8. Đời Sống Tâm Linh

Niềm Tín Thác – Chương XIV: TÔI LÀ BÀI THƠ TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA VÀ CỦA CHÚA GIÊSU

I. BÀI THƠ TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA.

–   Ở MỖI GIÂY PHÚT, THIÊN CHÚA TẠO THÀNH VŨ TRỤ BẰNG TƯ TƯỞNG CỦA NGÀI.

–   NGÀI HIỆN DIỆN NƠI MỖI TẠO VẬT BẰNG TÍNH VÔ BIÊN CỦA NGÀI VÀ ĐỂ BẢO TỒN NÓ, VÀ CŨNG LÀ ĐỂ TỎ CHO TÔI THẤY PHẦN NÀO NHỮNG VẺ TUYỆT HẢO ĐÁNG TÔN THỜ CỦA NGÀI.

–   TÔI CŨNG LÀ MỘT BÀI THƠ TÌNH THƯƠNG CỦA NGÀI. NGÀI YÊU THƯƠNG TÔI DƯỜNG NÀO !

–   BÀI HỌC VỀ SỰ KẾT HIỆP VỚI CHÚA VÀ TÍN THÁC NƠI NGÀI.

–   THIÊN CHÚA CŨNG TƯỞNG ĐẾN TÔI TRONG LÃNH VỰC SIÊU NHIÊN.

Mỗi giây phút, Thiên Chúa tạo thành vũ trụ bằng tư tưởng của Ngài.

– Ai lại không có lần dừng chân ngắm những công trình kỳ diệu của Thiên Chúa toàn năng ? Có thể đó là cảnh núi sông hùng vĩ và tuyệt đẹp thình lình trải ra trước mắt ta… Có thể là những dãy núi phủ đầy tuyết, với những ngọn cao vút gần như chạm trời xanh… Có thể đó là đại dương bao la, mênh mông đến tận chân trời, với những đợt sóng ầm ì, như sôi sục đầy bọt, tiếp nối nhau trải dài trên bãi cát… Hoặc là lúc đêm thanh, nhìn lên trời thăm thẳm với muôn ngàn vì sao nhấp nhánh như muôn ngàn hạt kim cương tốt đẹp… Chúng ta đang say sưa mơ màng thì một tư tưởng thoáng qua tâm trí ta như một luồng chớp, khiến chúng ta nghĩ đến quyền năng vô cùng của Thiên Chúa. Và chúng ta kêu lên như tác giả của Thánh Vịnh : “Lạy Chúa, trời đất kể lại những kỳ công của Ngài” (Tv 18,2). Tất cả chúng ta đều đã có kinh nghiệm về những cảm hứng phấn khởi này. Tất cả chúng ta đều đã có lần cảm thấy quyền năng vô cùng của Thiên Chúa nơi vũ trụ vạn vật.

Chúng ta qúa quen với tư tưởng sáng tạo, nhưng chúng ta ít nghĩ đến tư tưởng bảo toàn, tức sự sáng tạo liên tục. Người ta thường hình dung việc Thiên Chúa sáng tạo như thể Ngài phán một lời, liền có vũ trụ vạn vật. Sau đó Ngài chỉ có việc điều khiển và cai quản cái vũ trụ đã hiện hữu này, và nó sẽ tự mình tiếp tục hiện hữu dưới quyền hành của Thiên Chúa.

Thật sự, việc bảo tồn vũ trụ là một sự sáng tạo liên tục, mỗi giây phút Thiên Chúa lại dùng quyền năng vô cùng của Ngài để tạo thành vũ trụ vạn vật, vì nếu để mặc nó, nó sẽ lập tức rơi lại vào hư vô. Có thể chúng ta biết điều này nhưng thường chúng ta có cảm nghĩ ngược lại : chúng ta thường hiểu Thiên Chúa như mẫu người chúng ta.

Nơi trần gian này, hành động của chúng ta đối với các sự vật rất là hạn chế và mau qua. Chúng ta tạo nên một đồ vật, chúng ta xây dựng một ngôi nhà: từ nay những sự vật này hiện hữu tự chúng, ở ngoài ta và độc lập đối với ta. Cùng lắm, chúng ta phải canh giữ chúng, bảo trì chúng. Nhiều người cũng nghĩ như thế về vũ trụ vạn vật : sau khi được Thiên Chúa sáng tạo, vũ trụ sẽ hiện hữu tự nó, sẽ tự mình đứng vững dưới sự quan phòng và điều hành của Chúa.

Sự thật thì Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ từng giây phút. Ngài tạo thành nó không ngừng. Mỗi giây phút, Thiên Chúa luôn sáng tạo tỉ mỉ thế giới vạn vật làm nên vũ trụ này. Ngài tạo thành những vật vô cùng to lớn cũng như những vật vô cùng bé nhỏ. Nếu chúng ta nhìn vũ trụ vạn vật và công việc sáng tạo của Thiên Chúa theo cách này, chúng ta sẽ có một ý tưởng lành thánh và hữu ích dường nào ! Chúng ta sẽ thấy mình lệ thuộc vào Chúa hơn, nằm trong tay Ngài hơn. Chúng ta cũng dễ có tâm tình biết ơn và dễ tín thác trong tay Ngài, khi thấy mọi sự xung quanh ta đều chặt chẽ dưới quyền điều hành của Ngài. Nhất là chúng ta sẽ trọn vẹn sống tín thác một cách thanh thản trong bàn tay Cha chúng ta ở trên trời, đầy quyền năng và đầy tình thương.

Nhưng quyền năng vô cùng và uy linh của Thiên Chúa càng nổi bật hơn, khiến chúng ta yêu mến tôn thờ hơn, nếu chúng ta nhớ rằng Ngài đã sáng tạo muôn ngàn thế giới đó chỉ bằng một tư tưởng của Ngài, một tư tưởng yêu thương. Thiên Chúa nghĩ tưởng và yêu thương muôn loài muôn vật, và chính tư tưởng đó đã ban hiện hữu cho muôn loài muôn vật. Ngài nghĩ tưởng đến các hoa cỏ ngoài đồng, và những bông hoa vạn sắc trên các núi đồi, ở nơi các thung lũng, và tư tưởng đó của Ngài đã ban hiện hữu cho chúng. Ngài đã nghĩ tưởng đến mỗi loài hoa, dầu là những loài nhỏ mọn nhất, với tất cả các mầu sắc và những dị chủng của chúng, với từng chi tiết của các đài hoa, cánh hoa, nhị hoa v.v… Ngài đã âu yếm nghĩ tưởng tới những con sâu bọ và côn trùng li ti, cũng như Ngài đã âu yếm nghĩ tưởng tới những loài thú hùng mạnh như voi, sư tử và hùm beo. Tư tưởng của Ngài đã tạo thành chúng, ban cho chúng hiện hữu và môi trường sinh hoạt. Tư tưởng của Ngài đã sáng tạo nên loài sơn dương nhảy nhót trên những đỉnh núi cao chót vót, phủ đầy tuyết ngàn năm, cũng như muôn ngàn loài cá nơi các sông biển và các đại dương. Toàn thể vũ trụ bao la cùng với muôn loài muôn vật trong đó là sản phẩm của tư tưởng Ngài. Thiên Chúa nghĩ tưởng vũ trụ, và vũ trụ đã hiện hữu trước mặt Ngài.

Ôi ! Uy quyền vô cùng cao cả của Thiên Chúa chúng ta ! Lạy Chúa loài người chúng con chỉ là hư vô trước mặt Chúa. Không có so sánh nào có thể tưởng được, giữa tư tưởng của Chúa và tư tưởng của chúng con. Trước mặt Chúa, những bậc thông thái nhất và những nhà khoa học vĩ đại nhất loài người cũng không khác gì người ngu si đần độn. Họ sáng tạo được gì đâu ? Họ chỉ nhào nặn lại những sự vật mà Chúa đã sáng tạo nên. Họ giống như những họa sĩ tài giỏi, họa lại trên tấm vải của trí tưởng tượng họ những điều kỳ diệu, những cảnh vật làm say mê lòng người. Họ cũng giống như những thi sĩ đại tài sáng tác nên những vần thơ, với những cảnh vật hùng vĩ, và những diễn biến kinh thiên động địa. Nhưng tất cả chỉ là tưởng tượng, không có thật, không hiện hữu. Tư tưởng của loài người không có chi giống tư tưởng sáng tạo và toàn năng của Thiên Chúa.

Vâng, lạy Chúa, chỉ có tư tưởng của Chúa có sức sáng tạo, chỉ tư tưởng của Ngài tạo thành vũ trụ vạn vật. Với tư tưởng đầy yêu thương của Ngài, Ngài đã gọi chúng và ban cho chúng được hiện hữu. Chúa đã nghĩ tưởng và âu yếm gọi tới hiện hữu muôn triệu các ngôi sao trên trời, mà thật ra đó là muôn triệu những mặt trời đang chiếu sáng nơi muôn triệu thiên hà trong vũ trụ bao la. Chúa nghĩ tưởng muôn loài muôn vật trong vũ trụ, và chúng hiện hữu như ý Chúa muốn. Vâng, lạy Chúa, vũ trụ vạn vật là thành qủa của tư tưởng sáng tạo của Ngài, một tư tưởng toàn năng và đầy yêu thương. Ôi tư tưởng toàn năng và cao cả ! Ôi tư tưởng đáng tôn thờ ! Chúng con chỉ biết phủ phục trước uy quyền toàn năng và đầy yêu thương của Chúa.

Thiên Chúa hiện diện trong mỗi tạo vật, để bảo tồn nó và để tỏ bày cho ta thấy một vài vẻ tuyệt hảo của Ngài.

– Nhưng còn một điều kỳ diệu hơn, đáng suy gẫm hơn mà lại ít được hiểu biết. Đó là việc uy linh toàn năng của Thiên Chúa, tư tưởng toàn năng và đầy yêu thương của Chúa sáng tạo nên muôn loài muôn vật, ban cho chúng hiện hữu, nhưng không rời bỏ những tạo vật bé nhỏ và yếu ớt của Ngài, vì nếu không có sức trợ lực của Ngài, nếu không được Ngài bảo tồn, chúng sẽ lại rơi vào hư vô. Mỗi vật thọ tạo có sự hiện hữu của nó, nhưng sự hiện hữu của chúng hoàn toàn lệ thuộc vào quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Tư tưởng và sự khôn ngoan vô cùng của Ngài vẫn luôn hiện diện nơi mỗi tạo vật. Tư tưởng và tình thương của Chúa thấm nhuần tất cả bản thể của mỗi tạo vật. Mỗi tạo vật đều nhờ Ngài mà có và hiện hữu : Thiên Chúa vừa nội tại nơi vạn vật, vừa tuyệt đối siêu việt trên muôn vật muôn loài. Vạn vật luôn ở trong tư tưởng đầy uy quyền và đầy yêu thương của Ngài. Mỗi vật thọ tạo, bé nhỏ và yếu ớt, hoặc khổng lồ và dũng mãnh, đều được coi như nhà Tạm, nơi Chúa ẩn mình để chờ đợi chúng ta đến tôn thờ và yêu mến Ngài.

Đáng tiếc thay ! Rất ít người nghĩ đến điều này. Rất ít người ý thức về chân lý này. Lạy Chúa,Chúa không xa rời các tạo vật của Ngài, các công trình của Ngài. Chúa hiện diện nơi mọi tạo vật mà Chúa đã sáng tạo. Những bông hồng xinh tươi và tốt đẹp một cách lộng lẫy này : chúng vừa che khuất, vừa tỏ lộ Chúa. Chúa hiện diện nơi chúng, và có vẻ như Chúa nói với con rằng : “Con ơi ! Con xem Cha thương con dường nào ! Cha làm nên bông hồng xinh tươi này vì con. Cha luôn ở trong bông hồng này, và Cha nghĩ đến con. Cha tạo thành bông hồng thơm tho và xinh đẹp cho con vui, và để con nhớ đến Cha.” Rồi con ong vừa bay đến để hút nhụy của bông hồng : nó cũng vừa che khuất vừa tỏ bày Cha cho chúng con. Tư tưởng đầy quyền năng và tình thương của Thiên Chúa hiện diện trong con ong này, và trong bản năng kỳ diệu của nó, khiến nó làm nên mật ong ngọt ngào cho loài người hưởng thụ.

Được nhìn với tinh thần đức tin như thế, vũ trụ sẽ xuất hiện hoàn toàn đổi mới. Có thể nói một chiếc đũa thần đã biến đổi vũ trụ, mang đến cho nó một ánh sáng thần linh… Nó không còn là vũ trụ tầm thường của mọi khi nữa. Nó đã được biến đổi. Vũ trụ nay đã trở nên như đền thánh của Đấng tối cao. Vũ trụ vạn vật đầy sự hiện diện uy quyền và yêu thương của Chúa. Mọi vật đều nói lên quyền năng của Ngài. Có thể thấy vũ trụ vạn vật như miếng bọt biển, một miếng xốp chìm trong đại dương là tư tưởng đầy quyền năng và tình thương của Thiên Chúa…

Ồ ! Bây giờ mọi sự xung quanh tôi đều trở nên tốt đẹp, trong sạch, kỳ diệu ! Mọi sự đều là kỳ công của Thiên Chúa ! Tất cả mọi sự đều xuất phát từ Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự tốt lành. Không có gì là bất toàn, không có gì là hư hỏng. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao một số các thánh đã trịnh trọng cúi xuống hôn lên những bông hoa : các ngài muốn hôn Thiên Chúa hiện diện nơi những bông hoa đó. Và tôi đã hiểu tại sao thánh Phaolô thánh giá đã nói với vạn vật : “Thôi im đi, im đi ! Tôi hiểu rồi. Tôi không cầm mình được nữa. Tôi không thể chịu nữa những lời các bạn nói với tôi về tình thương của Chúa”.

Đây chính là tư tưởng có thể an ủi những linh hồn khao khát được gặp Chúa ở nơi lưu đày này. Thiên Chúa mà tôi hết lòng mến yêu, tôi hằng nghĩ tưởng tới, và khát khao nhìn thấy, nhưng tôi cũng biết là không thể nhìn thấy ở đời này, vậy mà Ngài lại đang hiện diện khắp đây đó xung quanh tôi. Vâng, Ngài đang vây bọc tôi, Ngài hiện diện nơi mọi vật xung quanh tôi, nơi những bông hoa, nơi những trái cây, nơi những con chim đang nhảy nhót trên cây kia, và cả nơi những con kiến đang bò dưới đất trước mặt tôi. Chúa yêu thương tôi vô cùng, Ngài tạo thành mọi sự vì yêu thương loài người chúng ta. Ngài vô hình, Ngài ẩn mình trong vũ trụ vạn vật, nhưng sự hiện diện của Ngài cũng rất tỏ tường cho những ai biết nhìn muôn loài muôn vật với con mắt của đức tin. Nhưng dầu sao, Ngài vẫn ẩn hơn là hiện cho tới ngày con mắt linh hồn tôi mở ra, và tôi được mặt đối mặt Ngài trên trời…

 Tôi cũng là bài thơ tình thương của Thiên Chúa : Ngài yêu thương tôi dường nào !
Bài học kết hiệp và tín thác
.

– Tôi đã quên rằng tôi ở trong bức họa vĩ đại của vũ trụ, do tư tưởng của Thiên Chúa tác tạo nên. Tôi à ? Tôi là gì ? Ồ, tôi cũng luôn ở trong tư tưởng của Thiên Chúa, luôn được Ngài ấp ủ. Thiên Chúa luôn ở trong tôi, Ngài luôn nghĩ tưởng đến tôi một cách đầy yêu thương. Hoạt động đầy tình thương của Ngài ban hiện hữu cho tôi và làm cho tôi sống. Nhờ tư tưởng của Ngài tôi hiện hữu, tôi ngủ, tôi suy tưởng, tôi cầu nguyện, tôi yêu mến. Nhờ tư tưởng của Ngài, tôi làm việc và tôi lớn lên. Tôi là một tư tưởng của Ngài. Hơn bất cứ sự vật nào khác, tôi là tư tưởng của Ngài, là bài thơ tình thương của Ngài, là sản phẩm của trí khôn ngoan vô cùng của Ngài. Mỗi giây phút, tôi là một cái gì đó của tư tưởng vô cùng quyền năng và yêu thương của Ngài.

Ôi ! Chúa nghĩ tưởng đến tôi ! Ngài nghĩ đến tôi với biết bao tình thương ! Ôi, tư tưởng mến yêu đã tác tạo nên tôi, đã sinh ra tôi. “Trong Ngài chúng ta sống, chúng ta hoạt động và hiện hữu” (Cv 17,28). Đó là lý do rất tốt để tôi luôn sống kết hiệp với Ngài, luôn nhớ mình ở trước mặt Ngài, đừng bao giờ để tâm theo đuổi một sự vật nào khác, nhưng luôn say mến qùi dưới chân Ngài như chị Maria thành Bêtania xưa.

Như vậy, này tôi thấy mình đã được biến đổi. Phải chăng chính bản thân tôi là tư tưởng của Thiên Chúa, là sản phẩm của tư tưởng Ngài ? Tôi tốt đẹp bằng chính sự tốt đẹp thần linh của Chúa, được ánh sáng muôn đời của Ngài chiếu soi và làm cho trở nên xinh đẹp. Nhưng ở đời này, tôi không bao giờ hiểu được sự tốt đẹp này. Tuy vậy tôi tin tôi là sự tốt đẹp xuất phát từ sự tốt đẹp vô cùng của Chúa, xuất phát từ tư tưởng thần linh của Ngài.

Đáng tiếc thay và đáng buồn thay ! Tôi là một tấm gương phản ảnh vẻ tốt đẹp vô cùng của Chúa, nhưng là một tấm gương qúa mờ ! Tôi là một biểu lộ của tư tưởng Thiên Chúa, nhưng tôi là một biểu lộ không tinh tuyền ! Các con vật, các bông hoa, các loài cây, vạn vật chung quanh tôi là những vật không có lý trí, chúng thực hiện tư tưởng của Chúa cách tuyệt hảo, trọn vẹn theo thánh ý Ngài, không chống lại chút nào. Còn tôi thì không vậy, tôi phải thành thực thú nhận như thế. Đối với sự sống vật chất của tôi, sự sống thực vật và động vật của tôi, tôi thực hiện đầy đủ và trọn vẹn tư tưởng của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa cũng nghĩ tưởng đến tôi như một con người, nghĩa là một con vật có lý trí. Ngài dành cho tôi sự tự do là biệt hiệu của con người. Và đây là chỗ huyền nhiệm và cao qúi của con người. Nhưng đây cũng là chỗ tôi có thể tự gây tai họa cho mình, bằng cách dùng sự tự do của mình để đi trệch ra khỏi tư tưởng đầy yêu thương của Chúa. Tôi có thể đi đúng theo tư tưởng của Chúa, theo sự hướng dẫn của Ngài. Nhưng tôi cũng có thể rút mình ra khỏi sự hướng dẫn của ơn soi sáng của Ngài, để đi theo một hướng khác. Như một mầu sơn xấu, tôi có thể không theo ngón tay của người hoạ sĩ. Như một miếng cẩm thạch xấu, tôi chống lại bàn tay của người nghệ sĩ. Tuy nhiên, theo lòng nhân từ vô hạn và sự nhẫn nại vô cùng của Ngài, mỗi lúc Thiên Chúa vẫn sửa dạy tôi, tái tạo tôi. Ngài vẫn nghĩ tưởng đến tôi, cả trong việc tôi sử dụng không tốt sự tự do của tôi, và Ngài tiếp tục tạo thành tôi theo tình thương và sự khôn ngoan vô cùng của Ngài.

Có thể chúng ta đã xem thấy người thợ thổi thủy tinh nghệ thuật : dưới những ngón tay khéo léo của anh ta, khối thuỷ tinh lỏng sền sệt kia biến thành một chiếc bình xinh đẹp, với bao nhiêu là mầu sắc lạ lùng. Người thợ đó đã thực hiện tư tưởng của mình. Một cách vất vả, người đó bắt chước Hóa công một cách nào đó, nhưng Thiên Chúa tạo thành vũ trụ vạn vật bằng chính tư tưởng của Ngài, không có hành động nào khác. Tiếp tục nhìn người thợ thổi thủy tinh, ta thấy đôi khi chất liệu không tốt, đồ vật người đó muốn tạo thành đã không thành : vì chất liệu xấu, chiếc bình đã nổ tung trước khi thành hình, hoặc thành những chiếc bình xấu xí. Người thợ lại bỏ vào lò nấu lại, rồi lại cố gắng thực hiện.

Ôi ! Các vật xung quanh tôi xinh đẹp dường nào! Chúng là thành quả của tư tưởng Thiên Chúa. Những thành qủa này thực hiện đúng theo tư tưởng của Thiên Chúa. Những sản phẩm này làm Thiên Chúa hài lòng, vì chúng là hình ảnh hết sức trung thành của tư tưởng đầy quyền năng và tình thương của Ngài. Cho nên đôi khi người ta đâm ra ước ao được như chúng và có thể người ta thầm nghĩ : “Ước gì tôi là một bông hoa, để chỉ là tư tưởng của Thiên Chúa và trọn vẹn là tư tưởng của Ngài”.

Bây giờ tôi đã hiểu biết hơn về hành động đầy tình thương và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, tôi có tin tưởng hơn và tín thác trọn vẹn cho hành động thần linh của Ngài không ? Tôi có biết kính phục và mến yêu vâng theo những ơn soi sáng của Chúa không ? Tôi có cố gắng cộng tác và kết hiệp với mọi hành vi của Chúa không ? Nhất là tôi sẽ hết sức cố gắng tránh mọi sự cưỡng lại ơn soi sáng, tránh mọi tội lỗi, dầu hết sức nhỏ mọn, để đừng phá hỏng chương trình của Chúa ở trong tôi.

Hơn bất cứ tạo vật nào khác, là con người, tôi đã hiểu mình là thành qủa của tư tưởng đầy quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, cho nên tôi sẽ mở rộng tâm hồn để đón nhận tình thương của Chúa, và sẽ sống trọn vẹn tín thác nơi hành động đầy tình thương và thương xót của Ngài.

Nếu chúng ta biết nhìn vũ trụ vạn vật với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy chúng là sự thực hiện tư tưởng của Ngài. Ngài đã tạo thành chúng bằng tư tưởng đầy uy quyền của Ngài. Chúng ta thấy vạn vật rất dễ thương, rất xinh đẹp. Mà thật sự vạn vật xinh đẹp và dễ thương, vì chúng là tác phẩm của tư tưởng đầy tình thương của Thiên Chúa. Các hoạ sĩ, các nhà điêu khắc, các nhạc sĩ, các thi sĩ đều say sưa nhìn ngắm những tác phẩm nghệ thuật mà họ đã thực hiện được. Thiên Chúa cũng vui sướng nhìn ngắm vũ trụ vạn vật xinh tươi mà Ngài đã sáng tạo. “Thiên Chúa nhìn xem vạn vật Ngài đã tác thành và thấy chúng rất là tốt đẹp” (St 1,31).

Thiên Chúa là người nghệ sĩ tuyệt hảo, Ngài chẳng qúi mến và yêu thương những kỳ công Ngài đã thực hiện sao ? Ngài yêu thương vạn vật và từng sự vật Ngài đã tác thành. Ngài yêu thương chúng bằng một tình thương vượt qúa sức hiểu biết của chúng ta. Ngài soi mình trên chúng và hài lòng vì chúng phản ảnh vẻ tốt lành của Ngài. Đúng thế, chúng phản ảnh vẻ đẹp, sự khôn ngoan, vẻ dễ thương và quyền năng của Ngài. Ngài yêu thích tất cả mọi lời của bài thơ vũ trụ của Ngài. Ngài yêu thích tất cả mọi nốt nhạc của bản giao hưởng kỳ diệu là lịch sử thế giới đang diễn ra dưới sự điều khiển của Ngài. Ngài yêu thương vũ trụ vạn vật, và yêu thương lắm, yêu thương với tình thương mà Ngài tự yêu mến mình và yêu thương mọi vật do tay Ngài tác thành. Sách Thánh nói : “Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi công trình của tay Ngài”.

Nhưng nếu Thiên Chúa yêu thương các công trình của Ngài, các công trình được coi là thần linh vì do bàn tay Ngài làm nên, thì Ngài đặc biệt yêu thương con người là kỳ công kiệt tác của Ngài. Hơn bất cứ loài thọ tạo nào khác, con người nói lên cách đầy đủ nhất về quyền năng và tình thương của Đấng Tạo Hóa. Linh hồn con người là hình ảnh gần gũi nhất và trung thực nhất của tính thiêng liêng và hằng hữu của Thiên Chúa. Bởi vậy Thánh Kinh đã có lời rằng : “ Vui sướng của Ta là ở với con cái loài người” (Cn 8,31). Ai nói lên được tình thương khiến Ngài nhìn theo tôi đêm ngày ? Làm sao hiểu được tình thương bao la Ngài dành cho tôi là hình ảnh bé nhỏ của Ngài ? Ôi ! Nếu tôi hiểu được phần nào tình thương Ngài dành cho tôi, vì tôi là hình ảnh của Ngài và được Ngài nhận làm con, thì tâm hồn tôi sẽ tràn ngập mến thương, tràn ngập bình an và tràn ngập tín thác. Khi đó tôi sẽ không còn thấy mình là một tạo vật xấu xí, đầy những tội lỗi và khốn nạn, cho nên nhiều lúc, mặc dầu tự ái, tôi cũng thấy mình sao mà đáng chán ghét thế. Trái lại, dầu nhận biết mình còn nhiều sự khốn nạn, tôi sẽ thấy mình là con của Thiên Chúa, là đứa con của tư tưởng đầy quyền uy và tình thương của Thiên Chúa, và như vậy tôi là viên ngọc qúi của công trình sáng tạo của Ngài. Tôi sẽ cảm thấy mình là đối tượng của tình thương bao la của Thiên Chúa : Ngài không bao giờ rời xa công trình qúi yêu của Ngài. Ngài cảm thấy vui sướng được ngự trị trong linh hồn nó.

Chắc chắn các tội lỗi của tôi rất đáng ghét, nhất là trước mắt của Thiên Chúa. Những sự khốn nạn về luân lý của tôi cũng rất là xấu xa. Nhưng sự pha trộn những vẻ đẹp thần linh mà Chúa tạo nên trong tôi, cùng với những sự gớm ghét mà tôi tạo nên do việc không sử dụng tốt sự tự do của tôi, đã không ảnh hưởng gì đến tình thương Chúa dành cho tôi. Trái lại Ngài càng thương hại tôi, một sự cảm thương mà ta chỉ thấy nơi Thiên Chúa vô cùng nhân hậu và thương xót. Đó là một sự thương hại vô cùng nhân từ, khiến tôi càng thêm tín thác nơi Ngài.

Ôi, lạy Thiên Chúa của con, trước đây con ít biết mình qúa ! Chưa bao giờ con tự nhìn mình dưới ánh sáng thần linh này. Xin Chúa làm cho con hiểu mỗi ngày mỗi thấm thía hơn ý nghĩa của sự là một vật thọ tạo của Chúa. Xin cho con được hiểu như các thánh, hoặc chỉ một phần như các thánh, về tình thương Chúa dành cho các tạo vật của Ngài, tức là các công trình của Ngài. Ôi ! Nếu con chỉ hiểu được một phần như các thánh về tình thương Chúa dành cho con người, Chúa dành cho con đây, chắc một luồng ánh sáng diệu huyền và mạnh mẽ sẽ chiếu dọi vào linh hồn con và biến đổi con người con !

Các thánh và những linh hồn trong sạch và sốt mến thường được Chúa ban ơn không những cảm nghiệm thấy Chúa hiện diện ở trong họ, mà còn cảm thấy Chúa hành động ở trong họ nữa. Đôi khi họ cảm thấy, sung sướng cảm thấy mình là tạo vật hình thành dưới bàn tay thần linh của Chúa. Ôi cảm nghiệm diễm phúc khôn tả ! Nếu nhận thức về sự hiện diện và hành động của Chúa ở trong ta đã làm cho chúng ta được an ủi và trở nên mạnh mẽ tín thác, thì cảm nghiệm thần bí này sẽ giúp ta tiến tới trên đường nên thánh dường nào ! Khi đó linh hồn sẽ chỉ có một ước nguyện là ra khỏi bản thân mình để hiến toàn thân cho Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện và đầy lòng yêu thương, để Ngài tác tạo ta theo tư tưởng đầy khôn ngoan và yêu thương của Ngài.

Chúa cũng nghĩ tưởng tôi trong lãnh vực siêu nhiên.

– Có thể lên cao hơn nữa chăng ? Xem ra không thể. Tuy nhiên vẫn còn một bậc phải leo lên. Sự cao trọng của con người còn lớn hơn thế. Trên đây chúng ta mới chỉ xét đến con người như kỳ công kiệt tác của Thiên Chúa trong vũ trụ vạn vật, trong lĩnh vực tự nhiên. Nhưng Thiên Chúa còn nghĩ tưởng và sáng tạo con người trong lãnh vực siêu nhiên nữa. Trong lãnh vực tự nhiên, ta đã thấy mọi vật đều là thành qủa và biểu hiệu của tư tưởng Ngài. Mọi vật đều nói lên quyền năng và tình thương của Ngài. Nhưng đó chỉ là một biểu hiệu xa xôi của Thiên Chúa. Đó là tư tưởng của Thiên Chúa, nhưng thuộc một lãnh vực rất thấp của Ngài. Chúng ta là tư tưởng của Thiên Chúa, giống hình ảnh Ngài, nhưng là những hình ảnh trong bóng tối, thiếu hẳn những mầu sắc xinh đẹp thần linh của Ngài.

Với ân sủng thánh hóa và các nhân đức siêu nhiên đi kèm, rồi với những ân sủng hành động để nuôi dưỡng sự sống siêu nhiên, Thiên Chúa đã nghĩ tưởng và tác thành con người một cách vô cùng cao quí hơn. Ở đây, chúng ta cũng là hoa trái của tư tưởng thần linh, nhưng là trong chính lãnh vực thần linh của Chúa. Thiên Chúa nghĩ tưởng và tạo thành chúng ta, không như những tôi mọi, nhưng như những nghĩa tử của Chúa, những người con của Ngài, đáng được cùng Ngài hưởng vinh phúc muôn đời. Ngài nghĩ tưởng chúng ta có sự sống thần linh của Ngài, với vẻ đẹp của những con cái Chúa: linh hồn ta, với những tài năng của tâm trí tự nhiên, được coi là báu vật trong vũ trụ, nhưng không là gì hết so với chức phẩm là con cái Chúa. Sự sống siêu nhiên làm cho con người vượt lên cao, cách xa vạn vật trong vũ trụ muôn trùng. Đây là một sự cách xa vượt bậc.

Vẻ đẹp kỳ diệu mà ân sủng thánh hóa mang lại cho linh hồn ta, làm cho nó trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, chính là một tước hiệu mới để Thiên Chúa yêu thương ta vô cùng, và để ta sống tín thác nơi Ngài. Nếu Thiên Chúa yêu thương mỗi tạo vật của Ngài, vì chúng là những tư tưởng của Ngài, dầu chúng vô tri vô giác, và nếu Ngài yêu thương con người, vì nó là kỳ công kiệt tác trong việc sáng tạo của Ngài, dầu nó chưa được Ngài ban cho ơn thánh hóa để trở thành nghĩa tử của Ngài, thì phương chi Ngài sẽ hết lòng yêu dấu và chăm lo cho con người khi nó đã trở thành con cái Ngài trong ân sủng. Ngài âu yếm và chăm lo cho các linh hồn sống trong ân sủng, vì đời sống trong ân sủng là sự sống Thần Linh, sự sống mà Thiên Chúa chia sẻ cho con người. Sự sống trong ân sủng là khởi đầu cuộc sống vĩnh cửu trên trời.

Thiên Chúa âu yếm nhìn các linh hồn này như những người con của Ngài, những kitô khác, những kẻ được thừa hưởng nước trời. Ngài yêu quí mỗi linh hồn này hơn cả vũ trụ vạn vật, vì các linh hồn này sẽ được yêu mến và ca tụng Ngài muôn đời. Cho nên Ngài luôn sẵn sàng làm mọi sự để cứu vớt họ khỏi tội lỗi, để an toàn đưa họ về quê trời.

Có thể đôi khi tôi cảm thấy như mình chiến đấu một mình trên con đường nên thánh. Có thể tôi sẽ nhiều lần có cảm tưởng rõ rệt là mình hành động đơn độc, Thiên Chúa không trợ lực tôi trong những lúc gian nguy, trong những khi tôi vất vả nỗ lực. Xem ra như Thiên Chúa hẹp hòi, không sẵn sàng ban ơn giúp sức cho tôi. Chính những lúc đó, tôi phải nghĩ đến tình thương khôn tả Ngài dành cho tôi, tạo vật bé nhỏ đã được Ngài yêu thương nâng lên làm con của Ngài trong cuộc sống siêu nhiên. Tư tưởng này sẽ giúp tôi lấy lại sự bình an và niềm tín thác cho linh hồn rối bời của tôi, và nhắc cho tôi ý thức rằng tôi là con yêu dấu của Chúa, được Ngài yêu thương và chăm lo hết tình.

II.  TÔI CŨNG LÀ BÀI THƠ TÌNH YÊU CỦA CHÚA GIÊSU: TRONG TÔI VÀ NHỜ TÔI, CHÚA GIÊSU TỎ BÀY LÒNG MẾN YÊU CHA NGÀI.

–   VÀ CHÚA CHA YÊU THƯƠNG ĐÁP LẠI TÔI DƯỜNG NÀO ! LINH HỒN TÔI PHẢI VUI MỪNG VÀ TÍN THÁC DƯỜNG NÀO !

Tôi cũng là bài thơ tình yêu của Chúa Giêsu : Trong tôi và nhờ tôi, Chúa Giêsu tỏ bày lòng mến yêu Cha Ngài.

– Trên đây, chúng ta mới chỉ nói về linh hồn con người, xét như nó được nghĩ tưởng và tạo thành bởi Thiên Chúa Ba Ngôi. Bây giờ phải nói mấy lời về linh hồn ta, xét như nó được nghĩ tưởng và tạo thành bởi Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời làm người. Điều này sẽ càng làm rõ sự cao trọng của linh hồn ta và tình thương của Thiên Chúa dành cho nó.[1]

Cũng như do tư tưởng sáng tạo của Thiên Chúa mà tôi được tạo thành, thì cũng do tư tưởng đầy quyền năng và yêu thương của Chúa Giêsu Kitô mà tôi hiện hữu đây. Từng giây phút, Ngài nghĩ tưởng ra tôi. Tôi là thành phần của vũ trụ vạn vật, công trình bao la của tư tưởng Ngài dùng để tôn vinh Cha Ngài. Là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Ngôi Lời Khôn ngoan vô cùng, Ngài nghĩ tưởng và ban sự hiện hữu cho tôi. Là Ngôi Lời làm người, Ngài là Chúa Cứu Thế và Đấng Cứu Chuộc loài người, Ngài là Alpha và Omêga, Ngài tôn vinh Cha Ngài, Ngài ban cho tôi sự sống siêu nhiên để trở thành con Thiên Chúa như Ngài, và để Ngài dùng tôi mà yêu mến và tôn vinh Cha Ngài. Vạn vật trong vũ trụ cũng như con người vẫn ở trong tay Ngài từ hồi nguyên thủy, và sẽ mãi mãi ở trong tay Ngài, để Ngài dùng làm phương tiện tôn vinh Cha Chí ái của Ngài. Vũ trụ vạn vật đã được tạo thành vì cùng đích này. Mỗi tạo vật là một lời trong bài thơ bao la này, đó cũng là bài thánh thi tình yêu mà Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người luôn hát lên để tỏ lòng mến yêu Cha Ngài. Nhất là con người và nhất là các chi thể mầu nhiệm của Nhiệm Thể Ngài, được kết hiệp với Ngài trong sự sống thần linh, là phần đặc sắc của bài thơ đó.

Vậy tôi, nhất là tôi cũng là bài thơ tình mến yêu của Chúa Giêsu, là sự tỏ bày của lòng mến yêu nồng nàn đó. Ngài dùng tôi từng giây phút để tỏ bày lòng mến yêu Cha Ngài trên mặt đất này bây giờ, cũng như xưa khi Ngài còn sống tại Nazareth. Tôi là một bông hoa sống động của lòng mến yêu… một bông hoa Ngài luôn luôn nghĩ tưởng và muốn cho hiện hữu để làm vui lòng Cha Ngài. Mỗi giây phút, nhờ tôi, Chúa Giêsu tự hiến thân cho Cha Ngài với biết bao yêu mến…

Là một tạo vật bé nhỏ, đầy những khuyết điểm, lại bị làm xấu đi bởi tội lỗi, tôi vẫn được Thiên Chúa cho là đẹp, bởi vì tôi là hình ảnh Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Ngài. Tôi là sự bày tỏ không ngừng lòng mến yêu của Chúa Giêsu đối với Cha Ngài. Ý nghĩ này sẽ mang lại cho tôi một sự bình an khoái trá biết bao ! Và ý nghĩ này sẽ giúp trái tim tôi cởi mở, sống tín thác trong mến yêu và thanh thản. Mặc dầu những sự yếu đuối và những khiếm khuyết của tôi, tôi vẫn là biểu hiệu của lòng mến yêu bao la của Chúa Giêsu đối với Cha Ngài. Bởi vậy tôi tin rằng Chúa Cha yêu thương tôi lắm, vì tôi đã được biến đổi, được tắm gội trong ánh sáng và hồng ân của Chúa Giêsu.

Chúa Cha thương yêu lại tôi dường nào ! Tôi phải vui mừng và tín thác hết lòng.

– Có thể đây là điều tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Ồ! Không bao giờ tôi hiểu được Chúa Cha đã nhìn tôi cách âu yếm dường nào, bởi vì Ngài nhìn thấy nơi tôi Con Một chí ái của Ngài, đối tượng của tình mến thương vô cùng của Ngài. Ngài yêu thương như chỉ mình Thiên Chúa có thể yêu thương : Ngài yêu thương tôi vì tôi là sự bày tỏ lòng mến yêu của Chúa Giêsu Con Ngài đối với Ngài. Ngài yêu thích ngọn lửa mến yêu của Con Ngài ở trong tôi. Luôn luôn Ngài nhìn thấy Giêsu Con Ngài yêu mến Ngài ở trong tôi, và hiến thân cho Ngài ở trong tôi, và đáp lại, Ngài yêu thương Con Ngài ở trong tôi. Ngài thương yêu tôi, nghĩa là Ngài yêu thương Giêsu Con Ngài ở trong tôi, yêu thương vô cùng. Ngài nhìn thấy trong tôi tất cả mọi chi tiết của bài thơ tình yêu của Con Ngài. Ngài nhìn thấy máu và công nghiệp của Con Ngài mà tôi lãnh nhận nơi các bí tích, lễ hy sinh của Con Ngài mà tôi tham dự mọi ngày trong Thánh Lễ. Ngài nhìn thấy tất cả mọi ơn soi sáng, mọi ân sủng mà Chúa Giêsu đã dùng để thánh hóa tôi, hầu làm vinh danh Thiên Chúa. Tóm lại, bài thơ này nói lên tất cả hoạt động đầy yêu thương của Chúa Giêsu, để biến tôi thành đối tượng của tình thương Thiên Chúa.

Ôi, trước đây tôi biết mình qúa ít dường nào ! Tôi chưa nhận ra tất cả những gì là thần linh ở trong tôi. Tôi đã chỉ nhìn, hầu như chỉ nhìn thấy khía cạnh nhân bản ở trong tôi, nghĩa là phương diện con người, phương diện tự nhiên của tôi. Bởi vậy tôi đã thấy mình xấu xí, ích kỷ, chỉ đáng coi là đối tượng kinh tởm cho Thiên Chúa chí thánh. Cũng bởi vậy linh hồn tôi cảm thấy ngộp thở trong bầu không khí của sự mất tin tưởng và của sự sợ hãi lo âu.

Bây giờ tôi mới nhận ra mình một chút. Tôi thấy mình ở trong một bầu khí trong lành và đầy sức sống của tình thương Thiên Chúa, tình thương bao la mà, mặc dầu những sự khốn nạn của tôi, Ngài vẫn dành cho tôi, vì Chúa Giêsu, Con chí ái của Ngài, đang sống trong tôi.

Tôi thật là một tạo vật nhỏ bé diễm phúc ! Tôi vô cùng có phúc nhờ sự kết hiệp với Chúa Giêsu : chính nhờ sự kết hiệp này, nhờ sự Chúa Giêsu sống trong tôi, và tôn thờ yêu mến Chúa Cha ở trong tôi, nên Thiên Chúa nhìn xuống tôi như nhìn Con chí ái của Ngài. Bởi vậy dầu mây mù, dầu mưa to và gió bão của đời sống con người tôi, mặt trời của đức ái vô cùng của Thiên Chúa vẫn giãi ánh sáng dịu hiền của Ngài trên tôi. Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương tôi trong tình thương vô cùng Ngài yêu thương Chúa Giêsu Con của Ngài.

Vậy hỡi linh hồn tôi, hãy sống tín thác, tín thác và luôn luôn tín thác, cả khi mọi sự xem ra đen tối, bởi vì mi không sống một mình. Dưới mắt Thiên Chúa, mi sống trong Chúa Giêsu và Chúa Giêsu sống trong mi. Ngài sống trong mi, hoạt động trong mi và nhờ mi mà yêu mến Cha Ngài. Như vậy Chúa Cha yêu thương mi, và Ngài sẵn sàng ban mọi ơn cho mi, để đáp lại lòng mến yêu mà Chúa Giêsu đã tỏ bày đối với Ngài ở trong mi, miễn là mi luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu luôn luôn thờ lạy và yêu mến Cha Ngài ở trong mi, và cũng luôn luôn Chúa Cha đáp lại lòng mến yêu vô cùng của Con Ngài bằng cách ban nhiều ân sủng cho mi, để những nỗ lực của Chúa Giêsu trong việc thánh hóa mi được thành tựu.

Vậy, hỡi linh hồn tôi, hãy tin tưởng tín thác và nhất là hãy chăm lo bồi dưỡng sự kết hiệp với Chúa Giêsu. Hãy ngoan ngoãn vâng theo mọi ơn soi sáng của Ngài ! Đừng tìm kiếm niềm vui nào khác, đừng có lo toan nào khác ngoài việc chân thành cộng tác với hoạt động đầy yêu thương của Chúa Giêsu ở trong mi : Ngài sống ở trong mi để tôn thờ và yêu mến Cha Ngài.

Hãy tránh xa mọi tội lỗi, tránh xa các lỗi phạm cố tình. Tội lỗi và những thiếu sót của mi sẽ là những nốt nhạc ngang cung trong bản hòa tấu tình yêu của Chúa. Khi lỗi phạm như thế, mi từ chối cộng tác vào bản thánh thi mà Chúa Giêsu dâng lên Cha Ngài. Mi từ chối tôn vinh Thiên Chúa. Mi muốn tự tôn vinh mình, mi muốn yêu mình mà thôi ! Khi đó tâm tình mi chỉ là tiếng kêu đáng ghét của lòng tự ái…

Vậy mi hãy cảnh giác để tránh xa mọi tâm tình và mọi tư tưởng tự ái và ích kỷ. Hãy mặc lấy những tâm tình thánh thiện của Chúa Giêsu, hãy cộng tác với các hoạt động thần linh của Ngài. Không gì tốt đẹp hơn, không gì cao quí hơn, không gì hạnh phúc hơn sống kết hiệp với Chúa Giêsu, để Ngài chiếm đoạt trái tim ta và sống đầy đủ ở trong ta. Đời sống của ta sẽ là như cuộc sống trên trời.

Ước chi cuộc sống của tôi là ngọn lửa yêu mến của đức ái Chúa Giêsu ! Ước chi cuộc sống của tôi trở thành bài thánh thi Chúa Giêsu dùng để tôn vinh và yêu mến Cha Ngài ! Ước chi tôi luôn sống kết hiệp với Chúa Giêsu bằng việc vâng theo mọi ơn soi sáng của Ngài ! … Cuộc sống của tôi sẽ là an vui… bình an… và tín thác trọn vẹn !

 

[1] Kinh tin kính dạy rằng : “Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô là Con một Đức Chúa Cha… Nhờ Ngài mà muôn vật được tạo thành”. Những dòng sau đây phải được hiểu theo hướng này.

Paul De Jaegher S.J.

TỰ DO TUYỆT ĐỐI

Bao lâu, chúng ta chưa thật sự sống trong sự hiện diện của Chúa, sống dưới ánh nhìn của Chúa, thì lúc bấy giờ, chúng ta sẽ vẫn cứ loay hoay với chính mình. Chúng ta tìm cách thoát khỏi những cảm xúc tiêu cực, bằng cách học quan sát chính mình để được bình an, nhưng, đó có phải là thứ bình an thật sự không, bởi vì, vẫn còn ẩn tàng một cái tôi là “người quan sát”, người quan sát giống như một chiếc neo, chiếc neo ấy được thả xuống để giữ con thuyền khỏi trôi dạt, nhưng, chính nó lại ngăn, không cho thuyền trôi ra biển lớn, nó trói buộc ta trong một bến cảng tưởng chừng yên bình, nhưng, thật ra, vẫn là đất liền của bản ngã, thế là, ta cứ ngồi đó, an ổn trong sự quan sát, mà chưa bao giờ biết được tự do tuyệt đối, ta giống như con chim nghĩ mình đã thoát lồng, nhưng thật ra, chỉ bay sang một chiếc lồng khác rộng hơn, sáng hơn, thoáng hơn mà thôi.

Chỉ khi nào, chúng ta không còn tin vào chính mình, không còn tin vào người quan sát, mà, chỉ tin vào Đấng Quan Sát, Đấng hiện diện nơi bí ẩn, thấu suốt những gì kín đáo, hằng dò xét và biết rõ ta, khi đó, ta mới thật sự tự do. Chúng ta hãy tưởng tượng: người quan sát là giọt sương, Đấng Quan Sát là đại dương, một giọt sương trước khi rơi vào đại dương, nó vẫn còn một biên giới riêng, một hình tướng riêng, nhưng, khi chạm vào đại dương, ranh giới ấy tan biến: không còn giọt sương riêng biệt, cũng không còn đại dương tách rời giọt sương, mà chỉ là nước mênh mông, không còn phân chia, khi đó, ta được nên một với Chúa, và được tự do như Chúa.

Khi cầu nguyện, ta có được một chút hiểu biết về Thiên Chúa, và thế là, ta liền gán cho hiểu biết ấy một cái tên: cái của tôi, và khi ấy, sự hiểu biết thuần khiết đã bị vẩn đục: chúng ta hãy hình dung ánh sáng mặt trời soi chiếu khắp muôn loài, ánh sáng ấy vốn không lựa chọn, không thiên vị, không dành riêng cho ai, nhưng, một chiếc gương nhỏ, trong khoảnh khắc phản chiếu ánh sáng, lại lầm tưởng rằng: ánh sáng này là của tôi, cũng vậy, khi ta vừa nhận ra sự hiểu biết Thiên Chúa, ta tưởng rằng mình đã có một năng lực siêu nhiên, đã là nhà thần bí. Chính cái khoảnh khắc tuyên bố “tôi đã thấy”, sự hiểu biết ấy đã bị bóp méo, nó không còn là bầu trời, mà chỉ là, một lỗ nhỏ trên vách, mở ra một mảnh trời bé nhỏ mà thôi.

Tự do tuyệt đối không đến từ việc ta đã đạt được điều này, hay đã từ bỏ điều kia, nó không đến như phần thưởng hay kết quả cho sự nỗ lực, nó đơn giản chỉ hiển lộ: khi cái tôi, kẻ luôn tính toán được mất, tan biến đi. Tự do tuyệt đối như hương hoa, tỏa ra khi hoa nở. Ngoài một mình Chúa, không ai điều khiển được nó, không ai chiếm hữu được nó, không ai có thể làm cho nó mất đi hay thêm vào, Chúa ban cách tự nhiên, khi không còn ai đó đứng ra để sở hữu, tự do ấy mới thật sự thuần khiết, cũng như bầu trời, nó chưa từng cần có điều kiện để rộng lớn, chỉ có mây che, ta mới tưởng rằng bầu trời tăm tối, nhưng, khi mây tan, ta mới thấy bầu trời vốn trong sáng, chưa từng bị mất đi, tự do tuyệt đối cũng vậy, nó chưa từng rời xa ta, chỉ bị che phủ bởi lớp mây mù của bản ngã, của ham muốn, của sợ hãi, do ta còn hoài nghi, chưa thật sự đặt hết niềm tin tưởng, cậy trông, tín thác vào Chúa.

Tóm lại, tự do tuyệt đối không phải là được làm tất cả những gì mình muốn, nhưng là, làm theo tất cả những gì Chúa muốn, bởi vì, mình muốn thì vẫn còn thuộc về bản ngã, và theo sau nó vẫn là ràng buộc. Tự do tuyệt đối là khi không còn bị trói buộc bởi bất kỳ ham muốn nào, bất kỳ nhu cầu chứng minh nào, bất kỳ một kết quả nào, đó là tự do không cần điều kiện, mà chỉ biết làm theo thánh ý Chúa mà thôi, khi ấy, ta có thể sống giữa đời thường, đối diện với những mất mát, nhưng, tất cả không thể trói buộc được ta, và mỗi khoảnh khắc của đời sống sẽ trở thành lời ca ngợi không ngừng dâng lên Thiên Chúa, ta sẽ như chiếc lá khô tự do tự tại tung bay theo làn gió Thánh Linh trong bầu trời ân sủng. Ước gì được như thế!

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.

Hạnh Phúc – Chương 3: Tình Yêu - 3. TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC

Có hai loại tình yêu: yêu để thoả mãn khoái lạc riêng mình hoặc yêu vì lợi ích kẻ khác; loại thứ nhất thuộc về tình yêu nhục thể, loại thứ hai thuộc về tình yêu thiêng liêng. Tình yêu nhục thể thì chỉ giúp ta biết được tha thể trong một giây phút được gọi là sinh học, còn tình yêu thiêng liêng thì giúp ta biết được người kia mọi lúc. Trong tình yêu nhục thể, hạnh phúc riêng mình thường được xem trọng hơn là lo lắng cho kẻ kia, còn trong tình yêu thiêng liêng thì lo cho kẻ kia lại là cơ hội giúp mình phụng sự.

Đã có thời gian, thế giới hiện đại này từng bị phỉnh gạt lừa dối khi gán cho tình yêu một ám ảnh mơ hồ nào đó nhan nhản trên các chương báo quảng cáo, phủ trùm lên các kỹ nghệ điện ảnh; các tay soạn kịch giật gân phải giải quyết các mối tình tay ba bằng cách cho một người tự sát, viết thành các tiểu thuyết bán thật chạy, mô tả tình yêu như là thứ hương quyến rũ mà các tay mơ không với tới được, là thứ tăng thêm “gia vị” cho tính hài hước của con người. Như thế tình yêu trở nên tầm thường đầy nhục cảm đến nỗi những kẻ thực sự yêu đương cũng hầu như ngại không dám dùng từ ngữ này. Giờ đây thì tình yêu lại được sử dụng hầu như duy nhất để diễn tả “phái này”, “phái nọ” chứ không phải diễn tả một nhân vị: diễn tả những hạch nội tiết chứ không phải ý chí, và được tập trung vào sinh vật học chứ không phải nhân cách học! Ngay cả khi thứ tình yêu đó được nguỵ trang thành sự mê mẩn thì chẳng qua chỉ là ước muốn gia tăng tính vị kỷ của riêng mình mà thôi.

Tình yêu nhân loại chỉ là phôi thai của tình yêu Thượng Đế. Người ta đã nhận thấy điều này manh nha từ Platon. Theo ông ta, mục đích của tình yêu là tạo nên bước khởi đầu giúp ta tiến đến tôn giáo. Platon mô tả thứ tình yêu dành cho những con người xinh đẹp được biến đổi thành thứ tình yêu dành cho các linh hồn tốt đẹp và rồi dành cho tình yêu công chính, yêu sự thiện và cuối cùng là yêu Thượng Đế, nguồn mạch của những thứ tình yêu đó. Vì thế, tình yêu nhục cảm chỉ là cây cầu chúng ta bước qua chứ không phải là trụ cột để ta dựa vào đó mà ngồi nghỉ; nó không phải là một phi trường mà là một phi cơ; nó phải luôn luôn dẫn ta đến một nơi chốn nào đó thẳng lên và cao hơn. Mọi thứ tình yêu nhục cảm đều khiếm khuyết cần được bổ túc kiện toàn cho sung mãn, bởi vì mọi tình yêu đều được ví như chuyến bay đi tìm Vĩnh Cửu. Nơi mọi hình thức tình yêu nhục cảm đều hàm ẩn lời mời gọi hướng tới tình yêu Thiên Chúa giống như mặt nước hồ phản chiếu ánh trăng. Chỉ có lý do duy nhất khiến con người yêu mến các tạo vật khác là bởi vì tình yêu ấy có thể dẫn họ đến tình yêu đấng Tạo Hoá. Tựa như thực phẩm là để nuôi xác thân, xác thân để phục vụ linh hồn. Vật chất phục vụ tinh thần thế nào thì xác thịt cũng phải hướng đến vĩnh cửu như thế. Đó là lý do tại sao người ta thường khám phá ngôn ngữ dành cho thần thánh ngay nơi ngôn ngữ tình yêu của con người chẳng hạn các từ như “Thờ phụng”, “Thiên thần”, “Tôn thờ”…

Đấng Cứu Thế đã không dập tắt các ngọn lửa hồng trong tim kiều nữ Mađalêna nhưng đã biến đổi các ngọn lửa ấy để chúng tìm được đối tượng mới để yêu thương. Lời tán dương Chúa dành cho người phụ nữ để dầu xức lên chân Đấng Cứu Thế của cô, nhắc cô luôn nhớ rằng tình yêu mà cô đã từng dành để tìm kiếm lạc thú cho riêng nó có thể biến đổi thành mối tình sẵn sàng chết cho kẻ mình yêu. Vì lẽ đó Ngài đã bàn luận đến việc an táng Ngài ngay lúc mà trong tâm trí cô nàng bừng dậy niềm khát khao sống mãnh liệt nhất.

Kế hoạch Thiên Chúa thường dùng là sử dụng tình yêu nhục thể làm bệ đá dẫn đến tình yêu Thiên Chúa, vì thế nơi một tâm hồn biết sống điều độ thì luôn luôn tình yêu nhục thể sẽ giảm dần theo thời gian để nhường bước cho tình yêu mang tính tôn giáo tăng lên. Đó là lý do tại sao trong các cuộc hôn nhân đích thực, đôi bạn sẽ ngày càng yêu mến Thiên Chúa hơn, điều này không có nghĩa là hai vợ chồng ít yêu nhau hơn mà chỉ có nghĩa là càng ngày họ càng yêu mến Chúa hơn. Tình yêu chuyển đổi từ khoái cảm ngoại hình đến những chiều kích nhân vị sâu thẳm nhuốm đầy thần khí.

Ít mà thấy được điều gì đẹp hơn nỗi đam mê mà một người đàn ông dành cho một phụ nữ từng cưu mang bầy con cái của ông như là hiện thân của chính tình yêu hai người, được biến thành “nỗi đam mê sâu sắc, trầm bình, không hoen ố” mà anh ta dành cho Thiên Chúa…

Gm. Fulton Sheen

Hạnh Phúc – Chương 3: Tình Yêu - 4. CÁC HẬU QUẢ DO THIẾU TÌNH YÊU GÂY RA

Đa số con người trên thế giới không được yêu thương. Một số không đáng yêu là do họ sống ích kỷ, một số khác thì không thấm đủ tinh thần Kitô giáo để yêu được những kẻ không yêu họ. Hậu quả là thế giới đầy dẫy những tâm hồn đơn côi. Ở đây chúng ta không bàn đến thứ tình yêu theo nghĩa lãng mạn hay nhục dục, mà chỉ bàn đến tình yêu trong ý nghĩa cao cả hơn liên quan đến lòng quảng đại thứ tha, tốt bụng và hy sinh. Có lẽ cần phải giúp cho một số người biết được một vài hậu quả tâm lý xảy đến do thiếu lòng mến yêu tha nhân một cách thực sự cao thượng và vô vị lợi.

Hậu quả thứ nhất là chúng ta sẽ không muốn đón nhận tình yêu bởi vì chúng ta xem sự quảng đại và yêu thương kẻ khác như là việc đáng ghét chưa kể là đáng thù nghịch. Chẳng bao giờ chúng ta muốn nói với bất cứ ai một điều gì cho tử tế. Bởi vì không được yêu nên con người cố gắng làm cho kẻ khác cũng chẳng đáng yêu. Tính tốt thì bị tiêu trừ, những động cơ đẹp nhất bị kể như là tồi nhất, người ta dần dà tin tưởng và quảng bá sự nói xấu lẫn nhau. Khi kẻ khác biểu lộ lòng tốt với mình thì mình lại nghĩ “chắc họ cầu mình gì đây?” Ngay cả quà tặng người ta biếu cho cũng bị ngờ vực và những lời kẻ khác khen ngợi dầu chân thành nhất cũng bị nghĩ là có hàm ý gì xấu xa. Bởi vì người ích kỷ rất khốn khổ nên họ tìm cách làm cho kẻ khác cũng khốn khổ lây. Chẳng bao giờ người ích kỷ thấy được chính họ là duyên cớ gây ra bất hạnh cho chính họ. Ai đó mới đáng trách chứ không phải họ. “Sở dĩ tôi va vào cái xe kia là vì sáng nay tại buổi điểm tâm anh đã làm cho tôi bực mình khi hỏi tôi về số tiền còn lại trong nhà băng. Tôi bị cảm lạnh vì anh đã không cho tôi tấm áo lông chồn như các bà vợ sĩ quan khác thường mặc”.

Và rồi sự thiếu vắng tình yêu sẽ mang lại nỗi thống khổ phức tạp giống như một nỗ lực bệnh hoạn nhằm kiếm chút thương hại, cảm thông khi tình yêu thực sự đã tan biến rồi. Bệnh “giả vờ” là một trong những ngón này. Bởi vì khoẻ mạnh thì chẳng được ai thương mến, người ta thường giả vờ bị thương tích để hy vọng sẽ được một ai đó băng bó vết thương cho mình. Cái “đau” trong tâm trí ở đây chính là sự mất mát tình yêu. Cái “đau” ấy chuyển di vào trong thân xác và trở nên bệnh tật. Giả như có thể dùng lời nói phát ra từ tim đen những kẻ như thế thì hẳn phải là những lời sau đây: “Tôi thực sự muốn khoẻ chứ. Nhưng nếu tôi đau ốm thì họ mới tỏ ra yêu thương tôi”. Y hệt như các cơn nhức đầu có thể phát sinh do ý muốn trốn tránh trách nhiệm, thì bệnh tật cũng có thể phát sinh từ ý muốn được kẻ khác yêu thương. Điều này đã xảy ra cho một số người nằm giường đẩy hằng bao nhiêu năm hoặc liệt chân không bước đi được. Cơn động đất ở San Francisco cho thấy hơn 30 người trước đó hơn suốt 20 năm trời không bước bộ được, thế mà đã đứng dậy và bước đi được khi cơn động đất xảy ra. Những kẻ này đúng ra bị tàn tật về tâm trí chứ nào phải về thể lý.

Một kiểu phản ứng khác thường thấy xảy ra nơi những người chấp nhận mình cần có tình yêu nhưng lại nói là: “Kể từ bây giờ, tôi quyết định không cần đến tình yêu thử xem!” Kết quả là những người này khai triển một thứ tinh thần độc lập giả tạo, rồi dần dà họ thường gây sự, đối chọi mọi ý kiến, mọi gợi ý mặc dù là tốt mấy đi nữa, họ phát triển nơi mình bản năng chống đối xã hội, chỗ có biển đề cấm hút thuốc thì họ lại lấy thuốc ra hút, chỗ cấm đậu xe thì lại đem xe đến đậu. Cứng cỏi, thô lỗ, hơi tàn bạo và hàm hồ nhiều khi chẳng qua chỉ là biểu lộ của sự trống trải thiếu vắng tình yêu.

Rõ ràng là xã hội ngày hôm nay nhấn mạnh nhiều đến sự an toàn, nguyên nhân chẳng qua chỉ vì thiếu vắng tình yêu. Các thế hệ trước người ta từng ao ước hạnh phúc và nhiều người đã từng sống hạnh phúc trong mối dây ràng buộc với gia đình và hôn nhân hoặc trong vòng tay tôn giáo. Giờ đây sự bất an về gia đình do vấn đề ly dị gây ra ngày càng gia tăng. Phải đem lại cho tình yêu hôn nhân sự vững bền bằng cách liên tục kiếm tìm sức mạnh và sự an toàn là những sự hợp tổ nho nhỏ dẫn đến hạnh phúc. Người thương gia cứ cắm đầu cắm cổ trong công việc và thường lưu lại trễ nơi phòng làm việc chứ không muốn về nhà sớm có thể đôi khi là để bù trừ cho sự thiếu vắng tình yêu trong gia đình. Hiện vài bác sĩ đang cho thấy một số bệnh ngoài da có liên quan đến các nguyên nhân tâm trí. Người ta cho rằng một số người sợ phải “đương đầu với cuộc sống” đến nỗi phát sinh những vết chàm trên da. “Tâm trí bị tì ố” hiện ra nơi “xác thân bị tì ố”. Dù y học có bằng cớ gì về quan điểm này đi nữa, thì quả thực chẳng có một nhóm phụ nữ nào xem ra có nước da giống các nữ tu. Đa số nữ tu chẳng bao giờ trông vào gương, tuy thế họ có được một vẻ đẹp khôn sánh mà nhiều kẻ khác không có, đó là vẻ đẹp do nơi lương tâm tốt lành và tâm hồn bình an.

Một phụ nữ biết đè nén lỗi lầm và biết tự nhủ: “Tôi là một con hủi về mặt luân lý” thì hẳn sẽ chấm dứt được cơn bệnh ngoài da một khi bà ta đã hoà giải với chồng mình.

Chỉ có tình yêu mới chữa lành được sự thiếu vắng tình yêu. Người đáng yêu thì luôn luôn sẽ được yêu và sẽ chẳng bao giờ có tình yêu cho kẻ không đáng yêu, trừ phi chúng ta bắt đầu yêu thương họ vì Chúa. Như thế chúng ta được mang trở về lại với tôn giáo và về với Thiên Chúa là Đấng mà bản chất của Ngài được Tân Ước định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.

Gm. Fulton Sheen

Niềm Tín Thác – Chương XIII: TÌNH THƯƠNG ĐẦY THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

I.  SỰ BAO LA CỦA TÌNH THƯƠNG ĐẦY THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA.

– CHÚA GIÊSU ĐÃ ĐẾN ĐỂ MẶC KHẢI CHO TA BIẾT VỀ TÌNH THƯƠNG BAO LA ĐÓ.

Sự bao la của tình thương đầy thương xót của Thiên Chúa.

– Khi duyệt qua một vài vẻ tuyệt hảo thần linh của Thiên Chúa, chúng ta đã khám phá ra những điều kỳ diệu. Cả những sự tốt lành thần linh mà thoạt xem, chúng ta cứ nghĩ là lạnh lùng, xa lạ, không có gì là dễ lôi kéo tâm tình, vậy mà những vẻ tốt lành đó đã xuất hiện trong một ánh sáng nồng ấm, khiến chúng ta sinh lòng tin tưởng và tín thác. Vậy sẽ nói gì về những sự tốt lành của Chúa thường gợi lên niềm an ủi và tin yêu, như lòng nhân hậu của Chúa, tình thương đầy thương xót của Chúa ? Ở đây Thiên Chúa không có vẻ gì là đáng sợ. Thiên Chúa đã bỏ đi tất cả những sấm sét của núi Sinai để đến với ta như một người Cha nhân từ.

Ngay ở trần gian này, nơi mà mọi sự đều mang một vẻ ít nhiều độc ác, nơi mà mọi ánh sáng đều có pha trộn bóng tối, mọi nhân đức đều còn vương những vết nhơ, vậy mà chúng ta vẫn gặp thấy những tâm hồn thánh thiện, đầy lòng bác ái, với những nụ cười hiền từ có thể băng bó mọi vết thương, những lời nói có thể cải hóa những con người tàn ác cứng lòng… Và chúng ta vẫn gặp thấy những người hiền lành thánh thiện với những cử chỉ vị tha khiến cả những kẻ bất lương phải cảm phục.

Bởi vậy khi ngước mắt nhìn lên cao, hướng về nguồn mạch mọi sự tốt lành, hướng lên lòng nhân hậu vô cùng của Thiên Chúa, nhìn lên tình thương bao la và đầy thương xót của Ngài, chúng ta thấy tâm hồn mình an vui và tin tưởng. Bên cạnh lòng nhân hậu vô cùng đó, mọi sự hiền hậu và dịu dàng của con người đều không đáng gọi là tốt lành, và bên cạnh tình thương đầy thương xót của Thiên Chúa, thì mọi tình thương của loài người sẽ chỉ là ích kỷ. A, nếu có thể gom lại tất cả mọi sự tốt lành dịu hiền của các bà mẹ, và nếu có thể gom lại tất cả tình yêu của các cặp vợ chồng, rồi đặt vào trái tim của một người, chắc trái tim đó sẽ có vẻ đáng yêu rất mực, và sẽ thu hút được lòng yêu mến của mọi người… Còn trái tim nào cứng cỏi và thô lỗ đến mức không bị chinh phục bởi những vẻ đáng quí đáng yêu của trái tim này chăng ?

Người ta sẽ nói đó là một ảo tưởng, một mơ mộng ! Nhưng không những đó không phải là một ảo tưởng, mà có một sự thật vô cùng tốt lành hơn. Có một Hữu thể vô cùng tốt lành và nhân hậu hơn thế, có tình thương vô cùng thương xót hơn sự tưởng tượng của ta : đó là Thiên Chúa vô cùng tốt lành và nhân hậu mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha chúng ta ở trên trời. Lòng nhân hậu của Ngài và sự dịu hiền của Ngài vượt xa mọi tưởng tượng của ta, và tình thương đầy thương xót của Ngài giống như một đại dương bao la không bờ bến… Lòng nhân hậu tốt lành vô cùng này, chúng ta thường nói tới như một điều trừu tượng và xa xôi, thật ra là một thực tại luôn bao bọc ta, yêu thương ta và chăm sóc cho ta. Từng giây phút, đêm cũng như ngày, Cha trên trời của chúng ta hằng yêu thương và chăm lo cho ta hơn một người mẹ dịu hiền nhất. Chúng ta đáng thương hại như những đứa con sống lưu đày trên mặt đất này, những đứa con vừa bị mù vừa bị điếc. Mù, chúng ta không thể nhìn qua tấm màn của các giác quan để thấy Cha trên trời luôn nhìn xuống, luôn cúi xuống để săn sóc phần hồn phần xác của chúng ta. Điếc, chúng ta không nghe thấy những lời vô cùng yêu thương và dịu dàng Ngài hằng nhắc bảo vào tai chúng ta. Và lòng khô cằn của chúng ta không cảm thấy những rạo rực của Cha trên trời thương ta và muốn ban muôn ngàn hồng ân cho ta. Ước chi mắt linh hồn chúng ta hé mở ra, để ta nhận ra những thực tại vô cùng quí mến này, những ơn phúc vô cùng quí trọng này ! Ước chi chúng ta biết cảm nhận một phần tình thương vô cùng của Thiên Chúa, để chúng ta đừng tiếp tục sống trong sự hững hờ và quên lãng này !

Hỡi linh hồn tôi ! Ít là mi, mi hãy tin hết sức mạnh mẽ vào lòng nhân hậu vô cùng, vào tình thương vô cùng thương xót của Thiên Chúa. Lòng nhân hậu và dịu hiền của Ngài vượt xa sự dịu hiền của những người mẹ tốt lành nhất, và tình thương đầy thương xót của Ngài vượt xa ngàn trùng tình thương của những cha mẹ tốt nhất đối với những đứa con dễ thương nhất, dầu chúng ta là những đứa con tội lỗi của Ngài. Mi hãy năng nghĩ đến lòng nhân hậu vô cùng dịu hiền của Chúa, hãy năng suy gẫm về tình thương vô cùng thương xót của Ngài, như người nghệ sĩ say mê lâu giờ nhìn ngắm đại dương bao la và kỳ diệu ! Không bao giờ mi có thể hiểu được sự tốt lành vô cùng của Chúa và tình thương bao la của Ngài…

Chúa Giêsu đã đến để mặc khải cho ta điều đó.

– Chúng ta có chắc là Thiên Chúa nhân hậu và vô cùng nhân hậu chăng ? Có thật là Thiên Chúa yêu thương ta và yêu thương ta vô cùng chăng? Phải chăng đó chỉ là một mơ ước, một điều tưởng tượng ? Chúng ta dễ thấy quyền năng, và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa. Chỉ cần nhìn vạn vật trên trái đất này, rồi nhìn ra vũ trụ vô cùng bao la với muôn ngàn tinh tú, tâm hồn chúng ta đã run lên vì kính sợ Đấng toàn năng. Chúng ta thấy trái đất mênh mông và kỳ diệu của chúng ta cũng chỉ là một hạt cát trong vũ trụ bao la, ngay cả thế giới bao la của chúng ta cũng chỉ là một hạt bụi trong tay Đấng đã tạo thành hàng tỉ thái dương hệ của chúng ta..

Nhưng làm sao tin được, làm sao biết được Thiên Chúa vô cùng nhân hậu, và thương yêu chúng ta vô cùng ? Xem ra sự tốt lành, lòng nhân hậu của Thiên Chúa đã không được ghi rõ trong cuốn sách của vũ trụ. Vạn vật không nói lên điều đó. Các vị hiền triết ngoại giáo đã không nhận ra điều đó. Trái lại, họ chỉ ý thức về quyền năng, về sự vĩ đại và cao siêu của Ngài. Họ cũng nói nhiều về sự công minh của Ngài, luôn sẵn sàng ra tay trừng trị những kẻ gian ác. Cho nên người ta phải kính sợ những sấm sét oán phạt của Ngài, hơn là chạy lại với Ngài như đàn con nhỏ.

Vấn đề Thiên Chúa toàn năng và thẩm phán công minh luôn ra tay trừng phạt, đã là một mầu nhiệm đè nặng trên nhân loại lâu đời. Ngay cả Thiên Chúa của Cựu Ước cũng là Thiên Chúa đáng kính sợ của núi Sinai. Thiên Chúa của sấm sét và mây mù. Dân của Chúa, dân Israel luôn sống trong kính sợ. Các tiên tri trong Thánh Kinh đã nhiều lần nói về tình thương của Chúa. “Thiên Chúa yêu thương mọi loài và không ghét bỏ vật nào trong các vật Ngài đã tạo thành” (Kn 11,25). Đôi khi Thiên Chúa đã dùng những lời rất mạnh mẽ để khẳng định tình thương của Ngài : “Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hoặc chẳng thương đứa con mình mang nặng đẻ đau ? Và cho dù nó có quên con nó đi nữa, Ta cũng không quên ngươi bao giờ” (Is 49,15). Nhưng những lời đó đã không thể trấn an dân Chúa, không xua đuổi được nỗi sợ hãi ngàn đời của loài người trước quyền năng và sự công thẳng của Thiên Chúa. Phải đợi chính Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Người Con hiền hậu và khiêm nhường, người Con chí ái của Thiên Chúa : chính Người Con đó mặc khải tình thương của Thiên Chúa đối với con người chúng ta.

Thật qúi giá vô cùng, việc Chúa Giêsu đã xuống thế mặc khải cho ta thấy Chúa Cha, Cha chúng ta ở trên trời, là người Cha nhân từ, hiền hậu và hết lòng yêu thương chúng ta như con của Ngài. Chính Chúa Giêsu dạy chúng ta kêu Thiên Chúa là Cha. Và Chúa Giêsu còn dạy ta rằng Thiên Chúa là người Cha tốt lành hơn hết mọi người cha (Mt 7,11 ; 23,9). Chúa Giêsu đã cho chúng ta như sờ thấy những sự tốt lành vô cùng của Thiên Chúa, những vẻ tuyệt hảo tuyệt mỹ của Thiên Chúa. Nhất là Ngài đã dạy và đã tập cho ta biết yêu mến Thiên Chúa như người Cha vô cùng nhân hậu. Chúa Kitô dạy ta một điều rất mới lạ, không những Ngài dạy ta kêu Thiên Chúa là Cha, mà còn khẳng định rằng chỉ mình Thiên Chúa là Cha nhân từ, là Cha đích thực (Mt 23,9). Ngài đã đến để đánh tan mọi nỗi sợ hãi của ta, và mở đường cho ta biết mến yêu Thiên Chúa. Ngài đã mặc khải cho ta mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, nhưng Ngài cũng mặc khải cho ta một mầu nhiệm vô cùng trọng đại : Thiên Chúa có bản tính chí thánh, nhưng bản tính của Thiên Chúa cũng là tình yêu, và đối với chúng ta, Thiên Chúa là tình thương vô cùng thương xót. “Ai không yêu thương thì không nhận ra Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình thương” (1 Ga 4,8).

Ôi Chúa Giêsu yêu mến, chúng con yêu mến và cảm tạ Chúa đã mặc khải cho chúng con biết sự tốt lành và tình thương của Chúa Cha. Không những Chúa cho chúng con biết điều đó qua những lời giảng dạy của Chúa, nhưng nhất là qua cuộc sống của Chúa, cuộc sống đầy hy sinh và yêu thương chúng con, vì Chúa là hình ảnh sống động và tuyệt hảo của Chúa Cha. Chúa đã nói với tông đồ Philipphê : “Hỡi Philipphê, ai thấy Thầy là Thấy Cha Thầy” (Ga 14,9). Vâng, chúng con thấy Chúa là thấy tất cả những mầu nhiệm khôn dò của trời đất. Nhìn thấy vẻ hiền từ của Chúa, là chúng con nhìn thấy vẻ hiền từ của Chúa Cha. Nhìn thấy vẻ dịu hiền khôn sánh của Chúa đối với những người thu thuế và những phụ nữ tội lỗi, đến nỗi gây vấp phạm cho những người biệt phái, chúng con thấy rõ lòng thương xót và lòng nhân từ vô cùng của Thiên Chúa Cha.

Khi Chúa giảng cho chúng con nghe những dụ ngôn tuyệt diệu về đứa con hoang đường và về người mục tử tốt lành, thì đó là Chúa dạy cho chúng con một bài học đầy xúc động về lòng nhân từ và thương xót của Cha trên trời. Rồi khi mệt mỏi vì đường xa, Chúa ngồi ở thành giếng để đợi người phụ nữ xứ Samaria có đời sống bê bối, cũng như khi Chúa để cho người đàn bà tội lỗi hôn chân Ngài, và nhất là khi Ngài cứu người đàn bà ngoại tình khỏi bị ném đá, Chúa đã làm gì ? Chúa đã chỉ làm thế để tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha nhân từ vô cùng, hay thương xót vô cùng. Chúa luôn tìm cách mở rộng tâm trí chúng con để thấy và mở rộng tâm hồn chúng con để cảm nghiệm Thiên Chúa tốt lành dường nào, nhân từ dường nào. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô : “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để những ai tin vào Người Con đó không phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa thường nói Ngài đến vì những người đau yếu và những người tội lỗi. Chúa đã được Chúa Cha sai đến để nâng đỡ họ dậy, kéo họ ra khỏi đống bùn nhơ của tội lỗi và nết xấu, đem họ về với Cha trên trời, biến đổi họ thành những người nam và những người nữ thánh thiện như Mađalêna…

Lạy Chúa, Chúa tha thứ tất cả, Chúa quên đi tất cả, Chúa sẵn sàng bỏ qua tất cả, nếu Chúa không tha thì chỉ vì chúng con thiếu tin tưởng nơi Chúa. Thật, chúng con sẽ không được tha thứ, nếu sau bấy nhiêu lời giảng dạy của Chúa, và sau bấy nhiêu hành vi tha thứ của Chúa, chúng con vẫn chưa tin tưởng, chưa trọn vẹn tín thác nơi Chúa.

Chúng ta là những con người tội lỗi. Nhưng Mađalêna cũng đã là con người rất tội lỗi. Vậy nếu Chúa đã biến đổi Mađalêna thành một vị thánh, một vị đại thánh với đời sống chiêm niệm cao siêu, thì sao Chúa không có thể biến đổi chúng ta thành những con người thánh thiện, yêu mến Chúa hết lòng, nếu chúng ta khẩn khoản và kiên trì nài xin Ngài ?

II.  TÌNH THƯƠNG ĐẦY THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA LÀ ĐIỀU KHÔNG THỂ HIỂU ĐƯỢC VÀ KHÁC HẲN MỌI TÌNH THƯƠNG CỦA LOÀI THỌ TẠO.

–   CÁI NHÌN NÀY TẠO NÊN MỘT SỰ KHÁT KHAO ĐAU ĐỚN. ĐỂ LÀM GIẢM SỰ KHÁT KHAO ĐÓ, TÔI PHẢI VUI LÒNG ĐÓN NHẬN MỌI THỬ THÁCH, MỌI ĐAU KHỔ, VÀ NHẤT LÀ PHẢI HY VỌNG NÊN THÁNH THẬT SỰ.

Tình thương đầy thương xót của Thiên Chúa là điều không thể hiểu được.

– Chúng ta phải năng suy gẫm cách âu yếm, và mơ tưởng lâu giờ về lòng nhân hậu tốt lành của Cha chúng ta ở trên trời mà Chúa Giêsu Kitô vô cùng khả ái của chúng ta là hình ảnh trung thành và sống động nhất. Trong việc này, chúng ta phải bắt chước các thánh, nhìn khắp nơi để thấy nơi mọi vật sự tốt lành thần linh của Thiên Chúa. Nhất là chúng ta hãy theo gương thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu, vị thánh mà Chúa quan phòng đã gửi đến để dạy chúng ta hết lòng mến yêu và tín thác nơi Chúa, như những đứa con bé nhỏ của Ngài. Nhìn thấy một con gà mái đang qui tụ những con gà con dưới đôi cánh của nó, thánh nữ đã bật khóc vì nhớ đến Chúa Giêsu đã khóc thương thành Giêrusalem khi Ngài than thở : “Giêrusalem ! Hỡi Giêrusalem ! Biết bao lần Ta đã muốn quy tụ con cái ngươi, như gà mẹ qui tụ các con nó dưới đôi cánh của nó, nhưng ngươi đã không muốn” (Mt 23,37). Vâng, tình thương vô cùng thương xót của Thiên Chúa là một đề tài suy gẫm không bao giờ hết. Đó là một mầu nhiệm mà càng suy niệm, ta càng thấy sâu thẳm.

Thật là một mầu nhiệm và khó hiểu, tình thương của Thiên Chúa đối với một loài thọ tạo bé nhỏ gần như hư vô, lại vương bao nhiêu là khốn nạn và nhất là bao nhiêu tội lỗi !

Mà tình Chúa thương ta không chỉ là một thứ cảm thương và thương hại. Đúng thế, người ta đã thấy những hoàng tử, những ông vua hảo tâm cúi xuống ban của bố thí cho những người hành khất ghẻ lở và hôi hám, hoặc ghé tai nghe những lời van xin của những kẻ ăn xin rách rưới và dơ bẩn. Cũng có những hoàng tử đem lòng yêu thương một thiếu nữ bình dân, nghèo khổ, nhưng có sắc đẹp tự nhiên. Nhưng không bao giờ nghe nói một hoàng tử, hoặc một ông vua đem lòng yêu thương một thiếu nữ bị bệnh cùi, hoặc ghẻ lở thối tha. Chuyện đó chỉ xảy ra với Vua cả trời đất, với Thiên Chúa chúng ta. Ngài là Đấng chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng, nhưng Ngài cũng là tình thương : một cách thật là khó hiểu, một cách vô cùng mầu nhiệm, Ngài yêu thương chúng ta là loài thọ tạo thấp hèn, với đầy dẫy những sự khốn nạn và tội lỗi, mà không chỉ yêu thương bằng một sự thương hại và cảm thương, nhưng bằng một tình thương cha con, một tình thương hướng tới hiệp nhất. Một tình thương hiệp nhất.

Ngài thương yêu ta bằng một tình thương chiếu cố, một tình thương đầy thương xót, khiến Ngài nhắm mắt không nhìn đến những chỗ ghẻ lở, những tội lỗi của chúng ta, và chỉ mong chúng ta mến yêu Ngài, đáp lại tình thương của Ngài. “Con ơi, hãy dâng trái tim con cho Cha”. Chúa muốn chiếm lấy trái tim ta, Ngài muốn chiếm lấy tình mến yêu của tạo vật bé nhỏ của Ngài. Ngài đã hiến thân cho ta và đòi ta hiến thân cho Ngài. Suốt đời, Ngài tìm cách kéo ta lại gần Ngài, và Ngài cố gắng xua ra khỏi trái tim ta bất cứ quyến luyến nào khác. Ngài bị từ chối, bị phản bội, nhưng Ngài không nản, Ngài kiên trì trở lại “tấn công” cho tới khi chiếm được trái tim ta. Đúng thế, sau những nỗ lực phi thường về khôn ngoan, nhân hậu và yêu thương, Ngài quyết đi tới chỗ chiếm được tình mến yêu của ta, để kết hiệp với ta trong sự hiệp nhất của tình yêu, đến nỗi ngay ở đời này, Ngài có thể kêu lên trong niềm hoan lạc thần linh : “Tôi đã gặp được người lòng tôi yêu dấu, tôi nắm lấy và sẽ không buông ra nữa” (Dc 3,4).

Tình thương này khác hẳn mọi tình thương của loài thọ tạo.

– Đáng tiếc thay ! Nơi trần gian này chúng ta không có từ ngữ để diễn tả tình thương đó của Thiên Chúa, một tình thương tuyệt đối độc nhất và không thể so sánh với bất cứ tình thương nào khác nơi loài thọ tạo. Ngôn ngữ của loài người qúa thấp hèn và qúa nghèo nàn, không thể nào nói lên được những sự việc của Thiên Chúa, nhất là không thể diễn tả tình thương siêu việt của Thiên Chúa, vượt xa vô cùng tình thương của người mẹ thương con mình, người chồng yêu vợ mình, những người bạn chí thân yêu thương nhau. Thật ra đó là một sự khác biệt về bản tính, chớ không chỉ khác biệt về phẩm chất. Tình thương của Chúa tốt lành vô cùng, chỉ tinh ròng là yêu thương, không pha trộn mảy may ích kỷ, cho nên mọi tình thương của loài người chúng ta sẽ không đáng gọi là tình thương, nếu so sánh với tình Chúa thương ta. Cho nên các thánh đã dạy rằng : đem danh từ tình thương chúng ta vẫn dùng trong những tình yêu thương loài người, để gọi tình Chúa thương ta là nói phạm, nói xàm bậy. Chúng ta biết thánh nữ Angela đệ Fôlignô, bị thiêu đốt bởi lửa mến yêu Sêraphim, nhiều lần trong những khi được ơn xuất thần vì yêu mến, đã nói một cách đau đớn : “Ôi ! Tôi nói xàm, vâng, tôi nói phạm. Tất cả những gì tôi nói về lòng mến yêu đều không đúng với sự thật !”.

Nhận định này gây nên một niềm khao khát đau đớn. Để làm dịu sự đau đớn này, ta hãy vui vẻ đón nhận những thử thách và những sự khốn nạn của mình. Nhất là hãy tin tưởng đạt được sự thánh thiện đích thực.

– Chúng ta vừa thấy tình thương đầy thương xót của Thiên Chúa có bản chất khác hẳn mọi sự thương yêu nơi loài thọ tạo. Tình thương đó vượt xa mọi tình thương của loài người vô cùng. Hãy nhớ là : vô cùng. Vậy chúng ta cũng phải tin tưởng và tín thác nơi tình thương đó muôn vàn lần nhiều hơn là tin vào các tình thương của loài người. Niềm tín thác đó phải vững vàng và trọn vẹn hơn bất cứ niềm tín thác nào khác. Đó niềm tín thác vô biên, hết sức mạnh mẽ, hết sức trìu mến, tuyệt đối không gì lay chuyển được. Đó phải là một tâm tình vượt qúa những gì ta thường hiểu với từ tín thác…

Đúng thế, đó phải là một cái gì xứng đối với tình thương vô cùng Thiên Chúa dành cho ta, một tâm tình cao hơn niềm tín thác, trọn vẹn hơn sống tín thác, một tâm tình mà ngôn ngữ loài người không thể diễn tả được, cũng như tình thương đầy thương xót của Chúa là điều không lời nào nói lên được.

Không bao giờ, thật không bao giờ, dầu tôi cố gắng thế nào đi nữa, tôi cũng không thể đáp lại một phần lòng nhân hậu của Chúa, và tình thương đầy thương xót của Ngài đối với tôi. Nếu tôi càng suy gẫm, tư tưởng này sẽ càng là một thứ lửa thiêu đốt tâm can tôi, thúc bách tôi hãy đền đáp lại bằng lòng mến yêu và bằng niềm tín thác ngày càng trọn vẹn hơn. Tư tưởng đó sẽ là như một vết thương lòng, thôi thúc tôi phải đền đáp cho đến khi tôi lìa đời…

Những linh hồn quảng đại và thánh thiện đã hao mòn vì ước ao yêu mến. Cũng như thánh nữ Sêraphim thành Avila, họ đau khổ như chịu tử đạo vì thấy mình chưa yêu mến Chúa như lòng ước ao, và như Thiên Chúa đáng mến yêu. Họ đau khổ vì chưa đáp lại được phần nào tình thương vô biên của Thiên Chúa. Thánh nữ Têrêxa thành Avila đã kể lại những đau khổ đó nơi những trang sách bất hủ. Nếu chúng ta yêu mến Chúa nhiều, chúng ta cũng đã đôi khi, hoặc nhiều lần cảm thấy những niềm khát khao đau đớn đó.

Chúng ta có cảm thấy đau khổ vì chưa đủ tín thác chăng ?

– Không bao giờ tôi có thể có niềm tín thác trọn vẹn như lẽ ra tôi phải có, và phải có để đáp lại lòng nhân hậu và tình thương của Chúa… Lời than thở này lẽ ra phải vang lên nơi đáy lòng tôi, như một âm vang chân thành và đau đớn. Thật vậy, không bao giờ tôi có thể yêu mến Chúa như Ngài đáng mến yêu, và không bao giờ tôi có thể tín thác nơi Ngài như lẽ ra tôi phải làm : đó là hai mũi tên yêu thương lẽ ra phải đâm nát trái tim tôi, như mũi tên lửa yêu mến mà một thiên thần Sêraphim đã đâm thâu qua trái tim của thánh nữ Têrêxa thành Avila, để lại đó một vết thương không bao giờ lành, một niềm khát khao yêu mến không nguôi… Vẻ đáng mến và vẻ đẹp thần linh của Thiên Chúa vượt xa vô cùng khả năng yêu mến của tôi thế nào, thì lòng nhân hậu và tình thương đầy thương xót của Ngài cũng vượt qúa khả năng tín thác yếu hèn của tôi như vậy. Không bao giờ lòng mến yêu của tôi, nhiều lúc xem ra rất nồng nàn và mạnh mẽ, sẽ có thể tỏ ra phần nào xứng với Thiên Chúa vô cùng đáng mến và đáng tôn thờ. Và không bao giờ niềm tín thác đôi lúc có vẻ trọn vẹn của tôi sẽ phần nào xứng với lòng nhân hậu và nhân từ của Thiên Chúa.

Ôi, cuộc tử đạo diễm phúc, niềm khát khao đau đớn của những linh hồn cảm thấy mình là lễ vật hy sinh cho tình thương vô cùng thương xót của Chúa ! Họ đã cảm nghiệm sâu xa lòng nhân hậu và tình thương của Chúa, nên rất đau khổ vì chưa yêu mến Chúa nhiều như lòng mong ước, và chưa tín thác trọn vẹn như họ thấy phải làm.

Tư tưởng này sẽ là ánh sáng tốt lành cho tôi biết bao ! Nếu tôi suy gẫm điều này không phải mười lần, nhưng trăm ngàn lần, cho tới khi tâm hồn tôi thấm thía, cuộc đời tôi thấm nhuần tư tưởng này, chắc cuộc sống của tôi sẽ được biến đổi rất nhiều. Tất cả những gì trước đây vẫn làm tôi lo sợ, tất cả những gì làm chao đảo niềm tín thác của tôi, tất cả những sóng gió bão táp vùi dập con thuyền bé nhỏ của linh hồn tôi, nay sẽ trở nên những lý do để tôi thêm tín thác. Đúng vậy, chúng sẽ là những cơ hội quí báu để tôi tập nhân đức tín thác trọn vẹn và tinh ròng. Phải chăng đó là những dịp để tôi đẩy niềm tín thác tới những giới hạn cuối cùng ?

Vâng, từ nay tôi sẽ qúi mến chào đón những lúc khô khan và những giờ phút chán nản diễm phúc đó. Tôi sẽ vui nhận những cơn cám dỗ ghê sợ và những đêm tối đầy lo âu đó như những dịp để tôi chứng tỏ lòng mến yêu và trông cậy Chúa. Trong những đêm tối đó, sự nhân hậu tốt lành của Chúa ẩn mình đi, như mặt trời ẩn mình trong những đêm dài, đồng thời Chúa vẫn nói với tôi : “Hỡi linh hồn dấu yêu, con có còn tin tưởng nơi Cha không ? Vẫn tin tưởng như trước không ?”. Những đêm tối mà xưa kia tôi vẫn lo sợ và chán ghét, thì nay tôi phải coi là tốt lành cho tôi và đáng quí mến đối với tôi. Trong những giờ phút đen tối như thế, thay vì kêu : “Lạy Chúa, chúng con chết mất”, tôi sẽ thưa Chúa rằng : “Lạy Chúa, con tin Chúa vẫn ở đây với con. Con tin cậy nơi Chúa cách vững vàng như trước đây”. Và tôi có thể mượn lời của ông Gióp để thưa Chúa : “Dầu Chúa có giết con, con vẫn tin cậy nơi Ngài” (Gióp 13,13). Tôi cũng sẽ làm như tổ phụ Abraham : “Tôi sẽ tin tưởng khi không còn gì để tin tưởng” (Rm 4,8). Vâng, trong những giờ phút lo âu nhất, bị cám dỗ nặng nề nhất, tôi sẽ nói như chân phước Têrêxa: “Tôi biết bên trên những đám mây đen buồn sầu này, mặt trời yêu thương của tôi vẫn sáng chói”.

Ôi ! Những cơn thử thách diễm phúc, ôi những giờ phút chán nản may lành ! Từ nay tôi sẽ coi đó là những dịp tốt để tôi luyện tập và chứng tỏ niềm tín thác của tôi với Chúa. Tôi sẽ chúc tụng Chúa nhân từ vì những cơn thử thách đau đớn này : chính những sự đau đớn này sẽ làm dịu nỗi khát khao đau khổ của tôi, muốn đền đáp lòng thương xót vô cùng của Chúa.

Rồi cả những sự khốn nạn bẩm sinh của tôi, những lỗi phạm xưa kia của tôi, những sự bất trung bất nghĩa với ân sủng của Chúa, những sự yếu đuối và cả những tội lỗi xưa của tôi : tôi sẽ nhìn tất cả những sự này dưới một ánh sáng mới. Tất cả những sự khốn nạn này cũng sẽ được ân cần chào đón, như những dịp để tôi sống tín thác trọn vẹn, những phương tiện để tôi tỏ bày niềm tin tưởng vào lòng nhân hậu vô cùng của Chúa.

Khi tôi thấy mình xấu xa và tội lỗi, tôi sẽ không nói : “Tôi xấu xa qúa, không thể đẹp lòng Thiên Chúa, tôi bất trung qúa, không thể làm vui lòng Ngài”. Khi tôi sa vào những khiếm khuyết hoặc sa ngã phạm tội gì, tôi sẽ không đổ quặu với mình hoặc chán nản ngã lòng, nhưng như một đứa con ngoan ngùy và đầy lòng tin tưởng vào Cha nhân từ của mình, tôi sẽ đến gieo mình vào lòng Ngài, ôm lấy Ngài và thưa Ngài với niềm tín thác rằng : “Con sẽ không làm như thế nữa.”

Ôi những khuyết điểm đáng yêu ! Ôi những sự khốn nạn đáng quí ! Trước kia tôi coi đó là nỗi lo sợ và đau khổ của tôi, nhưng bây giờ chúng đã trở thành niềm vui của tôi. Nếu tôi hoàn toàn thánh thiện, nếu tôi hoàn toàn trong sạch, làm sao tôi có thể chứng minh niềm tin cậy lớn lao của tôi nơi tình thương đầy thương xót của Chúa ? Khi đó, làm vui lòng Chúa không khó gì. Nhưng khi thấy mình xấu, đáng Chúa ghét bỏ, mà vẫn tin vào lòng nhân hậu và tình thương bao la của Ngài, đó mới là niềm tin tưởng và tín thác trọn vẹn. Đó là thực thi đức trông cậy tuyệt đối siêu nhiên. Bởi vậy, trước đây tôi càng lo sợ và chán ghét những sự khốn nạn mà Chúa vẫn để tôi mắc phải, thì từ nay tôi càng chúc tụng Chúa vì đã để tôi mắc phải như vậy.

Như thế đã hết chưa ? Tôi không còn có thể tín thác hơn nữa sao ? Còn cơ hội nào khác để tôi thực thi niềm tín thác vô biên vào tình thương vô cùng thương xót của Chúa chăng ? Tôi nghĩ là còn một cơ hội nữa, cơ hội độc nhất của tôi, cơ hội vượt xa mọi cơ hội khác. Tôi trông cậy sẽ làm vui lòng Chúa. Hôm nay tôi cảm thấy, mặc dầu những sự khốn nạn của tôi, tôi có thể làm vui lòng Chúa nhiều, nhưng tôi có dám đẩy niềm tin tưởng tín thác đến chỗ cùng kiệt chăng ? Tôi có dám tin cậy sẽ có ngày làm vui lòng Chúa cách trọn vẹn chăng ? Nghĩa là tôi có dám trông cậy thật sự trở thành một người thánh chăng ? Có thể nào một ngày nào đó tôi sẽ yêu mến Chúa bằng một lòng mến yêu tinh ròng, yêu Chúa như một vị thánh yêu mến Chúa chăng ? Điều đó có thể được chăng ?

Những điều khác thì được, còn điều này xem ra không được, bởi vì tôi qúa bất trung với ân sủng của Chúa, khó dạy, lại ít mau mắn đáp lại những ơn soi sáng của Ngài. Cho nên trông cậy điều này sẽ không còn là niềm tín thác, nhưng đó sẽ là liều lĩnh, điên khùng. Qúa khứ của tôi không còn đó để tiên đoán về tương lai của tôi sao ? Mặc dầu những nỗ lực của tôi, trong công cuộc nên thánh của tôi, tôi có tới gần bậc trọn lành hơn chăng ? Tôi có gần tới đỉnh cao của sự toàn thiện chăng ? Chúng ta không nên có những ảo tưởng.

Nhưng này ! Linh hồn tôi ơi ! Đây đúng là cơ hội tốt nhất để thực thi niềm tín thác bằng một hành động. Trông cậy điều đó qúa đáng, đúng thế, đó là điều qúa đáng ! Nhưng đó lại chính là điều tôi trông cậy. Lòng nhân hậu tốt lành và tình thương của Chúa cũng qúa đáng, cho nên tôi cũng muốn làm một điều qúa đáng : tôi muốn đẩy lòng cậy trông của tôi tới chỗ qúa đáng, tới mức điên khùng. Tôi muốn cậy trông mọi sự nơi Chúa, nhất là những gì có vẻ qúa đáng, có vẻ liều lĩnh và không có thể.

Muốn thế tôi phải làm gì ? Phải đừng nhìn vào mình nữa, đừng tin tưởng vào sức mình nữa, đừng tin cậy vào sức yếu hèn của tôi, cái sức đã bao lần bỏ rơi tôi ! Hãy nhìn lên cao ! Nhìn vào Chúa, nhìn vào lòng nhân hậu tốt lành vô biên của Chúa, nhìn vào tình thương vô cùng của Ngài là tình thương luôn yêu thương tôi và muốn kết hiệp với tôi ngay ở đời này. Điều phải làm, là đưa hai tay bé nhỏ của tôi lên và khẩn nài Chúa như thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu đã làm xưa : “Lạy Chúa, xin hãy xem, mặc dầu mọi nỗ lực của con, con vẫn ở dưới chân của cầu thang trọn lành”. Và vô cùng nhân hậu như một người mẹ hiền, Thiên Chúa sẽ cúi xuống bồng tôi lên trong cánh tay Ngài và giúp tôi mau lẹ bước tới bậc trọn lành.

Cậy trông mình sẽ nên thánh, tin tưởng mình sẽ nên thánh thật sự, và cậy trông cách mạnh mẽ và vững vàng, mặc dầu tôi thấy mình rất khốn nạn, đầy những nết xấu và chỉ có những niềm ao ước bất lực, đó chính là bằng chứng của niềm tín thác lớn lao. Đó chính là sự đáp lại mà lòng nhân hậu và tình thương vô cùng của Chúa mong đợi ở nơi tôi. Tôi nghèo hèn, điều đó có hệ gì ? Tôi càng nghèo hèn, càng thiếu thốn, càng yếu đuối, tôi sẽ càng không tin cậy vào bản thân mình và sẽ chỉ tin cậy vào Chúa. Bởi vậy càng tự cảm thấy mình nghèo nàn, tôi sẽ càng hết lòng tin cậy nơi lòng nhân hậu vô cùng của Chúa, và như vậy tôi sẽ càng chắc chắn được lòng Chúa. Một chút tín thác đích thực, chỉ cần một niềm tín thác lớn bằng hạt cải thôi. Đó là tất cả những gì Chúa đòi hỏi tôi. Tôi tưởng như nghe Chúa Giêsu hỏi tôi rằng : “Con có  tin điều đó không ?” (Ga 11,26). Con có tin rằng Cha có thể làm cho con nên thánh chăng ? Bởi vì chính Chúa đã nói: “Mọi sự đều có thể cho kẻ tin” (Mc 9,22). Và tôi sẽ đầy lòng mến và tin tưởng thưa Chúa rằng : “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa giúp sự yếu niềm tin của con” (Mc 9,23).

Ôi ! Lòng nhân hậu đầy thương xót và đầy yêu thương của Chúa Giêsu con yêu mến, cho đến nay con ít hiểu biết Chúa qúa, con ít tin tưởng vào Chúa qúa ! Xin Chúa tha cho con tất cả những lỗi lầm của con, vì con đã qúa quen cậy vào sức mình và không tin cậy vào Chúa. Ôi đại dương của lòng nhân hậu và thương xót, Chúa bao bọc con tư bề và thấm nhuần tâm can con ! Con xin tín thác trọn vẹn nơi Chúa. Không một chút nghi ngại và không một chút dè dặt nào nữa, con phó mình cho tình thương dịu hiền và cho sự chăm lo tận tình của Chúa. Con trông cậy mọi sự nơi Chúa, con mong đợi mọi sự nơi Chúa. Con biết không bao giờ niềm tin cậy của con, dầu táo bạo và liều lĩnh đến đâu, có thể lớn bằng lòng nhân hậu vô cùng của Chúa. Con sẽ mãi mãi cậy trông. Giữa những cơn cám dỗ, giữa những đêm tối tăm, những lúc chán nản, những khi sa ngã, và giữa những cơn thử thách đau đớn, con sẽ tin cậy Chúa với một niềm tin cậy không nao núng, để đáp lại tình thương vô cùng của Chúa. Sau cùng và nhất là con tin cậy sẽ nên thánh, nên thánh thật sự, mặc dầu sự thánh thiện xem ra qúa cao vời đối với con. Con muốn, bằng một niềm tín thác của đứa con nhỏ, an ủi Chúa về những thiếu sót tin cậy trước kia của con. Và cũng để an ủi Chúa về sự thiếu tin cậy mà con nhận thấy nơi nhiều linh hồn rất quảng đại trong việc phụng sự Chúa. Thật vậy, qúa ít linh hồn trọn vẹn tín thác nơi Chúa, và điều này dễ thấy cả nơi những linh hồn yêu mến Chúa rất nhiều. Vậy con muốn được kể vào số những linh hồn không những cảm thấy đau khổ vì chưa yêu mến Chúa hết lòng, mà còn đau khổ vì chưa đáp lại tình thương vô cùng của Chúa bằng một niềm tín thác trọn vẹn. Vâng, con muốn được kể vào số những linh hồn biết đau khổ vì chưa yêu mến Chúa, như lẽ ra họ phải yêu mến Ngài, và biết đau khổ vì chưa tin tưởng vào lòng nhân hậu và tình thương của Chúa, như lẽ ra họ phải đáp lại.

Con muốn cậy trông mọi sự nơi Chúa, trông chờ mọi sự nơi Chúa. Nhất là con cậy trông và mong chờ Chúa giúp con, vì, lạy Chúa, chỉ những ân sủng mạnh sức của Chúa mới có thể chữa lành niềm tín thác yếu ớt của con, để con có được một niềm tín thác trọn vẹn, làm vui lòng Chúa và an ủi Chúa.  “Lạy Chúa, xin ban thêm niềm tin cậy và tín thác cho con !”.

Paul De Jaegher S.J.