8. Đời Sống Tâm Linh

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 22. Chỉ Biết Kêu Ca

Bạn thân mến, có một điểm tôi muốn nhắc với Bạn hôm nay, đó là chúng ta đối xử với Chúa cũng tựa như những đứa con được cưng chìu trong gia đình thường đối xử với cha mẹ chúng, ấy là chúng chỉ biết luôn miệng kêu ca đòi hỏi, mà không mấy khi biết mở miệng cám ơn cha mẹ. Tôi không dám chối rằng: trên đời chúng ta gặp nhiều sự đau khổ trong ngoài. Không công nhận một việc hiển nhiên như vậy, tức là con người đã mất hết cảm giác. Nhưng, có một điểm, chúng ta cũng không thể chối cãi, nhưng lại là một điểm ít người biết nhận ra, ấy là bên cạnh những sự đau khổ buồn phiền chúng ta chịu hằng ngày, chúng ta nhận được không biết bao nhiêu ơn Chúa ban cho, mà những ơn Chúa ban này (đây tôi chưa nói đến chính những sự đau khổ cũng là ơn Chúa ban, chỉ nói đến ơn Chúa ban xét theo nghĩa rất tầm thường thôi), tôi nói lại, những ơn Chúa ban lại còn nhiều hơn cả những cái mà chúng ta gọi là đau khổ, nguyên vì nó làm cho chúng ta khó chịu.

Có khi nào Bạn nghĩ rằng: không khí Bạn thở là ơn Chúa ban không? Có khi nào Bạn nghĩ rằng: cơm Bạn ăn, nước Bạn uống là ơn Chúa ban không? Có khi nào Bạn nghĩ rằng: áo Bạn mặc là ơn Chúa ban không? Có khi nào Bạn nghĩ rằng: giấc ngủ của Bạn là ơn Chúa ban không?… rồi những làn gió mát… những trận mưa rào… những đóa hoa thơm… những quả ngon ngọt… những cảnh đẹp mắt… tiếng nhạc du dương… thân thể lành mạnh… một người Bạn quý… một người mẹ hiền… một người vợ yêu… một người chồng tốt… một đứa con ngoan… một trang sách đạo đức… rồi trí tuệ, rồi ý muốn, rồi tình yêu… rồi bao nhiêu tai nạn Bạn đã thoát được, và v.v… tôi kể thế nào hết được.

Lẽ ra, mỗi ngày nhiều lần Bạn phải than lên lời Giáo hội đặt vào miệng linh mục sau khi đã chịu Mình Thánh Chúa: “Quid retribuam Domino pro omnibus quae retribuit mihi. Lạy Chúa, con biết làm gì để đáp lại muôn vàn ơn cao cả Chúa đã ban cho con và sẽ còn ban cho con nữa?” [46]

Tôi vừa nhắc đến phép Mình Thánh. Nhắc đến phép Mình Thánh, tức là tôi muốn nhắc lại với Bạn trăm nghìn ơn thiêng liêng, siêu nhiên Chúa tuôn xuống cho Bạn, từ khi nước rửa tội chảy trên trán Bạn, cho đến ngày nay, và cho đến chết… ơn được cầu nguyện để truyện trò với Chúa, với Đức Mẹ, với thiên đàng… ơn được chịu hai Bí tích Giải tội và Mình Thánh… để Bạn trở nên trong sạch, để Bạn kết hợp mật thiết với Chúa… ơn được cứu cho khỏi chết thiêu trong hỏa ngục bao nhiêu lần… ơn được dạy dỗ về đạo đức… rồi cả Thiên đàng đầy dẫy hạnh phúc đang chờ đợi Bạn bên kia, miễn Bạn biết sống xứng con cái Chúa, miễn Bạn biết chịu đau khổ cho nên.

Những ơn thiêng liêng này còn nhiều gấp trăm lần những ơn tự nhiên, ơn vật chất Chúa ban cho Bạn nữa.

Không, Bạn ạ, chúng ta chính là những đứa con được chiều chuộng trong nhà Cha, vì không có một người Cha, người mẹ nào đã nuông chiều con cái bằng Chúa đã nuông chiều những người trong ta, Bạn cũng như tôi, cũng như bất cứ một người nào khác. Chúa đã nuông chiều chúng ta không những vì bạn không biết bao nhiêu ơn, mà còn nhịn nhục chúng ta quá sức tưởng tượng. Chúng ta sống ở giữa các ơn lành Chúa ban, cũng như con cá sống ngoài biển cả, cũng như con chim bay giữa không gian lồng lộng.

Vậy thì từ nay, thay vì hơi tí chúng ta mở miệng oán thán kêu ca, chúng ta hãy tập mở miệng cám ơn Chúa. Ít ra mỗi ngày năm ba lần, nhất là mỗi khi được một ơn gì rõ ràng, dù là một ơn coi như rất nhỏ mọn, chúng ta hãy lập tức thưa cùng Chúa rằng: Deo gratias: Cám ơn Chúa. Ít ra sáng vừa thức dậy, việc đầu tiên của ta là cám ơn Chúa vì những ơn Chúa đã ban cho ban đêm, và tối trước khi ngủ, hãy cám ơn Chúa vì các ơn Chúa đã ban cho cả ngày. Không làm được thế, chúng ta đã tỏ ra là con người thờ ơ lãnh đạm với ơn Chúa, nếu không phải là những đứa con tệ bạc.

Trên đây, tôi đã nói, chính những đau khổ Chúa gửi đến cũng là ơn lành Chúa ban cho… nhưng tôi không minh chứng ở đây, vì từ đầu đến cuối sách này, Bạn đã hoặc sẽ thấy tôi minh chứng điểm ấy bằng cách này hay cách khác.

Trước khi ngừng lại ở đây, tôi xin Bạn hãy cùng tôi nhắm mắt lại một phút, và cùng nhau than thở cùng Chúa như Giáo hội rằng: “Lạy Chúa, con biết làm gì để cám ơn Chúa vì các ơn đầy tràn Chúa đã ban cho con?” Và tôi cũng xin khuyên Bạn hãy đọc thuộc lòng câu ấy để mỗi ngày dâng lên Chúa cho thật nhiều lần. Lời ấy sẽ lấp được bao nhiêu lời, chính Bạn và bao nhiêu người, hằng ngày oán thán, kêu ca, lẩm bẩm khi gặp truyện đau khổ bên trong bên ngoài.

[46] Tv. 115,12

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT

Niềm Tín Thác – Chương II: NHỮNG LỢI ÍCH CỦA TÍN THÁC

I. NÓ NÂNG ĐỠ LÒNG CAN ĐẢM CỦA TA, NHẤT LÀ TRONG NHỮNG LÚC CHÁN NẢN VÀ NHỮNG ĐÊM TỐI THẦN BÍ

– NÓ TRÁNH CHO TA KHỎI CHỨNG TỰ KIÊU LÀ CẢN TRỞ CỦA ÂN SỦNG

– NÓ LÀ NHƯ LÁ BÙA GIÚP TA ĐẠT ĐƯỢC MỌI SỰ

– NÓ LÀM CHO TA RẤT ĐƯỢC CHÚA YÊU THƯƠNG

Nó nâng đỡ lòng can đảm của ta. – Có thể nói về niềm tín thác những gì mà vua Salomôn đã nói về đức khôn ngoan : tất cả mọi sự tốt lành đã đến với tôi nhờ nhân đức đó.

Một trong những vị thánh thời danh nhất của thời đại chúng ta, và có thể nói của mọi thời đại, thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu, khuôn mẫu tuyệt hảo nhất của những linh hồn tín thác, đã kể lại cho chúng ta biết : tại sao cho đến một tuổi nào đó, vì thiếu niềm tín thác vui vẻ, thánh nữ đã bị tê liệt, không tiến được trong đời sống thiêng liêng. Một hôm Cha Pichon, dòng Tên, đàm đạo với chị, và Cha đã hoàn toàn trấn an chị. Cha tuyên bố chị chưa bao giờ đánh mất tình trạng vô tội, và chị được Thiên Chúa yêu thương lắm, cho nên chị phải mở toang linh hồn ra để đón nhận ơn tín thác. Và đó giống như một sự lột xác. Cuộc gặp gỡ có vẻ ngẫu nhiên này giữa một linh mục Dòng Tên và vị thánh nữ non trẻ đã là một biến cố do Chúa quan phòng xếp đặt để mang đến cho Têrêxa đôi cánh rộng lớn của một niềm tín thác táo bạo, giúp thánh nữ bay cao như một chim phượng hoàng tốt đẹp, bay lên tới những đỉnh cao nhất của tình yêu thuần túy và của sự bỏ mình trọn vẹn.

Đối với nhiều linh hồn, có thể điều họ đang thiếu hơn cả, và cũng là điều họ ít nghĩ tới, đó là một niềm tín thác không gì lay chuyển vào Thiên Chúa. Và điều này thoạt nghe có vẻ lạ : chính những linh hồn được Chúa yêu thương nhất, những linh hồn Ngài muốn dẫn dắt vào những con đường cao siêu của đời sống thiêng liêng, lại cần đến niềm tín thác hơn hết. Dần dần Thiên Chúa cởi bỏ họ khỏi hoạt động con người của họ. Cái phần hành động của họ trong cuộc sống thiêng liêng ngày càng giảm dần, để cái phần của Thiên Chúa dần dần gia tăng. Họ phải trở thành ngày càng thụ động hơn, ngày càng phụ thuộc và ngoan ngoãn vâng theo hành động của Chúa. Hoạt động của họ phải thay đổi hình thức : hành động của họ phải gần như chỉ là ngoan ngoãn sinh hoạt thụ động dưới ảnh hưởng của Chúa[1]. Dần dần Chúa muốn là tất cả ở trong họ. Ngài muốn biến đổi họ bằng cách kết hiệp cách thân mật với họ.

Trong sự mất hết mọi trợ lực của loài người, khi các tài năng của họ có vẻ như bất động, và trong sự nhàn rỗi thánh thiện của việc chiêm niệm, linh hồn tự cảm thấy mất hướng và lạc lõng. Và nó cảm thấy choáng váng. Nó thấy mình ở bên bờ vực thẳm, vực thẳm của sự bất lực của con người, và của sự vô dụng của các tài năng của mình. Nó thấy tự nó không thể làm được điều gì hết. Cho nên nếu khi đó nó thiếu lòng trông cậy, nếu nó không có đôi cánh của một niềm tín thác vững vàng để bay lượn trên vực thẳm và vượt qua vực thẳm, nó sẽ có nguy cơ sa ngã hoặc muốn trở lui.

Và sẽ đúng như thế, nếu linh hồn trải qua hai cơn thử thách lớn lao của cuộc sống thần bí : đó là đêm tối của các giác quan, hoặc thử thách ghê sợ hơn nữa là đêm tối của tâm trí : chính thử thách này sẽ dẫn đưa linh hồn tới đỉnh cao của đời sống thánh thiện. Thánh Gioan Thánh Giá đã mô tả cách đậm nét những sự hãi hùng của những đêm tối này : linh hồn cảm thấy mình bước đi một mình, sờ soạng trong đêm tối, như thể bị Thiên Chúa ruồng bỏ vậy. Ôi ! Trong những cơn thử thách đau đớn đó, linh hồn cần phải tín thác dường nào ! Nó cần phải cậy trông khi không còn gì để cậy trông, như tổ phụ Abraham. Khi đó, nếu linh hồn mất lòng trông cậy, hoặc không mất lòng trông cậy nhưng bôn chôn và bối rối quá mức, nó sẽ cản trở hành động thanh tẩy và soi sáng của Thiên Chúa. Nó cản trở công việc làm của vị giải phẫu thần linh là Thiên Chúa, và như vậy Ngài sẽ phải buồn lòng rút lại những ân sủng quí trọng nhất của Ngài, để lại dẫn đưa linh hồn qua những con đường ít khổ ải hơn, những con đường thông thường, không bao giờ dẫn tới những đỉnh cao.

Nó tránh cho ta khỏi chứng tự kiêu là cản trở của ân sủng. – Niềm tín thác không những được coi là quí giá đối với những linh hồn ưu tú được Chúa dẫn đưa qua những con đường cao siêu của tình yêu thụ động, nhưng còn quí trọng cho tất cả các linh hồn, ở bất cứ bậc thang nào trên con đường thiêng liêng. Niềm tín thác đích thực nơi Thiên Chúa, một niềm tín thác của người con thảo, sẽ cất khỏi linh hồn ta cái chướng ngại vật lớn lao khiến ta không nhận được biết bao ân sủng, đó là tính tự kiêu, cậy vào sức loài người của mình. Khi Thiên Chúa thấy một linh hồn cậy mình, tin tưởng vào những tài năng tự nhiên của mình, Ngài sẽ không thể đổ các ân sủng của Ngài xuống trên một linh hồn đầy tự tin vào mình nó như thế. Vậy trước hết, niềm tín thác khiêm nhường nơi Thiên Chúa phải làm cho linh hồn quá đầy sự cậy mình này trở nên trống rỗng :  nó phải thôi cậy mình, phải thất vọng về bản thân mình để đặt tất cả niềm cậy trông vào Chúa. Khi đó Thiên Chúa sẽ có thể đổ hồng ân các ân sủng quí báu xuống linh hồn đó.

Nó là như lá bùa giúp ta đạt được mọi sự.–Nhưng niềm tín thác còn làm nhiều hơn là giúp ta có tâm trạng để đáng lãnh nhận các ân sủng, nhờ một việc làm tiêu cực, tức thanh tẩy và diệt trừ tính cậy mình. Nó còn có vai trò tích cực : nó giúp ta lãnh nhận được những ân sủng quí trọng nhất. Chúng ta đã thấy trên kia rằng Thiên Chúa đã hứa tất cả, và Ngài ban tất cả cho những ai có niềm tín thác đích thực.

“Một hôm Chúa Giêsu từ làng Bêtania trở lại  Giêrusalem vào lúc sáng sớm. Ngài cảm thấy đói. Nhìn thấy một cây vả bên đường, Ngài tiến lại gần, nhưng chỉ thấy toàn là lá. Ngài nói với cây vả : “Không bao giờ mi sinh ra hoa trái nữa !”. Lập tức cây vả liền chết khô. Thấy thế, các môn đệ kinh ngạc và nói : “Làm sao cây vả có thể chết tức thì như vậy?” Chúa Giêsu trả lời họ : “Thật, Thầy bảo thật, nếu anh em có niềm tin, có niềm tín thác và không hoài nghi, không những anh em có thể làm như Thầy đã làm cho cây vả này, nhưng nếu anh em bảo trái núi kia : “Hãy dời khỏi đây và gieo mình xuống biển !” thì điều đó sẽ xảy ra. Tất cả những gì anh em cầu xin với niềm tin cậy, anh em sẽ nhận được” (Mt 21,18-22).

Vậy chúng ta hãy cầu xin với niềm tin, với một niềm tín thác đích thực, không chút nghi ngờ, không tính toán về sự lớn lao của hồng ân mà ta cầu xin, thì chắc chắn chúng ta sẽ nhận được. Ôi ! Niềm tín thác là viên ngọc quí dường nào ! Đó thật là viên ngọc vô giá, quí trọng hơn tất cả mọi kho báu. Đó là như lá bùa thiêng mang lại cho ta tất cả những gì chúng ta ước ao, giúp chúng ta đạt được tất cả những gì chúng ta mơ ước.

Nó làm cho ta rất được Chúa yêu thương.– Không lạ gì niềm tín thác giúp ta đạt được mọi sự. Bởi vì nó là viên ngọc quí và hiếm lắm, nó giúp ta chiếm được lòng Vua cả trời đất và cũng là Cha trên trời của chúng ta. Nó rất đẹp lòng Ngài và làm Ngài say mê. Bởi vì trong số đàn con rất đông đảo của Ngài, được Ngài yêu thương và chiều chuộng ban cho các ân huệ của Ngài, rất ít những linh hồn thật sự tín thác nơi Ngài và sống như những con cái thật sự của Ngài. Rất ít linh hồn đáp lại lòng nhân hậu của Ngài bằng một niềm tín thác con thảo, đầy tin tưởng. Bởi vậy Ngài đặc biệt ưu ái những linh hồn rất ít ỏi đó : họ sống như những người con yêu dấu của Ngài. Khi vui cũng như khi gặp nghịch cảnh, những lúc được an ủi cũng như trong những cơn thử thách, họ luôn luôn tin vào tình thương của Cha trên trời. Đúng thế, những linh hồn này đã làm say mê, đã chiếm được trái tim của Cha trên trời. Đó là những đứa con cưng của Ngài.  Không có gì mà Ngài không sẵn lòng ban cho họ.

Chúng ta hãy cố gắng trở thành những linh hồn quá ít ỏi đó, những linh hồn được Cha trên trời đặc biệt yêu thương. Chúng ta hãy lo an ủi Ngài vì sự nghi ngờ của bao linh hồn đối với Ngài. Chúng ta hãy quyết tâm sống tín thác nơi Ngài, thay thế cho biết bao linh hồn thiếu tin cậy nơi Ngài, và chúng ta sẽ trở thành đối tượng của những ưu ái thần linh của Ngài. Rồi một ngày kia chúng ta sẽ được hát mừng lòng thương xót Chúa muôn đời. “Tôi sẽ ca hát lòng thương xót Chúa đến muôn đời”.

II. NIỀM TÍN THÁC GIẢ THIẾT PHẢI CÓ LÒNG YÊU MẾN NHIỀU, VÀ NÓ LÀ MỘT THỰC TẬP KỲ DIỆU CỦA LÒNG YÊU MẾN.

–   NÓ DẪN ĐƯA ĐẾN ĐỈNH CAO NHẤT CỦA TÌNH YÊU LÀ TUỔI THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG.

Niềm tín thác giả thiết phải có lòng yêu mến nhiều, và nó là một thực tập kỳ diệu của lòng mến yêu.– Trình bày cho thấy tín thác là nhân đức rất quí trọng và rất cần thiết cho các linh hồn, nhất là cho những linh hồn nội tâm ; trình bày cho thấy nó là chìa khóa mở ra cho ta tất cả các kho báu trên trời, và cho thấy rất đáng tiếc rằng : nhân đức rất được Cha chúng ta ở trên trời ưa thích, lại là một nhân đức quí hiếm, phải chăng đã là trình bày hết mọi lẽ dạy ta phải quí trọng nhân đức này ? Chưa đâu! Bởi vì còn một lẽ ít được người ta xem xét đến, và đó là phương diện làm cho niềm tín thác phải được những linh hồn say mến Chúa đặc biệt quí mến : đó là những tương quan giữa niềm tín thác và đức Ái là nữ hoàng các nhân đức.

Tự bản thân nó, tín thác không phải là yêu mến, cũng như khiêm nhường và hãm mình không phải là đức mến. Tuy nhiên, một hành vi khiêm nhường thường chứa đựng biết bao tình yêu mến ? Khi, trong một hành vi rất mực khiêm nhường, Mađalêna đã chê ghét cuộc đời quá khứ của chị, tưới ướt hai bàn chân của Chúa Giêsu bằng những nước mắt sám hối của chị, chị đã yêu mến Chúa nhiều lắm. Chúng ta cũng phải nói như thế về niềm tín thác. Một hành vi tín thác trong lúc chán nản, hoặc trong khi đau khổ, thường là một hộp đựng nữ trang, trong đó có một viên ngọc đức Ái lớn lao. Khi bị thử thách, nhất là khi bị chìm đắm trong buồn rầu, cảm thấy mình như đã bị Chúa ruồng bỏ, mà vẫn cậy trông vào tình thương vô cùng của Ngài, và vẫn một niềm tín thác nơi Ngài như khi được an vui và thịnh vượng, thì đó là điều giả thiết và cho thấy ta có lòng mến yêu lớn lao.

Xét cho cùng, lòng mến yêu Chúa là động lực của mọi hoạt động trong cuộc sống thiêng liêng, là nhựa sống làm trổ sinh hoa trái là tất cả các nhân đức khác. Thánh Augustinô đã nói : “Hãy yêu mến rồi làm gì tùy ý”. Hãy yêu mến Thiên Chúa rồi các bạn sẽ có lòng bác ái, sẽ hiền hậu, nhẫn nhục, khiêm tốn, hãm mình và quên mình. Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm : chính đức ái giúp chúng ta vượt qua mọi chướng ngại vật và làm cho chúng ta can đảm chạy lẹ trên con đường các nhân đức. Linh hồn càng lên tới các đỉnh cao, đức ái càng chiếm lĩnh tất cả cuộc sống thiêng liêng của nó. Đức mến là nồng cốt tất cả mọi nhân đức : nó là linh hồn của mọi nhân đức. Đức mến sẽ là nguyên lý của tất cả các hành vi của linh hồn : chính đức mến tỏa ra nơi các hành vi khiêm nhường, nhẫn nhục, bác ái, nhiệt thành và từ bỏ. Chính đức mến thúc giục linh hồn thực hiện các hành vi, biến mật đắng của những đau khổ thành mật ong ngọt ngào, và cũng chính đức mến dạy cho linh hồn biết tìm thấy nơi các hành vi đạo đức của mình, cách làm giảm hạ lửa nhiệt thành đang thiêu đốt nó.

Nhưng nếu tất cả các linh hồn yêu mến Chúa đều say sưa những hình thức mến yêu như đau khổ, chịu khinh chê, bác ái, tông đồ, thì nhiều linh hồn vẫn chưa biết yêu mến hình thức tuyệt hảo của đức mến là niềm tín thác. Có vẻ họ chưa nhận ra và chưa cảm nghiệm tất cả những gì là mến yêu, và mến yêu nồng nàn được chứa đựng trong niềm tín thác. Lý do có thể là vì niềm tín thác được thi thố nhất là trong những cơn thử thách, những lúc bị khô khan, những đêm tối, mà khi đó lòng mến yêu không còn chút gì là cảm xúc, cho nên xem ra như đã tắt. Khi đó linh hồn vẫn quyết tâm tín thác nơi Chúa, tin vào tình thương vô cùng thương xót của Ngài, nhưng không cảm thấy lòng mến yêu rất lớn lao của mình đối với Chúa.

Vị thánh nữ vĩ đại thành Lisieux đã hiểu rất rõ niềm tín thác trong những lúc sầu khổ luôn giả thiết và chứng tỏ lòng yêu mến, bởi vậy chị thánh tỏ ra đặc biệt quí chuộng những cơn sầu khổ. Chị thánh sung sướng được có thể yêu mến Chúa Giêsu trong những lúc khô khan như thế, và vững tâm tin vào tình thương trung thành của Ngài, bất chấp mọi vẻ ngược lại. Chị quá biết rằng nhiều linh hồn thường than phiền và rối trí khi bị buồn sầu, và như vậy họ cản trở không để Chúa Giêsu tự do hành động ở trong họ. Về phần mình, chị thánh thường nói với Chúa Giêsu xin Ngài cứ tự nhiên đối với chị, không phải nhẹ nhàng gì hết, bởi vì chị muốn an ủi Chúa về sự thiếu tín thác của những linh hồn kia. Ôi ! Một thái độ như thế vừa giả thiết, vừa chứng tỏ một tình yêu mạnh mẽ và tế nhị biết bao ! Niềm tín thác của những linh hồn như thế phải được coi là mùa hoa luôn luôn tươi nở của lòng yêu mến.

Có những linh hồn quảng đại, và tạ ơn Chúa, xem ra con số những linh hồn đó đang ngày càng lớn thêm : họ khát khao yêu mến Chúa nhiều hơn. Những ân sủng của chiêm niệm đã dẫn họ tới gần nguồn mạch của mọi sự tốt đẹp và của yêu thương. Họ đã hiểu được rằng, dầu họ làm thế nào đi nữa, họ cũng không bao giờ có thể yêu mến Thiên Chúa như Ngài đáng mến yêu. Và ý thức về sự bất lực của lòng mến như thế là tâm tình không lúc nào rời khỏi tâm trí họ, giống như một thứ lửa thiêu đốt, một niềm ước ao không thể nào thỏa mãn. Họ không thể yêu mến và làm cho người khác yêu mến Chúa vô cùng đáng mến, như Ngài đáng được kính mến ; ít ra họ yêu mến Ngài và làm cho người ta yêu mến Ngài theo sự có thể của họ. Đối với những linh hồn đó, tất cả cuộc đời là để biểu lộ lòng mến. Họ luôn tìm mọi cách để tỏ lòng mến yêu : những công việc thường ngày, những lúc chiêm niệm, những đau khổ, công việc tông đồ, mọi cái đều có thể giúp họ tỏ bày lòng mến đối với Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối.

Với những linh hồn đó, đức tín thác, người em gái quí yêu của đức Ái, tha thiết nhắn nhủ rằng: Đừng quên tôi ! Hãy đến với tôi, hỡi các bạn đang khao khát lòng mến và hy sinh tận hiến ! Các bạn hãy đến và hãy nếm thử tôi ngọt ngào dường nào ! Các bạn hãy làm việc cho Chúa Giêsu ! Các bạn hãy tận tụy, hãy xả thân vì lòng mến, hãy chịu đau khổ vì lòng mến, đúng như thế đó, nhưng trước hết các bạn hãy tín thác vì yêu mến và để tỏ bày lòng yêu mến !”

Đúng thế, hỡi các linh hồn quí yêu, niềm tín thác là thứ dầu nóng quí giá, có sức làm giảm đau những vết thương tình yêu Thiên Chúa của các bạn. Khi cơn thử thách làm các bạn lo âu, khi Chúa Giêsu muốn các bạn chịu đau khổ, các bạn hãy cứ vững tin vào tình thương bao la của Ngài và hãy đáp lại bằng một lòng mến yêu tín thác. Khi sự khô khan khiến các bạn mất an vui, khi những sự khốn khó của các bạn có vẻ đáng sợ, các bạn hãy tin vào tình thương đầy thương xót của Ngài, và để đáp lại, các bạn hãy tín thác tất cả nơi Ngài !

Khi đêm tối bao phủ các bạn và Chúa Giêsu ẩn trốn, có vẻ như bỏ rơi các bạn, khi đó, và nhất là khi đó các bạn hãy kêu với Chúa Giêsu : “Lạy Chúa, con muốn mọi sự, con chúc tụng mọi sự, nhưng nhất là con tin vào tình thương của Chúa. Chúa là của con, và con hoàn toàn là của Chúa, mãi mãi”. Lời kêu xin đầy lo âu đó của linh hồn, là lời kêu của niềm tín thác mến yêu, nó đáng giá hơn những sự hãm mình khổ hạnh.

Chúng ta hãy siêng năng suy gẫm về niềm tín thác, để hiểu rõ hơn về cái mỏ vàng quí giá mà chúng ta có, và cho đến nay chúng ta vẫn khai thác quá ít. Chúng ta hãy nhờ việc nguyện gẫm để thấy rõ, và nhất là bằng việc tập đi tập lại đức cậy trông tín thác để cảm nghiệm tất cả lòng mến yêu ở trong đó. Sẽ có ngày chỉ cần nhớ lại những kinh nghiệm của niềm tín thác mến yêu này, cũng đủ làm cho chúng ta hoan hỉ vô cùng.

Và nhất là nhờ đó chúng ta sẽ an ủi và làm vui lòng trái tim Thầy chí thánh, vì chúng ta là những người lo an ủi Chúa Giêsu. Có nhiều linh hồn yêu mến Ngài và dâng lên Ngài những đau khổ để đền tạ. Nhưng quá ít linh hồn tín thác đích thực và trọn vẹn nơi Ngài. Trọn vẹn tín thác : đó là hình thức của lòng mến yêu đền tạ và an ủi Chúa mà ít người nghĩ tới, và đó là thứ tình mến yêu mà chúng ta phải mang lại cho Chúa Giêsu, vì chúng ta là những linh hồn được Ngài yêu thương cách riêng. Vậy mà chính chúng ta cũng ít khi yêu mến Chúa bằng cách này. Nhưng đó là cách minh chứng và thực hiện tình mến yêu lớn lao mà Thiên Chúa mong đợi ở nơi chúng ta, và chúng ta phải dành cho lòng nhân hậu đầy yêu thương của Ngài.

Bởi vì người ta có thể yêu mến Thiên Chúa vì Ngài đáng yêu mến vô cùng, nhưng người ta không hoàn toàn tín thác nơi Ngài, vì người ta thấy Ngài vô cùng tốt lành, nhưng chưa thấy Ngài yêu thương ta, và yêu thương bằng một tình thương vô cùng. Những linh hồn đã hiểu và đã cảm nghiệm tình thương vô cùng của Chúa, một tình thương rất nhân hậu, âu yếm và cảm thông, tất nhiên sẽ đáp lại không những bằng tâm tình mến yêu nồng nàn, mà còn bằng một niềm tín thác trọn vẹn. Tóm lại, chúng ta vẫn chưa hiểu rõ tình thương và lòng nhân hậu vô cùng của Chúa. Chúng ta vẫn chưa yêu mến Chúa một cách trọn vẹn và đầy đủ, vì sự nhớ đến những yếu hèn và những sự bất trung của chúng ta vẫn làm tê liệt niềm tín thác của chúng ta, cho nên niềm tín thác của chúng ta vẫn bị giới hạn.

Nó dẫn đưa ta tới đỉnh cao nhất của lòng mến là tuổi thơ ấu thiêng liêng.– Tất cả những gì chúng ta đã thấy trên đây về niềm tín thác, là để thúc giục chúng ta quí mến nhân đức này, và ước ao nhân đức kỳ diệu này. Nhưng chúng ta còn phải thấy phần tốt đẹp nhất của nhân đức này.

Chúng ta đã nói niềm tín thác là một biểu hiệu của lòng mến, và của một lòng mến yêu mãnh liệt. Bởi vậy dần dần nó sẽ dẫn đưa chúng ta lên tới đỉnh của tình yêu là sự từ bỏ mình, rồi lên tới đỉnh cao nhất là tuổi thơ ấu thiêng liêng.

Từ bỏ mình gợi lên một cái gì dịu êm và thư thái. Cuộc sống từ bỏ mình là sự sống trong sáng của đứa bé trong vòng tay của mẹ nó. Nó không lo lắng, không sợ hãi, không ước muốn gì hết. Đối với đứa bé, sống là an nghỉ một cách trìu mến trong vòng tay của người mẹ đầy yêu thương, được nuôi sống bằng sữa mẹ, vuốt ve mẹ và hôn yêu mẹ. Đứa bé hạnh phúc vì có tất cả nơi mẹ nó mà nó ôm ghì lấy một cách âu yếm. Mẹ của nó là tất cả tình yêu và tất cả hạnh phúc của nó. Mẹ nó là tất cả một thế giới cho nó. Nó chỉ thấy có mẹ nó, chỉ biết có mẹ, ngoài ra nó không còn thấy chân trời nào khác.

Đó cũng chính là sự sống của những con cái bé nhỏ của Chúa, nhờ sống bằng tín thác, đã đạt tới cuộc sống từ bỏ mình, và sống tuổi thơ ấu thiêng liêng. Ôi! Cuộc sống của họ đơn sơ và hiệp nhất dường nào ! Họ không còn lo nghĩ gì nữa. Những chuyện vật chất của cuộc sống trần gian bị xóa nhòa trước mắt họ, như những điều phù phiếm. Họ cũng không bận tâm để tìm ra con đường nào tốt nhất cho sự trọn lành, không lo tìm những kế hoạch khôn ngoan để nên thánh. Thiên Chúa lại không vô cùng khôn ngoan hơn họ và biết rõ những gì phù hợp cho họ sao ? Có gì Ngài ước ao hơn là dẫn dắt họ tới sự thánh thiện, như người mẹ dẫn dắt con mình ?

Nhờ niềm tín thác, tất cả đối với họ bây giờ là để Chúa thánh hóa họ, để Ngài dẫn dắt đi, và chỉ lo sống ngoan ngoãn và âu yếm dưới sự tác động của ân sủng. Họ an nghỉ như một em bé trong vòng tay của Thiên Chúa nhân ái vô cùng, và trọn niềm tín thác nơi Ngài.

Chính Chúa Giêsu là em bé lý tưởng và toàn thiện sẽ đến giúp họ. Ngài sống trong họ, Ngài cho họ sống bằng sự sống của Ngài. Ngài sẽ ban cho họ tinh thần thơ ấu của Ngài. Họ sẽ hiểu vai trò này của Chúa Giêsu. Tất cả mọi ước muốn, mọi hành động của họ sẽ chỉ lo sao để Ngài sống đầy đủ trong họ, hầu tâm tình và ý chí của họ thấm nhuần tinh thần của Ngài. Họ không còn những ước ao và những lo sợ của bản thân họ nữa, họ không ý thức chấp nhận những vui buồn của bản thân nữa. Ý muốn của Chúa Giêsu Hài đồng sẽ là chủ tất cả. Ý muốn của Ngài được thực hiện dưới đất này, nơi tâm hồn họ, cũng như đang được thực hiện trên thiên đàng của các thiên thần và các thánh. Tất cả cuộc sống của họ được gói gọn trong lời này : “Cuộc sống của anh em được giấu ẩn với Chúa Kitô trong Thiên Chúa” (Col 3,3). Họ để mình được thánh hóa, được thần linh hóa trong Chúa Giêsu.

Như vậy Chúa Hài đồng của Nazareth sẽ sống mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn ở trong họ. Họ hiệp nhất với Ngài để yêu mến Chúa Cha, hay nói đúng hơn, chính Chúa Giêsu Hài đồng yêu mến Cha trên trời ở trong họ, an nghỉ trong vòng tay của Chúa Cha cách âu yếm, ôm ghì lấy Ngài và tưởng như còn đang sống những ngày tươi đẹp và vui mừng tại Nazareth.

Chúa Giêsu ban cho họ đôi mắt của Ngài và trái tim của Ngài, để họ yêu mến Thiên Chúa với trái tim của Ngài, và để họ chỉ nhìn ngắm Thiên Chúa thôi. Thiên Chúa sẽ là tất cả chân trời của họ: tất cả mọi sự xung quanh họ đều rực sáng lên bằng hào quang của Thiên Chúa. Họ nhìn thấy Thiên Chúa khắp nơi, trong mọi sự. Họ cảm thấy mình đắm chìm trong Đại dương của Tình yêu Thiên Chúa. Những làn sóng dạt dào tình thương vô cùng của Chúa lúc lúc lại ru linh hồn họ và thấm nhuần linh hồn họ. Thiên Chúa bao che họ và ở trong họ. Chúa Giêsu yêu mến Cha Ngài ở trong họ : đó là cuộc sống thần linh hóa của họ, báo trước sự sống muôn đời của họ trên thiên đàng.

Đó là cách niềm tín thác dẫn dắt họ, cùng với người chị mến yêu của nó là đức Ái.

Vậy đời sống tín thác là gì ? Là một niềm tín thác mến yêu, hay đúng hơn đó là lòng mến yêu tín thác. Hai nhân đức tốt đẹp, đức cậy và đức mến hòa vào nhau thành như một. Ai còn có thể phân biệt ở đáy Đại dương tình mến những khối nước ngọt từ con sông tín thác chảy vào và tan hòa trong đó ?

Vậy chúng ta phải tha thiết vun trồng đức tín thác, phải tìm kiếm trăm ngàn cơ hội để thực tập nhân đức này, và nhất là phải dùng lời cầu nguyện và lòng ước ao để xin Chúa ban ơn đó cho ta, vì niềm tín thác là bông hoa chỉ tươi nở trong bầu trời của tuổi thơ ấu thiêng liêng.

Và chúng ta đừng nghĩ rằng sống tín thác là một ảo tưởng, một mộng đẹp không dành cho chúng ta, hoặc không hợp với chúng ta trong lúc này. Trái lại, ngay từ bây giờ chúng ta phải sống một chút bằng sự sống đó. Ngay từ bây giờ chúng ta được mời gọi hãy hít thở không khí tốt lành và bổ sức của cuộc sống tín thác. Sống tín thác là cuộc sống dành cho mọi người, mọi linh hồn khát khao sống quên mình, và sẵn sàng tận hiến. Nó được dành cho tất cả các linh hồn muốn hạnh phúc của mình là biến mất đi để nhường chỗ cho Chúa Giêsu sống trong mình, chết đi để Ngài sống và lớn lên trong mình.

Nhất là nó được dành cho các bạn, hỡi những linh hồn đang say mê đi theo linh đạo đồng hóa với  Chúa Giêsu, mà lý tưởng là một ngày kia được kêu lên như thánh Phaolô : “Tôi sống, không còn là tôi sống, nhưng Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,20). Chúa Giêsu xin các bạn dành cho Ngài được hạnh phúc ngọt ngào sống trong các bạn. Và hình thức mến yêu tuyệt diệu này chính là niềm tín thác trọn vẹn. Chúa Giêsu nài xin các bạn dành cho Ngài niềm vui quí hóa này, một niềm vui mà rất thường khi người ta từ chối Ngài : Ngài muốn sống trong các bạn để có thể ở trong bạn và nhờ bạn mà còn có thể yêu mến Cha Ngài bằng một tình yêu tín thác đơn sơ.

Ồ, chúng ta hãy mau mau sống hạnh phúc thiên đàng ngay trong cuộc sống trần gian này. Ngay từ nơi lưu đày này, chúng ta phải làm quen với cuộc sống ở trên trời. Cuộc sống thiêng liêng viên mãn, tươi nở, đầy ánh sáng của những linh hồn quảng đại là một thứ nhà tập của thiên đàng. Chính Chúa Giêsu đã giảng dạy như thế : “Nước trời thuộc về những trẻ nhỏ và những ai giống như chúng” (Lc 18,16)[2].

 Paul De Jaegher S.J.


[1]Xem những ghi nhận của Tanquerey, Đại cương về thần học tu đức và thần bí, in lần thứ 4, số 1300, về ơn chiêm niệm thiên phú.

[2]Trong số những linh hồn đã nên thánh một cách vinh hiển  nhất bằng con đường thơ ấu thiêng liêng, phải kể đến thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu, một vị thánh đã sống rất gần chúng ta. Cuốn tiểu sử tự thuật của chị thánh là một minh họa sống động cho linh đạo ngọt ngào này.

Niềm Tín Thác – Chương I: BẢN CHẤT CỦA NIỀM TÍN THÁC

– SỰ CẦN THIẾT CỦA NIỀM TÍN THÁC

– ĐỐI TƯỢNG CỦA NIỀM TÍN THÁC

– NHỮNG LÝ DO CỦA NIỀM TÍN THÁC

Sự cần thiết của niềm tín thác. – Đức cậy trông, và niềm tín thác là sự phát huy và hoa trái của đức cậy, là như mặt trời dùng ánh sáng và sức nóng của nó để làm nảy sinh mọi thứ trong thế giới đạo đức, làm cho mọi thứ sống động, tăng trưởng và sinh hoa trái. Những chỗ mà các quang tuyến bị giá lạnh của nó khó soi tới, hoặc chỉ tới được mỗi năm một ít tháng thôi, thì người ta thấy sự tàn tạ, vắng bóng sự sống, có mặt sự chết. Thiếu niềm cậy trông, mọi sự sẽ rã rời, mọi thứ sẽ suy sụp, sẽ trở thành tiều tụy. Không còn phấn khởi, không còn hoạt động, không còn sự sống. Mọi thứ đều chết. Thiếu niềm tín thác, ngay cuộc sống trần gian này cũng không sống nổi. Hãy tưởng tượng hai vợ chồng không còn tin tưởng nhau, nghi ngờ nhau. Cuộc sống của họ không còn gì là vui sướng, không còn gì là dịu dàng, không còn gì là tình yêu. Một đứa bé không tin tưởng và tín thác nơi mẹ nó sẽ như thế nào ? Nó sẽ sống làm sao ?

Về đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúng ta là những đứa con bé nhỏ của Thiên Chúa, những đứa trẻ yếu đuối, bất lực, không thể sống, tăng trưởng và phát huy, nếu nhân đức hướng thần rất tốt đẹp là đức cậy không mạnh mẽ trong tâm hồn chúng ta. Nếu chúng ta không có một niềm tin tưởng tín thác thật lớn lao và vững vàng nơi Thiên Chúa, chúng ta chỉ có thể sống èo ọt. Nếu thay vì tìm kiếm nơi Chúa những ân sủng, những sự trợ giúp, những thức ăn của đời sống thiêng liêng, chúng ta lại chỉ dựa vào sức mình và tìm cách sống tự lập, thì chúng ta sẽ như những trẻ sơ sinh đã mất mẹ.

Vậy điều hết sức quan trọng là chúng ta phải lo gia tăng, lo cho đức cậy trông, niềm tín thác của chúng ta nơi Thiên Chúa lớn thêm mãi lên. Đức cậy càng vững vàng, càng mãnh liệt, thì đời sống thiêng liêng của chúng ta càng tươi nở, càng tròn đầy, nhịp tim của chúng ta càng phấn khởi và tình mến yêu Chúa càng bừng cháy trong tâm hồn chúng ta.

Đối tượng của đức cậy trông. – Vậy trước hết, niềm tín thác là gì ? Thánh Tiến sĩ thiên thần nói đó là một hình thức của đức cậy trông, và ngài định nghĩa “tín thác là một niềm cậy trông được vững mạnh nhờ một sự xác tín vững vàng[1].  Ở một chỗ khác, thánh nhân còn nói: “Từ tín thác có nghĩa là niềm cậy trông mà ta có vì tin vào lời của ai đó đã hứa giúp đỡ ta[2]. Vậy có thể nói, như chúng tôi đã nói trên kia, rằng niềm tín thác là sự phát huy và hoa trái ngon ngọt của đức cậy[3].

Vậy trước hết phải biết chúng ta có thể cậy trông những gì nơi Thiên Chúa. Nói cách khác, đối tượng của đức cậy là gì ?

Điều này chúng ta đã biết từ hồi còn nhỏ. Sách giáo lý đã dạy chúng ta rõ ràng. Chúng ta không cậy trông nơi Thiên Chúa điều gì khác ngoài chính mình Ngài, vì Ngài là sự Thiện tối cao, là Hạnh phúc muôn đời của ta, và chúng ta cũng hy vọng nhận được tất cả mọi phương tiện dẫn tới Ngài. Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta vì Ngài, để chúng ta có được Ngài phần nào ngay ở đời này bằng đức tin và đức mến, để chúng ta sống nhờ Ngài và cho Ngài, để một ngày kia chúng ta có được Ngài cách trọn vẹn ở trên trời. Như vậy chúng ta cậy trông đạt được cùng đích tối hậu của chúng ta ở nơi Ngài.

Mấy lời ngắn ngủi trên đây thật là đơn giản, nhưng chúng che khuất cả một chân trời vô biên. Chúng ta là những tạo vật đáng thương hại, những hạt bụi bé nhỏ trước mặt Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã gọi chúng ta hãy lên với Ngài, hãy kết hiệp với Ngài là sự Toàn Thiện vô cùng, và Ngài cho chúng ta tìm thấy một sự ngây ngất của tình yêu diễm phúc trong việc chiêm niệm cách yêu mến các phẩm tính thần linh của Ngài.

Đó là ý định của Thiên Chúa về chúng ta, đó là niềm ước ao của Ngài, kế hoạch của Ngài. Và để chúng ta luôn hướng về Ngài, Ngài đã đặt nơi đáy lòng chúng ta một sự khát khao không nguôi đối với Ngài. “Lạy Chúa, Ngài đã tạo thành chúng con vì Ngài, cho nên trái tim chúng con bất an cho tới khi được nghỉ yên trong Ngài[4]. Chúng ta thèm khát Thiên Chúa ; ngay từ khi sinh ra, chúng ta đã được Thiên Chúa ghi dấu ấn thần linh trên chúng ta. Ý thức hay không ý thức, là thánh nhân hay là người tội lỗi, tất cả chúng ta đều bị lôi cuốn cách kỳ diệu bởi Thiên Chúa, như một thứ nam châm hằng hữu và phổ quát. Chúng ta bị thu hút rất mạnh mẽ bởi Đấng là sự Thiện tối cao, đến nỗi sự khao khát hạnh phúc này cũng đồng thời là niềm khao khát hạnh phúc đã trở thành động lực vô thức và bí ẩn của tất cả mọi hành động của ta.

Chính sự thỏa mãn tròn đầy và trọn vẹn niềm khát khao sâu xa và nồng nàn này, không những đã được Thiên Chúa cho phép, mà Ngài còn truyền dạy người kitô hữu phải trông chờ ; cho nên khi họ lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, không những Ngài đã ban cho họ sự sống siêu nhiên, Ngài còn đặt vào linh hồn họ đức cậy siêu nhiên cùng với đức tin và đức mến.

Nhân đây xin nói rằng niềm khát khao siêu nhiên này gồm hai tâm tình : 10 niềm ước ao hạnh phúc siêu nhiên mà Chúa đã đặt làm đích điểm và cùng đích tối hậu của cuộc đời ta, 20 sự vững tâm sẽ đạt được niềm hạnh phúc đó nhờ nhận được từ Thiên Chúa tất cả những gì cần thiết để đạt tới.

Hai yếu tố này phát triển đồng thời, mặc dầu đôi khi yếu tố này hoặc yếu tố kia xem ra trội hơn, tùy những hoàn cảnh và những đường lối mà Thiên Chúa dắt chúng ta đi. Thật là một niềm an ủi lớn lao cho ta, khi biết rằng sự chúng ta quí mến đức trọn lành, những ước ao nồng nàn nên thánh đôi khi làm tâm hồn ta rung lên hoặc héo hon, là dấu hiệu quí giá cho biết đức cậy của chúng ta đang phát huy và, nhờ ơn Chúa, đang rất sống động.

Trong những cơn thử thách thiêng liêng lớn lao, nhất là trong những đêm tối thần bí, yếu tố thứ hai của đức cậy, tức sự vững tâm đạt được hạnh phúc muôn đời và nhận được những phương tiện cần thiết để đạt tới, sẽ bị thanh luyện trong lò những gian truân. Khi đó chúng ta thấy sự vững tâm này qúa ít ỏi và lung lay. Nhưng đó chỉ là một dáng vẻ thôi. Sự mãnh liệt của những ước ao thánh thiện làm nên yếu tố thứ nhất sẽ là một bảo đảm quí giá để khích lệ và nâng đỡ chúng ta. Cơn thử thách sẽ qua đi, và yếu tố thứ hai, tức sự vững tâm nên thánh, sẽ lại xuất hiện, mạnh mẽ hơn và vững vàng hơn bao giờ hết.

Những lý do để tín thác. – Nếu chúng ta cậy trông Thiên Chúa và tất cả những gì đưa ta đến với Ngài, thì chúng ta cũng phải cậy trông mọi sự ở nơi Ngài. Không những Thiên Chúa là đối tượng, nhưng Ngài còn là lý do và sự nâng đỡ đức cậy của chúng ta. Chúng ta đặt tất cả niềm cậy trông của chúng ta ở nơi Ngài và chỉ ở nơi Ngài mà thôi, bởi vì Ngài vô cùng quyền năng và không có một sự gì khó đối với Ngài. Nhưng nhất là chúng ta cậy trông Chúa vì Ngài là Cha rất yêu thương ta. Ngài vô cùng tốt lành và đầy lòng thương xót. Sau cùng chúng ta cậy trông Chúa vì Ngài tuyệt đối trung thành với những gì Ngài đã hứa.

Nên ghi nhận ngay điều này : chúng ta cậy trông nơi Thiên Chúa vì Ngài tốt lành và quyền năng, chớ không phải vì chúng ta tốt lành, dễ thương, hoặc vì chúng ta có khả năng gì. Đức cậy xây nền trên cảm tưởng hoặc ý thức về sức mạnh của mình không phải là đức cậy kitô-giáo và siêu nhiên. Một sự tự tin như thế chỉ là một cách tính toán về khả năng của mình và không phải là đức cậy, một nhân đức hướng thần rất tốt đẹp. Sau này chúng ta sẽ có dịp thấy rằng : than ôi ! Cỏ lùng của đức cậy giả dối có thể được trộn lẫn vào hạt giống tốt, và sự cậy vào sức mình là con ký sinh trùng có thể sống bám vào và làm hại bông hoa tươi đẹp là đức cậy kitô-giáo.

Ngay từ bây giờ, chúng ta phải hiểu rằng : muốn cậy trông vào Thiên Chúa bằng một đức cậy mãnh liệt, thực hành, vững vàng, chúng ta cũng phải có một ý tưởng mãnh liệt, và không chỉ lý thuyết, nhưng là một ý tưởng thực hành về các phẩm tính của Thiên Chúa, nhất là Quyền năng, sự Tốt lành và Tình yêu đầy thương xót của Ngài. Nếu biết bao người thiếu lòng cậy trông vào Chúa, thì một trong những lý do chính là vì họ chỉ có một ý tưởng trừu tượng và mờ nhạt về Thiên Chúa. Quyền năng, Nhân hậu và Tình yêu thương xót của Thiên Chúa là những từ không gợi lên một xúc động nào trong tâm hồn họ. Bởi vậy những sự tốt lành đó của Thiên Chúa phải trở thành những thực tại sống động cho ta, những thực tại ta sờ thấy được và hết lòng yêu mến. Tóm lại, đức tin của ta phải mãnh liệt hơn, phải chiếu nhiều ánh sáng hơn vào những phẩm tính thần linh đó của Chúa. Vì đức tin của ta yếu kém, cho nên dĩ nhiên đức cậy của ta cũng không hơn gì. Một điều chắc chắn là : nhận thức của ta về Thiên Chúa và các phẩm tính của Ngài, cũng như nhận thức của ta về Chúa Giêsu càng sống động, cụ thể và phong phú, thì niềm tín thác của ta cũng sẽ càng mạnh mẽ và vững vàng.

Muốn được thế, chúng ta phải thường xuyên suy gẫm các sách thánh : các Thánh Vịnh là những thánh thi tuyệt hảo ca tụng lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa ; – Các Phúc Âm với những hoạt cảnh rất cụ thể và sống động, diễn lại trước mắt ta cuộc đời đầy yêu thương, đầy nhân hậu và lòng thương xót của Chúa Giêsu. Ta cũng phải năng đọc các sách thần bí để làm phong phú thêm cho nhận thức của ta về các phẩm tính thần linh của Thiên Chúa. Các nhà thần bí đó là những bạn chí thân của Thiên Chúa : các ngài đã tới gần Thiên Chúa hơn những người khác. Một chút ánh sáng của những phẩm tính thần linh của Chúa đã soi tới tâm hồn các ngài, khiến các ngài choáng váng và đưa các ngài vào tình trạng xuất thần yêu mến. Tiếp xúc với những tác phẩm còn nóng ran của các ngài, còn rung động vì cảm xúc, chúng ta cũng sẽ cảm thấy tưng bừng, và những sự tốt lành của Thiên Chúa mà trước đây ta vẫn thấy là mờ nhạt và lạnh lùng, thì nay rực sáng lên với những mầu sắc huy hoàng, rất gần gũi và rất sống động.

Nhưng nhất là nhận thức của tôi về Thiên Chúa phải là một nhận thức thực hành, do kinh nghiệm sống của tôi và liên hệ đến bản thân tôi. Với bất cứ giá nào, tôi phải thoát ra khỏi lãnh vực của những học thuyết để đi vào hiện thực cụ thể. Tôi phải nhờ việc nguyện gẫm, chiêm niệm và tất cả cuộc sống thiêng liêng, cùng với những đấu tranh, những thất bại cũng như những chiến thắng để nhận thấy và cảm thấy rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của tôi, Chúa Giêsu là Đấng Cứu chuộc của tôi. Dần dần và bằng nhiều cách, tôi phải cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa rất tốt lành đối với tôi, Ngài thương yêu tôi, Chúa Giêsu đã chịu chết vì tôi, vì yêu thương tôi. Sau cùng, tôi phải cảm thấy rằng : ở đời này cuộc sống của tôi và ân sủng của Chúa Giêsu quấn lấy nhau, như cây dây leo quấn lấy cây sồi nâng đỡ nó.

Những điều kiện của tín thác.– Đức cậy có những điều kiện của nó. Thiên Chúa tốt lành vô cùng và đầy lòng thương xót, nhưng Ngài không quá hiền lành. Ngài ghen tuông về vinh quang của Ngài. Nhất là vì sự thánh thiện và vì sự khôn ngoan của Ngài, Ngài không thể để người ta uổng phí các ân sủng của Ngài. Ngài không gieo hạt giống trên những mảnh đất khô cằn. Và Ngài làm thế, vì chính lòng nhân hậu của Ngài, vì Ngài quá biết rằng mọi ân sủng bị từ chối và mọi hồng ân bị lạm dụng sẽ kêu đến sự công chính của Ngài, và Ngài phải trừng phạt. Vậy niềm tin cậy và tín thác của ta phải sáng suốt và khôn ngoan : chúng ta đừng cậy trông cách dại dột những điều không được cậy trông.

Nên nhớ đối tượng của đức cậy là gì : đó là sau cùng được kết hiệp với Thiên Chúa, tức là hạnh phúc muôn đời và tất cả những gì giúp ta đạt tới hạnh phúc đó. Ngoài ra, chúng ta không được cậy trông gì khác. Cho nên sức khỏe, sự thịnh vượng vật chất, thành công trong công việc làm ăn, được người khác quí trọng, cũng như những hồng ân trong đời sống thiêng liêng, như những sự an ủi của Chúa, được chấm dứt thử thách này hoặc cơn cám dỗ kia, tất cả đều tùy vào sự đạt được cùng đích tối hậu của ta là ơn cứu độ. Cậy trông khác đi sẽ không phải là đức cậy kitô-giáo nữa, mà là sự khờ dại. Một người mẹ yêu thương con đến mấy, và chính vì bà yêu thương con mình, nên không thể đưa cho con một con dao để chơi, càng không thể đưa cho nó gói thuốc độc mà nó đòi uống. Và Thiên Chúa sẽ không khôn ngoan khi vì yêu thương mà ban cho ta một hồng ân sẽ có hại cho ơn cứu độ của ta.

Bởi vì thường chúng ta không biết điều này điều kia có tốt cho ta không, ân sủng nọ ân sủng kia có vẻ rất tốt cho ta, nhưng thật sự có ích lợi cho linh hồn ta không, vì chúng ta không rõ những kế hoạch của Chúa và đường lối Ngài muốn dẫn đưa chúng ta, cho nên trong đa số các trường hợp, chúng ta phải điều kiện hóa lời cầu xin và niềm tín thác của ta. Cậy trông cách tuyệt đối vào những gì có thể nguy hại cho ta sẽ là dại dột và sẽ đưa tới chán nản.

Chúng ta thường lãng quên điều quan trọng đó. Nhất là trong lãnh vực đời sống thiêng liêng,   chúng ta thường không nghĩ phải điều kiện hóa niềm tín thác của mình. Chúng ta coi là quá hiển nhiên phải xin được ơn an ủi này, phải được ơn chiêm niệm kia, phải được kết hiệp yêu mến với Chúa, phải được cha linh hướng kia vì ngài hết sức ích lợi cho ta… Đúng rồi, theo những kế hoạch nên thánh của ta, sự thể là như thế đấy, nhưng các kế hoạch của chúng ta không phải là những kế hoạch của Thiên Chúa. “Trời cách xa đất bao nhiêu, thì những đường lối của Ta cũng cách xa đường lối của các ngươi bấy nhiêu” (Is. 60,9).

Những kế hoạch của sự khôn ngoan loài người thiển cận thường không phù hợp với những kế hoạch khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Bởi đó, biết bao nhiêu lo âu, biết bao nhiêu cay đắng, biết bao nhiêu thất vọng được coi là những nhát búa đập phá nền cậy trông tín thác của ta ! Chúng ta đã cậy trông Chúa, đã cầu nguyện nhiều và với niềm tin tưởng mãnh liệt, lẽ ra chúng ta phải được Chúa nhận lời chứ !… Nhưng, thương hại thay ! Chúng ta đã không cậy trông đúng cách ! Lẽ ra chúng ta đã phải điều kiện hóa niềm cậy trông của mình, lẽ ra chúng ta đã phải chỉ cậy trông vào Chúa, vào đối tượng duy nhất của niềm cậy trông của chúng ta.

Xin cũng đừng quên rằng một số ân sủng, một số hồng ân ta ước ao, cũng nằm trong các kế hoạch của Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta, nhưng không đúng vào ngày giờ mà chúng ta ước ao, không theo cách mà chúng ta dự trù. Chẳng hạn, Chúa không ước ao gì hơn sự nên thánh của ta. Ngài luôn luôn lo mọi cách giúp ta. Chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng rằng Ngài sẽ ban ơn nên thánh cho ta, nếu chúng ta cũng làm hết sức mình và cầu nguyện cách kiên trì và trong những điều kiện Ngài muốn. Nhưng ta phải để Thiên Chúa, để cho sự khôn ngoan vô cùng của Ngài chọn và định đoạt những phương tiện nên thánh của ta. Nếu Chúa trì hoãn một chút, không đáp lại lời cầu xin của ta ngay, ta không nên vì thế mà mất niềm tín thác chút nào. Thánh Phaolô đã nói : “Tôi biết tôi tin tưởng vào Đấng nào” (2 Tim 1,12). Tôi biết tôi tín thác nơi Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc tôi. Và lời Thánh Vịnh: “Tôi cậy trông vào Thiên Chúa, tôi sẽ không tủi hổ bao giờ” (Tv 30,2).

Có thể chúng ta đã có dịp nhìn ngắm những họa sĩ khi họ đang thực hiện những công trình của họ. Chúng ta thấy họ khéo léo đặt những nét trên khung vải. Chúng ta không bao giờ nghĩ đến việc hỏi họ về nghệ thuật của họ, và mỉm cười hỏi họ về ý nghĩa của những vết sơn trắng và xanh dương không ra hình thù gì hết, rồi chỗ nhiều mầu sắc quyện vào nhau kia : sau cùng các chấm sơn và những nét vẽ kia đã cho ta thấy xuất hiện trên nền vải một khung trời với những đám mây, những ngôi nhà và những con người. Thiên Chúa là nghệ sĩ thần linh cũng dầy công phu vẽ nên bức họa kỳ diệu là đời sống của ta. Chúng ta đừng vội hỏi Ngài về các kế hoạch của Ngài, và đừng muốn đưa ra các ý kiến của ta, bắt Ngài phải chấp nhận. Ngài thừa biết cách pha các mầu, phối hợp những chỗ sáng và những chỗ tối để thực hiện một kiệt tác xứng với Ngài.

Sau khi đã có sự dè dặt này, đã giữ điều kiện này, bây giờ thử xem những điều kiện để ta được tha hồ tín thác vào Chúa.

Điều kiện cần thiết hơn hết là một chút khiêm nhường, ý thức về sự bé mọn của mình, về sự bất xứng và bất lực của mình. Nếu chúng ta đến với Chúa với một cái gì gợi lên những tâm tình của người Biệt phái kiêu ngạo, thì chúng ta biết trước hậu quả của lời cầu nguyện của mình. Ngay ở trần gian này chúng ta cũng không thể chấp nhận một kẻ ăn xin dám đòi hỏi chúng ta phải rộng lượng với hắn. Thật không có gì hỗn xược hơn, khó coi hơn. Thiên Chúa càng không thể chấp nhận tính kiêu căng tự đại nơi chúng ta là những kẻ ăn xin khốn khó. Không có gì khiến Ngài ngoảnh mặt đi hơn. Nhưng nếu chúng ta không cậy vào công lao của mình, nhưng cậy vào lòng thương xót vô cùng, sự tốt lành vô biên và lượng khoan hồng của Ngài, nếu chúng ta không mắc cỡ tỏ cho Ngài thấy những nhu cầu về thân xác của ta và những ung nhọt của linh hồn ta, chúng ta có thể chắc chắn rằng Vua cả trên trời sẽ cúi nhìn chúng ta với đầy lòng thương xót, sẽ nâng đỡ ta, giúp đỡ ta và chữa lành ta.

Tâm trạng đáng quí nhất, dịu ngọt nhất và cũng dễ dàng nhất, là tâm trạng của một em bé đối với cha và mẹ nó. Đôi khi cũng nên đến với Chúa như những kẻ ăn xin rách rưới đến với Vua các vua, và khẩn nài Ngài mở rộng kho thiêng liêng của Ngài. Nhưng tốt nhất và vô cùng êm ái vẫn là đến với Chúa như một đứa bé đến với cha và mẹ rất yêu thương nó. Chúng ta hãy đến thưa Chúa rằng ta đói, ta khát, ta đau yếu, hãy nói với Chúa về những buồn phiền, những lo âu, những ước vọng của ta. Hãy thưa với Chúa như những đứa con thảo. Và hãy cố gắng tỏ lòng trông cậy Ngài ít ra cũng bằng ta tin tưởng nơi người cha trần gian của mình. Như thế đã là nhiều lắm rồi, nhiều hơn tâm tình mà ta thường có đối với Chúa, nhưng Ngài là người Cha vô cùng tốt lành hơn bất cứ những người cha tốt lành nào ở trần gian này, Ngài không đáng chúng ta yêu mến và tín thác hơn thế sao ?

Có thể người ta sẽ vấn nạn rằng : nếu phải có đức khiêm nhường để có thể tín thác trọn vẹn nơi Chúa, thì làm sao thực hiện niềm tín thác được, bởi đa số chúng ta là những người tội lỗi ? Đức khiêm nhường chẳng phải là điều chúng ta thiếu hơn cả sao? Chẳng phải đó là ơn chúng ta cần phải cầu xin sao ?

Ồ, chúng ta phải nghe và hiểu nhau. Tất nhiên không cần phải có đức khiêm nhường toàn hảo để đến với Chúa. Nhưng cần phải khiêm nhường một chút, và một chút khiêm nhường như thế không phải là khó gì, đối với chúng ta là những kẻ ý thức về tình trạng khốn nạn của mình, về những nhu cầu và những thiếu thốn của mình. Thiên Chúa không có quyền đòi một chút khiêm nhường rất tự nhiên đó sao ? Mà thật ra, chút khiêm nhường đó sẽ dần dần lớn lên, và cùng với sự tăng trưởng của đức khiêm nhường, niềm tín thác cũng tăng thêm. Tất cả các nhân đức ảnh hưởng lẫn nhau và trợ lực cho nhau. Theo mức tăng trưởng của đức khiêm nhường, niềm tín thác của ta cũng sẽ trở nên trọn vẹn hơn.

Cũng nên nói thêm rằng : ta phải thật lòng ước ao những gì ta cầu xin Chúa. Nếu những ước ao của ta mờ nhạt, uể oải, nếu chúng ta đến với Chúa vì thói quen, làm sao chúng ta có thể trông cậy Ngài ban ơn? Ân sủng ta cầu xin càng lớn lao thì ước nguyện của ta càng phải nồng nàn. Thiên thần Chúa khen tiên tri Đaniel là con người của những ước nguyện: “Phúc thay con người có những ước nguyện lớn lao”. Thiên Chúa nhìn thấu tâm can ta, Ngài thấy rõ những suy nghĩ sâu xa nhất, những khát vọng bí ẩn nhất của ta. Những khát vọng thánh thiện của ta sẽ là niềm vui của Ngài. Đó là như một lời cầu nguyện liên tục, một trầm hương bay lên từ tâm hồn ta tới tòa Chúa, mang theo những lời cầu khẩn tha thiết nhất của tâm hồn ta.

Đối với một số ơn ta muốn cầu xin, cần phải biết nài nẵng, phải có sự kiên trì thánh thiện trong việc cầu xin. Chúa Giêsu đã nói rõ ràng : “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ mở ra cho anh em” (Mt 7,7). Đôi khi có vẻ như chúng ta phải quấy rầy Cha trên trời, nài ép Ngài cách thánh thiện. Chúng ta phải làm như người mà Chúa Giêsu đã nói trong Phúc Âm : Người này quấy rầy bạn hữu của mình giữa đêm khuya, cho tới khi người đó chỗi dậy và cho anh ta ba ổ bánh mì mà anh ta cần. Đôi khi Thiên Chúa cũng làm ra vẻ nặng tai : chúng ta đừng bỏ đi khi thấy Ngài ra vẻ từ chối như thế. Thiên Chúa muốn ta cầu xin nhiều hơn, để ban cho ta nhiều hơn và cách vui vẻ hơn. Lời hứa của Ngài thật là dứt khoát và rõ ràng “hãy xin thì sẽ được”. Bà Monica đã cầu xin trong hai mươi năm, để con bà trở lại. Và đã có sự trở lại lớn lao dường nào! bà đã được Chúa ban cho con bà trở thành một vị thánh lớn là thánh Augustinô !

Chúng ta có một khuôn mẫu tuyệt hảo về những tâm tình phải có khi cầu nguyện : đó là người phụ nữ Samaria trong Phúc Âm. Chị là người ngoại giáo miền Tyrô. Chị đến xin Chúa Giêsu chữa con gái chị bị quỉ ám. Chúa nói đi nói lại rằng thời gian của các dân ngoại chưa tới. Có thể nói rằng người phụ nữ miền Tyrô này tới gặp Chúa Giêsu, đã được Chúa quan phòng thúc đẩy tới gặp Ngài, để Ngài có dịp dạy chúng ta một bài học tuyệt diệu và cụ thể về niềm tín thác.

Có thể tất cả chúng ta đã xúc động, đã rơi lệ, khi suy gẫm trang Phúc Âm cảm động này. Ôi ! Người phụ nữ này đã khiêm nhường, hạ mình xuống thẳm sâu, và ý thức rõ ràng về sự bất xứng của mình dường nào ! Chị thấy mình là một kẻ ngoại giáo, trước mặt một đại tiên tri Do thái ! Nhưng chị đã nài xin cách vững vàng dường nào ! Kiên trì dường nào ! Chị đến xin Ngài chữa lành con gái chị, và chị nhất định không bỏ đi cho tới khi nhận được điều mình xin. “Vâng, lạy Ngài, đúng thế, không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó, nhưng những con chó con cũng được ăn những vụn bánh rơi từ bàn ăn của chủ mình” (Mt 15,26-27). Và Chúa Giêsu rất thán phục đã nói với chị : “Hỡi người phụ nữ, đức tin của chị thật lớn lao : chị hãy được như lòng mong ước” (Mt 15,28).

Sau cùng, còn một điều kiện rất cần cho việc cầu xin được kết quả, và đáng tiếc thay ! Người ta thường bỏ quên. Đó là những lời cầu xin của chúng ta không xứng được Chúa nghe, cho nên, một cách tỏ tường hoặc trong tâm trí, chúng ta phải luôn cầu xin “nhân danh Chúa Giêsu” : Đó là thánh ý của Thiên Chúa : Chúa Giêsu phải là vị trung gian của chúng ta trong mọi sự. Bởi vì “ngoài danh của Ngài ra, không một danh nào đã được ban cho loài người để được ơn cứu độ” (Cv 4,12). Chính Chúa Giêsu cũng đã dạy : “Thầy là đường, là chân lý và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

Trong bài nói rất thân tình của Ngài sau bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói cách tỏ tường rằng chúng ta phải cầu nguyện nhân danh Ngài. Vào giờ phút long trọng của những lời trối trăn sau cùng đó, Ngài đã để lại cho các môn đệ và cho chúng ta bí quyết thần diệu, giúp cho lời cầu xin của ta luôn được Chúa chấp nhận. Ngài nói : “Tất cả những gì anh em xin Cha nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm để Cha được tôn vinh nơi Con. Nếu anh em xin điều gì nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm cho anh em” (Ga 14,13).

Thế là rõ ràng và tỏ tường lắm rồi. Nhưng một lát sau đó, Ngài lại trở lại vấn đề quan trọng này : “Thật, Thầy nói thật, tất cả những gì anh em cầu xin Cha Thầy nhân danh Thầy, Ngài sẽ ban cho anh em. Cho đến bây giờ, anh em chưa xin gì nhân danh Thầy. Hãy xin thì anh em sẽ nhận được, để niềm vui của anh em được trọn vẹn” (Ga 23,24)Chúa Giêsu không thể nói thế nào rõ ràng hơn. Bởi vậy Hội Thánh là Mẹ chúng ta, thấm nhuần tinh thần của Chúa, đã luôn tuân theo lời chỉ bảo căn dặn này của Chúa. Cho nên không bao giờ dâng một lời cầu xin lên Chúa, mà Giáo Hội không kết thúc bằng những lời đầy ý nghĩa : “Nhờ Chúa Giêsu-Kitô, Chúa chúng con. Amen”.

Đáng tiếc thay ! Những lời này có thể đã mất đi ý nghĩa sâu xa và đã trở thành một lời kết thúc đơn điệu và nhàm chán. Ít, rất ít linh hồn tốt lành có thể không phải trách mình về điểm này. Nếu trong khi cầu nguyện, nhiều linh hồn có cảm nhận khá sâu sắc về tội lỗi và sự bất xứng của mình, thì họ lại ít có cảm tưởng mạnh mẽ về sự trung gian toàn năng của Chúa Giêsu. Họ đến với Thiên Chúa một mình, không có Chúa Cứu Thế đi với họ, mà Ngài là sự nâng đỡ mạnh mẽ và đầy yêu thương để họ vững lòng tín thác. Có thể đây là vấn đề chúng ta cần phải xét mình, và sự xét mình này sẽ rất bổ ích cho ta.

Phúc thay những linh hồn không những đã biết cầu xin Chúa mọi sự nhân danh Chúa Giêsu, mà tất cả cuộc sống của họ hằng ngày diễn ra như một lời cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu, hết lòng yêu mến Chúa Giêsu !

Lý tưởng duy nhất của họ ở đời này là để Chúa Giêsu sống trong họ, họ hoàn toàn được đồng hóa với Ngài, được tan biến đi trong Ngài. Thấm nhuần Chúa Giêsu và Thần Khí thần linh của Ngài, họ luôn miệng kêu lên và lòng họ cũng không ngừng kêu lên, bằng khát vọng và bằng hành động, họ kêu lên rằng : Abba, Cha của con ! Họ tin chắc được Chúa nhận lời, vì chính Chúa Giêsu cầu nguyện trong họ. Như vậy làm sao Cha trên trời có thể từ chối họ điều gì, bởi vì làm sao Ngài có thể từ chối Giêsu Con của Ngài ?

 

 Paul De Jaegher S.J.


[1]St. Thomas, Summa theologica, IIa, II ae, q. 60, art. 6, ad tertium.

 [2]Sđd, IIa, IIae, q. 129, art. 6.

[3]Từ tín thác được dùng 2 cách. Theo nghĩa chủ động thì đó là nhân đức cậy, còn theo nghĩa thụ động thì đó là toàn bộ những tâm tình bình an, vững tâm, từ bỏ mình, những hoa trái của nhân đức cậy.

[4]St. Augustin, Confessions, q.1, ch. 1.

Hạnh Phúc – Chương 1 - SIÊU THOÁT

Đối với nhiều người cuộc sống xem ra nhàm chán và tẻ nhạt: họ tự nhủ tại sao mình lại không vươn lên hay duỗi ra, hoặc cải tiến hoặc học hỏi thêm. Họ tin rằng chính họ đã bị rơi vào tình trạng trì trệ. Họ mong muốn biết được cách thức thoát ra khỏi tình trạng này.

Câu trả lời cho vấn nạn này thật đơn giản mặc dù áp dụng nó không phải dễ dàng. Những người như thế cần đến sự siêu thoát.

Siêu thoát là cắt đứt mọi dây ràng buộc cột chúng ta lại mặt đất và như thế cho phép linh hồn được bay lên với Chúa. Như các quả bóng, chúng ta có thể bị trì xuống bằng những sợi cáp thép hoặc bằng những sợi chỉ mỏng như sợi tơ nhện tuy nhiên bao lâu sợi dây ràng chưa bị chặt đứt, chúng ta vẫn chưa được tự do thoát khỏi sự ràng buộc với các sự việc thường nhật dìm kéo chúng ta xuống, bắt chúng ta làm nô lệ cho chúng.

Tâm hồn con người có thể bị lệ thuộc vào một số sự việc tầm thường gây trở ngại ở nơi thế giới bên ngoài. Chúng có thể cứ bám dựa vào một chuỗi khoái cảm liên tục, cứ dựa vào sự kích động, vào những mẩu tin tức hàng giờ, vào những buổi tiệc rượu, đến nỗi cuộc sống nội tâm hầu như không còn thời gian hiện hữu. Bất cứ lúc nào chúng ta bắt đầu cậy dựa vào một sự việc ở bên ngoài đến nỗi chúng ta không thể tìm được hạnh phúc nếu thiếu sự ấy thì lúc đó đời sống nội tâm chúng ta bị giản lược: tất cả mọi thứ “extra” (thừa thãi) mà thân xác cần phải có đè nặng lên tâm hồn chúng ta. Câu nói “Tôi có thể dùng mà cũng có thể không” là một câu rất hay có thể áp dụng cho nhiều sự việc khác ngoài chuyện ăn nhậu: chúng ta nên có thái độ như thế đối với mọi thứ không cần thiết cho hạnh phúc.

Nếu chúng ta “cần” những sự việc ngoại tại, thì hiển nhiên chúng ta sẽ đắm chìm trong đó đến nỗi nhân cách riêng của chúng ta bị phân tán. Chúng ta khác nào một cái giếng bị bơm liên tục đến mức mọi số nước của nó đều bị ống bằng sứ hút hết. Một số người quá dấn thân vào sự vật ngoại tại đến nỗi lỡ có mất đi một số lạc thú hay của cải là họ cảm thấy hầu như không sống nổi. Họ đã học cách định lượng giá trị riêng mình bằng những gì họ có hơn những gì họ là, nếu lỡ có mất đi những gì dành dụm được cũng như của cải thì những tâm hồn này có thể tự vẫn: Sự “trung thành” với sự vật quá lớn đến nỗi họ đánh mất đi mọi tri thức về tương giao đích thực giữa họ với Chúa.

Phương thuốc chữa trị cho trạng thái hiểm nghèo và bất hạnh của sự bám víu là sự nới lỏng dần dần các sợi dây ràng buộc chúng ta với các sự vật ngoại tại. Chúng ta đừng để cho các sự vật ngoại tại chiếm hữu mình nữa, chẳng hạn như rượu, tiếng động, thành công hay lạc thú. Trong vấn đề đơn giản chẳng hạn dùng một điếu thuốc thì chúng ta nên khôn ngoan để cho ý chí nơi con người quyết định nên hay không nên, thay vì để cho sự kích thích sai khiến. Ngay cả những lạc thú hợp pháp và vô hại, thỉnh thoảng chúng ta cũng nên khước từ chúng để chúng ta không lệ thuộc chúng hoặc lệ thuộc vào những ham muốn ích kỷ của chúng ta. Bởi vì kẻ nào chỉ biết sống cho những xung đột của riêng mình thì thường có những giao du rất xấu.

Một số dân bản xứ Úc Châu không biết đếm quá số ba. Họ nói: “1, 2, 3 đủ rồi”. Triết lý của họ về kinh tế đặt một giới hạn cho các sự vật bên ngoài và có lẽ chính triết lý ấy làm cho họ tự do hơn chúng ta là những người đếm tới bạc tỉ.

Người ta sống bằng ước muốn của mình, tuy nhiên chúng ta có thể chọn lựa giữa những ước muốn những sự vật nào thuộc về tinh thần hay thuộc về trần gian. Người nào có thể hồi tâm nhìn lại ngày đã qua của mình và đếm được có đến năm lần mình đã khước từ không chịu chiều theo một đam mê nho nhỏ nào đó, thì người ấy đang ở trên đường tiến bộ nội tâm. Người ấy biết kềm giữ chính mình và khước từ không chịu làm nô lệ cho các sự vật.

Bám víu làm chúng ta hẹp hòi, còn siêu thoát làm chúng ta rộng mở. Nhân cách của người theo duy vật bị hạn hẹp bởi vì người ấy sống trong vũ trụ khép kín, vũ trụ không rộng hơn tầm với bằng các giác quan của hắn. Nhưng người vị kỷ thì sống trong một thế giới còn chật hẹp hơn tức thế giới chỉ gồm căn phòng lót nệm trong viện tâm thần của lòng ích kỷ của hắn. Còn người tín hữu thì được khai phóng anh ta có thể tự do bay tận lên trời ngay từ mặt đất là nơi bản thể anh ta có thể giãn nở ra đến một niềm vui vô tận và tự quên mình.

Gm. Fulton Sheen

Niềm Tín Thác: Lời Nói Đầu

Lời nói đầu

Mục đích chính, nếu không nói là duy nhất của chúng tôi khi viết những trang này, là an ủi và khích lệ các linh hồn, làm hết sức để củng cố niềm tín thác là nhân đức rất quí trọng và cần thiết cho họ. Chúng tôi sẽ không mất thời giờ để nhắc đi nhắc lại về tầm quan trọng rất lớn lao của một nền tu đức mạnh mẽ, dũng cảm, đầy nghị lực, không thể thiếu cho việc nên thánh ; một nền tu đức thấm nhuần hy sinh và bỏ mình : đó là nền tu đức mà thánh Inhaxiô Loyola và thánh Gioan Thánh Giá đã thực tập một cách anh hùng và đã giảng dạy một cách đáng khâm phục. Chúng tôi chỉ cần nhắc tới hai vị trong số các thầy dạy vĩ đại về đời sống thiêng liêng.

Tình yêu Thiên Chúa có hai mặt : một mặt hướng về Thiên Chúa, có tên là đức ái thần linh, và một mặt hướng về bản thân chúng ta và có tên là : chê ghét bản thân mình. Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa không thể tách rời sự chê ghét bản thân ta. Nồng nàn yêu mến Thiên Chúa vô cùng đáng mến cũng là hết sức khinh chê tính tự ái xấu xa, nguồn mạch mọi tội lỗi và mọi sự khốn nạn.

Khi chú ý đọc những trang này, độc giả sẽ nhiều lần nhận ra rằng : chúng ta quan niệm đời sống thiêng liêng theo tôn chỉ được gói gọn trong câu nói của vị Tiền hô Chúa Giêsu : “Ngài phải được lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ đi” (Ga 3,30).

Từ tôn chỉ này, phải rút ra một chân lý lớn lao là : không ai có quyền ước ao đạt tới một đời sống thiêng liêng cao đẹp, sống kết hiệp với Chúa Kitô, nếu trước hết không thành tâm tập luyện cuộc sống thanh tẩy, đền tạ các tội lỗi mình và diệt trừ các nết xấu, và nếu không can đảm và kiên trì tập tành các nhân đức trong con đường tiến đức. Muốn đặt ngay cái vòm cho ngôi đền thờ dâng kính Thiên Chúa là đời sống thiêng liêng, mà trước đó không đặt một nền móng vững chắc và xây một tòa nhà cho hẳn hoi, sẽ rõ ràng là chuyện điên rồ. Vậy thiết tưởng không phải là điều vô ích, nếu chúng tôi nhắc lại chân lý trên đây, vì thời nay không ít linh hồn quảng đại, vì nóng nảy muốn kết hiệp với Thiên Chúa trong tình mến yêu, đã dại dột đốt các giai đoạn và nhân đó đã gây tai hại cho con đường nên thánh của mình.

Tác phẩm này được dành cho tất cả mọi linh hồn, bởi vì tất cả các linh hồn đều cần phải có niềm tín thác. Những linh hồn thánh thiện hơn càng phải biết sống tín thác hơn, vì họ bị thử thách ghê sợ hơn. Trong số những linh hồn thánh thiện này, có những linh hồn được Chúa thanh luyện trong lò những thử thách thần bí rất đáng sợ ! Ngài cho họ trải qua những đêm tối hãi hùng của giác quan và của tâm trí, như thánh Gioan Thánh Giá, vị tiến sĩ thần bí, đã mô tả một cách rất đầy đủ. Chúng ta không thể bỏ quên những linh hồn rất được Chúa yêu thương đó. Chúng ta sẽ nhiều lần nhắc đến họ khi bàn về những đêm tối. Và chúng ta sẽ dành hẳn một chương cho họ, khi bàn về niềm tín thác trong những đêm tối thần bí. Những linh hồn nào không kinh qua những tình trạng này, cũng sẽ nhớ lại điều đó, vì họ biết rằng có nhiều chỗ ở trong nhà của Cha trên trời.

Sau cùng, phải nói thêm rằng chúng tôi thấy cần phải khích lệ và trấn an các độc giả : chúng tôi không chỉ nói với tâm trí họ, để giáo huấn và thuyết phục họ, nhưng còn nói với trái tim họ, để an ủi họ và làm ấm lòng họ. Cho nên tác phẩm này sẽ không có vẻ một giáo trình khô khan của môn thần học  tu đức. Giọng nói đơn sơ và đầy tâm tình của những trang này có mục đích đưa người ta tới niềm tín thác yêu mến của con thảo, mà thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu là khuôn mẫu tuyệt hảo nhất của chúng ta hiện nay.

Lời tựa

“Người ta không bao giờ tín thác quá nơi Thiên Chúa tốt lành dường ấy”. “Người ta nhận được từ nơi Ngài tất cả những gì người ta cậy trông nơi Ngài”. Những lời này là của thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu, Người anh hùng vĩ đại của niềm tín thác, mà sứ mạng nơi trần gian xưa, cũng như nay ở trên trời, là khơi dậy khắp nơi một đoàn đông đảo những linh hồn tín thác. Chúng tôi nghĩ những lời này là sự khuyên nhủ tốt nhất mà những trang được viết để kính dâng thánh nữ đây, có thể nêu lên, để gia tăng nhân đức rất quí trọng là niềm tín thác của các linh hồn. Tất cả chúng ta, dầu sống ở bậc nào trong xã hội, và dầu đạt tới bậc thang nào trong đời sống thiêng liêng, là những người tội lỗi hay là những người thánh thiện, chúng ta đều có một nhu cầu mênh mông về niềm tín thác, cũng như sự mênh mông của những khốn khó của chúng ta. Bởi vậy cuốn sách này được gửi tới tất cả mọi linh hồn.

Nhưng nó được đặc biệt gửi tới những linh hồn quảng đại và khẳng khái mà Tình yêu Thiên Chúa đã chinh phục, ít là phần nào : nơi những linh hồn đó, Ngài đã làm nảy sinh và tăng trưởng những ước ao thánh thiện lớn lao và những ước nguyện tông đồ rộng lớn. Chúng tôi đặc biệt tặng hiến những trang suy gẫm này cho những linh hồn đó vì hai lẽ sau đây[1]

Trước hết, họ cần phải sống tín thác hơn những người khác, cho nên cần phải được khích lệ hãy tín thác hơn. Thoạt nghe, điều này có vẻ lạ và nghịch lý. Những linh hồn này chỉ ước ao một điều: tận hiến, sống trọn vẹn cho tình yêu Chúa. Họ chỉ mong một hạnh phúc duy nhất nơi trần gian này : đó là hạnh phúc rất trong sáng và rất mến yêu là làm cho Chúa Giêsu được hạnh phúc. Vậy làm sao họ có thể có những ý tưởng nghi ngờ đối với Đấng biết rõ tất cả những khát khao yêu mến của họ, và nóng lòng muốn thỏa mãn những nguyện vọng của họ ? Vậy mà điều đó lại rất thật : những linh hồn này cần có niềm tín thác hơn.

Đó là vì để đạt tới bậc trọn lành, đạt tới sự thánh thiện mà họ hằng mơ ước và Chúa dành cho họ, họ phải trải qua biết bao nỗi khô khan và chán nản. Họ phải luôn luôn di chuyển qua lại từ một tình yêu mà ngọn lửa hồng nung nấu và thiêu đốt họ, sang một tình yêu như lửa được giấu dưới đống tro, khiến họ cảm thấy mình nguội lạnh, có vẻ không còn chút quảng đại nào hết. Và phải nói gì về những đêm tối thần bí đầy đau khổ : “Đêm tối của các giác quan” đưa họ bước thẳng vào đời sống nội tâm mãnh liệt, “đêm tối của tâm trí” còn đau đớn hơn, dẫn họ tới bờ vực của sự thánh thiện đích thực ?

Trong những cơn thử thách của sự thanh tẩy thụ động này, Thiên Chúa sẽ thử thách các nhân đức hướng thần của họ, các nhân đức tin, cậy, và mến. Thiên Chúa thử thách và thanh tẩy họ một cách kỳ lạ. Có vẻ như Ngài muốn ra sức triệt phá nhân đức cậy trông rất cần thiết này. Qua “những trò chơi tình yêu lặp đi lặp lại” với linh hồn, Ngài làm cho nó có ấn tượng sâu sắc rằng nó đang thụt lùi trên đường thiêng liêng, nó quá xấu, không đẹp lòng Ngài, nó không còn yêu mến Ngài và không còn được Ngài yêu thương. Ôi ! Những linh hồn này đáng thương hại dường nào ! Và phải chăng lòng thương xót lớn nhất của ta đối với họ sẽ là nâng đỡ họ, an ủi họ, khích lệ họ, giúp họ dầu thế nào đi nữa, vẫn hãy tin vào tình thương rất trung thành và vô cùng lớn lao của Thiên Chúa tốt lành ?

Lý do thứ hai khiến chúng tôi đặc biệt dành những suy niệm này cho các linh hồn ước ao nên thánh, đó là vì họ khát khao yêu mến. Họ đã thoáng nhìn thấy những gì đáng yêu mến nơi Thiên Chúa, họ đã hiểu rằng Thiên Chúa dễ thương mến, Ngài đáng yêu mến vô cùng, vượt xa mọi sự mến yêu mà họ có thể tỏ bày với Ngài. Và tư tưởng này giống như một ngọn lửa bừng bừng cháy ở trong họ. Nó khiến họ đăm chiêu tìm tình yêu này khắp nơi, vì chỉ tình yêu này làm họ thỏa lòng. Đối với họ, tất cả cuộc sống là để nói lên, để tỏ bày lòng mến yêu này. Họ khát khao yêu mến Chúa và nhân đó họ khát khao tất cả mọi hình thức và mọi cách tỏ bày lòng yêu mến, dầu là đền tội, dầu là phạt tạ, hy sinh, tông đồ cứu chuộc. Với những linh hồn này, chúng tôi muốn vén màn cho thấy và giúp họ hiểu rõ hơn về một kho tàng tình yêu còn giấu quá kín : chúng tôi muốn họ hãy khát khao tình yêu tín thác. Chúng tôi muốn dẫn họ vào chỗ thực hành một niềm tín thác yêu mến giữa những khi bị khô khan, bị cám dỗ, giữa những đêm tối. Ước chi, nhờ những trang này, họ biết vui vẻ và hăng hái chạy tới hình thức yêu mến này và thực thi thứ tình yêu mà Chúa Giêsu vô cùng yêu quí : đó là niềm tín thác trọn vẹn và không ngừng.

Nhờ ơn Chúa, ngày nay có nhiều linh hồn say sưa đền tạ vì mến Chúa, say sưa đền tội vì mến Chúa, say sưa tận hiến vì mến Chúa. Ôi ! Nếu những tư tưởng của chúng tôi gây được một âm vang nơi những linh hồn khẳng khái đó, và giúp họ nhìn rõ  nhu cầu của niềm tín thác mến yêu, thì chúng tôi sẽ vui mừng dường nào ! Như vậy, chúng tôi sẽ gia tăng con số những người biết an ủi Chúa Giêsu. Bên cạnh nhiều linh hồn đang hết lòng an ủi Chúa bằng tình yêu và những đau khổ đền tạ của họ, nhờ ơn Chúa chúng tôi sẽ đưa thêm đến cho Ngài một số linh hồn lo an ủi Ngài bằng tình mến yêu tín thác của mình.

Ước chi những trang này, được viết nên cho những linh hồn quảng đại, có thể góp phần duy trì nơi trái tim họ những ước ao mãnh liệt nên thánh, vì những ước ao này là yếu tố chủ yếu của niềm tín thác. Thiên Chúa đã đặt những ước ao này trong tâm hồn họ, và đó là bảo đảm quí giá nhất của sự thánh thiện. Ước chi những trang này có thể giúp họ giữ cho những ước ao này luôn nồng nàn, mặc dầu có những sai lỗi và gặp những khô khan, những cám dỗ, những sự bất lực, những đêm tối.

Xin thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu khả ái, vị thánh quí yêu của niềm tín thác, chuyển cầu cho các độc giả của chúng tôi được những ân sủng rất cần thiết, mà nếu không có, thì những suy niệm và những nỗ lực của họ để gia tăng nhân đức tín thác rất tốt lành này, sẽ vô hiệu. Bởi vì những tác phẩm của thánh nữ đã nhiều khi gây cảm hứng cho chúng tôi, và bởi vì thánh nữ không có ước nguyện nào tha thiết hơn là gia tăng con số những linh hồn sống tín thác cách anh hùng, cho nên chúng tôi xin đề tặng thánh nữ tác phẩm khiêm tốn này.

Paul De Jaegher S.J.

Nhà Cha sở Ranchi

(Chota Nagpur. Ấn Độ)


[1] Bởi vì chúng tôi viết trước hết cho những linh hồn quảng đại, cho nên trong sách này chúng tôi không nhấn mạnh và không thường xuyên nhắc tới thiện chí là cái luôn đi kèm với tín thác. Chúng tôi giả thiết phải có thiện chí.