8. Đời Sống Tâm Linh

Dành giờ cho Chúa – Chương IV. Những điều kiện thể chất cho việc kết hiệp với Chúa

1. Thời gian
2. Nơi chốn
3. Tư thế

Tiếp đến, chúng ta xét xem những yếu tố bên ngoài của việc kết hiệp với Chúa: bao lâu, khi nào, ở đâu, với những tư thế nào.

Quả là sai lầm khi chúng ta quá coi trọng những điều này, để rồi làm cho việc kết hiệp với Chúa trở thành một điều gì đó đầy tính kỹ thuật. Về căn bản, chúng ta có thể thực hành kết hiệp với Chúa bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu với những tư thế hoàn toàn khác nhau trong sự tự do thánh thiện của con cái Chúa. Tuy nhiên, con người không phải là những tinh thần thuần tuý mà là những thọ tạo cả hồn lẫn xác, thế nên, phải học cách sử dụng không gian và thời gian với những công việc thiêng liêng và càng phải cố gắng nhiều hơn vì không phải lúc nào tâm trí chúng ta cũng có thể cầu nguyện được. May thay, chúng ta có “anh lừa” đến trợ giúp – như cách dùng của thánh Phanxicô Assisi khi ngài gọi thân xác, và trong một cách thức nào đó – đền bồi cho sự bất lực của chúng ta bằng một dấu thánh giá, một sự phủ phục hay qua việc lần hạt với tràng chuỗi trên tay.

 

1. Thời gian

CẦU NGUYỆN KHI NÀO

Mọi thời khắc đều tốt cho việc cầu nguyện, nhưng mỗi người nên cố gắng hết sức có thể để cầu nguyện vào thời gian nào thích hợp nhất – khi tâm trí tương đối tươi tỉnh, chưa ngập đầy những bận tâm cấp bách, khi chưa có chuyện này xen chuyện kia vốn không ngừng tạo ra những gián đoạn… Thực tế, dù thông thường, chúng ta không tự do chọn cho mình giờ cầu nguyện vào một thời gian lý tưởng nào đó, nhưng chúng ta phải tận dụng mọi cơ hội có được khi có thể giành lấy để cầu nguyện.

Cũng cần tận dụng ơn Chúa sau những giờ khắc đặc biệt, chẳng hạn, sau rước lễ… hẳn là thời gian ưu tiên cho việc kết hiệp với Chúa.

Đây là điểm đáng nhấn mạnh: không nên xem cầu nguyện như một việc gì đó ngoại thường được làm vào một lúc nào đó, một khoảng thời gian mà khó khăn lắm chúng ta mới giành giật được từ những hoạt động khác. Nhưng cầu nguyện phải trở thành một thói quen, một phần của nhịp sống thường ngày, để rồi “nơi chỗ” của nó không bao giờ là thắc mắc và giả thiết chúng ta chỉ sống thêm một ngày cuối cùng. Điều này sẽ hun đúc lòng trung thành với việc cầu nguyện vốn là một cái gì hết sức thiết yếu. Cuộc sống được hình thành bởi những nhịp điệu: nhịp điệu của nhịp đập con tim và hơi thở, nhịp điệu của ngày và đêm, của các bữa ăn, của các tuần… Cầu nguyện cũng phải trở thành một cái gì sống còn đối với chúng ta như những nhịp điệu căn bản của tồn vong. Cầu nguyện phải trở thành hơi thở của linh hồn.

 

PHẢI CẦU NGUYỆN TRONG BAO LÂU

Thời gian dành cho việc cầu nguyện phải tương thích. Năm phút chẳng đủ cho Chúa. Năm phút là thời gian dành cho ai đó khi chúng ta muốn rút khỏi họ càng sớm càng tốt. Mười lăm phút là thời gian cực tiểu, không thể ít hơn; và bất cứ ai nếu có thể, không nên do dự dành một giờ mỗi ngày cho việc cầu nguyện hoặc đôi khi nhiều hơn.

Dẫu vậy, đôi lúc, mỗi người đều phải cẩn thận, đừng quá tham vọng trong việc quyết định thời lượng dành cho việc cầu nguyện. Bởi lẽ điều này sẽ dẫn người ta đến nguy cơ là thời giờ đặt ra vượt quá sức mình để rồi rốt cuộc phải nản chí. Một khoảng thời gian ngắn tương đối (hai mươi phút hay nửa giờ) bền bỉ trung thành dành cho việc cầu nguyện mỗi ngày sẽ tốt hơn thi thoảng, người ta dành ra đến hai giờ đồng hồ.

Điều tối quan trọng là phải quyết định thời lượng tối thiểu cho việc cầu nguyện và đừng rút ngắn nó (ngoại trừ những trường hợp thực sự bất thường). Thật là sai lầm khi những quyết định đó lại đặt trên nền tảng niềm vui có được trong việc cầu nguyện, để rồi khi cầu nguyện trở nên một cái gì nhàm chán, chúng ta dừng ngay. Đôi khi, dừng lại có thể là một quyết định khôn ngoan, nếu cầu nguyện dẫn đến quá mệt mỏi và lo lắng. Nhưng theo lẽ thường, để cho việc cầu nguyện sinh hoa kết quả, chúng ta phải trung thành với một thời lượng tối thiểu và không chiều theo cám dỗ rút ngắn nó lại. Điều này hết sức quan trọng vì kinh nghiệm cho thấy, thông thường, chính vào năm phút cuối cùng, Chúa viếng thăm và chúc lành cho chúng ta, sau khi chúng ta đã dành toàn bộ thời giờ còn lại cho việc thả lưới “mà chẳng đánh bắt được gì” như Phêrô đã vất vả suốt đêm.

2. Nơi chốn

Chúa ở khắp mọi nơi và chúng ta có thể cầu nguyện ở bất cứ nơi đâu: trong phòng, trong nhà nguyện, trước Thánh Thể, trên xe lửa hay cả khi sắp hàng trước quầy thanh toán ở siêu thị… Nhưng dĩ nhiên, thật đáng ao ước một nơi thuận tiện cho sự thinh lặng, hồi tâm và chú tâm đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Nơi tốt nhất, khi thuận tiện là một nhà chầu Thánh Thể, đặc biệt nếu Thánh Thể được đặt ra ngoài hầu chúng ta có thể tận hưởng ân lộc từ sự Hiện Diện Đích Thực của Chúa.

Nếu việc cầu nguyện được thực hiện tại gia, tốt biết bao khi có một góc – cầu – nguyện phù hợp với ảnh tượng, một ngọn nến, một bàn thờ nhỏ hay bất cứ cái gì hữu ích cho chúng ta. Chúng ta cần phương tiện vật chất và những dấu chỉ bên ngoài. Ngôi Lời đã trở nên xác phàm… nên sẽ rất sai lầm khi chúng ta coi thường những phương tiện vật chất cũng như việc sử dụng chúng đang khi chúng có thể gia tăng lòng đạo đức. Khi việc cầu nguyện trở nên khó khăn hơn, việc chăm chú ngắm nhìn một ảnh tượng nào đó hay một ngọn nến đang cháy… có thể dẫn chúng ta trở về với sự hiện diện của Chúa.

Như thời giờ cần có cho việc cầu nguyện, cũng thế, chúng ta cần có một nơi chốn dành riêng cho việc cầu nguyện tại nhà. Ngày nay, nhiều gia đình cảm thấy cần dành riêng một phòng hay một góc phòng như một kiểu nhà nguyện.

3. Tư thế

Tự nó, thái độ hay tư thế cầu nguyện không quá quan trọng. Tôi xin lặp lại, cầu nguyện không phải là yoga. Thái độ tốt nhất tuỳ thuộc vào mỗi cá nhân, tuỳ vào thể trạng mệt mỏi hay khoẻ mạnh và những gì phù hợp với từng người. Chúng ta có thể ngồi, quỳ, úp mặt xuống đất hay ngay cả đứng hoặc nằm trên giường để cầu nguyện.

Dẫu theo nguyên tắc, điều này có vẻ tự do, nhưng cũng cần lưu ý một đôi điều. Trước tiên, tư thế được chọn phải là tư thế thoải mái nhất, để mỗi người có thể tĩnh lặng, hồi tâm, hít thở dễ dàng… Nếu không thoải mái để rồi cứ vài phút, chúng ta đổi tư thế… điều đó sẽ ảnh hưởng xấu đến việc ý thức sự hiện diện của Chúa, một điều thiết yếu trong cầu nguyện.

Cùng lúc đó, thái độ thể lý cũng không được quá thoải mái. Kết hiệp đòi hỏi chú tâm đến sự hiện diện của Chúa và tư thế phải khích lệ cho việc hướng lòng lên Người. Một đôi khi, chúng ta bị cám dỗ nhác nhớn, một thái độ thể lý diễn tả tốt hơn việc kiếm tìm và khát khao Người – chẳng hạn, quỳ trên một chiếc ghế cầu kinh hay chiếc gối quỳ với đôi tay rộng mở – sẽ giúp chúng ta dễ tập trung vào Chúa. Đây là cơ hội để chúng ta phục vụ linh hồn bằng việc sử dụng “anh lừa”.

 Lm. Minh Anh, GP. Huế

MỘT CÕI ĐI VỀ

Hôm nay tôi một mình đi trong nghĩa trang, tìm lại những kỷ niệm của những người đã đi trước: giám mục, đức ông, linh mục, tu sỹ, các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, chú thím, bạn bè, và anh em.  Đời người thật ngắn ngủi. Mới đó mà nay đã ra người thiên cổ. Mới đó mà nay đã không còn xuất hiện trên cõi đời này, không còn có dịp gặp gỡ, hàn huyên, tâm sự với nhau nữa. Một điều khiến tôi phải suy tư rất nhiều, đó là dù ai đi nữa thì nơi ở cuối cùng của họ cũng như nhau. Một nấm mồ, một mảnh đất khiêm tốn, và một tấm bia ghi lại tên, nơi sinh, ngày sinh và ngày tạ thế. Giữa thinh không bao la ấy, bất chợt tôi nghe đâu đây lời ca của Khánh Ly qua nhạc phẩm Một Cõi Đi Về của Trịnh Công Sơn:

“Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”.

Tính đến thời điểm này, người thân và bạn bè đã rủ nhau bỏ lại tôi tất cả là gần 80 người, trung bình cứ một năm là một người. Riêng chỉ năm nay đã có đến 5 người, một ở Úc Châu, ba ở Hoa Kỳ và một ở Việt Nam. Nhìn quanh cứ thấy số tuổi tăng thêm, thì số người thân yêu, bạn bè lại giảm. Nay người, mai ta. Mỗi lần nhận được tin ai đó qua đời tự nhiên trong lòng cảm thấy bồi hồi xúc động. Không biết bao giờ thì đến phiên mình, mà chắc chắn là ngày ấy cũng phải đến thôi, chỉ còn biết tự an ủi: “Sự chết mỉm cười với chúng ta tất cả, và tất cả những gì một người có thể làm được là mỉm cười lại với nó” (Marcus Aurelius, Hoàng Đế Roma). Nghĩ vậy nhưng vẫn thấy lòng mình nôn nao, một cảm nghĩ bâng khuâng cho số kiếp con người.

Nhưng không lẽ chết là vậy sao? Chết là người còn sống đem chúng ta vào nhà xác, đặt chúng ta trong quan tài, rồi đem chúng ta ra nghĩa địa? Chết là bỏ lại tất cả? Chẳng lẽ chết rồi thì không còn nhìn mặt nhau, không còn máu mủ ruột rà, không còn tình thầy trò, không còn bạn bè, không còn cái gì hết? Nếu vậy thì tại sao trong văn hóa Việt Nam lại có câu: “Sinh ký, tử quy” (Sống gửi, thác về)?

Đời người ngắn ngủi: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy. Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”. (Cao Bá Quát). Thì ra con người xuất hiện trên dương thế làm gì đi nữa, đi đâu đi nữa, cũng chỉ đủ một ngày 24 tiếng, và thọ lắm cũng chỉ 100 năm, rồi cuối cùng thì đành chấp nhận bỏ lại sau lưng và phải ra về. Về đâu?

Thực tế là về với nấm mộ của mình, về với lòng đất lạnh, về với nghĩa trang đìu hiu, và về một nơi mà những người còn sống không muốn về cùng hay chưa muốn về: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.) Nhưng với cái nhìn tâm linh, thì nơi con người về đó là Niết Bàn hay Thiên Đàng, nơi ngập tràn ánh sáng, bình an, và hạnh phúc, hoặc Địa Ngục, nơi tối tăm, bất hạnh, và đọa hình muôn thuở. Chỉ có hai nơi. Và một trong hai nơi ấy là chọn lựa của mỗi người. Thượng Đế không ép buộc ai phải lên Thiên Đàng với Ngài, và Thượng Đế cũng không đẩy ai vào Địa Ngục.

Nhưng để chuẩn bị hành trang cho chuyến tàu định mệnh đến nơi mà mình sẽ về ấy, liệu chúng ta sẽ mang theo những gì? Ai chúng ta sẽ gặp gỡ và đang chờ đợi để đón mình cuối sân ga vĩnh cửu? Để trả lời câu hỏi này, tôi nhớ lại một bức tranh vẽ về một người nhà giầu, có lẽ là tỷ phú hoặc một ai đó rất giầu có. Ông một tay kéo theo chiếc va ly, tay kia xách một túi xách đầy ắp vàng bạc và châu báu. Nhưng ông bị thần chết chận lại và nói: “Hãy để lại tất cả những thứ này trước khi bước qua ngưỡng cửa đời đời. Ở bên kia, chỉ xài phúc và tội thôi”. Vậy chuyện gì sẽ xảy ra cho người giầu có kia, vì cái mà ông định mang theo lại không được phép đi theo ông, còn cái mà ông không chuẩn bị sẽ đi theo ông.

Từ nghĩa trang trở về, tôi tự nhủ: “Phải bắt đầu lại cho tương lai của mình bên kia thế giới, nơi mà ở đó chỉ xài tiền phúc hoặc tội”. Nhưng cũng băn khoăn hỏi mình: Về đâu? Đâu là nơi mà mình sẽ đến sau khi chết?

2 tháng 11 năm 2024

Lễ các Linh Hồn

Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ: 3. Một Công Lệ

Chắc Bạn còn nhớ truyện ông Adong Bà Eva ăn quả cấm. Ăn xong Ông Bà liền bị Chúa lên án phạt. Chúa phán với Bà Evà: “Ngươi sẽ phải đau đớn khi sinh nở, và phải chịu lụy chồng”. Và với ông A-dong: “Vì ngươi nghe lời vợ hơn nghe lời Ta, thì đất sẽ sinh ra gai góc cỏ rả… ngươi sẽ phải đầu tắt mặt tối, sẽ phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới kiếm được của mà ăn; khi chết, lại trở về với đất bụi”. (8)

Bạn thân mến, đó là một cái án, một cái án Chúa Tạo thành đã ra, và không ai có quyền hủy án ấy; án Chúa ra có một lần, nhưng kết quả của nó thì vĩnh viễn, nghĩa là bao lâu còn người sinh sống trên mặt đất thì bấy lâu án ấy vẫn còn, và vẫn còn thi hành triệt để. Không một ai thoát được án ấy, ông nào bà nào cũng vậy, từ cung điện nhà vua cho đến hang cùng ngõ hẻm, từ những người cầm đầu trăm họ, cho đến những người khăn rách áo ôm, không ai thoát được, vì nó là cái án chung cho ông bà, và cho toàn thể con cháu, không trừ một ai.

Vậy ta cũng chỉ là một trong các con cái cháu chắt hai ông bà, ta cũng có xác thịt có thể yếu đau, bệnh tật, có thể đói khát nóng lạnh, ta cũng có một quả tim dễ bị cảm xúc, ta cũng có một khối óc dễ bị kích động, ta cũng chỉ là một thân xác hay rữa mục, hay thối nát như mọi người, thì đau khổ chỉ là một điều rất tự nhiên và hợp với bản tính tự nhiên của loài người.

Nếu có lạ, thì lạ ở chỗ chúng ta sống mà không bị đau khổ… vì đó là một đặc ân Chúa ban cho hai ông bà trước khi phạm tội, nhưng khi hai ông bà đã đánh mất đặc ân ấy trong khi phạm tội rồi.

Cái án Chúa đã ra ấy, lại là một cái án công bằng. Ông Bà ta đã phạm tội, thì chúng ta phải phạt lây. Có lẽ Bạn cho thế là lạ. Nhưng, con cái hạng bình dân thì tự nhiên lúc sinh ra cũng chỉ bình dân như cha mẹ chúng, mà ai bảo thế là bất công. Ông Bà nguyên tổ ta đã phạm tội, thì chúng ta là con cái, chúng ta phải gánh lấy những hình phạt của hai Ông Bà, cái ấy có gì là bất công? Những cái hai Ông Bà không có, thì trối lại cho chúng ta sao được? Vậy sau khi Ông Bà phạm tội, thì chỉ còn những cái hợp với bản tính tự nhiên, mà trong những cái tự nhiên ấy, thì có sự đau khổ phải chịu vì tội: lẽ tất nhiên hai Ông Bà chỉ có thể trối lại cho ta những cái ấy mà thôi, còn sự sung sướng, là cái hai Ông Bà đã mất sau khi phạm tội, thì không lẽ trối lại cho ta được?

Và đây là điều yên ủi lòng ta.

Cái án rất công bằng Chúa đã ra để phạt tội Tổ tông và con cháu hai Ông Bà ấy, chính Chúa Giêsu và Đức Mẹ là những Đấng vô tội, mà cũng vui lòng lĩnh nhận như hết thảy chúng ta, mà hai Đấng còn vui lòng chịu gấp trăm gấp nghìn lần chúng ta nữa. Tôi không cần nhắc lại đây thiên “khổ sử” của Chúa và Đức Mẹ, ai là người công giáo mà không biết qua những đoạn “khổ sử” ấy.

Nhưng, Bạn yêu quí, nếu Bạn suy thêm điều này nữa, là điều tôi nói ở trang đầu, thì Bạn thấy rằng: Mặc dù Chúa đã lên án phạt tội tổ tông ta, nhưng án ấy hãy còn nhẹ lắm. Ấy là dù chúng ta đáng sống một cuộc đời hoàn toàn đau khổ để đền tội nhưng Chúa cũng không quên gửi tặng chúng ta trăm nghìn nguồn vui tự nhiên và siêu nhiên, để chúng ta đỡ phiền muộn cay đắng trên đường đời, để chúng ta hiểu thấu lòng nhân từ đại độ của Chúa. Chúa phạt, nhưng phạt vì công bằng, phạt nhưng không bỏ qua tình thương, mà có lẽ thương hơn là công bằng.

Vậy ta đừng phàn nàn than trách nữa, đừng mặt ủ mày chau nữa, đừng thở vắn than dài nữa; đừng kêu ca lẩm bẩm nữa; ta chỉ là con cháu Adong Evà, nghĩa là ta chỉ là người, như các người khác, thì ta hãy ghé vai chung lấy một phần đau đớn ở đời, ta hãy nhìn Chúa và Đức Mẹ, hai Cha Mẹ thân mến của ta, hai Đấng đã vui lòng lĩnh lấy Thánh giá của ta, riêng Chúa Giêsu đã vác thật, và đã chịu đóng đanh thật vào Thánh giá nữa, cũng vì ta, và thay cho ta. Vậy ta hãy bắt chước Hai Đấng mà vui nhận lấy Thánh giá Chúa gửi đến cho, ta hãy vui lòng nhận lấy án Chúa đã ra cho ta, cũng như đã ra cho cả loài người, ta hãy hôn kính Bàn tay nhân từ đã gửi những Thánh giá ấy đến cho. Dù ta cựa quậy đàng nào, dù chạy ngược chạy xuôi, ta cũng không thể thoát được án công bằng Chúa đã ra.

Vậy mà Bạn biết yêu mình, Bạn mà thực tình mến Chúa, thì xin Bạn hãy vui lòng lĩnh nhận hết những Thánh giá Chúa nhân lành gửi đến cho Bạn, Bạn hãy tươi cười để tỏ lòng Bạn biết vâng phục thánh ý Chúa. Bạn hãy hăng hái mà sống, không những sống cho xứng đáng làm người, mà còn sống cho xứng người Công giáo, hiểu thế nào là đau khổ, là giá trị sự đau khổ. Bạn không thể thoát được đâu, mà cần gì phải trốn tránh? Bạn hãy chạy đến ôm lấy Thánh giá có hơn không, như thế, có phải Bạn tỏ Bạn là “Bạn” không?

Tôi vừa nói: Bạn không thể trốn thoát được; thật thế, mà nhất là nếu Bạn đã phạm tội, thì, Bạn hãy đọc tiếp…

Lm. Nguyễn Văn Tuyên - DCCT

TẠI SAO CHÚNG TA LẠI CHẾT?

Nếu Chúa muốn chúng ta hạnh phúc và dựng nên chúng ta để sống, thì tại sao Ngài lại bắt chúng ta phải chết thể lý và chịu mọi đau khổ khi mất người thân và phải chia ly?

Sophocles lưu ý trong tác phẩm Antigone của mình: “Có rất nhiều điều kỳ diệu trên thế giới, nhưng không có gì vĩ đại hơn con người... Mặc dù con người đã biết cách tưởng tượng ra nhiều phương thuốc chống lại những căn bệnh dai dẳng nhất, nhưng chỉ có cái chết là con người sẽ không bao giờ có thứ bùa ngải nào cho phép họ trốn thoát”. Thực vậy không gì rõ ràng hơn, cũng không gì phổ biến hơn cái chết.

Sự sống đời này không phải là tất cả. Cuộc sống trên trái đất này chỉ là buổi diễn tập trước khi biểu diễn thực sự. Người ta sẽ dành nhiều thời gian hơn sau khi chết ở cõi vĩnh hằng so với ở đây trên trần gian. Trần gian là một khóa học, một sự chuẩn bị, một sự huấn luyện cho cuộc sống vĩnh cửu. Đời này chuẩn bị cho đời sau.

Người ta nhiều lắm cũng chỉ sống được một trăm năm trên trần gian, nhưng sẽ sống phần còn lại ở cõi vĩnh hằng. Sự tồn tại trên trần gian của chúng ta, như cách nói của Thomas Browne, chỉ là “một dấu ngoặc đơn nho nhỏ trong một đoạn văn vĩnh hằng”. Chúng ta được dựng nên là để sống đời đời.

Kinh Thánh nói: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi” (Giảng viên 3.11) Bên trong chúng ta có một bản năng bẩm sinh khao khát sự bất tử. Đó là bởi vì Chúa đã tạo ra chúng ta theo hình ảnh của Ngài để sống mãi mãi. Mặc dù chúng ta biết rằng cuối cùng mọi người đều chết, cái chết vẫn có vẻ trái tự nhiên và bất công. Nếu chúng ta cảm thấy mình nên sống mãi, đó là vì Chúa đã đặt niềm khao khát đó vào tâm trí chúng ta!

Tuy nhiên, đức tin Kitô giáo cho phép xem xét cái chết theo một cách khác, vì sự sống lại sau cái chết là nền tảng của sự sống đó. Tuy nhiên, nếu Thánh Phaolô dạy chúng ta rằng “tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rm 6:23), thì Thánh Phêrô lại khẳng định rằng “Tội lỗi của chúng ta, chính Ngài đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1 Pr 2, 24 ).

A. Tại sao vẫn đau khổ, vì cái chết?

Cái chết thân xác là một thử thách vì chúng ta được dựng nên để sống, tuy nhiên đó là điều kiện sine qua non - không thể không có - để bước vào cuộc sống vĩnh cửu vì không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà không chết: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33, 20). Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta có cái nhìn khác về cái chết thân xác mà tất cả chúng ta phải gánh chịu? Vì Thiên Chúa tạo dựng con người để sống đời đời, để sống vĩnh viễn “nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài”, nên cái chết không phải là cách Thiên Chúa chuẩn bị cho Ơn Cứu Độ qua Lịch Sử sao? Điều này được minh họa cụ thể qua dụ ngôn về hạt lúa mì: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12:24-25). Thánh Phaolô cũng giải thich: “Vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5: 15).

Cái chết vẫn không kém phần đau lòng, chính vì con người được tạo ra để sống; không phải để chia ly, mà là để kết hợp. Chính Chúa Giêsu đã khóc khi đối mặt với cái chết của bạn mình là Ladarô. Những giọt nước mắt này không chỉ là bằng chứng về nhân tính của Ngài, mà còn chứng thực rằng Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu, khóc khi đối mặt với cái chết vì Ngài không muốn điều đó. Hơn nữa, chính sự công phẫn lớn lao này, đã không biện minh được cho chính nó, mà lại còn minh chứng cho thuyết vô thần: làm thế nào để tin vào một Thiên Chúa Tình Yêu khi tôi biết rằng tôi sẽ chết và những mối liên kết mà tôi xây dựng với những người khác trong cuộc hành trình của tôi trên trần gian sẽ bị cái chết phá vỡ?

B. Thay đổi quan niệm phàm nhân của mình về cái chết

Trong sách Sáng thế có hai cây: cây biết điều thiện và điều ác mà trái của nó bị cấm và cây sự sống, trái của nó được phép ăn, ban cho loài người sự sống vĩnh cửu. Đức Tổng Giám Mục Beau, giáo phận Bourges nói: “Vì vậy, Thiên Chúa đã dựng nên con người để sống đời đời. Vậy thì, chúng ta phải thay đổi quan niệm của con người, vốn cho rằng tất cả chúng ta sẽ chết thì mới hiểu được con người dưới ánh sáng của những gì Đấng Tạo Hóa nói về con người: con người được tạo dựng để sống vĩnh cửu “nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài”. Khi rời Vườn địa đàng, phản ứng của con người là nghĩ rằng mình đang bị trừng phạt. Tuy nhiên, nếu cái chết không can thiệp, con người sẽ mãi mãi là tội nhân. Tuy nhiên, tất cả Lịch sử sau đó cho thấy rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến nỗi Ngài đã đi xa đến mức xây dựng lại mối liên hệ với sự sống vĩnh cửu để trả lại cho con người trái cây mà họ đã đánh mất trong khu vườn”.

Cũng chính trong một khu vườn mà Chúa Kitô hiện ra với Maria Mađalêna, vào buổi sáng phục sinh, giống như một Vườn Địa Đàng mới, nơi con người, sau khi được cứu chuộc bằng cái chết của Chúa Giêsu, cuối cùng được tái sinh. Đây là điều mà Thánh Phaolô Tông đồ biện giải:

Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Chúa Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Chúa Kitô nhờ được chết như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài, nhờ được sống lại như Ngài đã sống lại” (Rm 6, 3-5).

C. Những hối tiếc phổ biến nhất được nghe trên giường bệnh:

  1. Những lần tôi nêu gương xấu cho mọi người làm theo.
  2. Sự thờ ơ của tôi trước sự đau khổ của người hàng xóm của tôi.
  3. Tôi đã không nói được bao nhiêu lời khen ngợi, công nhận và động viên với những người xứng đáng hoặc cần đến.
  4. Tôi tự nhận những thành công của mình nhưng những thất bại của mình tôi lại đổ lỗi cho hoàn cảnh.
  5. Tôi không tôn trọng sự vô tội của ai đó hoặc ngăn cản ước mơ của người khác.
  6. Tôi tiêu tiền vào những thứ không cần thiết mà tôi không bao giờ sử dụng.
  7. Tôi mất quá nhiều thời gian trước khi tha thứ và không đủ cố gắng để tha thứ.
  8. Tôi đã lợi dụng những người yêu thương tôi để đạt được điều ích kỷ.
  9. Tôi không hướng dẫn tốt những người mà lẽ ra tôi phải giáo dục tốt hơn, trước khi quá muộn.
  10. Tôi không đến thăm hoặc không dành đủ thời gian cho hàng xóm của tôi, bởi vì tôi nghĩ rằng người ấy không thú vị đủ, không có học thức hoặc không hữu ích.
  11. Tôi đã lãng phí quá nhiều thời gian vào những thứ vô ích... Đó là thời gian lãng phí mãi mãi.
  12. Tôi  thích được tâng bốc ngay cả khi tôi biết điều đó là sai.
  13. Tôi thường phàn nàn nhiều hơn là cảm ơn.
  14. Tôi để cho những lời ác ý, thô tục hoặc lỗ mãng phát ra từ miệng tôi.
  15. Tôi tham gia vào những cuộc trò chuyện chế giễu Chúa, đức tin hoặc Giáo hội.
  16. Tôi chạy trốn thập giá quá nhiều lần.
  17. Tôi đã không giữ những lời hứa của tôi.
  18. Những lúc tôi có thể và nên cầu nguyện nhiều hơn, và trên hết, yêu thương nhiều hơn, nhưng tôi đã không làm như thế.
  19. Tôi phớt lờ Chúa Giêsu.
  20. Tôi đã làm tổn thương hàng xóm của tôi một cách nào đó.
  21. Tôi đã thiếu tình yêu. Lẽ ra tôi phải yêu Chúa và người lân cận nhiều hơn nữa.

 

Phêrô Phạm Văn Trung

từ: https://imitationjesuschrist.forumactif.com

https://fr.aleteia.org

 

 

 

 

 

Dành giờ cho Chúa – Chương III. Sự phát triển của một đời sống cầu nguyện

1. Từ trí óc đến con tim
2. Vết thương tâm hồn
3. Tâm hồn chúng ta & tâm hồn Hội Thánh 

1. Từ trí óc đến con tim

Đời sống cầu nguyện không ở trạng thái tĩnh. Nó phát triển theo những giai đoạn làm thành những tiến trình – những tiến trình vốn không luôn luôn tiến về phía trước theo một đường thẳng nhưng đôi lúc, thậm chí tưởng như rơi ngược về phía sau.

Các tác giả tu đức thường phân biệt những “trạng thái cầu nguyện” từ hết sức tầm thường đến tuyệt diệu nhất mà hành trình của linh hồn tạo ra trên con đường tìm kiếm sự hiệp nhất với Thiên Chúa. Con số những nơi chốn này và tên gọi của chúng thay đổi tuỳ theo các tác giả. Thánh Têrêxa Avila nói đến bảy toà nhà; các tác giả khác thì phân biệt ba giai đoạn (thanh luyện, giác ngộ, nhiệm hiệp); một số tác giả thì cho rằng, theo sau suy niệm là cầu nguyện bằng cảm xúc, tiếp đó là chiêm ngắm đơn thuần, rồi thinh lặng, rồi họ nói về giấc ngủ của các kỹ năng, hoan hỷ, xuất thần…

Tôi không có ý đi vào chi tiết các giai đoạn trong đời sống cầu nguyện và các ơn thần hiệp cũng như những thử thách gặp phải trong tiến trình cầu nguyện dẫu điều này phổ biến hơn người ta tưởng. Độc giả mà cuốn sách này hướng đến không cần tất cả những điều đó (và những lối trình bày dưới dạng biểu đồ về các giai đoạn trong đời sống nội tâm có lẽ không nên hiểu theo nghĩa đen, đặc biệt khi nói đến một khoảng thời gian, một nơi chốn nào đó khi Thiên Chúa theo sự khôn ngoan của Người dường như thường vận hành theo một trình tự khác).

Tuy nhiên, thật cần thiết để nói đến điều mà tôi nghĩ là sự thay đổi lớn lao đầu tiên, một sự biến đổi căn bản của đời sống cầu nguyện. Mọi giai đoạn phát triển về sau chỉ là hậu quả của sự biến đổi đầu tiên này.

Sự biến đổi này có thể được gán cho những tên gọi không giống nhau bởi các truyền thống hay các tác giả tu đức khác nhau, nhưng dường như không ít thì nhiều, đâu đâu cũng nói đến sự biến đổi nầy cả khi những linh đạo đó được giới thiệu hay mô tả có những khởi điểm rất khác nhau. Chẳng hạn ở Tây Phương, nơi người ta có thói quen đề nghị suy niệm như khởi điểm của cầu nguyện (hay đúng hơn, họ từng đề nghị như vậy, vì con người thời nay thường đến với đời sống cầu nguyện bằng những lộ trình khác nhau), sự biến đổi đó được coi như giai đoạn chuyển tiếp từ suy niệm sang chiêm niệm. Thánh Gioan Thánh Giá đã viết nhiều về sự chuyển biến này, mô tả đầy đủ giai đoạn này và những tiêu chuẩn để xác định nó.

Truyền thống Kinh Nguyện Giêsu của Đông Phương[1] (còn gọi là Kinh Cầu Trái Tim) được yêu chuộng ở Tây Phương vào thế kỷ hai mươi bởi cuốn Chuyện Người Hành Hương[2] khởi đầu bằng cách lặp đi lặp lại không ngơi nghỉ Danh Thánh Chúa Giêsu. Quyển sách nói đến giai đoạn biến đổi này như một thời gian khi lời nguyện tắt Danh Thánh Giêsu đó chuyển từ “trí đến lòng”.

Về căn bản, cùng một hiện tượng, nhưng có nhiều cách mô tả khác nhau dẫu cho biến chuyển này, vốn có thể được mô tả như một sự đơn giản hoá từ phương thức cầu nguyện “chủ động” sang phần nào “thụ động” hơn dù cho có thể có những biểu thị khác nhau tuỳ vào mỗi cá nhân.

Sự biến đổi này cốt tại điều gì? Đó là một quà tặng bất ngờ đặc biệt đến từ Thiên Chúa dành cho những ai kiên trì trong đời sống cầu nguyện. Điều này không thể đạt được bằng những nỗ lực, nhưng là một ân sủng thuần tuý – mặc dầu lòng trung thành kết hiệp với Chúa góp phần rất lớn trong sự chuẩn bị cho việc nhận lãnh đặc ân này cùng lúc làm cho nó trở nên khả thi hơn. Đặc ân này có thể đến rất sớm, có lúc chỉ sau vài năm, có lúc không bao giờ. Thoạt tiên, thông thường người ta dường như không để ý đến nó. Đặc ân này có thể nhất thời, đặc biệt lúc đầu và cứ thoắt ẩn thoắt hiện.

Đặc tính cơ bản của đặc ân này là nó dịch chuyển đương sự, con người cầu nguyện, tiến đến một giai đoạn khác với giai đoạn trước đó vốn là giai đoạn mà những nỗ lực nhân loại chiếm ưu thế (“nỗ lực nhân loại” có thể là sự lặp đi lặp lại tự nguyện một lời nào đó, như Kinh Nguyện Giêsu, hay có phần lý luận hơn như hình thức suy niệm bao gồm việc chọn một bản văn hay một đề tài, xem xét nó, phân tích nó với những ý tưởng và trí tưởng tượng, rồi từ đó, rút ra những cảm xúc và những quyết tâm). Trái lại, giai đoạn mới là một phương thức cầu nguyện trong đó, hành động của Thiên Chúa dần chiếm ưu thế đang khi linh hồn để cho mình được tác động hơn là tự ý hành động, giữ mình trong một thái độ đơn sơ, phó thác, yêu mến và hướng về Thiên Chúa trong an bình.

Với Kinh Nguyện Giêsu, người đọc cảm thấy lời kinh tuôn chảy bộc phát trong lòng khiến tâm hồn họ ngập tràn bình an, mãn nguyện và yêu mến. Với suy niệm, lối dẫn vào một giai đoạn mới, thường được đánh dấu bởi một thứ khô khan, một sự bất lực nào đó khiến cho tiến trình suy tư của một ai đó không vận hành được với một khuynh hướng ở lại trước sự hiện diện của Thiên Chúa mà không làm bất cứ một điều gì cả – không phải vì tính ì ạch hay lười biếng thiêng liêng nhưng trong một sự phó mình đầy yêu mến.

Sự biến đổi này cần được đón nhận như một ân huệ lớn lao, dù hơi chưng hửng đối với những người từng quen với việc nói nhiều với Chúa hoặc khá thành công với việc suy niệm. Giờ đây, họ có cảm tưởng như mình đang đi thụt lùi, việc cầu nguyện trở nên nghèo nàn hơn và dường như không còn sức để cầu nguyện. Họ không thể cầu nguyện lâu giờ hơn như trước đây với cả tâm trí, ý tưởng, hình ảnh và những gì làm cho họ thích thú.

Thánh Gioan Thánh Giá phải hết sức vất vả (đôi khi còn phải tranh cãi thẳng thừng với một số cha linh hướng, những người mù tịt về thực tại này)[3] để thuyết phục về ân huệ này với những kẻ được giao cho ngài, ân huệ mà họ phải vui mừng đón nhận khi được tặng ban. Ngài bảo, sự túng quẫn này là nguồn phú túc đích thực của họ, đừng tìm cách trở lại với thói quen suy niệm trước đây. Hãy vui lòng ở lại trước mặt Chúa với một thái độ quên mình, chú tâm cách đơn sơ, yêu mến và bình an.

Tại sao sự bần cùng hoá này lại là một điều gì đó làm cho phong phú?

Thánh Gioan Thánh Giá giải thích rõ ràng lý do đơn giản và căn bản của việc chuyển sang giai đoạn mới này là một ân huệ hết sức quan trọng. Mọi điều chúng ta có thể hiểu, có thể tưởng tượng hay cảm nhận về Thiên Chúa vẫn chưa phải là Thiên Chúa. Thiên Chúa vượt muôn trùng hình ảnh, biểu trưng, cũng như mọi nhận thức qua giác quan của con người. Nhưng Thiên Chúa không vượt quá đức tin, cũng như không vượt khỏi tình yêu. Thánh Gioan nói, đức tin, một vị thầy của thần học bí nhiệm, là phương tiện duy nhất có khả năng kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa. Thế nên, hành vi duy nhất đưa chúng ta vào hiệp thông đích thực với Thiên Chúa là một hành vi đức tin, được hiểu như một chuyển động của sự bám chặt cách đơn sơ đầy yêu mến vào Người, Đấng mạc khải chính mình và trao ban chính mình trong Đức Giêsu.

Tiếp cận với Thiên Chúa trong cầu nguyện bằng lý luận, suy tư, tưởng tượng và tận hưởng có thể đem lại ích lợi cho linh hồn. Bao lâu lối tiếp cận đó sinh ích, thôi thúc hoán cải, củng cố đức tin và tình yêu… chúng ta cứ dùng nó. Nhưng không thể đạt đến Thiên Chúa theo bản tính của Người bằng những phương tiện này, bởi Người vượt quá tầm với của những hiểu biết và cảm nhận của chúng ta. Chỉ đức tin được dậy lên bởi đức ái mới có thể giúp chúng ta đến gần Thiên Chúa, và đức tin đó chỉ có thể hoạt động đầy đủ bằng cách dứt bỏ những gì thuộc giác quan – những hình ảnh và sự tận hưởng. Đó là lý do tại sao đôi lúc Thiên Chúa xem ra xa vắng và như thế, chỉ đức tin vẫn đang hoạt động.

Khi chúng ta không còn suy tư, không còn cậy dựa vào hình ảnh, không cảm thấy điều gì đặc biệt nữa… nhưng đơn sơ duy trì một thái độ gắn bó yêu mến với Thiên Chúa, có thể bấy giờ chúng ta nghĩ rằng, chúng ta không làm gì cả và không có gì đang xảy ra… Chính lúc đó, Thiên Chúa thông ban chính mình cho chúng ta cách bí nhiệm, sâu sắc và thiết thực hơn gấp bội.

Cầu nguyện giờ đây trở thành mạch nước sâu thẳm phun vọt tình yêu, có thể cảm nhận được lúc này nhưng lúc khác thì không, trong đó, Thiên Chúa và linh hồn hiến thân cho nhau. Theo Thánh Gioan Thánh Giá, đây là chiêm ngắm: “thông truyền bí nhiệm, bình an và yêu thương” qua đó, Thiên Chúa thông ban chính mình cho chúng ta. Thiên Chúa rót chính mình vào trong linh hồn và linh hồn trút mình vào trong Người nhờ tác động của Chúa Thánh Thần nơi tâm hồn.

Lời nói không thể thực thi sự công chính về những gì đang xảy ra; nhưng đó là điều mà nhiều người cảm nhận trong cầu nguyện, điều mà thông thường, họ không ý thức. Như trường hợp Ngài Jourdain (trong vở Le Bourgeois Gentilhomme của Molière) đang “xuất khẩu thành thơ” mà không hay biết; cũng vậy, nhiều người đang chiêm niệm mà không nhận ra chiều kích sâu thẳm nơi việc cầu nguyện của mình. Và họ không nhận ra thì tốt hơn nhiều.

Dù khởi điểm đời sống cầu nguyện của họ là gì – và như đã nói, mỗi người có thể có điểm xuất phát khác nhau – nhưng chính vì đích điểm này, hay ít nữa chính ở giai đoạn này, Đức Giêsu muốn mang thật nhiều người trong họ đến. (Sau đó, không có đích đến cho những chặng xa hơn kèm theo những ân huệ, dĩ nhiên, cao hơn mà Thánh Thần có thể dẫn họ đến, nhưng chúng ta sẽ không đi vào những chặng này ở đây).

Chẳng hạn, các truyền thống cầu nguyện như Kinh Nguyện Giêsu hay truyền thống cầu nguyện do thánh Gioan Thánh Giá trình bày thì hoàn toàn khác nhau và đưa ra những đường hướng tách biệt nhau. Tuy nhiên, khi mô tả ơn chiêm niệm mà cả hai truyền thống hướng đến, chúng lại dùng ngôn ngữ giống nhau một cách lạ thường. Khi thánh Gioan Thánh Giá mô tả chiêm niệm như “một sự hít thở ngọt ngào của tình yêu” (trong The Living Flame of Love), nó có vẻ giống với điều gì đó nhịp nhàng đều đặn của Philokalia[4].

 

2. Vết thương tâm hồn

Đã đến lúc chúng ta tóm tắt những gì đã bàn đến về điểm này và xem coi các chủ đề liên kết với nhau làm sao: tính ưu việt của tình yêu, chiêm niệm, kinh cầu Thánh Tâm, nhân tính Đức Giêsu…

Kinh nghiệm cho thấy, để cầu nguyện tốt và đạt đến trạng thái cầu nguyện thụ động trong đó Thiên Chúa và linh hồn thông hiệp với nhau cách sâu sắc, thì con tim phải bị đâm thủng – đâm thủng bởi tình yêu Thiên Chúa, thương tích bởi niềm khát khao Đấng Yêu Dấu. Chỉ ngang qua một vết thương như thế, lời cầu nguyện mới thực sự đi xuống tận thâm tâm và cư ngụ ở đó. Thiên Chúa phải chạm đến chúng ta ở một cấp độ thẳm sâu như thế của hữu thể đến nỗi chúng ta không thể làm gì nữa mà không có Người. Không có vết thương tình yêu đó, cầu nguyện rốt cuộc cũng không hơn gì việc tập luyện tâm trí hay một việc thực hành thiêng liêng đạo đức; nó sẽ không bao giờ là sự kết hiệp mật thiết với Đấng mà Trái Tim bị đâm thủng vì tình yêu dành cho chúng ta.

Chúng ta có thể thấy nhân tính Đức Giêsu làm trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Ở ngay chính tâm điểm nhân tính của Ngài là Trái Tim Ngài đang phải thương tích. Nó bị xé rộng để tình yêu Thiên Chúa có thể tuôn đổ dào dạt trên chúng ta và chúng ta có thể tiếp cận Người. Chỉ khi con tim chúng ta cũng bị xé rộng như thế bởi thương tích, chúng ta mới có khả năng đón nhận tình yêu trào dâng đó. Như thế, một sự trao đổi tình yêu thực sự vốn là mục tiêu của đời sống cầu nguyện mới có thể xảy ra. Rồi việc cầu nguyện của chúng ta có thể trở thành điều mà nó phải là: tim – chạm – Tim.

Thương tích do tình yêu gây ra trong chúng ta có thể mang nhiều hình thái khác nhau vào những thời điểm khác nhau: khát khao, nóng lòng tìm kiếm Đấng Dấu Yêu; ăn năn và đau khổ vì tội lỗi; khát khao Thiên Chúa; đau khổ vì Người xa vắng. Nó có thể là sự ngọt ngào làm phấn chấn linh hồn, có thể là niềm vui không thể diễn tả, có thể là ngọn lửa cảm xúc cháy bỏng. Nó sẽ biến chúng ta thành những hữu thể mãi mãi được Thiên Chúa đánh dấu và không có sự sống nào ngoài sự sống của Người bên trong chúng ta.

Khi Thiên Chúa mạc khải chính Người cho chúng ta, cách tự nhiên, Người tìm cách chữa chúng ta khỏi những đắng cay, lỗi lầm, tội cố ý hay vô tình, mệt nhọc và hơn thế nữa. Chúng ta biết điều này và ước ao được Người chữa lành. Thế nhưng, cũng thật quan trọng để biết rằng, theo một nghĩa nào đó, Người còn tìm cách đả thương chúng ta hơn là chữa lành. Chính qua việc gây thương tích nghiêm trọng hơn mà Người sẽ chữa lành chúng ta tận căn. Dù Người đến gần hay có vẻ xa vắng, dù Người ân cần hay có vẻ dửng dưng… (và tất cả những điều này đều có trong đời sống cầu nguyện của bất cứ người nào!), thì những gì Người làm là luôn nhắm đả thương chúng ta nghiêm trọng hơn bằng tình yêu của Người.

Thánh Phanxicô Salêsiô, trong tác phẩm Treatise on the Love of God, có một chương rất hay nói đến những phương pháp khác nhau mà Thiên Chúa dùng để gây thương tổn cho các linh hồn bằng tình yêu của Người. Chẳng hạn như:

Linh hồn tội nghiệp này những thà chết còn hơn là xúc phạm Thiên Chúa của mình, vậy mà chưa cảm nhận một tia sáng sốt sắng nào nhưng ngược lại, chỉ một sự lạnh lùng cực độ khiến nó tê cứng và yếu nhược đến nỗi cứ sa đi ngã lại vào những bất toàn lộ liễu thực sự của mình – linh hồn này thương tổn nặng nề bởi tình yêu của nó hết sức đau đớn khi thấy Thiên Chúa giả vờ như không thấy nó yêu mến Người biết bao, Người bỏ rơi nó như thể nó là một cái gì không thuộc về Người; và đối với nó, dường như trong mọi lỗi lầm, lo ra chia trí và lạnh nhạt, Thiên Chúa khiển trách linh hồn nó như tát nước vào mặt: “Sao ngươi có thể nói yêu mến Ta khi linh hồn ngươi không ở với Ta?”. Lời này như tên nhọn đau đớn xuyên thủng trái tim nó, nhưng nỗi đau đến từ tình yêu, vì nếu linh hồn không yêu, nó không đau đớn như đã đau đớn bởi nỗi sợ mình đã không yêu mến (Treatise on the Love of God, q. 6, ch. 14).

Đôi lúc Thiên Chúa làm tổn thương nghiêm trọng hơn bằng cách bỏ rơi chúng ta trong sự khốn cùng hơn là bằng cách chữa lành!

Quả thực, Thiên Chúa ít quan tâm đến việc làm cho chúng ta trở nên hoàn thiện hơn việc ghì chặt chúng ta vào Người. Một loại hoàn thiện (như chúng ta thường hình dung) khiến chúng ta tự mãn và không cần lệ thuộc. Tổn thương như thế khiến chúng ta khốn cùng hơn nhưng lại kết hiệp với Người hơn. Và đó là điều quan trọng: không đạt được sự toàn thiện lý tưởng, nhưng luôn bị trói buộc vào Người, bởi sự khốn cùng cũng như bởi nhân đức, để tình yêu của Người có thể không ngừng tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta và bằng cách nào đó, chúng ta hiến dâng chính mình hoàn toàn cho Người vì không có lựa chọn nào khác; bởi lẽ, chúng ta không thể làm thế nếu không có Thiên Chúa. Sự gắn bó này sẽ thánh hoá chúng ta và mang chúng ta đến sự trọn lành.

Đây là câu trả lời cho nhiều vấn nạn trong đời sống thiêng liêng. Giờ đây, chúng ta có thể hiểu tại sao Đức Giêsu không cất khỏi thánh Phaolô “cái dằm nơi xác thịt” và “một thần dữ được sai đến tát vào mặt ngài” nhưng rồi đáp lại tiếng van nài của ngài là, “Ơn Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12, 9).

Điều này cũng giải thích tại sao những người nghèo khó, những ai bé mọn, những ai hay thương tổn vì cuộc sống… thường được ban ơn khi cầu nguyện, một điều vốn không được tìm thấy ở những người giàu có.

Trên hết, kết hiệp với Chúa cốt tại việc để cho vết thương tình yêu này rộng mở, không cần để nó được chữa lành hẳn. Vậy là ở đây, chúng ta có một hướng dẫn khác nói đến những gì cần làm khi cầu nguyện. Khi cơn đau của vết thương trở nên ít nhức buốt hơn ngang qua sự quen lờn, biếng nhác và đánh mất tình yêu ban đầu, chúng ta cần hành động, tỉnh thức, khơi dậy tâm hồn và thôi thúc nó yêu mến bằng cách tận dụng những ý tưởng tốt và những quyết tâm cao. Theo thánh Têrêxa Avila, chúng ta cần ráng sức để kéo nước lên, cho đến khi Thiên Chúa đoái thương cho mưa xuống[5]. Điều đó có thể đòi hỏi chúng ta phải kiên trì. “Vậy tôi sẽ đứng lên, đi rảo khắp thành, nơi đầu đường cuối phố, để tìm người yêu dấu của lòng tôi” (Dc 3, 2).

Tuy nhiên, nếu tâm hồn rộng mở và tình yêu Thiên Chúa đổ vào, chúng ta chỉ cần ngoan nguỳ hứng lấy suối nguồn đó mà không làm gì khác ngoài việc bằng lòng đón nhận hay chỉ làm điều mà chính tình yêu thôi thúc để đáp trả. Suối nguồn tình yêu Thiên Chúa có thể tuôn đổ mãnh liệt nhưng cũng có thể trôi lững lờ vì những chuyển động của tình yêu Người đôi lúc hầu như không thể nhận biết được; trong cả hai trường hợp, tâm hồn thức tỉnh và chú tâm – “Tôi ngủ, nhưng lòng tôi chợt tỉnh thức” (Dc 5, 2).

Vào những thời khắc khốn cùng thiêng liêng, tôi tin rằng Thiên Chúa đang hối hả đáp trả khi chúng ta đang ở trong tình trạng thương tổn này. Kết quả là, các giai đoạn truyền thống trong tiến trình của đời sống thiêng liêng thường xuyên bị đảo ngược. Những người đi vào đời sống cầu nguyện mà không trải qua những giai đoạn đầu có thể hứng chịu “vết thương” được mô tả ở đây hầu như ngay lập tức. Điều này có thể sinh ơn hoán cải; hoặc là qua trải nghiệm về sự tuôn đổ Thánh Thần vốn có thể xảy ra trong phong trào Canh Tân Đặc Sủng hay nơi khác; hoặc ngang qua thời kỳ thử thách đầy quan phòng mà qua đó Thiên Chúa chiếm giữ chúng ta.

Vậy bổn phận của chúng ta trong đời sống kết hiệp với Chúa cốt ở việc trung thành cầu nguyện, kiên trì đối thoại thân tình với Chúa, Đấng đang với tới chúng ta. Một khi trải nghiệm đặc biệt đó về Thiên Chúa trở nên ít sống động hơn, chúng ta không được dần quên những gì đã xảy ra, để rồi mặc cho nó chôn vùi dưới bụi bẩn của thói quen, tính hay quên và nghi ngờ.

 

3. Tâm hồn chúng ta & tâm hồn Hội Thánh

Cuối cùng, chúng ta lưu ý đến một số điểm mang chiều kích Hội Thánh trong đời sống cầu nguyện. Sẽ hoàn toàn sai lầm khi cho rằng, chiều kích Hội Thánh vốn là một phần thiết yếu của đời sống Kitô hữu nhưng lại ít liên quan hoặc không liên quan đến đời sống cầu nguyện của một ai đó. Trái lại, có một liên hệ cực kỳ sâu sắc, dù đôi lúc không thể nhìn thấy, đó là sự gắn kết đời sống và sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh với những gì xảy ra giữa một linh hồn và Thiên Chúa trong sự thiết thân của nó qua việc cầu nguyện. Với lý do chính đáng như thế mà một nữ tu Nhà Kín Carmel, người không bao giờ rời tu viện, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu được tuyên phong là thánh bổn mạng các xứ truyền giáo.

Biết bao điều đáng nói về tương quan giữa sứ vụ truyền giáo và chiêm niệm, bằng cách nào chiêm niệm đưa chúng ta vào trung tâm mầu nhiệm Hội Thánh, mầu nhiệm Các Thánh Thông Công và các chủ thể liên hệ.

Yêu mến việc cầu nguyện là một hồng ân, một hồng ân vốn luôn tháp nhập người cầu nguyện cách trọn vẹn hơn vào mầu nhiệm Hội Thánh. Điều này có thể thấy rõ trong truyền thống Carmel, một truyền thống mang tính chiêm niệm nhất trong tất cả các truyền thống đan tu, theo nghĩa nó nhấn mạnh mục tiêu là kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa qua việc cầu nguyện theo một cách thức vốn có thể rất cá nhân khi nhìn từ bên ngoài. Tuy nhiên, cùng lúc, chính truyền thống Carmel còn cho thấy rõ nhất mối liên quan mật thiết và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa đời sống chiêm niệm và mầu nhiệm Hội Thánh. Mối liên hệ này giản dị nhưng rất sâu xa: nó được thiết lập bởi tình yêu, bởi lẽ, điều quan trọng nhất giữa Thiên Chúa và linh hồn là Tình Yêu; và từ khoa Giáo Hội học vốn ẩn tàng những giáo huấn của các vị đại diện dòng Carmel (thánh Têrêxa Avila, thánh Gioan Thánh Giá, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu), chính Tình Yêu cũng làm nên yếu tính mầu nhiệm Hội Thánh. Tình Yêu hiệp nhất Thiên Chúa với linh hồn cũng như Tình Yêu làm nên thực tại sâu xa nhất của Hội Thánh là một và là chính tình yêu đó – đó là quà tặng của Chúa Thánh Thần.

Trong cơn hấp hối, thánh Têrêxa Avila thì thào, “Tôi là nữ tử của Hội Thánh”. Lý do đầu tiên khiến ngài thành lập các cộng đoàn Carmel, đặt các nữ tu trong những khu nội cấm, thôi thúc họ sống đời sống thần nghiệm… là để đáp ứng nhu cầu của Hội Thánh lúc bấy giờ. Bà bị tác động sâu xa bởi sự tàn phá của phong trào Cải Cách Tin Lành và bởi những chuyện kể về “những người Tây Ban Nha xâm chiếm châu Mỹ, cách riêng Mexicô và Pêru”, về con số khổng lồ dân ngoại “dành được” cho Đức Kitô. Bà trầm trồ, “Thế gian đang bốc cháy và đây không phải là lúc bận tâm đến những chuyện tầm thường”.

Thánh Gioan Thánh Giá xác tín rằng, tình yêu vô vị lợi dành cho Thiên Chúa, tình yêu trao hiến cho Người cách nhưng không trong cầu nguyện là phúc lợi lớn lao nhất đối với Hội Thánh và là điều Hội Thánh cần nhất. “Một hành vi yêu thương tinh tuyền sinh ích cho Hội Thánh nhiều hơn mọi việc lành phúc đức trên trần gian”.

Nhưng chính thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu là người diễn tả trọn vẹn nhất cũng như đẹp đẽ nhất liên hệ giữa tình yêu mỗi người dành cho Thiên Chúa được thể hiện trong cầu nguyện và mầu nhiệm Hội Thánh. Chị nói chị nhập dòng Carmel “để cầu nguyện cho các linh mục và các đại tội nhân cứng lòng nhất” và bước ngoặt trong đời chị diễn ra khi chị khám phá sự sung mãn của ơn gọi mình.

Chị muốn theo đuổi tất cả ơn gọi, bởi chị muốn yêu mến Đức Giêsu cách cuồng nhiệt và phục vụ Hội Thánh bằng mọi cách có thể. Chiều kích lớn lao của những khát vọng giày vò chị. Chị chỉ tìm thấy sự bình an nơi tâm hồn khi nhận ra, nhờ sự trợ giúp của Lời Chúa, rằng sự phục vụ lớn lao nhất chị có thể mang lại cho Hội Thánh, một sự phục vụ tự nó bao hàm mọi phục vụ khác, là giữ cho ngọn lửa yêu mến trong chị cháy bừng lên. “Không có tình yêu đó, các nhà truyền giáo sẽ ngưng rao giảng Tin Mừng, các vị tử đạo sẽ ngưng dâng hiến mạng sống… Cuối cùng, tôi đã tìm ra ơn gọi của mình: giữa lòng Mẹ Hội Thánh, tôi sẽ là tình yêu!”, và tình yêu đó được thể hiện rõ nhất ngang qua việc kết hiệp với Chúa:

Càng cảm thấy lửa tình yêu nung nấu tâm hồn mình, tôi càng thưa lên “Xin kéo con đến với Ngài”; các linh hồn sẽ càng hướng về tôi (mà tôi sẽ không là gì ngoài một mảnh kim loại tí tẹo nếu tôi tránh xa ngọn lửa bừng bừng của Thiên Chúa) – họ càng chạy nhanh đến những hương thơm quyến rũ của Đấng Yêu Dấu; bởi khi một linh hồn cháy bừng lửa yêu mến thì không thể ở lì ra đó; nhất thiết, như Maria Mađalêna, linh hồn sẽ bám vào chân Đức Giêsu, sẽ lắng nghe những lời ngọt ngào cháy bỏng của Ngài. Có vẻ như không trao tặng điều gì, nhưng linh hồn đó sẽ cho nhiều hơn Martha, người lo lắng nhiều chuyện và muốn em gái bắt chước mình… Tất cả các thánh đều hiểu điều này và có lẽ đặc biệt là các đấng đã làm cho cả vũ trụ bừng sáng giáo huấn Tin Mừng. Không phải trong cầu nguyện mà thánh Phaolô, Augustinô, Gioan Thánh Giá, Tôma Aquinô, Phanxicô, Đôminicô và nhiều người bạn thời danh khác của Thiên Chúa có được sự hiểu biết về Người như thế, một sự hiểu biết làm ngời lên những bộ óc vĩ đại nhất đó sao? “Hãy cho tôi một đòn bẩy và một điểm tựa, tôi sẽ nhấc thế giới lên”. Điều Archimedes không thể đạt được, bởi ông không cầu xin Thiên Chúa và vì nó chỉ ở bình diện vật chất, thì các thánh đã đạt được cách sung mãn. Đấng Toàn Năng đã cho họ điểm tựa, bệ chống, là CHÍNH BẢN VỊ CỦA NGƯỜI và CHỈ MÌNH NGƯỜI. Còn về các đòn bẩy, Người ban cho họ việc cầu nguyện bừng cháy lửa tình yêu. Đó là cách họ nhấc bổng thế giới; đó là cách các thánh vẫn đang chiến đấu dưới thế này nhấc bổng trần gian cũng là cách thức các thánh mai ngày nhấc nó lên, cho đến tận thế.

Cuộc đời thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu khai mở một mầu nhiệm tuyệt vời: tất cả những gì chị từng muốn là lòng – bên – lòng với Chúa Giêsu; nhưng càng quy chiếu con người mình vào tình yêu dành cho Ngài, tâm hồn chị càng lớn lên trong tình yêu dành cho Hội Thánh, trở nên lớn lao như Hội Thánh, vượt mọi giới hạn của không gian và thời gian[6]. Càng sống đời cầu nguyện trong ơn gọi dâng hiến tình yêu phu thê dành cho Đức Giêsu, Têrêxa càng thẩm thấu sâu xa hơn vào mầu nhiệm Hội Thánh. Quả thực, đây là con đường đúng đắn duy nhất để hiểu Hội Thánh. Ai không sống tương quan hôn nhân với Thiên Chúa trong cầu nguyện, sẽ không bao giờ hiểu thấu chân lý sâu xa nhất về căn tính của Hội Thánh, vì Hội Thánh là Hiền Thê của Đức Kitô.

Trong cầu nguyện, Thiên Chúa thông ban chính mình cho linh hồn và làm cho nó hiểu ước muốn của Người là mọi người được cứu độ. Trái tim con người nên đồng nhất với Thánh Tâm Chúa Giêsu, sẻ chia tình yêu của Ngài dành cho Hiền Thê mình là Hội Thánh và niềm khát khao hiến dâng mạng sống cho Hội Thánh và cho nhân loại. Thánh Phaolô khích lệ chúng ta, “Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô” (Pl 2, 5). Không có một đời sống cầu nguyện, sự nên một với Đức Giêsu không thể thực hiện được.

Ơn đoàn sủng đặc trưng của linh đạo Carmel cho mọi người thấy tương quan sâu xa giữa sự kết hợp lòng – bên – lòng với Chúa Giêsu được tìm thấy trong việc cầu nguyện của mỗi người và sự tháp nhập vào lòng Hội Thánh. Không cần phải đặt vấn đề, đặc sủng này được ban cho các tu sĩ Carmel ngang qua Mẹ Maria, vì không phải Carmel là tu viện Maria đầu tiên ở Tây Phương sao? Và sẽ là ai, nếu không phải Mẹ Maria, Hiền Thê của Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu của Hội Thánh, có thể dạy bảo chúng ta sự khôn ngoan thẳm sâu này?


 Lm. Minh Anh, GP. Huế


[1] Kinh cầu này sẽ được mô tả chi tiết hơn về sau.

[2] Les Récits d’un Pèlerin Russe, The Way of The Pilgrim, Chuyện Người Hành Hương, Nguyễn Ước biên dịch và chú thích (Chú thích của người dịch).

[3] Cách riêng, xem The Living Flame of Love, khổ 3, dòng 3.

[4] Phổ biến ở Cận Đông và Đông Âu, đặc biệt ở Nga, đây là một tác phẩm cổ điển, thâu tập các bản văn liên quan đến Kinh Nguyện Giêsu của các Giáo phụ Đông Phương và các tác giả tu đức Chính Thống.

[5] Thánh Têrêxa Avila khai triển chi tiết hình ảnh về nước này trong cuốn Tự Truyện của bà, ch. 11tt.

[6] Xem các chương về thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu trong cuốn sách rất hay do Fr. F. M. Lesthel viết, Connaitre l’amour du Christ qui surpasse toute connaissance (Nxb Carmel: Toulouse, 1989).