- Details
-
Category: 8. Đời Sống Tâm Linh
– LINH HỒN LÀ BÌNH THÁNH THƯỜNG XUYÊN CỦA CHÚA GIÊSU, NGÔI LỜI THIÊN CHÚA. MỘT CHÂN LÝ QÚA ÍT ĐƯỢC NHẬN BIẾT.
– HẠNH PHÚC THAY NGƯỜI CẬY TRÔNG MỌI SỰ NƠI CHÚA GIÊSU. NIỀM TÍN THÁC CỦA NGƯỜI ĐÓ SẼ LIÊN LỈ.
– NHẤT LÀ NGƯỜI ĐÓ TÍN THÁC TRONG VẤN ĐỀ NÊN THÁNH, VÌ CHÚA GIÊSU ƯỚC AO ĐIỀU ĐÓ HƠN NGƯỜI ẤY.
– SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA GIÊSU GỬI CHO TÂM HỒN CÁC LINH MỤC.
Linh hồn là bình thánh thường xuyên của Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa.
– Những giây phút qúi báu dường nào, những giây phút tiếp theo sau lúc Chúa Giêsu ngự vào tâm hồn tôi, để tôi được dựa trái tim mình trên Trái Tim Ngài, tâm sự với Ngài cách thân mật. Người ta muốn kéo dài những giây phút diễm phúc này, nhưng chúng qua đi mau qúa ! Ôi Chúa Giêsu, phải chăng con sắp phải từ biệt Chúa, chào Chúa và hẹn gặp Ngài khi rước lễ ngày mai?
Không phải thế đâu ! Chúa Giêsu yêu mến của tôi không thể dứt tình thương yêu chúng ta như thế. Không lẽ nào người đời lại được thuận lợi hơn những người được Chúa yêu thương, không lẽ nào họ có thể ngồi với nhau và tâm sự với nhau lâu hơn linh hồn mến yêu được ở gần Chúa Giêsu rất mến yêu của mình. Chúa Giêsu không muốn chịu thua về bất cứ điều gì. Ngài vượt xa mọi người về khả năng yêu thương, Ngài cũng sẽ vượt xa họ về sự thân tình.
Xét như Ngài là Thiên Chúa làm người, với máu thịt của Ngài, Ngài không còn ở trong linh hồn tôi nữa, sau khi hình bánh hình rượu đã bị tiêu hóa đi. Nhưng Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ ở lại cách hiện thực đêm ngày ở trong tôi. Linh hồn tôi, nhờ ân sủng thánh hóa mà Chúa Giêsu hằng nuôi dưỡng bằng việc rước lễ, là như bình thánh và bàn thờ của thần tính của Ngài[1]. Từng giờ từng phút đêm ngày, Ngài cư ngụ trong tôi và chiếc đèn chầu nhỏ bé sẽ cháy sáng đêm ngày trước mặt Ngài, chính là chiếc đèn chầu của tình mến yêu trung thành và của sự thân mật của tôi với Ngài.
Rất nhiều linh hồn đạo đức đã không bao giờ hiểu biết sự hiện diện thật sự của Chúa Ba Ngôi trong linh hồn người công chính cũng như sự hiện diện của Ngôi Lời Thiên Chúa. Họ biết mình được kết hiệp với Chúa Giêsu bằng những sợi dây của tình yêu mến. Họ biết Ngài là đầu của nhiệm thể, và chúng ta là những chi thể của Ngài, Ngài là thân cây nho và chúng ta là những ngành nho được Ngài làm cho sống. Nhưng họ chưa bao giờ thật sự hiểu rằng Chúa Kitô đang hiện diện trong họ cách thật sự và cách hiện thực; rằng muốn thưa chuyện với Ngài, họ không cần phải ngửa mặt lên trời để chiêm ngưỡng Ngài trong vinh quang Chúa Cha, vì chính họ là trời và là ngai tòa của Ngài, nơi Ngài đang chờ mong họ từng giây từng phút. Ngài có thể nói với họ như đã nói với thánh nữ Catarina thành Siena, lúc đó còn là một thiếu nữ rằng : “Con đừng buồn vì không thể đi nhà thờ mỗi ngày như con muốn, bởi vì Ta ở trong linh hồn con : hãy coi đó là ngôi nhà nguyện con có thể gặp Ta ngày và đêm”[2].
Nếu như cho tới nay tôi vẫn chưa hiểu rõ sự hiện diện hiện thực của Chúa Giêsu trong linh hồn tôi do ân sủng thánh hóa, – nếu tôi chỉ hiểu như một cách nói bóng bảy, một thứ hiệp thông mơ hồ bằng tình cảm, thì từ nay tôi sẽ cố gắng suy gẫm nhiều hơn về sự hiện diện diễm phúc này. Và chúng ta cũng đừng ngạc nhiên về sự sai lầm này của mình. Rất nhiều linh hồn, cả những linh hồn quảng đại, đã không bao giờ nhận thức rõ ràng, hoặc chỉ hiểu cách sơ sài về sự Thiên Chúa cư ngụ trong linh hồn ta, và nhân đó họ không có thói quen than thở và tâm sự với Chúa Giêsu đang ở trong linh hồn họ. Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu coi những lời than thở và tâm sự này như cách thế tốt nhất để một ngày nào đó đạt tới đỉnh của việc chiêm niệm ! Chị thánh nói do đã có kinh nghiệm. Chị thánh đã đi qua những con đường đó, và chị muốn giúp các linh hồn khác đi qua. Nhiều khi chị thánh phàn nàn với các nữ tu Carmêlô rất sốt sắng, về sự nhiều linh hồn say mê cầu nguyện mà vẫn cứ đi tìm Thiên Chúa ở rất xa trên trời, thay vì đến với Chúa ngay trong linh hồn họ.
Như vậy ta thấy Chúa Giêsu dành phần rất tốt đẹp cho những ai yêu mến Ngài. Tình yêu thương của Ngài vượt xa tất cả mọi tình thương yêu trên trái đất này. Một người mẹ cũng nhiều lúc phải xa đứa con nhỏ bé rất yêu thương của mình. Người bạn tình ở đời cũng có những giờ phải đi làm ăn, không thể ở luôn bên cạnh bạn thân của mình. Trái lại những ai đã cảm thấy Chúa Giêsu trong linh hồn mình, những ai đã khám phá ra chân lý tốt lành này, sẽ biết rằng Chúa Giêsu không rời xa họ một giây phút nào : Ngài không bao giờ rời bỏ bình thánh là linh hồn ta. Cho nên bất cứ giờ phút nào, ta cũng có thể gặp Ngài, nhất là trong những khi khốn khó và những lúc gặp đau khổ.
Hạnh phúc thay những người cậy dựa vào Chúa Giêsu trong mọi sự.
– Bởi vậy họ chạy đến với Chúa Giêsu luôn luôn, vì Ngài là Đấng Toàn Năng và đầy lòng thương xót và đang cư ngụ trong linh hồn họ. Họ thấy điều đó qúa dễ dàng. Cũng không cần phải đọc bất cứ kinh nào, dầu rất vắn tắt. Chỉ cần họ nhìn lên Chúa, một tiếng kêu của đáy lòng, một lời than thở nồng nàn là đủ. Giữa những nghi nan, những khó khăn, những buồn phiền, các lời than thở đó tự động phát ra từ nơi thẳm sâu của linh hồn, không cần suy nghĩ gì hết. Trong khi những người khác quên chạy đến với Chúa Giêsu và chỉ cậy trông vào sức mình, vào tài năng của mình và vào những may rủi tự nhiên của cuộc đời, thì những linh hồn này luôn luôn tin cậy và tín thác nơi Chúa Giêsu. Và niềm tín thác của họ đã gia tăng cùng với sự thân mật như thế với Ngài. Dần dần, họ không xa rời Ngài một lúc nào. Họ không làm gì một mình nữa. Nếu họ làm thế, họ sẽ cảm thấy không ổn, như thiếu thốn một cái gì. Họ làm mọi sự với Chúa Giêsu đang ở trong họ. Họ cảm thấy sự hiện diện của Ngài rất ngọt ngào. Và sự ngọt ngào này đã vô cùng lớn lao vào những giờ phút diễm phúc, khi mà để tưởng thưởng họ, để khuyến khích họ thêm tín thác và sống thân mật với Ngài, Chúa Giêsu đã cho linh hồn họ cảm nghiệm thấy sự hiện diện thần linh của Ngài : đó là kinh nghiệm vô cùng diễm phúc của những bậc thần bí. Họ cảm thấy như được ôm lấy Chúa Giêsu, không những trong những giờ phút chiêm niệm, mà cả trong những lúc làm việc và hoạt động.
Người ta thuật lại rằng thánh nữ Rosa thành Lima thoạt tiên đã tỏ ra sợ sệt và nhút nhát, khi chiều xuống, không dám một mình đi lại trong khu vườn nhỏ của nhà mình. Một đêm, chị nhìn thấy một người hiền thê trẻ dựa đầu trên vị phu quân yêu mến của mình và bình thản bước đi trong đêm tối. Đó đã là một tia sáng cho Rosa, và từ đó chị không còn sợ nữa.
Hình ảnh tốt lành này là hình ảnh những linh hồn kết hiệp thân mật với Chúa Giêsu trong trái tim mình. Người ta có thể áp dụng cho họ những lời của sách Diễm Ca : “Cô nào đang đi lên từ hoang địa kia, dựa vào người yêu của mình ?” (Dc 8,5). Trong tất cả mọi sự, những linh hồn này tin cậy vào cánh tay uy quyền của Đấng mà họ yêu mến : họ tín thác trọn vẹn nơi Ngài và thanh thản, vui vẻ bước qua những chông gai của cuộc đời.
Hãy tín thác, nhất là trong việc nên thánh, vì Chúa ao ước điều đó hơn bạn.
– Những linh hồn kết hiệp thân mật với Chúa Giêsu thì tín thác mọi sự nơi Ngài. Họ tin tưởng và tín thác nhất là trong những chuyện mà người khác tỏ ra nhút nhát. Họ tin tưởng rằng : mặc dầu họ đã có những bất trung và những sự hèn nhát, họ sẽ có ngày đạt tới sự kết hiệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, sẽ nên thánh và nên giống Chúa. Nơi đáy lòng họ, Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa luôn ở đó và nói với họ : “Thầy ở trong con. Thầy đã chết vì yêu thương con. Chắc con yêu mến Thầy nhiều chứ !”. Đôi khi tiếng nói của Chúa Giêsu rất dịu dàng và thân ái, làm cho linh hồn xúc động vì yêu mến Chúa. Làm sao linh hồn không yêu mến Ngài hết lòng và trọn niềm tín thác nơi Ngài ? Chúa nói với linh hồn : “Hãy mến yêu Thầy cách nồng nàn, như Thầy yêu thương con. Hãy tín thác trọn vẹn nơi Thầy. Thầy là của con, con cũng hãy thuộc trọn về Thầy !”.
Lạy Chúa Giêsu, làm sao có thể như thế được! Vâng, con chỉ ước ao một điều, là mến yêu Chúa hết tâm hồn con. Con không mơ ước điều gì khác : con sẽ chỉ hoàn toàn hạnh phúc khi trọn vẹn thuộc về Chúa trong một tình mến yêu trọn vẹn. Niềm ước ao của Chúa cũng là niềm ao ước của con; ước mơ của Chúa là mơ ước của con; lý tưởng của Chúa là lý tưởng của con. “Như con nai khát nước mong sao tìm được suối nước, linh hồn con cũng khát khao Chúa như vậy”. Vậy ai có thể ngăn cản sự thực hiện của những ao ước chung của chúng ta ? Chướng ngại vật nào có thể chắn ngang sự khát khao chung của chúng ta ? Những khiếm khuyết và những lỗi lầm của con sẽ tan biến đi như nước đá dưới sức nóng của tình yêu. Vâng, lạy Chúa Giêsu yêu mến của con, bây giờ con đã thấy rõ, và con tin chắc rằng sẽ có ngày linh hồn con kết hiệp thân mật và hoàn toàn với Chúa bằng sợi dây của tình mến yêu tinh ròng, trong đó mọi ước nguyện của con và mọi ước ao của Chúa sẽ hoàn toàn được thực hiện, và con sẽ trở nên thánh thiện.
Ôi ! Bao giờ ngày diễm phúc đó mới đến ? Con hết lòng cầu chúc nó mau đến. Lạy Chúa Giêsu, bao giờ linh hồn sẽ chết cho bản thân nó, để hoàn toàn sống bằng sự sống của Chúa ? Ôi ! Con nóng lòng mong đợi ngày đó !
Hỡi linh hồn tôi ! Hãy nhẫn nại một chút ! Như thế sẽ thêm công phúc cho mi, và thêm vinh hiển cho Chúa Giêsu. Sẽ là điều ngọt ngào cho Chúa hơn, an ủi cho Ngài hơn, nếu Ngài chinh phục được linh hồn mi từng bước một. Những ước ao nóng nảy và thiếu kiên nhẫn của mi, nếu làm mi đau khổ, sẽ làm Ngài vui thỏa lắm. Chúng giống như một lời cầu nguyện, như một làn hương thơm bay lên tới Ngài từ bàn thờ linh hồn mi. Cây sồi to lớn, niềm kiêu hãnh của những cánh rừng của chúng ta, không một ngày mà thành như thế. Đã phải qua bao năm tháng, bao xuân hạ thu đông. Đã có bao nhiêu gió táp mưa ngàn, để tỉa bớt những nhánh nhỏ, hầu dành sức sống cho những ngành lực lưỡng. Tình mến yêu của mi cũng sẽ có ngày như cây sồi oai hùng, niềm vui và niềm kiêu hãnh của Chúa Giêsu. Chính Ngài đã giảng dạy như thế : “Nước trời giống như hạt cải. Nó là hạt bé nhỏ nhất trong các hạt giống, nhưng khi nó đã lớn lên và phát triển, nó sẽ là cây lớn nhất của loài thảo. Chim trời sẽ đến làm tổ nơi các ngành của nó” (Mt 13,31).
Sứ điệp của Chúa Giêsu gửi trái tim các linh mục.
– Trước đây vài năm, Chúa Giêsu đã gửi một sứ điệp qua một trong những linh hồn tâm phúc của Ngài, được biết dưới cái tên “sứ điệp của Thánh Tâm Chúa Giêsu gửi trái tim các linh mục”. Đó là một lời kêu gọi nồng nàn, xin hãy sống một cuộc sống thân mật và kết hiệp chặt chẽ với Chúa Giêsu. Người ta đọc được những lời thiết tha như sau : “Con hãy loan truyền lời kêu gọi của Trái Tim Cha đến tận cùng trái đất ! Nhất là con hãy đem tới các linh mục Cha yêu mến. Hỡi các linh mục, những Kitô khác của Cha, ước chi họ hiểu niềm ước ao nóng nảy của Cha là được kết hiệp thân mật với từng người trong số họ! Rất ít người trong số họ đạt tới sự hiệp nhất như Cha đã mong ước và đã chuẩn bị cho họ trên trái đất này. Muốn được như thế, họ phải làm gì ? Phải hồi tâm, phải thu tâm, dành tất cả mọi tâm tình của họ cho Cha, Cha đang chờ đợi ở đáy lòng họ. Ồ, con hãy kêu lớn tiếng cho họ nghe thấy, dầu họ đang chịu cực vì Cha nơi các miền băng giá Bắc cực, hoặc đang chịu thiêu đốt dưới cái nóng của miền xích đạo; những vị đang can trường chiến đấu dưới cờ thập giá của Cha; những vị ngày đêm hy sinh hao mòn để phục vụ các linh hồn; những vị đang gặp gian nan và bị bách hại vì danh Cha. Con hãy kêu lớn tiếng để họ có thể nghe và biết rằng Cha rất yêu thương họ. Con hãy nài xin họ hãy lắng nghe tiếng gọi đầy yêu thương và rất khẩn khoản của Trái Tim Cha, kêu mời họ hãy đến gặp Cha nơi đáy tâm hồn họ, hãy kết hiệp thân mật với Cha là Đấng không bao giờ lìa xa họ, và như vậy họ sẽ nhận được biết bao ân phúc Cha ban cho họ…
“Sự kết hiệp mầu nhiệm và thần linh này sẽ là khởi điểm cho một cuộc sống thánh thiện và phong phú, khác hẳn cuộc sống trước đây…
“Nhiều linh mục biết khá rõ học thuyết về sự kết hiệp của linh hồn với Cha; nhiều linh mục cũng ước ao sự kết hiệp này, nhưng rất ít vị thực hành sự kết hiệp đó. Được mấy linh mục đạo đức, nhiệt thành và tận tụy, nhận biết rằng Cha đang ở trong linh hồn họ, và nóng lòng chờ đợi hiệp nhất với họ ?
“Tại sao thế ? Tại vì họ sống hời hợt…. Ôi ! Nếu họ quyết tâm dứt mình ra khỏi những sự vật dễ cảm giác, những cảm nghĩ loài người… nếu họ đi sâu vào linh hồn họ, nơi Cha đang ở và đang chờ đợi họ, họ sẽ gặp thấy Cha, và họ sẽ có một cuộc sống kết hiệp đầy ánh sáng và tình thương !”.
Những lời thiết tha đầy yêu thương này đã phát ra từ lò lửa Thánh Tâm Chúa Giêsu, và sẽ trở nên vô cùng ngọt ngào cho những linh hồn sẽ nghe thấy Chúa Giêsu nói với mình như thế trong những giờ phút sống thân mật với Ngài. Nếu Chúa Giêsu hứa cho tất cả các linh mục của Ngài, cả những vị trước đây dù sống cách hời hợt, Chúa hứa một sự kết hiệp kỳ diệu và một cuộc sống thánh thiện khác hẳn với lối sống trước đây của họ, thì những vị đã lâu ngày sống trong tình thân mật với Ngài, càng phải trọn vẹn tín thác nơi Ngài cách êm ái ngọt ngào biết bao, bởi vì đó chính là niềm ước ao nồng nàn của Ngài !
Paul De Jaegher S.J.
[1] Tất nhiên, để an ủi tôi, thần tính của Chúa Giêsu kết hiệp cách mật thiết và bất khả phân ly với nhân tính của Ngài, nhưng điều này không có nghĩa là đâu có thần tính của Ngài thì cũng có nhân tính của Ngài.
[2] Xem Lavie d’ identification au Christ-Jésus do Cha P.de Jaegher. Nhà xuất bản Cerf. – Cũng nên đọc thêm 2 tác phẩm Dieu en nous và Vivre avec Dieu của Cha R.Plus.
- Details
-
Category: 8. Đời Sống Tâm Linh
Sáng ngày 20 tháng Ba năm 1811, một trăm phát đại bác từ điện Invalides (Anh-va-lít) nước Pháp nổ vang, báo cho dân thành Balê biết một tin quan trọng. Một hoàng tử, con vua Nã-phá-luân, đã chào đời. Sau khi hoàng đế băng hà, hoàng tử sẽ lên ngôi hoàng đế nước Pháp. Trong khi hoàng đế còn sống, hoàng tử được gọi là Quốc vương La-mã. Nhưng, thương hại thay, không đầy năm năm sau, Nã-phá-luân mất chức hoàng đế.
Năm năm sau nữa, vua từ trần giữa một đảo xa xôi. Vua cha chết được 11 năm, ông “Quốc vương La-Mã” cũng chết theo, chưa kịp thừa hưởng nước Pháp.
Các gia tài ở đời là thế. Hoặc người chia gia tài, sau không thể giữ được lời hứa, hoặc người thừa hưởng gia tài không kịp nhận gia tài hoặc không giữ nổi gia tài đã chiếm được.
Nhưng Bạn ạ, chúng ta, người công giáo, chúng ta có một gia tài, mà gia tài ấy, nhất định chúng ta sẽ được hưởng, miễn chúng ta giữ Đạo cho nên. Gia tài ấy, Bạn biết rồi, chính là Thiên đàng.
Thiên đàng là gì? Trong những bài trên, tôi đã nhắc đến Thiên đàng nhiều lần. Trước khi từ biệt Bạn, tôi thấy cần phải nói qua về Thiên đàng, để cho cuộc nói truyện cần đầy đủ hơn.
Trước hết Thiên đàng là chốn nghỉ đời đời.
Đời này, chúng ta lúc nào cũng lo sợ… sợ đau đớn cho thân thể; trên Thiên đàng, không còn đau khổ nữa.
Ở đời ta phải làm việc: hằng ngày lúc thức dậy, phải ghé vai vào ách… nếu những người ác tâm, không làm rầy rà cho chúng ta, đã là khá lắm rồi.
Trên Thiên đàng, không còn phải làm việc nữa.
Ở đời chúng ta rên rỉ vì bệnh tật: một cơ quan trong mình ta chưa kịp khỏi thì một cơ quan khác đã bắt đầu đau. Nếu toàn thân ta, không cùng đau một lúc, thì đã hạnh phúc cho ta lắm rồi. Thân thể ta tế nhị hơn, tinh vi hơn thân thể cầm thú, chẳng qua cũng là để ta chịu đau khổ hơn.
Trên thiên đàng không còn bệnh tật nữa.
Ở đời, ta phải chết: đau đớn thay những giây phút hấp hối, ghê tởm thay những sự rùng rợn trong mồ.
Trên thiên đàng không còn chết nữa.
Chúng ta hãy trông cậy! Có lẽ Bạn đã thấy con sâu róm… trông thấy mà rùng mình. Nhưng đến một lúc kia, con sâu ấy cuộn mình trong một miếng lá, không khác gì bị chôn trong mồ. Những sức tiềm tàng của Tạo hóa bắt đầu làm việc, những chân nó dùng để bò, sẽ rụng xuống, các phần khác mọc ra: kìa những cánh nhẹ nhàng sặc sỡ, đẹp như ánh sáng mặt trời.
Nó bay lên không gian, ánh sáng mặt trời lại như tô thêm vẻ đẹp… Trước đây một tháng, ai trông thấy nó cũng sợ, bây giờ từng đoàn trẻ chạy theo bắt nó, vì sắc đẹp của nó đã làm chúng mê mẩn. Trước đây, nó ăn những lá cây thô, bây giờ nó chúi đầu hút những nhụy trong những cánh hoa vàng.
Xác ta này, cũng thế. Một ngày kia, nó cũng sẽ biến hình. Nó cũng sẽ tung những cánh đầy ánh sáng, nó sẽ gieo vào không gian những tiếng ca khải hoàn, nó sẽ tắm gội trong không gian nức mùi thiên hương. Và ở đấy, nó không còn phải làm việc nữa, nó không còn bệnh tật nữa, nó không còn chết nữa: trên Thiên đàng chỉ có nghỉ ngơi, trong một cuộc đời dài vô tận.
Nói tắt, trên Thiên đàng, thân thể ta không còn đau khổ nữa.
Ở đời, tim ta đau khổ: trên Thiên đàng, tim ta không còn đau khổ nữa.
Ở đời, tim ta đã gặp bao nhiêu thất vọng chua chát. Nó đã mơ màng lạc thú, nhưng nó đã gặp biết bao sự ưu phiền. Thánh Jeanne de Chantal (Gio-an-na Săng-tan) nói: “Trong tim tôi, có một cái gì lúc nào cũng run rẩy!”. Chúng ta cũng nói được: Trong tim tôi có một cái gì lúc nào cũng làm cho phải khóc. Vậy thì cuộc đời ta phải đem so sánh với cái gì? Với một ngày tưng bừng thơm nức của mùa xuân chăng? Không, phải so sánh với một ngày đông sầu ảm đạm. Thương ôi, những cái chúng ta gặp trên đời, không phải là những cái chúng ta mơ ước. Hãy nhớ lại, hồi chúng ta mười sáu, hai mươi tuổi, chúng ta hăng hái tiến thủ, lòng đầy hy vọng, tràn trề vui vẻ, hai môi nhấp nháy những bài ca hùng mạnh. Đó là những mơ mộng của tuổi trẻ, của tuổi hai mươi. Những mơ mộng ấy, ngày nay đã biến đâu rồi? Lớn lên chúng ta không còn mơ mộng khoái lạc, chúng ta mơ ước thành công. Nhưng thành công có thấy đâu, chỉ thấy toàn thất bại. Còn gì đau đớn ê chề hơn nữa!
Nhưng, này, ta hãy ngửa mặt lên. Vì nếu ta thật tình muốn, thì ta sẽ vào Thiên đàng, và trên Thiên đàng không còn bị thất bại.
Tim ta đã gặp thất bại, nó lại còn gặp những sự bội phản.
Ai trong ta cũng cần có một quả tim thân ái. Ta đã tìm, ta tưởng rằng: đã thấy. Nhưng một hôm, trong một lúc không ngờ, người Bạn ấy đã biến tan trong sương sớm, để ta lại trơ trọi cô độc. Vì một tí lợi, vì một lời nói vô tình, vì sự hiểu lầm không đáng kể, họ đã quay lưng lại với ta và ta đã gạt lệ trong âm thầm… để tiếp tục bước đi trong im lặng buồn tủi.
Nhưng ta hãy can đảm lên, vì rồi đây lên Thiên đàng, ta không còn gặp bội phản nữa.
Tim ta đã gặp bao cảnh biệt ly tang tóc. Tang tóc biệt ly trong gia đình, biệt ly tang tóc ở những người thân quyến, bạn hữu… Họ ra đi, không hẹn ngày về, chúng ta ở lại hàn gắn những vết thương sâu hoắm.
Chúng ta hẳn chưa quên những lời than thở của người chinh phụ; mấy lời vắn tắt nhưng cũng tả hết nỗi đau đớn của cảnh biệt ly và mong chờ:
Thuở lâm hành, oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca,
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió,
Hỏi ngày về phỏng độ đào bông,
Nay đào đã quyến gió đông.
Tuyết mai trắng bãi, phù dung đỏ bờ…
Hoặc một câu vắn tắt trong “Hai chị em lưu lạc”:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau.
Trông nhìn mả mẹ ruột đau chín chiều.
Bèo tan, trăng khuyết… kẻ ở, người đi, tuy cái cảnh ấy chẳng có gì lạ, nhưng nó cũng đã gây bao mối hận lòng, nó đã khoét thành bao nhiêu hồ nước mắt.
Nhưng ta hãy ngửa mặt lên: một ngày kia, ta sẽ nghe lời Chúa phán như đã phán với người trộm lành: “Ngày hôm nay, con sẽ ở nơi cực lạc cùng Ta” [69], và khi ấy, hết tang tóc, hết biệt ly [70].
Ở đời ta sợ những sự đau khổ cho linh hồn. Trên Thiên đàng linh hồn không còn đau khổ nữa.
Sống ở đời, nhiều khi ta phạm tội, và đã mang tội vào thân, thì lao đao tân khổ chừng nào! Chúng ta hãy nhớ lại truyện Chàng thanh niên hoang đàng… chàng ngồi sầu khổ dưới bóng cây… Cạnh chàng là một đàn lợn đẵm trong đám bùn hôi. Mặc không đủ che thân, hai tay ôm lấy đầu, chàng lặng lẽ nghĩ đến cuộc đời đã qua và hiện tại. Bên ngoài là một sự yên lặng nặng nề. Nhưng trong người chàng là cả một cơn giông tố dữ dội… Chàng ước mong biến thành bầy lợn vô linh tính… Nhưng không được, trước sau, chàng vẫn là người… để chịu đau khổ, để bị những cắn rứt của lương tâm.
Phàm kẻ có tội, đều bị khổ, giống như chàng hoang đàng kia.
Nhưng nếu ta muốn, thì ta cũng có thể một ngày kia lên Thiên đàng, và trên Thiên đàng, không còn tội lỗi nữa.
Sống ở đời, nhiều khi sợ mình đang sống trong tội. Áy náy thay ! Chính Thánh Bênađô cũng đã từng than lên: “Loài người không biết chắc được Chúa yêu hay bị Chúa ghét”. Ta chưa phải thánh Bê-na-đô, thì ta còn phải kêu lên đến thế nào nữa. Có lẽ chúng ta đã ngã, thì chúng ta đã đứng dậy chưa? Chúng ta đã bị cám dỗ, thì chúng ta có chống lại cho mạnh mẽ không?
Nhưng nếu ta muốn, thì ta sẽ được lên Thiên đàng, và trên Thiên đàng ta không còn áy náy nữa.
Sống ở đời, vẫn còn lo sẽ phạm tội. Lúc nào ma quỷ cũng mạnh mẽ và mưu mô, lúc nào thế gian cũng quỷ quyệt và quyến rũ, lúc nào tim ta cũng hùa theo tình dục. Lúc nào cũng bị cám dỗ, lúc nào cũng sợ mất nghĩa cùng Chúa… Thật là chua xót đắng cay!
Nhưng trên Thiên đàng, thì không còn sợ phạm tội nữa.
Nói tóm lại: trên Thiên đàng không còn phải làm việc, không còn bệnh tật, không còn phải chết, không còn bị thất bại, không còn bị bội phản, không còn phải ly biệt, không còn tội lỗi, không còn áy náy, không còn nguy hiểm… sống trên Thiên đang như thế, thì sung sướng chừng nào!
Thánh Tê-pha-nô nằm dưới những trận mưa đá, Người ngửa mặt lên và kêu: “Tôi thấy Thiên đàng mở ra”, rồi Người mỉm cười. [71]
Trong lúc thấy trăm nghìn sự đau khổ đổ trên người Bạn, Bạn hãy nhìn lên Thiên đàng và hãy tự bảo mình: Trên Thiên đàng, tôi không còn gặp những cái làm tôi sợ hãi, đau khổ nữa. Lời ấy cũng sẽ tăng sức mạnh cho Bạn và Bạn cũng sẽ mỉm cười được như thánh Tê-pha-nô.
Trên Thiên đàng, Bạn không còn đau khổ nữa, nhưng đã hết chưa?
Là vì Thiên đàng của chúng ta còn có hết những cái ta ước ao.
Ta ước ao được ngắm, ta sẽ được ngắm Chúa.
Ta sẽ được thấy lâu đài Chúa, và nó đẹp chừng nào! Chúng ta hãy ngắm một nắm bụi, mà ta gọi là quang chất. Nó có những tính cách rất lạ lùng… ta đã thấy những tấm kính ba mặt, nhìn qua, ta sẽ thấy màu sắc của ánh sáng mặt trời… Ta đã thấy đôi cánh của con cánh quýt, một con sâu nhỏ, nhưng Chúa đã mặc cho nó một bộ cánh với những màu sắc rất xinh đẹp… Đã thế, thì Chúa có thể tạo một ngôi nhà, một cung điện còn đẹp đẽ lộng lẫy, xứng đáng với con cái Chúa đến chừng nào nữa!
Chúng ta được thấy con cái Chúa, tức là triệu triệu các thánh, ngự trên những ngai tòa sáng láng hơn mặt trời, và không cái nào giống cái nào. Ta sẽ thấy triệu triệu Thiên thần, không đấng nào giống đấng nào.
Tại La Mã cổ, những nhà được người ta tìm thuê hơn cả, là những nhà mà chung quanh là những người lân bang tử tế. Những nhà muốn bán mà có treo cái biển “lân bang tử tế”, thì dù là những căn nhà tầm thường, cũng được người ta ham mua. Vậy thì trên Thiên đàng, chúng ta được thân cận với các Đấng thánh thì ta sẽ sung sướng chừng nào! Nhất là ta sẽ có Đức Mẹ, hai tiếng “Đức Mẹ” cũng đủ kích thích lòng ta rồi, và nguyên sắc đẹp của Đức Mẹ cũng đủ làm ta ngây ngất đời đời.
Nhưng nhất là chúng ta sẽ thấy Chúa, sẽ được ngắm Nhan Thánh Chúa. Chúa chính là sự đẹp tuyệt đối, tất cả những cái đẹp ở trần gian và Thiên đàng, chỉ là những phản ảnh lờ mờ của cái đẹp vô cùng ấy. Vậy thì mắt ta sẽ được đứng trước một cái đẹp mê hồn chừng nào! Và lòng ta sẽ sung sướng ngây ngất chừng nào nữa!
Trên núi Tabo, Thánh Phêrô được thấy ánh sáng ở thân thể Chúa giãi ra trong chốc lát, người đã ngây ngất đến nỗi “quên cả cõi tục”. “Lạy Thầy, ở đây thì tốt lắm, chúng tôi xin làm ba nhà…” [72] làm mà ở luôn trên núi ấy, để ngắm sự xinh đẹp của Chúa… Vậy thì rồi đây chúng ta sẽ được ngắm Chúa, không phải chỉ trong mấy phút, không phải chỉ qua quít ở cái vỏ ngoài, nhưng là đời đời và tận đáy lòng Chúa… khi ta được thấy Chúa nhãn tiền trước mắt, thì ta sung sướng chừng nào!
Phải, nếu Chúa không lấy sức mạnh vô cùng của Chúa mà nâng đỡ ta, thì ta sẽ biến tan vì sung sướng.
Chúng ta mong được yêu. Chúng ta sẽ yêu mến Chúa.
Trước hết, chúng ta sẽ yêu các con cái Chúa: các Thiên thần, các Thánh nam nữ, nhất là những người bà con, thân quyến, bạn hữu của ta lúc còn ở trần gian. Trên Thiên đàng, chúng ta sẽ nhận ra nhau, chúng ta sẽ sống cùng nhau, không còn chia rẽ, không còn biệt ly và sẽ yêu nhau đời đời. Đó là một điều yên ủi lòng ta ngay từ đời này.
Chúng ta sẽ yêu mến Đức Mẹ, và được Đức Mẹ yêu. Cái yêu ấy mới là cái yêu thâm thúy sâu xa êm đềm biết chừng nào!
Nhất là ta sẽ yêu mến Chúa. Đứng trước vẻ đẹp của Chúa, ta sẽ ngây ngất. Khi ta thấy lòng thương vô hạn của Chúa, lòng yêu đã yêu ta từ đời đời, thì ta sẽ bị chìm đắm trong bể ái, lòng ta sẽ sung sướng chừng nào!
Thánh Phanxicô Xaviê chỉ được có một tàn lửa mến của Chúa bắn vào trong tim, mà Người còn phải kêu lên: “Lạy Chúa, thôi, đủ rồi, nếu Chúa cho thêm thì con chết mất”. Vậy thì khi không phải chỉ một tàn lửa mến, nhưng cả lò lửa mến thiêu đốt lòng ta thì ta sẽ kêu lên những lời gì nữa?
Nếu Chúa không lấy sức mạnh vô cùng Chúa để giữ ta thì sự vui mừng sẽ giết chết ta.
Ở đời nhiều khi đứng trước một vẻ đẹp thiên nhiên, mà người ta còn ngây ngất ngắm không biết mỏi… Huống nữa về sau, khi được chìm ngắm trong những cái đẹp ngoài sức tưởng tượng, thì chúng ta biết lấy lời gì để tả những sự ngây ngất ấy!
Sau cùng, ta muốn được hưởng; Ta sẽ hưởng Chúa.
Nhiều lần chúng ta đã mơ thấy những cái làm ta mê mẩn sung sướng, ta làm tổng thống, ta được giàu sang, ta được lạc thú… bao lâu còn trong giấc mộng, ta còn thấy hạnh phúc của ta êm đềm trong trẻo… nhưng đùng một cái, ta giật mình dậy, thế là bao nhiêu mộng đẹp đều biến tan… quả đất lại hóa ra chốn lưu đày khóc lóc…
Vậy thì chúng ta hãy tưởng tượng hết những cái gì có thể tưởng tượng được, không phải chỉ là một giấc mơ, nó sẽ là những sự thực. Thiên đàng là tự do: ta muốn đi đâu thì đi, ta muốn làm gì thì làm, là vì ta không thể phạm tội được nữa. Thiên đàng là bao nhiêu kho báu của Chúa sẽ là của ta. Thiên đàng là danh vọng: chúng ta sẽ ngồi đồng bàn cùng Chúa. Thiên đàng là mau kíp: ta muốn đi đâu, thì trong nháy mắt đã đến. Thiên đàng là sức mạnh: không còn cái gì là khó ngại, là trở lực. Thiên đàng là hòa thuận: một đại gia đình, tất cả các anh chị em hòa thuận dưới mắt một người cha hiền. Thiên đàng là lạc thú: ta sẽ hưởng hạnh phúc vô cùng và đời đời. Thiên đàng là sức khỏe: không còn bệnh hoạn tật nguyền, không còn biệt ly chết chóc. Thiên đàng là tình yêu: ta sẽ yêu Chúa, yêu Đức Mẹ, yêu các Thánh và được yêu lại. Thiên đàng là an ninh: không còn đạo tặc, trộm cướp, thù địch. Thiên đàng là sự đẹp: khiến ta luôn luôn ngây ngất. Thiên đàng là thông minh: chúng ta sẽ nhìn thấy Chúa rõ ràng. Thiên đàng là trường thọ: một thứ hạnh phúc hoàn toàn và lâu dài vô tận. Bạn hãy tưởng tượng hết các cái đẹp, cái hay, cái tốt, cái gì Bạn cũng được gặp trên Thiên đàng, và lại chắc được hưởng tất cả những cái ấy cùng một lúc và đời đời.
Nói tắt một tiếng: tất cả ngũ quan và tâm tư chúng ta đều được hưởng những hạnh phúc riêng của mình, và sẽ hưởng đầy đủ và mãi mãi…
Nhất là ta sẽ được hưởng chính Chúa. Ta sẽ được uống trong suối khoái lạc Thiên Chúa. Hạnh phúc chúng ta không làm chúng ta chán ngán; được thỏa mãn nhưng vẫn muốn được thêm luôn. Hạnh phúc của chúng ta không khi nào có cùng, mỗi phút sung sướng, ta phát lên một câu hỏi, như một người bị đầy: “Cho đến khi nào ?” và cũng như người bị đầy chung thân, chúng ta sẽ nghe đáp lại: “Không khi nào hết!”.
Ở đời này, không cái gì bền vững. Bạn còn trẻ trung khỏe mạnh, nhưng ngày mai? Ngày mai, Bạn sẽ đứng tuổi, Bạn sẽ già, rồi bệnh hoạn, rồi chết… Bạn dự một ngày lễ, nhưng ngày mai cuộc đời lại nặng nề trôi, ôm theo những lo nghĩ, những buồn phiền, những đau khổ.
Trên Thiên đàng thì không thế, hạnh phúc của Bạn sẽ là hạnh phúc vô cùng vô tận… Lúc nào cũng là lúc bắt đầu, không khi nào hạnh phúc Bạn đã qua một phần tư, một phần mười… Lúc nào cũng mới và cứ mới mãi mãi…
Bạn sẽ hưởng luôn, luôn mãi, mãi mãi… Đó chính là Thiên đàng.
Nguyên một tư tưởng ấy, nếu không được Chúa giữ Bạn, cũng đủ làm cho Bạn chết đi được.
Bạn hoài nghi chăng? Hoài nghi sao được? Nếu Bạn chết trong khi sạch tội trọng, thì tất cả những cái tôi vừa tả qua đó, sẽ là của riêng Bạn, và Bạn sẽ chiếm giữ mãi cho đến đời đời.
Nói tóm lại, được nhìn ngắm chính sự Đẹp, được yêu chính tình yêu, được hưởng chính hạnh phúc, được tất cả những thứ ấy cùng một lúc và đời đời: đó chính là Thiên đàng.
Đến đây ta có thể hiểu được cơn ngất trí của Thánh Augustinô. Hôm ấy là ngày 30 tháng 9 năm 421, Thánh nhân quỳ trong phòng vắng và suy về hạnh phúc Thiên đàng. Bỗng một tia sáng Thiên đàng bao phủ lấy Thánh nhân, và một tiếng từ xa vọng lại: “Augustinô làm gì thế? Ông thu biển cả vào bàn tay ông, còn dễ hơn hiểu được một sự vui thú nhỏ nhất trên Thiên đàng”. Thánh nhân hỏi tiếng ấy là ai? Tiếng ấy đáp lại: “Tôi là linh hồn linh mục Giêrônimô, tôi vừa từ giã xác nặng nề của tôi ở thành Bê-lem, bây giờ tôi đã được vào Thiên đàng”. Tiếng nói im bặt. Và Augustinô tự nhiên thấy mình được đưa vào khu vực siêu nhiên ngây ngất.
Những cái ngây ngất của Thánh Augustinô, mới chỉ là những giây phút nếm thử phúc lộc Thiên đàng.
Thiên đàng là thế. Hay nói đúng hơn, Thiên đàng chưa phải là thế, vì chúng ta không thể tả được Thiên đàng, như lời Thánh Giêrônimô nói với Thánh Augustinô. Nhưng ít ra ta hiểu được một tí, Thiên đàng là cái gì, và đồng thời ta hiểu thêm đất này là gì.
Khoảng năm 100, thời bách hại của Marc-Aurèle (Mác-ô-ren), hai anh em quý phái Valerien (Va-lê-riêng) và Tiburce (Ti-bút) bị tống ngục vì theo đạo Công giáo. Mắc-xim là một ông quan có trách nhiệm điệu hai anh em ra pháp trường, lúc đến nhà ngục mở cửa, thấy hai anh em đang quỳ gối mắt nhìn lên trời, vẻ mặt bình tĩnh khác thường. Tuổi thanh niên, dòng quý phái, sự trong sạch, tính nhẫn nại của hai người tù đã làm ông ta cảm kích. Ông ta quay ra khóc. Hai anh em liền hỏi: “Sao ông lại khóc?” Ông đáp: “Tôi khóc vì thấy hai anh em trẻ tuổi, giàu sang, quý phái mà phải điệu đi xử”. Hai anh em đáp lại: “Xin ông đừng lầm, chúng tôi có đạo, và những người có đạo, khi từ giã cõi đời, sẽ bước sang kiếp khác, là chỗ không còn chết nữa. -Lời hai ông nói có thật không? Nếu ông hứa theo đạo, thì trong giờ chúng tôi chết, chính mắt ông sẽ thấy những cái chúng tôi nói lúc này”. Mắc-xim hứa. Lúc hai anh em bị chém, ông được thấy linh hồn hai anh em sáng láng… Chính ông, sau cũng được phúc chết vì đạo.
Bạn ôi, chúng ta cũng hãy bắt chước ba Thánh Tử đạo ấy mà ước mong Thiên đàng. Ta đã thấy đất này chỉ là chốn đau khổ và tội lỗi, thì dại gì ta còn dính bén vào nó. Thiên đàng là chốn hưởng đầy tình yêu và hạnh phúc, thì sao ta lại không ước mơ ?
Bạn còn nhớ truyện Lụt Hồng Thủy. Sau khi nước rút xuống, ông Noê thả một con quạ, gặp những xác chết, thì nó bám chặt vào, mà không còn quay về tàu nữa. Ông Noê cũng thả một con chim bồ câu, nhưng nó không tìm được chỗ đậu, thì lại quay về tàu. Ta đừng làm con quạ, ta hãy làm chim bồ câu, hãy may mau về tàu, là Thiên đàng. Muốn được thế, ta đừng bắt chước con quạ, đừng bám vào những cái phù vân, vào những lạc thú đê hèn… trái lại ta hãy tìm, hãy bám vào những cái vô biên.
Sau cùng, ta hãy sống trong hy vọng. Mặc dù sự đau khổ đang vây bọc quanh ta, ta cũng không mất hy vọng. Không gì làm cho ta mất hy vọng, dù chính những tội chúng ta đã phạm, cũng không thể làm cho ta thất vọng, vì ta hãy khóc lóc các tội lỗi ta, và hễ đã khóc lóc tội ta, thì Chúa sẽ trả lại ơn Thánh hóa, và tình yêu của Chúa cho ta, tình yêu đời này, và Thiên đàng đời sau.
Tôi thành thật cầu chúc Bạn ngày sau chiếm được Thiên đàng, và xin Bạn cũng thương cầu cho tôi đừng mất Thiên đàng.
Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT
[68] Bài này viết theo Le Crucifix. của Cha Billet, C.Ss.R. và Vivre của ARAMI.
[69] Luca 23,43
[70] K.H. 21,4
[71] CVTĐ 7,55-60
[72] Matt 17,4