽ nên tha thiết, và dù có vất vả cánh ong vẫn bay về được với mật ngọt của hoa. Khi Cha dìu con thì con có thể trung thành. Khi Cha dìu con thì thánh giá sẽ là sức sống.

Lạy Cha,

Ðấy là mơ ước và cũng là lời cầu nguyện của con trên đường về.

Có giấc mơ nào đẹp mà không phải trả giá bằng thương đau? Có giấc mơ nào lớn mà không phải trả giá bằng thử thách? Có thập giá nào lên đồi Golgotha mà không quỵ ngã? Có chiều nào trong vườn Giệtsimani mà không lo âu rướm máu. Những áng mây trời chỉ bay trên đỉnh đồi. Gió lộng chỉ ở ngoài biển khơi. Tôi phải đi lên. Tôi phải miệt mài bước tới. Và Ngài đã nói với tôi: “Cha ở cùng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28: 20).

Tiếng gọi của trời cao là bảo tôi trung thành với ước mơ. Cho dù lầm lỗi có làm tôi đau khổ vì mất giá trị nhưng chẳng vì thế mà Người chê trái tim tôi nghèo nàn xấu xí. Ðôi cánh con chim sẻ sẽ chẳng bay cao được như con phượng hoàng. Nhưng một ly nước nhỏ mà đầy thì ý nghĩa hơn một ly nước lớn mà vơi.

Dù có yếu đuối cản đường. Dù có lầm lẫn che lối. Dù ngày tôi chết, tôi vẫn chưa leo được tới nửa đồi của thập giá, nhưng nếu tim tôi vẫn hồng lửa ước mơ, hồn tôi vẫn vất vả đi tìm cõi vô biên thì đấy là đường mở lối vào vườn hạnh phúc rồi.

Cha trên trời sẽ chạnh lòng khi thấy một con chiên què mà cứ xiêu vẹo trèo lên. Cha trên trời sẽ chạnh lòng khi thấy một đôi cánh đang lầm than vì gió lạnh, mưa ướt, mang thương tích vì gai rậm mà cứ nhất quyết tìm đường về. Và vì đó, dù trong yếu đuối của tôi, tôi vẫn thấy biển rộng, trong dòng xót thương của Cha, tôi tới đồi cao.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

Tha nợ

Một hôm các môn đệ đến phân bì với Chúa là Yoan dậy môn đệ của ông ta cầu nguyện, còn Thày, xin Thày cũng dạy chúng con cầu nguyện đi. Từ ngày đó kinh Lạy Cha đã ra đời. Ðó là kinh mà chính Chúa đã dạy các môn đệ (Lc. 11:1-3). Chẳng biết lúc đó các môn đệ có hiểu lời kinh ấy không mà chẳng thấy các môn đệ thắc mắc gì cả. Rồi từ đó dọc theo lịch sử hai nghìn năm, người ta cứ đọc kinh ấy mãi cho đến hôm nay. Vì tính cách quan trọng nên kinh ấy được đưa vào thánh lễ. Mỗi lần dâng lễ, tôi lại trịnh trọng giang tay nói với toàn thể cộng đồng: “Theo lời Người dạy chúng ta hãy nguyện rằng.” Rồi cả nhà thờ vang lên lời kinh đó. Trong lời kinh có một câu thế này: “Xin Cha tha nợ cho chúng con cũng như chúng con tha kẻ có nợ chúng con” (Mt. 6: 12).

Thế là chết tôi rồi! Tôi ký với Chúa một giao kèo hay sao. Tại sao tôi không xin Chúa tha cho tôi theo lòng thương xót của Chúa chứ đừng giống như sự hẹp hòi của tôi. Rõ ràng tôi bảo Chúa cứ tha cho tôi giống như là tôi tha cho người khác. Chúa cứ việc nhìn vào tôi như mẫu mực mà thi hành.

* * *

Ðâu là mẫu mực của tôi? Thánh Matthêu kể:

Nước Trời giống như một vua kia tính sổ với bầy tôi. Nhà vua vừa khởi sự tính sổ thì người ta điệu đến một người nợ một ngàn nén vàng. Y không có gì để trả nợ nên nhà vua ra chỉ thị bán y và vợ con sản nghiệp thay thảy để trả nợ. Vậy người bầy tôi phục xuống bái lạy mà rằng: “Xin Ngài nán lại cho tôi với, thần sẽ trả hết.” Nhưng tôn chủ của bầy tôi ấy chạnh lòng thương, đã thả y về và tha bổng cả món nợ. Ði ra, người bầy tôi ấy gặp một người bạn đồng nghiệp mắc nợ y một trăm đồng bạc. Y liền bóp cổ chận họng mà rằng: “Nợ đâu, trả đây.” Người bạn đồng nghiệp phục xuống nài van y rằng: “Xin ông nán lại cho tôi với, tôi sẽ trả!” Nhưng y không chịu, lại đi bỏ tù, cho đến khi nào nó trả nợ xong. Vậy các bạn đồng nghiệp thấy sự xảy ra thì rất đỗi buồn phiền mà đi phân trần đầu đuôi mọi sự xảy ra với tôn chủ họ. Bấy giờ, tôn chủ cho điệu y đến bảo rằng: “Tôi tớ bất lương, ta đã tha bổng cho người tất cả món nợ ấy, chỉ vì ngươi đã nài xin ta! Há ngươi không phải thương xót bạn đồng nghiệp ngươi sao, như chính ta đã thương xót ngươi?” Thịnh nộ, tôn chủ của y đã trao y cho lý hình cho đến khi nào y trả xong tất cả những gì mắc nợ với ông. Cha Ta, Ðấng ngự trên trời, sẽ xử với các ngươi như thế, nếu các ngươi mỗi người không thật lòng tha cho anh em mình” (Mt. 18: 23-35).

Nếu mẫu mực của tôi như thế thì chết tôi rồi. Tôi chỉ xin Chúa tha cho tôi giống như tôi tha cho người khác.

* * *

Sau kinh Lạy Cha. Phúc Âm Matthêu kết luận như sau: “Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ sai lỗi, thì Cha các ngươi, Ðấng ở trên trời, cũng sẽ tha cho các ngươi; nhược bằng các ngươi không tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha thứ điều các ngươi sai lỗi” (Mt. 6: 14-15).

Như vậy là rõ lắm, Chúa tha thứ cho tôi theo mức độ tôi tha thứ cho người khác. Như thế lời kinh Lạy Cha có thể là lời tôi kết án cho tôi. Tôi xin với Chúa rằng chỉ tha cho tôi giống như tôi tha cho người ta thôi. Hằng ngày tôi đọc kinh ấy, đã mấy mươi năm trong đời rồi. Ðã bao nhiêu ngàn lần tôi khắc sâu vào tâm trí Chúa để Chúa nhớ là: Xin tha nợ cho tôi giống như tôi tha nợ kẻ khác, đừng tha nhiều hơn! Nếu tôi không tha cho người khác được là tôi xin Chúa cũng đừng tha cho tôi. Ôi! lời kinh nguy hiểm biết bao nhiêu!

* * *

Ở đây, giữa tôi và Chúa có phải là ký với nhau một giao kèo không? Nếu là giao kèo thì hợp lý trong lối lý luận, nhưng thiếu tự do trong thái độ tha thứ. Bấy giờ, tha thứ trở nên như một mặc cả đôi bên. Có khi tôi không muốn tha cho người ta, nhưng để Chúa tha cho mình thì thôi cũng đành cố tha cho người khác vậy. Còn phía của Chúa thì lấy sự tha thứ cho tôi như một áp lực để tôi phải tha cho người khác. Tôi thấy có điều không ổn theo lối đặt điều kiện như thế này. Tha thứ đến từ những điều kiện là trả nợ theo luật pháp chứ không phải là rung động bằng con tim. Tha thứ áp lực là tiếc nuối của một đổi chác. Chúa không thể hành xử như thế. Vậy tôi phải hiểu tha thứ như thế nào?

* * *

Trong thân thể Ðức Kitô mà tôi là chi thể thì dòng máu luân hoán chỉ có một màu đỏ, nghĩa là tôi đến với Chúa rồi qua tha nhân, hay qua tha nhân rồi đến với Chúa, ngả nào cũng là một thái độ. Tôi không thể có hai thái độ, đến với Chúa là dòng máu đỏ, ngả qua tha nhân là dòng máu đen. Bánh xe luân chuyển tương quan giữa ba chủ thể; Tôi – Tha nhân – Chúa là thông cảm của một thứ tình. Bởi đó khi một bánh xe bị gẫy sẽ làm con đường nối kết ba chủ thể ấy gián đoạn. Tôi và tha nhân bị cách đoạn thì tôi và Chúa cũng không thể nối kết. Không nối kết với tha nhân thì nối kết với Chúa là ảo tưởng, lúc đó Chúa chỉ là ngẫu tượng: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ, và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ trước bàn thờ, rồi đi làm hoà với anh em ngươi đã, rồi hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi” (Mt. 5: 23-24).

* * *

Tha thứ không phải là tri thức để hiểu mà là cảm nghiệm rung động. Khi tôi không tha thứ được cho người là lúc con tim tôi đã khô cứng. Nếu sự khô cứng làm tôi không rung cảm trước xót thương của người khác thì cũng chính sự khô cứng ấy làm tôi không cảm nghiệm được sự tha thứ của Chúa cho tôi. Sự tha thứ của Chúa luôn luôn vô điều kiện, nhưng điều kiện cảm nghiệm được sự tha thứ ấy lại hệ tại khả năng mềm mại nơi trái tim tôi để tôi có thể rung động mà tha thứ cho người. Chỉ khi trái tim mềm mại tha thứ thì khả năng mềm mại của nó mới có thể lãnh nhận được thứ tha của Chúa.

Có cảm nghiệm được Chúa tha thứ thì mới có thể thứ tha cho người. Bởi đó, khi tôi không tha thứ là vì có thể tôi chưa cảm nghiệm được sự tha thứ của Chúa. Như thế, khi tôi khó tha thứ cho người đấy là dấu chỉ cho tôi biết tôi chưa thực sự xin Chúa thứ tha cho tôi.

Lm. Nguyễn Tầm Thường