8. Đời Sống Tâm Linh

Những phương thế cứu giúp các Linh Hồn luyện ngục

LỜI ĐẦU

Công đồng Lyon năm 1274 và Công đồng Florence năm 1439 tuyên ngôn rằng:

“Ðể làm giảm bớt các hình phạt các linh hồn khốn khó phải chịu trong Luyện ngục: Lời cầu nguyện, việc làm phúc bố thí, và các việc lành khác mà các giáo dân quen làm như Giáo hội dạy, nhất là Thánh Lễ Misa, có thể giảm bớt hình khổ cho các linh hồn Luyện ngục.” (D. 464, 693).

Chúng ta nên dâng việc lành phúc đức như đọc kinh, lần hạt Mân côi, ăn chay, hãm mình, bố thí, nhường Ân xá, nhất là dự lễ và xin lễ cho các linh hồn trong Luyện ngục. Làm như thế ta thực hiện mầu nhiệm Các thánh Thông công, liên kết đó là giáo lý rất an ủi người sống cũng như người đã qua đời.

Mầu nhiệm Các Thánh Thông công dạy ta rằng “Tất cả các tín hữu còn sống hay đã qua đời, đã được lên Thiên đàng hay còn trong Luyện ngục, đều liên lạc mật thiết với nhau.”

Các tín hữu còn sống liên lạc với các Thánh trên trời bằng cách tôn kính cầu xin các Thánh, đối lại các Thánh cầu bầu cho các tín hữu trước mặt Chúa, xin cho các tín hữu những ơn cần thiết làm trọn thánh ý Chúa trong bậc mình khi còn sống ở trần gian.

Các tín hữu còn sống liên lạc với các linh hồn Luyện ngục bằng cách dâng các lời nguyện, việc lành phúc đức cầu cho các linh hồn, đổi lại các linh hồn cầu bầu cho các tín hữu trước mặt Chúa, xin cho các tín hữu những ơn cần thiết phần hồn phần xác.

Các tín hữu còn sống thông công liên lạc với nhau qua lời cầu nguyện, gương lành. Ðời sống thánh thiện của mọi người đều có ảnh hưởng đến người khác.

Chúa Kitô đã kết hợp các tín hữu thành một thân thể mầu nhiệm, đó là lý do giải nghĩa mầu nhiệm các Thánh thông công như đã trình bày trên.

Muốn cho các việc chúng ta làm sinh ơn ích cứu rõi các linh hồn, theo ý kiến Thánh Tôma Aquinô cần 3 điều sau:

1. Phải có ý nhường công phúc việc lành mình làm cho linh hồn nào đó, hoặc cho các linh hồn mồ côi. Nếu không có ý nhường thì công phúc việc lành vẫn thuộc về người làm.

2. Phải làm việc có tính cách đền tội, bởi tuy là việc lành nhưng sinh công hiệu khác nhau: công hiệu kinh Mân côi khác công hiệu lễ Misa. Và còn tùy người làm cách sốt sắng thánh thiện hay khô khan ơ hờ.

3. Phải làm khi có ơn nghĩa Chúa, nghĩa là sạch tội trọng. Không kể những việc lành nguyên tự phát sinh công hiệu như Thánh lễ Misa, dù người dự hay xin lễ không có ơn nghĩa Chúa, Thánh lễ vẫn sinh công hiệu cho các linh hồn.

* Truyện kể rằng, một người cha đang khi hấp hối dặn đứa con trai nhớ đến và năng cầu nguyện cho cha sau khi cha qua đời. Người con hiếu thảo vâng lời ngay, chàng siêng năng cầu nguyện, dâng việc lành phúc đức cầu cho linh hồn cha.

Sau 33 năm người cha nói trên hiện về với con, quanh mình phủ đầy lửa, cay đắng phàn nàn:

– Tại sao con quên cha lâu năm như vậy, không cầu nguyện cứu giúp cha.

Người con hết sức ngạc nhiên không hiểu câu nói của cha, chàng liền hỏi:

– Những lời cầu nguyện, việc lành, bố thí của con không giúp ích gì cho cha sao?

Người cha trả lời:

– Không con ơi, các việc lành phúc đức con làm không sinh ích gì cho con và cho cha, bởi con làm khi con mắc tội trọng. Con xưng tội, nhưng không có lòng ăn năn chừa tội thật. Chúa nhân từ cho phép cha hiện về với con để làm ích cho cha con ta.

Từ đó, người con thật lòng ăn năn chừa tội và chẳng bao lâu sau đã cứu được linh hồn cha khỏi Luyện ngục lên Thiên đàng rực rỡ vô ngần (Charity p. 526).

 

Lm. Mark, CMC.


ÐỌC KINH CẦU NGUYỆN
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Một trong những phương thế cần thiết để lãnh nhận ơn Chúa cho mình và cho các linh hồn khác là CẦU NGUYỆN. Cầu nguyện rất quan trọng, bởi là phương thế cứu rõi. Ðời sống chúng ta tốt hay xấu, tùy thuộc vào chúng ta có cầu nguyện hay không, cầu nguyện tử tế hay qua lần chiếu lệ.

* Theo thánh Augustinô: “Ai biết cầu nguyện là biết sống tử tế”. Và nơi khác ngài nói: “Cầu nguyện là chìa khóa mở cửa Thiên đàng”. Bà Thánh Têrêxa Mẹ thêm: “Ai không cầu nguyện thì tự họ đi xuống Hỏa ngục, không cần ma quỉ nào dẫn đường nữa”.

Lời cầu nguyện, ngoài việc sinh công phúc cho mình, lại có thể cứu giúp các linh hồn, nhất là các linh hồn Luyện ngục.

* Thánh Gioan Chrisotômô dạy rằng: “Anh chị em khóc lóc kêu la thảm thiết trước quan tài người chết, nào có ích chi, tốt hơn là nên đọc kinh cầu nguyện và làm việc lành chỉ cho người quá cố”.

Cầu nguyện không đòi kể lể dài dòng. Chúa Giêsu dạy: “Khi cầu nguyện đừng ham nói nhiều lời trống rõng như dân ngoại, họ tưởng họ nói nhiều mà được việc, đừng như họ, bởi trước khi các ngươi cầu, Cha các ngươi đã biết các ngươi muốn gì. Hãy cầu thế này: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…” (Mt 6,7-13).

Cầu nguyện cách đơn sơ như Ðức Mẹ tại Cana, khi Ðức Mẹ xin Chúa Giêsu ban rượu cho đám cưới, Ðức Mẹ chỉ nói: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Trên thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện rất đơn sơ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, bởi chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).

Người ta cầu nguyện như người ta yêu mến, càng yêu mến Chúa nhiều, càng cầu nguyện đơn sơ sốt sắng chân thành.

Kinh cầu nguyện cho các linh hồn Luyện ngục thích hợp nhất là Kinh Mân côi, sẽ nói tới ở chương sau. Ngoài ra, người ta có thể cầu nguyện bằng các lời than văn tắt hay các kinh, nhất là các kinh Giáo hội đã ban ân xá như sau:

1. Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy (được Tiểu xá),

2. Kinh Vực sâu (được Tiểu xá),

3. Chúng con cậy bởi Danh Chúa nhân từ, cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Ðức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.

4. Lời than sau một chục kinh Ðức Mẹ dạy ở Fatima: Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội lỗi chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa Hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên đàng, nhất là các linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn.

5. Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rõi các linh hồn.

6. Ðọc lời: Lạy Chúa Cha hằng hữu, con xin dâng Cha các vết thương thánh và Máu châu báu Con Cha, để cầu cho các tội nhân ăn năn trở lại và cho các linh hồn Luyện ngục được giải thoát. (Thánh nữ Maria Mađalena de Pazzi được Chúa dạy cho biết việc dâng Máu thánh này. Mọi ngày bà thánh dâng 50 lần. Trong một lần ngất trí, bà thấy nhiều tội nhân đã được ơn trở lại, và nhiều linh hồn Luyện ngục được giải thoát. Chúa Giêsu còn dạy: “Khi người nào dâng lên Chúa Cha Máu thánh cứu rõi, đó là dâng Chúa của lễ có giá trị vô cùng”.

* Thánh nữ Mechtilđê khi cầu nguyện cho các linh hồn Luyện ngục, được Chúa cho thấy nhiều linh hồn ra khỏi một vực sâu đi vào một vườn rất đẹp.

* Trong sách cầu cho các linh hồn Luyện ngục, ông Ackermann kể rằng: “Một người nhà giầu kia biếu cha Bề trên nhà dòng một món tiền lớn để xin cầu nguyện cho cha ông ta mới qua đời. Khi các thầy hát kinh, ông cũng tham dự, nhưng chờ mãi không thấy có gì trịnh trọng khác thường cầu cho cha ông ngoài một câu “Xin cho linh hồn ấy được nghỉ yên”. Người nhà giầu cằn nhằn bởi nghĩ rằng lời cầu ấy không tương xứng với món tiền lớn ông đã dâng.

Khi nghe biết đầu đuôi câu chuyện, cha Bề trên bảo một thầy viết lại câu “Xin cho linh hồn ấy được nghỉ yên” vào một mảnh giấy. Rồi ngài bảo để mảnh giấy vừa viết trên một đĩa cân, còn đĩa cân bên kia để món tiền của người nhà giầu. Trước mặt các thầy dòng, người nhà giầu mở to hai mắt để coi cho rõ. Ông ta hết sức kinh ngạc khi thấy gói tiền của mình bị cất bổng lên cách nhẹ nhàng, còn tờ giấy ghi lời cầu nguyện lại làm cho đĩa cân bên kia chĩu nặng xuống. Thấy sự lạ lùng trước mắt, người nhà giầu lúng túng xấu hổ không biết ăn nói ra sao với các cha các thầy. Ông ta xin lỗi, và cảm thấy rất được yên lòng. Ðức Giáo Hoàng Beneđictô 13 cũng đã kể chuyện này trong phiên họp do Ngài chủ tọa (Charity p. 99).

* Cha Conrad dòng Thánh Phanxicô sốt sắng cứu các linh hồn lắm. Một buổi tối kia, ngài chỉ đọc một kinh Lạy Cha và câu “Lạy Chúa xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời” để cầu cho môt thầy dòng đã chết, lập tức thầy hiện về cám ơn và xin cha tiếp tục cầu nguyện cho bằng những lời vắn tắt như vậy. Cha dòng nhận lời và cầu cho thầy tới khi được lên Thiên đàng (Charity p. 294).

Ta hãy năng đọc những lời cầu vắn tắt, những kinh Giáo hội dạy để cầu cho các linh hồn Luyện ngục. Chúa ưa nhận lời những ai yêu mến Người, lại có lòng bác ái cầu cho những người anh chị em đau khổ.

 


 ÐỌC KINH MÂN CÔI
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Mân côi, cũng gọi là Văn côi hay Môi khôi, Mai khôi, được dùng để gọi những kinh Kính mừng kính Ðức Mẹ. Kinh này phần đầu là lời chào của Tổng thần Gabriel khi đến báo tin Ðức Mẹ thụ thai Chúa Cứu Thế “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Ðức Chúa Trời ở cùng Bà”, thêm lời chúc tụng của bà thánh Isave ca tụng Ðức Mẹ là “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”. Phần thứ hai là lời cầu của Giáo hội: “Thánh Maria Ðức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”. Xin cho bây giờ, “khi nay” được ơn sống thánh, và trong giờ chết, “lâm tử” được ơn chết lành trong tay ba Ðấng Giêsu Maria Giuse để được về hưởng tình yêu Chúa muôn đời. Amen (Ước được như vậy).

Kinh Mân côi nhắc lại cho Ðức Mẹ đầy ơn phúc trước mặt Ðức Chúa Cha, là Mẹ Ðức Chúa Con, và là Bạn chí thiết Ðức Chúa Thánh Thần. Khi nghe lời chào đó, tâm hồn Ðức Mẹ lại hân hoan rộng mở ca ngợi Thiên Chúa và sẵn sàng ban tràn ơn cho con cái còn đang ở chốn lưu đày, nhất là cho các linh hồn đớn đau trong Luyện ngục. Chính Ðức Mẹ đã phán với Thánh Ðaminh rằng,” Một trong những hiệu quả chính của kinh Mân Côi là cứu rõi các linh hồn trong Luyện ngục.”

Ngày 1 tháng 1 năm 1967 Ðức Giáo Hoàng Phaolô Ðệ Lục đã ban ơn đại xá cho những ai đọc đủ 50 kinh Mân côi chung với gia đình, chung trong nhà thờ, chung trong Tu viện, chung một nhóm người trong Hội đoàn, với những điều kiện thông thường là xưng tội trước hoặc sau đó vài ba tuần, rước lễ chính ngày lãnh đại xá, đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng cầu theo ý Ðức Giáo Hoàng. Ai không đọc đủ 50 kinh hoặc không đủ các điều kiện nói trên cũng vẫn được hưởng Tiểu xá để chỉ cho các linh hồn theo ý muốn.

* Thánh Alano dòng Ðaminh kể lại về nhiều tu sĩ và nữ tu đang khi đọc kinh Mân Côi đã thấy các linh hồn từ Luyện ngục hiện về, các linh hồn này có mang dấu Thánh giá trên trán nài xin các vị tiếp tục đọc kinh Mân côi cho mình. Nhờ kinh Mân Côi giáo dân đọc hằng ngày mà một số lớn linh hồn Luyện ngục được lên Thiên đàng ngày này qua ngày khác.

Trong 15 ơn Ðức Mẹ hứa với Thánh Alanô, ban cho những ai thành tâm sốt sắng đọc kinh Mân côi, có ơn thứ 9 Ðức Mẹ hứa rõ rệt rằng: ” Mẹ sẽ mau mắn cứu vớt các linh hồn siêng năng lần hạt Mân côi ra khỏi Luyện ngục”.

* Linh mục Eusebio Nieremberg là người rất thương các linh hồn trong Luyện ngục, ngài thường đọc kinh Mân côi cầu cho các linh hồn. Ngài đã thuật lại truyện sau đây minh chứng Ðức Mẹ đã thương một tội nhân có lòng tôn sùng và siêng năng đọc kinh Kính mừng kính Ðức Mẹ:

“Ở tỉnh Aragon trong nước Tây ban nha, có một thiếu nữ nhan sắc tuyệt vời, tên là Alexandria. Nàng là con nhà giầu sang, quyền thế, nên nhiều gia đình quí phái muốn hỏi nàng cho con trai mình. Trong số đó cho hai thanh niên nhất định tranh nhau cho bằng được mới thôi. Khi thấy mình kém vế, không thể nào tranh giành ảnh hưởng với tình địch, một trong hai thanh niên mù quáng đến nỗi hạ sát Alexandria để trả thù đối phương. Y chặt đầu cô, quăng xuống một giếng kia cách kín đáo không ai biết. Sau đó ba hôm, Thánh Ðaminh tình cờ đi qua, thấy đầu cô đã nổi lên trên mặt nước và nói năng được như người còn sống, đồng thời xin Thánh nhân ban phép giải tội.

Tin này đồn ra khắp nơi nhanh chóng, người ta tuốn đến bên giếng đông nghịt để xem sự lạ chưa từng có. Khi Alexandria đã xưng tội xong, Thánh Ðaminh buộc cô phải nói ra bởi lý do nào mà cô được ơn đặc biệt quá sức tưởng tượng như vậy. Vâng lời Thánh Ðaminh, cô Alexandria thuật lại rằng,” Sở dĩ con được ơn Ðức Mẹ thương cách đặc biệt này là bởi từ thuở nhỏ, con vẫn có lòng kính mến Ðức Mẹ và siêng năng đọc kinh Mân côi có ý xin được ơn ăn năn xưng tội trước khi chết.”

Nhờ dịp này, Thánh Ðaminh khuyến khích mọi người theo gương cô trong việc đọc kinh Mân côi tôn sùng Ðức Mẹ, tin chắc chắn sẽ được hưởng nhiều ơn quí hóa do Ðức Mẹ ban.

Qua hai ngày sau, đầu cô Alexandria mới chìm xuống nước. Mười lăm ngày sau, cô hiện về với Thánh Ðaminh cám ơn ngài đã lo liệu cho mình được chịu phép giải tội trong trường hợp đặc biệt đó, nói đoạn cô tươi cười vui vẻ từ gia? Thánh nhân để lên Thiên đàng hưởng tôn nhan Mẹ lành (Lm. Nguyễn Tri Ân, Tháng Mân Côi Ðức Bà, 1960, trang 203).


ĂN CHAY, HÃM MÌNH, BÁC ÁI THỨ THA
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Trong con người chúng ta có một cuộc tranh giành như Thánh Phaolô viết cho dân thành Rôma rằng: “Sự lành tôi muốn, tôi không làm, sự dữ tôi không muốn tôi lại làm… Tôi thấy một luật khác nơi tôi cự lại luật lý trí, buộc tôi lại trong luật tội lỗi. Ai cứu tôi khỏi cái xác chết này?” (Rm 7,19-24).

Nơi khác ngài viết cho dân thành Corintô: “Trong trường đua mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải nhất, anh chị em hãy chạy để đoạt giải. Và đã là tay đua thì phải kiêng cữ đủ điều. Họ chạy để chiếm lấy triều thiên hư nát, còn chúng ta chạy để chiếm triều thiên không hư nát. Phần tôi, không phải tôi chạy vờ vịt, tôi đấm, không phải là đấm không khí, trái lại tôi nhắm vào xác tôi mà đấm, kẻo sau khi giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại ra chăng” (1 Cr 10,24-27).

Ðó là lý do tại sao cần ăn chay hãm mình để chiến đấu và chiến thắng ba thù: Xác thịt, thế gian, ma quỉ. Xưa, chính Chúa Giêsu đã ăn chay hãm mình để dạy chúng ta noi theo gương Người.

Việc ăn chay hãm mình, ngoài hiệu quả lập công đền tội, còn sinh ích cứu rỗi các linh hồn Luyện ngục rất nhiều:

* Thánh Tôma Aquinô nói: “Ðền tội cho người đã chết thì đẹp lòng Chúa hơn đền tội cho người còn sống bởi người đã chết ở trong tình trạng khẩn thiết hơn, họ không còn tự giúp mình được như người còn sống” (Supplem. Q. 71 art. 5).

* Chân phúc Cecilia dòng nữ Ðaminh quen hãm mình khi khát nước để tôn kính sự khát của Chúa Giêsu trên Thánh giá và để giải khát cho các linh hồn Luyện ngục. Sau khi qua đời, bà hiện về với các nữ tu cùng dòng, nói rằng: “Ngay sau khi tôi vào Luyện ngục, Chúa cho Thiên thần mang đến một thùng nước, đổ xuống giập tắt ngọn lửa thiêu đốt tôi và cấp tốc đưa tôi về Thiên đàng mát mẻ đời đời.”

* Vua Sanxiô bị chết bởi thuốc độc, hoàng hậu đêm ngày cầu nguyện cho linh hồn vua. Thứ Bảy bà chỉ ăn bánh mì uống nước lã để tôn kính Ðức Mẹ, có ý cầu cho vua. Vua được hiện về cám ơn hoàng hậu về việc hãm mình ấy, và xin hoàng hậu cứ tiếp tục. Sau 40 ngày, hoàng hậu thấy vua hiện về rực rỡ ánh sáng Thiên đàng, chào tạm biệt hoàng hậu, nói rằng: “Bây giờ tôi được giải thoát khỏi cực hình. Tôi mắc nợ bà, nguyện xin Chúa chúc lành cho bà đến muôn đời”.

ăn chay cầu cho các linh hồn là một điều tốt, nhưng làm việc bác ái còn tốt hơn nữa. Chúa đã phán qua tiên tri Isaia rằng: “ăn chay thế này, chẳng làm ta hài lòng hơn sao: Hãy cởi trói tù nhân, cất gánh nặng cho người bị áp bức, tháo xiềng xích và thả chúng đi ra, bẻ gẫy ách quàng đầu quàng cổ chúng” (Is 80,6).

* Thánh Augustinô nói: “Nào có ích gì khi ta kiêng rượu mà lại bị đầu độc bởi nóng nảy giận hờn! Nào có hay gì khi ta kiêng thịt mà lại như con thú hoang làm hại danh giá tiếng tốt người lân cận!”

* Thánh Phanxicô Salesiô thuật truyện sau: Tại thành Padua, nơi người theo học khi còn là sinh viên, thành này có một tục lệ đáng chê: Những chàng thanh niên đeo gươm giáo ban đêm chạy ngoài đường phố nếu gặp ai thì hỏi lớn tiếng: Ai đi đâu đó? Người được hỏi bắt buộc phải trả lời, nếu không sẽ bị đốt, bị thương hay bị chết. Một đêm kia, có một sinh viên không trả lời, chàng ta bị đánh vỡ đầu và chết ngay. Kẻ gây ra án mạng này rất sợ hãi, tìm trốn ẩn trong nhà một quả phụ tốt lành y đã biết, mà con bà lại là nạn nhân đã qua đời. Chàng thú tội với nước mắt chan hòa rằng mình đã gây tử thương cho một người mà chàng không biết là ai, xin bà cho chàng ẩn núp trong nhà bà. Ðộng lòng thương, và không ngờ rằng kẻ giết con mình đang đứng trước mặt mình, bà bằng lòng cho hắn ẩn náu một nơi an toàn nhất trong nhà mà cảnh sát không dễ tìm ra được. Nửa giờ sau, có nhiều tiếng đập cửa, người ta đem xác nạn nhân đặt trước mặt bà. Trời ơi, đây chính là con tôi, và kẻ giết con tôi đang ẩn náu trong nhà tôi. Người Mẹ đau khổ như vỡ tim ra, bà gào thét rồi vội chạy vào chỗ kẻ sát nhân ẩn náu, gào to: Mày là thằng khốn nạn, con tao đã làm gì mày mà mày giết nó?! Thủ phạm bấy giờ mới nhận ra rằng mình đã làm chết người bạn, chàng vò đầu bứt tóc khổ sở, qùi xuống chân bà Mẹ xin ơn tha thứ và bào chữa cho mình, trao mình cho tòa án để chàng chịu mọi hình phạt đáng tội.. Bà Mẹ người con quá cố sực nhớ mình là người Công giáo, nhớ gương Chúa đã tha thứ cho kẻ làm khốn mình, bà quyết tâm noi gương Chúa, làm một việc bác ái anh hùng: dù đau khổ cực độ, bà đã tha cho kẻ giết con bà và bênh đỡ hắn trước mặt tòa án. Sự tha thứ này rất đẹp lòng Thiên Chúa. Chúa đã cho phép con bà từ Luyện ngục được hiện về sáng láng nói với bà rằng: ” Mẹ yêu dấu, Chúa đã tỏ lòng thương xót con, bởi Mẹ đã tỏ lòng thương tha thứ cho nạn nhân, bởi sự tha thứ quảng đại này rất đẹp lòng Chúa, con đã được Chúa tha thứ khỏi Luyện ngục, nếu Mẹ không tha thứ như vậy, con sẽ còn phải giam phạt ở đó nhiều năm trong những đau đớn cực hình dữ dội”.

* Thánh Bênêđictô đã kể truyện dài sau đây, truyện được in năm 1881: Vào khoảng năm 1786, khi cuộc cách mạng tại Pháp bùng nổ. Vua Luy thứ 16 và Hoàng hậu Antoinet bị dân chúng lật xuống khỏi ngai vàng. Nước Pháp đầy dãy cảnh đầu rơi máu chảy bởi các cuộc xử tử bắn giết kinh hãi. Sau khi nhà vua bị lật đổ, bá tước Giaxintô thành Floren cùng với 900 bạn đồng đội cũng bị dồn vào tù, chờ án xử.

Một hôm gần cửa sổ phòng giam, bá tước trẻ ngạc nhiên thấy một thiếu nữ trẻ đẹp đứng ngoài nhìn vào phòng ông. Thì ra đó là Hermania, người em sinh đôi với ông. Ông vội kêu lên:

– Hermania, sao em dám đến chỗ nguy hiểm này ? Em không biết bọn cách mạng đang thù nhà vua và những ai theo nhà vua sao? Em phải cẩn thận chứ.

– Thưa anh em biết, nhưng hôm nay là ngày sinh nhật của anh em ta, em không thể không đến thăm anh. Hôm nay cả hai chúng ta được 19 tuổi và đây là lần thứ nhất chúng ta không mừng sinh nhật với nhau. Em không thể yên tâm nếu không thấy anh khỏe mạnh và bình an.

– Em thấy anh vẫn khỏe mà. Chắc em vẫn nhớ, khi má còn sống, má nói anh em ta giống nhau từ tình cảm tới ý nghĩ. Bởi thế hôm nay anh cũng rất buồn sầu như em vậy. Nhưng bây giờ em phải vui lên kẻo anh cũng buồn lây.

– Họ có xử tử tế với anh không?

– Anh có tất cả những gì anh cần, trừ ra không có tự do thôi. Anh xấu hổ bởi được xử như thế này, trong khi các bạn đồng đội bị xử tệ…Này, nghe như có người đang tới, thôi em đi đi, mong có ngày chúng ta mừng sinh nhật lớn hơn.

Thiếu nữ rời cửa sổ, bước vội qua sân, lẻn ra đường cái sau bức tường.

Giaxintô ngồi chờ, cánh cửa mở, viên sĩ quan cách mạng bước vào lễ độ chào tù nhân, cho chàng biết theo lệnh cấp trên, mời chàng đi dự tiệc chiều nay mừng sinh nhật của chàng. Chàng nhận lời. Ăn uống xong, một nhóm quân cách mạng tiến vào bắt chàng đi. Chàng ngồi bình tĩnh phân trần:

– Bởi tôi trung thành với nhà vua, nên tôi bị xử như các bạn đồng đội, tôi không phàn nàn, nhưng xin cho tôi xin ít phút để sửa soạn trước khi chết.

Lời xin của chàng bị từ chối. Chàng khảng khái quay lại nói:

– Ðược, tôi sẵn sàng đi.

Chàng bị dẫn ra bãi xử.

Thình lình cô Hermania em chàng, từ đâu vụt chạy đến ôm lấy chàng khóc lóc thảm thiết. Người cai bắn hô: “Bắn!” Nhưng Hermania kêu lên:

– Nếu bắn anh tôi thì bắn cả tôi đi!

Một sĩ quan đến lôi cô ra. Bốn viên đạn đã kết thúc đời anh cô. Khóc ngất, cô qùi xuống bất động.

Mười lăm năm sau, Hermania được 34 tuổi. Tâm hồn đắng cay chai cứng bởi cái chết phũ phàng của anh. Cô không chấp nhận gì nữa, kể cả đạo giáo. Cô từ chối tất cả thú vui, giải trí ở đời. Cô sống đơn độc. Hận đời đen bạc, ác ôn.

Hôm ấy, đứng cạnh cửa sổ lâu đài nhìn ra đường cái, cô thấy Linh mục xứ đang đi trên đường về phía nhà cô. Cô chạy xuống chào ngài lễ độ:

– Thưa cha, hôm nay là ngày 3 tháng 8, ngày kỷ niệm anh con bị bắn chết tàn bạo.

Linh mục xứ muốn hướng cô về niêm tin tôn giáo, ngài đọc câu Kinh Thánh:
– Phúc cho ai khóc lóc, bởi sẽ được an ủi.

– Thưa cha, đây không phải là lần thứ nhất cha nói câu đó. Cha nói vậy là cha không hiểu đau khổ của con. Con biết Phúc âm. Cha muốn con cầu nguyện, nhưng nếu con cầu nguyện, con phải tha cho kẻ thù như Chúa dạy, nhưng con không thể, không thể tha cho chúng, những đứa đã giết anh con. Con không trả thù chúng được nữa, bởi hầu hết chúng đã chết và ra trước tòa Chúa, nhưng con vẫn muốn trả thù. Cha bảo con đến dự lễ, nhưng con dự sao được khi lòng con đầy tức giận

– Bởi phần rỗi linh hồn con, cha xin con bỏ những tư tưởng ấy đi. Nhớ rằng trên Thánh giá, Chúa đã tha cho kẻ giết Ngài.

– Nhưng Chúa là Chúa Trời, còn con là kẻ có tội.
– Con nhớ rằng Chúa Kitô là gương, và các thánh phải noi theo.
– Con không phải là thánh.

– Ðúng vậy, con là kẻ khổ sở, là phụ nữ rất đau khổ, nhưng chính con thích nghĩ rằng con can đảm, con trung tín. Phần Chúa là Chúa ta, bởi Ngài là Chúa, Ngài có quyền và muốn ban ơn cho ta giữ lề luật Ngài. Ngài đòi chúng ta tha cho kẻ thù như Ngài đã tha. Ngài sẽ ban ơn cho ta, nếu ta không chống lại ơn Ngài.

– Có thể như vậy. Con chưa bao giờ nghĩ như thế.

– Cha sợ trường hợp con rất khó, nhưng đừng thất vọng. Cha khuyên con nên cầu nguyện với các linh hồn Luyện ngục. Cha thường được các ngài giúp đỡ khi không còn hy vọng theo kiểu người đời thường nói. Nếu anh con ở trong số các linh hồn Luyện ngục, cha cầu xin anh con được phép làm mềm lòng con, bởi con rất yêu anh con.

– Anh con đã chết 15 năm nay làm sao còn ở trong Luyện ngục?

– Ðó là câu hỏi rất khó, cha không thể trả lời chắc chắn. Nhưng chúng ta biết chắc, Chúa thương xót vô cùng, nhất là thương những ai đau khổ, những ai bị cư xử bất nhân. Bá tước Giaxintô đã chết không kịp chuẩn bị ra trước Tòa Chúa, có thể phải đền bù bởi những tội thời niên thiếu.

Hermania đêm nay cũng như đêm các năm trước, từ khi anh bà chết, bà thức suốt đêm kỷ niệm sinh nhật của bà. Người đầy tớ đem lên chiếc đèn và đóng cửa lại rồi xuống nhà dưới. Hermania ngồi trên ghế bành, mắt lim dim hồi tưởng những năm xưa, nhất là đêm trăng người ta xử bắn anh bà. Anh bà đứng dựa vào tường, đầu ngả về một bên, có tiếng hô, một phát nổ… Nhưng kià ai vậy? Ai đang đứng trước mặt bà đây!? Bà mở to đôi mắt. Bà nghe rõ tiếng đồng hồ tích tắc trên tường, nhưng trước mặt bà có ai đứng đó. Lạy Chúa, có thật ai đứng đó không? Ðúng rồi! Chính anh, như hồi 19 tuổi, nhưng sao coi mắt anh buồn, thê thảm. Ðặt hai tay lên ngực để bình tĩnh hơn, bà hỏi:

– Có phải anh Giaxintô đây không? Anh về đây làm gì?

– Chính anh đây, anh về phàn nàn bởi người ta xử tàn ác với anh.

– Em biết, anh chết làm lòng em đau đớn vô ngần. Máu anh đòi em phải trả thù. Em phải làm sao bây giờ?

– Anh không phàn nàn về cái chết, đối với sự sống đời đời thì sự sống trên trần gian chỉ như một hạt cát trên bờ biển. Chết là bước qua bậc thềm để vào lâu đài nhà Vua Cả. Ðiều anh buồn là đứa em anh rất yêu dấu đã quên anh.

– Em quên anh?! Thử hỏi có ngày nào em không nhớ tới anh, có đêm nào em không mơ anh bị chết khổ sở. Em đã bởi anh mà bỏ hết cả tuổi hoa, bỏ hết thú vui cuộc đời, lòng em đâu còn vui khi vắng anh.

– Nước mắt và sự thất vọng của em chẳng giúp gì cho anh cả. Anh cần em cầu nguyện để đền tội cho anh. Anh ở trong Luyện ngục đền những tội chưa đền trong những năm cuối đời. Nhất là anh phải khổ bởi chết vội không kịp tha cho kẻ xử tử anh. Anh không nhớ tới gương của Chúa Kitô và của Thánh Têphanô. Anh không nhớ chúng ta phải yêu kẻ thù. Anh phải chịu khổ gấp đôi, bởi anh đã không tha và bởi em muốn trả thù cho anh. Sau thời gian dài em không tha cho họ, em cũng không cầu nguyện cho anh. 15 năm rồi, anh chờ đợi uổng công, không được một lời cầu nào trên cõi sống. Xác anh không được Giáo hội làm phép. Không Linh mục nào dâng lễ cho anh. Anh thấy vô số linh hồn lên Thiên đàng nhờ lời cầu nguyện và rước lễ cầu cho họ, còn anh phải rớt lại sau. Vào lúc cuối cùng, bước vào ngưỡng cửa đời đời, anh tự nhủ, “lời cầu của em tôi sẽ theo tôi trên nấm mộ”, nhưng chỉ đêm nay anh mới được một kinh Vực sâu. Anh được phép về đây nài xin em giúp đỡ, xin em thương giúp anh được bớt phần phạt. Hãy yêu thương kẻ thù. Ôi loài hay chết trên đời không thể hiểu được những cực hình linh hồn đã thấy Chúa một chút rồi lại phải xa cách Ngài.”

Nghe những lời đó, Hermania vội qùi phập xuống:
– Xin anh tha lỗi cho em, em thật tàn nhẫn với anh.

Bà khóc nức nở, tay ôm mặt. Khi ngẩng đầu lên, anh bà đã biến đi từ hồi nào. Thức trắng đêm ấy, bà cầu nguyện thiết tha như để bù lại những năm qua mà bà đã bỏ.

Bình minh sáng tỏ. Chuông nhà thờ kêu gọi giáo dân dự lễ 5 giờ sáng. Chỗi dậy, bà vội vã tới nhà thờ. Những người nhà quê ngạc nhiên thấy một bà sang trọng qùi giữa họ, lần đầu tiên trong nhiều năm nay. Lời cầu trước hết là cho những kẻ đã giết anh bà.

Sau lễ, bà xin gặp cha xứ kể lại đầu đuôi.
– Tạ ơn Chúa. Có phải bà đọc kinh Vực sâu cho anh bà không?
– Dạ phải, và anh con nói đó là kinh đầu tiên anh con được hưởng.

Sau ít ngày, Hermania đã xưng tội, rước lễ. Từ đó bà hiến thân làm việc bác ái. Bà không giàu của, nhưng những người nghèo được bà giúp đỡ luôn cảm thấy hài lòng, bởi bà cư xử như bạn bè thân thiết. Không có tiền cho, thì bà giúp công. Chẳng bao lâu người ta coi bà như “Bà hảo tâm”. Ai cảm ơn thì bà chỉ nói: “Xin cầu cho anh tôi, đừng cảm ơn tôi”.

25 năm sau, cũng ngày 3 tháng 8, bà Hermania qua đời tốt lành sau khi lãnh các Bí tích cuối cùng. Bà bình tĩnh chờ đợi. Cuối cùng bà reo lên:

– Tôi thấy anh Giaxintô, anh đến với hương thơm trên trời và đưa tôi về với Chua. Anh thật hạnh phúc. Tôi với anh sẽ liên kết với nhau. Bà đã êm ái ra đi về nơi an nghỉ (Charity p. 323-332).

Ăn chay hãm mình tháo gỡ xiềng xích trói buộc linh hồn ta bởi sự kiêu căng, hà tiện, mê xác thịt, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, biếng nhác việc thờ phượng Chúa đã được tóm trong bảy mối tội đầu.

Chúng ta hãy nghe lời Ðức Mẹ hiện ra với 3 em nhỏ tại Fatima kêu gọi ăn năn đền tội tôn vinh Chúa, cầu các linh hồn, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn, những linh hồn tội lỗi cần ăn năn trở lại, những linh hồn Luyện ngục cần được cứu ra khỏi lò lửa nóng nảy hãi hùng. Giêsu Maria Giuse, con mến yêu, xin cứu rõi các linh hồn.

 


TIỀN CỦA LÀM PHÚC, GIÚP VIỆC TỪ THIỆN
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Sách Huấn Ca trong Kinh Thánh Cựu Ước viết rằng:

“Nước giập tắt lửa, của làm phúc xóa các tội lỗi” (Hc 3,30). Sách ông Tôbia cũng viết: “Cầu nguyện kèm với cả chay tịnh, và làm phúc cùng với đức nghĩa, thì quí hơn là giầu có mà ở bất công. Làm phúc bố thí thì hơn tích trữ kho vàng. Bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội. Kẻ làm phúc bố thí sẽ được no nê sự sống. Kẻ phạm tội và ở bất công, chính họ là kẻ thù của mạng sống họ.” (Tb 12,8-10). Ngài còn nói thêm:” Như mọi kẻ làm theo nhân nghĩa, con hãy lấy của con có mà làm phúc. Mắt con đừng ra chiều đố kị khi bố thí, đừng bao giờ con ngoảnh mặt đi trước kẻ nghèo nào, và Nhan Thiên Chúa cũng sẽ không ngoảnh đi đối với con. Có của bao nhiêu, tùy theo số lượng, con hãy lấy mà bố thí. Có ít, con đừng sợ lấy theo số ít ấy mà bố thí. Quả đó là kho tàng con cất cho mình vào ngày túng quỡn, chật vật. Bởi chưng việc bố thí giựt con khỏi sự chết và không để lâm phải tối tăm.. Quả thế, bố thí là lễ tế tốt đối với mọi kẻ lo bố thí trước nhan Thượng đế.” (Tb 4,7-11)

* Ðức Giáo Hoàng Beneđitô 13 dạy rằng: “Nếu muốn trả nợ cho chóng trong Luyện ngục, tốt hơn là nên trả ngay ở đời này bằng việc làm phúc bố thí, giúp đỡ cơ quan từ thiện bác ái”.

* Ðức Giáo Hoàng Beneđitô 8 sau khi chết hiện về với Giám Mục Cadua nói rằng: “Tôi đã chết, và dù có ơn nghĩa Chúa, tôi vẫn phải chịu cực hình Luyện ngục, bởi thế xin Ðức Cha nói với Ðấng kế vị tôi là Ðức Giáo Hoàng Gioan làm phúc cho người nghèo để cứu tôi, bởi tôi không thể cứu lấy mình bây giờ”. Ðức Giáo Hoàng Gioan đã làm phúc cho người nghèo khó,và Ðức Beneđitô đã được cứu khỏi Luyện ngục sớm như lòng mong ước.

Tiền bạc làm phúc cho người nghèo, cho cơ quan từ thiện bác ái giúp đền tội riêng ta, nhất là những tội lạm dụng tiền bạc, bất công của cải tư nhân hay chính phủ, và cứu rõi các linh hồn cách đắc lực.

* Thánh Bênađinô kể truyện về hai vợ chồng kia không có con. Ông bà đã làm giao kèo với nhau rằng: Nếu ai chết trước, thì người còn sống sẽ lấy phần gia tài của người chết chia cho người nghèo cầu cho linh hồn đã qua đời. Người chồng đã chết trước, nhưng người vợ chểnh mảng không giữ lời đã đoan hứa. Người chồng được phép hiện về với Mẹ vợ, xin bà nói lại với vợ mình nhân Danh Chúa hãy mau mau thực hiện lời đoan kết xưa, nếu không phân phát của cải cho người nghèo, thì 30 ngày nữa sẽ phải chết bất ngờ. Người vợ nghe những lời Mẹ nói cho rằng đó chỉ là mơ màng rồi bà ta không để ý tới. Ba mươi ngày qua, người đàn bà kia lên lầu có chút việc, bà đã ngã xuống qua cửa sổ chết ngay lập tức” (Purgatory p. 303-304).

Những điều đã hứa cầu nguyện dâng lễ cho ai, phải gắng thi hành kẻo phải đền trả theo sự công bằng đoan kết.

Không phải chỉ người có của mà cả người nghèo cũng có thể làm phúc bố thí tùy sức mình. Hãy nhớ đồng xu của bà góa mà Chúa Giêsu đã khen trong Phúc âm (Lc 21,3), bà còn được khen là bỏ nhiều hơn ai hết, bởi đã lấy của nuôi thân mà bỏ vào hòm khấn. Chúa cũng thương ban thưởng ngay ở đời này, có khi gấp trăm lần cho những ai biết làm phúc bố thí cứu giúp các linh hồn Luyện ngục.

* Linh mục Giacôbê Monphô, dòng Chúa Giêsu, trong cuốn sách về Luyện ngục (1605) thuật truyện ông William Friesen làm nghề in sách ở Cologne viết cho ngài như sau:

“Vào ngày nghỉ lễ, con có giờ rảnh đọc quyển sách Luyện ngục cha gửi để in. Ðang khi đọc say mê, có người đến báo tin rằng, đứa con út của con năm nay 4 tuổi bị bệnh gần chết, bác sĩ bảo khó có thể cứu sống nó được. Làm sao bây giờ? Tự nhiên con nghĩ đến đi khấn các linh hồn. Con đã chạy đến nhà thờ và khấn ngay. Nếu con con khỏi chết, con sẽ phân phát 100 quyển sách Linh hồn Luyện ngục để xin các Linh mục cổ động việc cứu giúp các linh hồn. Dù ơn con xin khó được nhận, nhưng khi trở về nhà, lạ lùng, thấy cháu đã bớt và đòi ăn, hôm sau nó khỏi hẳn và chạy chơi như không có bệnh gì. Hết lòng vui mừng tạ ơn các linh hồn, con đã giữ lời và đem 100 quyển sách đi biếu các cha, nhờ các ngài phân phát cho giáo dân.

Ba tuần sau, lại đến lượt nhà con ngã bất tỉnh, rồi bị cấm khẩu không nói năng gì. Thuốc thang vô ích. Cha xứ đã đến xức dầu và yên ủi con chịu khó vâng theo Ý Chúa, nếu bạn con có mệnh hệ nào! Con lại chạy đến với các linh hồn Luyện ngục. Vào nhà thờ như lần trước, con hứa sẽ biếu 200 cuốn sách Linh hồn Luyện ngục. Khi con vừa về đến nhà, đứa con ở đã vội báo tin “bà bớt rồi, bà nói được vài câu”. Dần dần vợ con đã khỏi hẳn. Có Chúa làm chứng, con xin kê khai những điều trên là sự thật” (Charity p. 154).

* Thánh nữ Têrêxa Mẹ kể chuyện một người nhà giầu kia đã giúp của xây nhà dòng. Chết rồi ông phải vào Luyện ngục, nhưng Chúa phán với bà Thánh rằng: “Hỡi Têrêxa, người ấy giầu của mà gần mất phần rõi. Nhưng bởi nó đã giúp của cho dòng con, nên Cha thương, dầu vậy, linh hồn nó chỉ được ra khỏi Luyện ngục khi nào Thánh lễ Misa đầu tiên được dâng lên Cha trong Nhà nguyện Tu viện mới của con”. Vào cuối Thánh lễ đầu tiên ấy, bà Thánh đã thấy linh hồn người nhà giầu sáng láng bay về Thiên đàng.


LÃNH ÂN XÁ
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Ðiều thuộc đức tin là: Giáo hội có quyền ban Ân xá. (D. 989,998).

Ân xá là ơn Giáo hội ban nhờ công nghiệp Chúa Giêsu, Ðức Mẹ và các Thánh, để tha hình phạt tạm người ta phải chịu bởi những tội đã được Chúa tha.

Ân xá có hai loại: Ðại xá (tha hết), và Tiểu xá (tha một phần).

Mọi tín hữu có thể lãnh đại xá, tiểu xá cho mình hoặc nhường lại cho người đã qua đời (Giáo Luật 994).

Muốn hưởng ân xá, tín hữu phải có những điều kiện sau:

  1. Phải đọc kinh hay làm việc Giáo hội dạy để lãnh ân xá. Trước khi đọc kinh hay làm việc ấy phải giục lòng ăn năn chê ghét dốc lòng chừa mọi tội trọng, tội nhẹ đã phạm (Tông huấn Ân xá số 26).
  2. Phải xưng tội ít nhiều ngày trước hoặc sau ngày lãnh đại xá, rước lễ chính ngày lãnh đại xá, và cầu nguyện theo ý Ðức Giáo Hoàng là đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng, hay một kinh nào tùy lòng đạo đức mọi người. Khi viếng nhà thờ để lãnh đại xá sẽ đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Tin kính.

Bà Thánh Brigitta nói: “Ai lãnh được một đại xá trước khi chết, thì sẽ được tha thứ và được rước vào Thiên đàng ngay, như khi vừa lãnh Bí tích Rửa tội mà chết vậy”.

Ngày 1.1.1967, Ðức Giáo Hoàng Phaolô đệ Lục đã định lại các ân xá. Mọi ngày chỉ được lãnh một đại xá, trừ khi gần chết được lãnh thêm một đại xá nguy tử (số 24).

Tiểu xá có thể lãnh một ngày nhiều lần (số 24,3).

Sau đây xin kể những kinh, những việc có đại xá, tiểu xá:

1. CÁC KINH CÓ ÐẠI XÁ (theo số trong Tông huấn)

22. Ðọc kinh Lạy Ðức Chúa Giêsu rất nhân lành rất cam thay sau khi Rước lễ các Thứ Sáu Mùa Chay, và Tuần Thương khó. Các ngày khác chỉ được tiểu xá.

26. Ðọc kinh Lạy Ðức Chúa Giêsu rất nhân lành, Chúa đã yêu dấu loài người quá bội vào ngày lễ kính Trái Tim Chúa để đền tạ Chúa. Các ngày khác chỉ được tiểu xá.

27. Ðọc kinh Lạy Ðức Chúa Giêsu rất êm ái dịu dàng, là Ðấng đã chuộc tội loài người ta vào ngày lễ Chúa Giêsu Vua. Các ngày khác chỉ được tiểu xá.

48. Ðọc chung và suy ngắm 50 kinh Mân côi trong nhà thờ, hoặc nhà nguyện công, hoặc với gia đình, cộng đồng tu trì, hay hội đạo đức. Ngoài ra chỉ được tiểu xá.

59. Hát kinh “Ðây Nhiệm tích vô cùng cao quí” tối Thứ Năm Tuần Thánh và lễ Mình Thánh Chúa. Hát các lúc khác chỉ được tiểu xá.

60. Hát kinh Tạ Ơn Chúa (Te Deum) chiều ngày cuối năm. Hát lúc khác chỉ được tiểu xá.

61. Hát kinh Ðức Chúa Thánh Thần (Veni Creator) ngày đầu năm mới và lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Các lúc khác chỉ được tiểu xá.

2. CÁC VIỆC CÓ ÐẠI XÁ

3. Viếng Chúa, chầu Mình Thánh Chúa nửa giờ. Không đủ nửa giờ chỉ được tiểu xá.

11. Viếng một trong bốn đại Thánh đường Rôma vào lễ Bổn mạng đại thánh đường ấy, hoặc tùy chọn một lần trong năm.

12. Lãnh phép lành Ðức Giáo Hoàng ban cho Rôma và thế giới (dù qua radio, TV).

13. Viếng nghĩa địa cầu hồn trong vòng 8 (tám) ngày đầu tháng 11. Viếng các ngày khác chỉ được tiểu xá.

17. Thờ lạy và hôn kính Thánh giá ngày Thứ Sáu Tuần thánh theo nghi lễ Giáo hội.

23. Dự nghi lễ bế mạc Ðại Hội Thánh Thể.

25. Cấm phòng ba ngày trọn.

28. Giờ nguy tử, dù không thể có Linh mục tới ban các Bí tích cuối cùng và phép lành Tòa Thánh, Giáo hội cũng ban đại xá cho những ai trong đời sống đã có thói quen đọc kinh cầu nguyện (trường hợp này thói quen đó thay ba điều kiện xưng tội, rước lễ, cầu theo ý Ðức Giáo Hoàng). Người nguy tử hôn kính tượng Thánh giá, giục lòng ăn năn tội để lãnh đại xá.

35. Dùng Thánh giá, tràng hạt, ảnh đeo Ðức Giáo Hoàng hay Ðức Giám Mục đã làm phép (để tôn kính, lần hạt…) vào ngày lễ kính hai Thánh Tông đồ Phêrô Phaolô, và đọc bản tuyên xưng Ðức Tin (kinh Tin kính). Dùng Thánh giá, tràng hạt, ảnh đeo do Linh mục làm phép chỉ được tiểu xá.

41. Nghe vài bài giảng trong kỳ có Linh mục tới giảng đại phúc, cấm phòng và dự nghi lễ trọng thể bế mạc. Nghe các bài giảng lúc khác chỉ được tiểu xá.

42. Người Rước lễ lần đầu và những người dự Thánh lễ ấy.
43. Linh mục dâng lễ đầu tay trọng thể và những người dự lễ ấy.

49. Linh mục tuyên hứa lại trung thành với Ơn gọi tu trì và những ai dự lễ trọng kỷ niệm 25, 50, 60 năm thụ phong Linh mục.

50. Cung kính đọc Kinh Thánh đủ nửa giờ. Không đủ nửa giờ chỉ được tiểu xá.
63. Viếng và suy gẫm đủ 14 đàng Thánh giá. Ði từng nơi, nếu ít người.

65. Viếng nhà thờ giáo xứ ngày lễ Bổn mạng nhà thờ ấy, hoặc ngày 02 tháng 8 (ngày đặc ân Portiuncula của nhà thờ Thánh Phanxicô tại nước Ý).

66. Viếng nhà thờ, hoặc bàn thờ ngày được làm phép hiến thánh.

67. Viếng nhà thờ hoặc nhà nguyện công hay bán công vào Chúa Nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ các Thánh để cầu cho các linh hồn Luyện ngục.

68. Viếng nhà thờ, nhà nguyện dòng ngày kính Vị Thánh Sáng lập.

69. Dự một nghi lễ tại nhà thờ trong thời gian Ðức Giám Mục hay Ðại diện thăm mục vụ Giáo xứ. Nếu chỉ viếng nhà thờ trong thời gian đó thì được tiểu xá.

70. Tuyên lại lời hứa khi lãnh Bí tich Rửa tội vào đêm Vọng Phục Sinh, hoặc vào ngày kỷ niệm được Rửa tội theo quãng Giáo hội quen dùng (từ bỏ ma quỉ, tin kính Thiên Chúa). Tuyên lại lúc khác chỉ được tiểu xá.

3. CÁC KINH CÓ TIỂU XÁ

2. Kinh Tin, Cậy, Mến, và ăn năn tội.
6. Kinh Lạy ơn Ông Thánh Giuse, chúng con chạy đến cùng Người.
9. Kinh Ðức Chúa Trời sai Thánh Thiên Thần truyền tin, hoặc Lạy Nữ vương Thiên đàng.

10. Kinh Lạy Linh Hồn Chúa Kitô.

16. Kinh Tin kính các Thánh Tông đồ (Tôi tin kính ÐCT là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất).

19. Kinh Vực sâu.

29. Kinh Cầu Tên Ðức Chúa Giêsu, kinh Cầu Trái tim Chúa, Máu Thánh Châu Báu Chúa, kinh Cầu Ðức Bà, kinh Cầu ông Thánh Giuse, kinh Cầu Các Thánh.

30. Kinh Ngợi khen (Magnificat, Linh hồn tôi ngợi khen Chúa).
32. Kinh Hãy nhớ (Lạy Thánh Nữ Ðồng trinh Maria là Mẹ rất nhân từ).
33. Thánh vẹnh Thống hối 50.
37. Kinh cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, Tu sĩ (được giáo quyền chuẩn nhận).
38. Dùng ít phút cầu nguyện thầm trong trí.
39. Lời nguyện cho Ðức Giáo Hoàng (Ta hãy cầu xin cho Ðức Giáo Hoàng…).
44. Cầu nguyện cho Giáo hội hợp nhất (theo bản kinh được chấp nhận).

46. Lời cầu nghỉ yên (Lạy Chúa xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy).

51. Kinh Lạy Nữ vương (Lạy Nữ vương Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống).

54. Tôn kính Thánh theo ngày chỉ trong lịch Công Giáo (đọc lời nguyện theo sách lễ, hoặc đọc kinh kính vị Thánh ấy).

57. Kinh Trông cậy (Chúng con trông cậy rất Thánh Ðức Mẹ Chúa Trời).

4. CÁC VIỆC CÓ TIỂU XÁ

1. Tiểu xá ban chung cho tín hữu nào trong khi làm việc bổn phận và chịu gian nan ở đời, hướng tâm trí lên cùng Chúa, khiêm nhường trông cậy thầm đọc một lời cầu xin (để giữ và gia tăng sự kết hợp với Chúa Kitô), bởi Chúa đã phán:

Matthêu 7,7-8 “Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ thấy, hãy gõ sẽ mở”.
Matthêu 26,40 “Tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”,

Corinhtô 10,31 “Dù anh chị em ăn uống hay làm việc gì, nhớ làm bởi vinh Danh Chúa”.

Công đồng Vaticanô 2, Hiến chế Giáo hội số 41, Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân số 4 cũng khuyên những lời tương tự.

2. Tiểu xá ban chung cho tín hữu trong tinh thần đức tin và tình thương, hy sinh sức khỏe, hoặc của cải giúp anh chị em túng cực (của ăn, áo mặc, an ủi), bởi Chúa đã phán:

Matthêu 25,35-36 “Khi Ta đói, ngươi đã cho Ta ăn… Khi Ta yếu ngươi đã thăm viếng”.

Gioan 3,17-18 “Ai có của, khi thấy anh chị em mình túng cực mà khóa lòng lại, hỏi kẻ ấy có thật lòng yêu mến Chúa chăng”

Công đồng Vaticanô 2 trong Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân số 8, số 31, Hiến chế Giáo hội trong thế giới ngày nay số 93 cũng khuyên những lời tương tự.

3. Tiểu xá ban chung cho tín hữu trong tinh thần thống hối, tự nguyện từ bỏ những cái được phép, những cái thỏa lòng mình (để cầm hãm dục vọng, bắt xác thịt sống nghèo và khổ sở như Chúa Kitô), bởi Chúa đã phán:

Luca 9,23 “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thánh giá mình hằng ngày mà theo Ta”.

Thư Roma 8,13 “Nếu bởi tinh thần, anh chị em giết chết việc xác thịt, anh chị em sẽ được sống”.

Công đồng Vaticanô 2 trong Sắc lệnh Huấn luyện Linh mục số 9, Hiến chế Giáo hội số 10, số 41 cũng có những lời khuyên tương tự.

15. Rước lễ thiêng liêng (Lạy Ðức Chúa Giêsu, con tin thật Chúa ngự trong Phép Mình Thánh, con kính mến Chúa trên hết mọi sự, cùng ước ao chịu lấy Chúa trong linh hồn con…)

20. Dạy giáo lý, hoặc học giáo lý Công Giáo.

34. Tham dự làm Tuần Chín tại nhà thờ trước lễ Sinh nhật Chúa, lễ Hiện Xuống, lễ Mẹ Vô Nhiễm.

45. Dự Cấm phòng tháng.
55. Làm dấu Thánh giá: Nhân danh Cha và con và Thánh Thần Amen.

* Thánh nữ Madalena đệ Pazzi và các nữ tu dòng bà rất nhiệt thành lãnh ân xá cho các linh hồn. Trong truyện về thánh nữ, linh mục Cepari kể rằng: Thánh nữ đã giáo huấn, chăm sóc cho một nữ tu trong dòng người rất đặc biệt. Khi nữ tu qua đời, xác còn để trong nhà thờ như thói quen. Thánh nữ được ơn xuất thần, thấy linh hồn nữ tu bay về Thiên đàng tràn ngập niềm vui. Thánh nữ giơ tay chào rằng: “Tạm biệt, chị bay về Thiên đàng như chim bồ câu đẹp đe?, chúng tôi còn phải ở ‘chốn khách đầy này’. Ôi chị đẹp chừng nào, ai có thể tả được vinh quang Chúa ban để thưởng công nhân đức của chị? Chị ở trong Luyện ngục không bao lâu, xác chị chưa chôn xuống đất mà hồn chị đã lên Thiên đàng. Giờ đây chị thấy đúng như lời tôi đã nói trước với chị: Tất cả những đau khổ ở đời này không thể sánh được với những vinh quang Chúa dành cho các bạn hữu của Người”. Cũng trong lần ngất trí này, thánh nữ đã được biết linh hồn nữ tu chỉ phải qua 15 giờ trong Luyện ngục, bởi nữ tu đã phải chịu nhiều đau khổ ở đời này, và bởi nữ tu đã cẩn thận lãnh nhận những ân xá Giáo hội ban cho các con cái mình nhờ công nghiệp Chúa Kitô.

* Thánh nữ Têrêsa Mẹ đã viết trong tác phẩm của người, ca tụng giá trị cao nhất trên những ân xá nhỏ nhất Giáo hội ban phát. Thánh nữ kể rằng: Một nữ tu dòng bà sống một đời bình thường, nhân đức bình thường như bao nữ tu khác. Nữ tu này qua đời, và thánh nữ rất ngạc nhiên thấy linh hồn nữ tu về Thiên đàng ngay sau khi chết, đến nỗi thánh nữ tưởng rằng không có Luyện ngục. Khi thánh nữ Têrêsa bày tỏ sự ngạc nhiên này, Chúa đã cho bà biết: BỞI nữ tu này khi còn sống đã hết sức cẩn thận lãnh nhận các ân xá Giáo hội ban, nhờ phương thế này, nữ tu được tha hết các nợ nần phải trả ngay trước khi qua đời, nữ tu được coi như thật trong sạch trước tòa Chúa phán xét (Purgatory p. 255).

* Tại thành phố Venexia nước Ý, một Linh mục chủ tâm đi viếng nhà thờ Assisi để lãnh đại xá Giáo hội ban, trên đường đi, ngài bị bệnh phải vào trọ tại nhà một Linh mục bạn. Thấy mình sắp chết, ngài xin cha bạn tiếp tục viếng nhà thờ Assisi thay mình để được ơn giải thoát khỏi Luyện ngục sớm. Rồi Linh mục ấy qua đời. Cha bạn chần chừ chưa đi viếng nhà thờ Assisi như lời hứa. Một hôm Linh mục đã chết hiện về rất đau đớn phàn nàn với Linh mục bạn: Tại sao còn chần chừ chưa đi viếng nhà thờ để lãnh đại xá cứu mình, và xin cha bạn viếng càng sớm càng tốt. Cha bạn thu xếp công việc và lên đường ngay. Khi viếng xong, cha đã chết cũng được tha khỏi Luyện ngục, ngài hiện về sáng láng như ánh mặt trời cảm ơn cha bạn, rồi bay thẳng về Thiên đàng (Charity p.147).

Chúng ta nên sốt sắng và siêng năng lãnh đại xá, tiểu xá để cứu cha Mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn hữu chúng ta và cứu các linh hồn, nhất là các linh hồn mồ côi. Chúa đã phán: “Các con đong cho ai đấu nào, người ta sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy” (Mt 7,22).

Nay ta cứu người, mai người cứu ta.


DỰ LỄ MISA CỨU CÁC
LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Chúa Giêsu phán với Thánh nữ Getruđê rằng, “Vào giờ chết, Cha sẽ sai nhiều Thánh đến an ủi giúp đỡ những ai siêng năng sốt sắng tham dự Thánh lễ khi còn sống”.

Trong Thánh lễ, Giáo hội dâng nhiều lời cầu nguyện cho hàng Giáo phẩm và các tín hữu trên thế giới, cho những ai đang dự lễ, những ai dâng của lễ và những người đang an nghỉ trong Chúa Kitô chờ ngày sống lại. (Charity p. 186).

Công đồng Trentô xác quyết rằng, “Các tín hữu còn sống có thể cầu nguyện cứu giúp các linh hồn Luyện ngục, nhưng lời cầu nguyện giá trị nhất chính là Thánh lễ Misa”.

Công đồng còn dạy thêm rằng: “Thánh lễ Misa ngày nay Linh mục thay Chúa dâng trên bàn thờ không đổ máu, cũng chính là Thánh lễ hy sinh xưa Chúa Kitô dâng mình trên bàn thờ thập giá với máu đổ chan hòa. Thánh lễ hy sinh này đền bù mọi tội lỗi, mà không phải chỉ đền bù cầu khẩn cho người sống, mà còn được dâng lên để đển bù cầu khẩn cho những người đã chết trong Chúa Kitô nhưng chưa được thanh tẩy vẹn toàn. Đây là thói lành từ thời các thánh Tông đồ truyền lại” (D. 940).

* Thánh Tôma Aquinô cũng dạy rằng, “Không có hy sinh nào giải cứu các linh hồn Luyện ngục bằng hy sinh của Thánh lễ Misa”.

* Thánh Chrisôtômô viết: “Khi lễ Misa được cử hành ở trần gian, các Thánh trên trời xuống mở cửa Luyện ngục”.

* Thánh Augustinô viết: “Chúng ta không thể nghi ngờ rằng, những lời cầu nguyện của Giáo hội, thánh lễ Misa, việc chia sẻ của bố thí chỉ cho các người đã qua đời có sức cứu các linh hồn này lắm, có sức làm cho Thiên Chúa cư xử nhân từ với họ hơn là tội họ đáng phạt. Đó là những điều thường thực hành trong Giáo hội, những thực hành có từ thời các giáo phụ ban đầu, từ các tông đồ” (Purgatory p. 195).

* Thánh nữ Monica, Mẹ thánh Augutinô, khi sắp chết chỉ xin các con nhớ tới Mẹ nơi bàn thờ. Thánh Augutinô đã viết điều này trong sách “Tự thuật”. Ngài xin các độc giả cùng nhớ tới Mẹ ngài khi dâng lễ.

* Thánh nữ Isave Hoàng hậu nước Bồ có một công chúa tên là Constance qua đời đột ngột. Công chúa đã được hiện về với một thầy ẩn tu ở tỉnh Santarem. Thầy vội chạy đi tìm thánh nữ báo tin công chúa của người hiện đang bị giam phạt ở tầng sâu trong Luyện ngục, và còn phải giam ở đó lâu dài, chịu những hình phạt khủng khiếp. Nhưng công chúa sẽ được giải thoát, nếu có linh mục dâng thánh lễ chỉ cho linh hồn công chúa trong vòng một năm. Khi nghe thế, các cận thần quanh thánh nữ hoàng hậu phì cười, cho là ông thầy điên, ăn nói xằng bậy. Nhưng thánh nữ quay sang hỏi đức vua, đức vua trả lời: ông tin điều đó là đúng. Linh mục Ferdinand Mendez được mời dâng lễ cho công chúa hằng ngày.

Sau một năm, công chúa đã hiện về sáng láng cùng Mẹ nói rằng: “Mẹ ơi, hôm nay con được ra khỏi Luyện ngục để vào Thiên đàng”. Cảm động vô ngần, thánh nữ Isave vội đi vào nhà thờ dâng lời cảm tạ Chúa. Thánh nữ đi tìm cha Mendez, ngài nói, hôm qua ngài đã dâng xong 365 thánh lễ như đã được chỉ định. Thánh Isave hiểu là Chúa đã giữ lời hứa với thầy ẩn sĩ. Thánh nữ đã phân phát nhiều của cải cho người nghèo khó để tạ ơn Chúa.

* Thánh Benađô kể: Có một tu sĩ đã chết hiện về với một anh em dòng của người, cảm ơn đã cứu mình khỏi bị giam lâu trong Luyện ngục. Khi hỏi bởi lý do nào mà được giải cứu, linh hồn ấy chỉ về phía bàn thờ nói rằng, “Đây chính là “khí giới ơn thánh” cứu rõi chúng tôi”.

* Thánh Gioan Vianey xứ Ars bên nước Pháp, một hôm kể trong lớp giáo lý truyện sau: Chắc các con còn nhớ, một lần cha đã kể về một linh mục thánh thiện, có lẽ được Chúa cho biết bạn ngài đang bị giam trong Luyện ngục. Linh mục ấy muốn cứu người bạn. Ngài nghĩ rằng không có gì cứu nhanh hơn là Thánh lễ Misa, nên ngài lo liệu dâng lễ sớm. Trước khi dâng lễ, ngài thưa với Chúa đơn sơ như trẻ nhỏ nói với cha Mẹ rằng: “Lạy Cha chí thánh hằng có đời đời, con xin đánh đổi như sau: Cha đang giữ linh hồn bạn con trong Luyện ngục, còn con có thể đổi tấm bánh nên Mình Thánh Chúa Giêsu, bây giờ xin Cha tha cho bạn con ra khỏi Luyện ngục, và con sẽ dâng cho Cha mọi công nghiệp Chúa Giêsu Con Cha đã chịu nạn chịu chết”. Sau khi truyền phép, ngài nâng Mình Thánh Chúa lên, ngài đã thấy linh hồn bạn ngài lên Thiên đàng.

* Thánh Laurensô Justianô nhận xét rằng: “Một Thánh lễ Misa có giá trị cứu rõi hơn mọi việc đền tội của cả thế giới. Bỏ lên hai đĩa cân, một bên là Thánh lễ, bên kia là các việc đền tội ăn chay bố thí của chúng ta xem bên nào nặng hơn?”

* Á thánh Henry Suso và linh mục bạn, khi cả hai còn sống đã làm lời đoan kết với nhau rằng: “Nếu ai chết trước thì người còn sống sẽ dâng mọi tuần hai thánh lễ trong đủ một năm cầu cho người chết trước”. Sau ít năm, cha bạn qua đời, Thánh Suso ngày nào cũng cầu nguyện rất sốt sắng, lại thêm ăn chay và những việc đền tội khác, bởi chưa thể dâng lễ cầu cho cha bạn ngay như đã hứa. Sau ít ngày, cha bạn hiện về với vẻ mặt buồn bã trách móc nặng lời rằng: “Ôi ông bạn bất trung, sao ông không giữ lời hứa đã đoan kết với tôi ngày trước?” Thánh Suso trả lời rằng mình đã cầu nguyện và dâng rất nhiều hy sinh hãm mình, nhưng người chết nói: “Lời cầu của ông rất đẹp lòng Chúa, nhưng không có hiệu lực giải cứu tôi. Rồi người đó đập bàn la lên: “Máu! Máu! Những linh hồn đau khổ như chúng tôi cần máu, Máu Chúa Giêsu dâng lên trong Thánh lễ cầu cho chúng tôi sẽ giải thoát chúng tôi khỏi cực hình, nếu ông dâng lễ như đã hứa với tôi thì tôi đã được giải thoát khỏi Luyện ngục cực dữ rồi, bởi ông chậm trễ mà tôi còn chịu khổ, hãy dâng lễ cầu cho tôi, những lễ ông đã hứa với tôi” (Charity p. 191).

* Thánh Giêronimô dạy rằng, ” Các linh hồn trong Luyện ngục được giải thoát ngay khi linh mục dâng lễ cầu cho họ và các giáo dân xin lễ hoặc dự lễ cầu cho họ.”

Chúng ta hãy sắp xếp thời giờ, siêng năng và sốt sắng tham dự Thánh lễ hằng ngày hoặc nhiều ngày trong tuần để cầu cho các linh hồn. Đó là việc quan trọng, thánh thiện tôn vinh danh Chúa, ích lợi cho phần rõi ta, và cứu rõi các linh hồn đang đau khổ trong Luyện ngục.


RƯỚC LỄ CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Bởi lòng yêu thương các linh hồn, trước khi chịu chết chuộc tội, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Mình Thánh để ở lại yên ủi dẫn dắt chúng ta về trời. Ngài cho phép chúng ta được rước Ngài như của ăn uống để nên một với chúng ta trong tình yêu. Thánh Têrêxa Chúa Hài Đồng đã nói: “Lạy Chúa, không phải bởi thích ở trong bình vàng bình bạc mà Chúa ở lại trần gian, nhưng chính là bởi Chúa muốn ở trong tâm hồn các bạn của Chúa”. Chúng ta hãy năng cầu nguyện với Chúa trong tâm hồn mình, và cầu xin Chúa giải thoát các linh hồn Luyện ngục.

Giáo lý Công đồng Trentô dạy hai cách rước lễ:

1. Rước lễ cách Bí tích trong mầu nhiệm Thánh Thể.

2. Rước lễ cách thiêng liêng bởi giục lòng tin cậy kính mến ước ao rước Chúa Giêsu vào lòng.

Luật Giáo hội ngày nay ban phép cho giáo dân mọi ngày được Rước Lễ cách Bí tích hay rước lễ thật một lần, nếu dự thêm lễ nữa được rước lễ thêm lần nữa (GL.917) và một lần thứ ba nếu rước lễ như của ăn đàng khi gần chết (GL.921,2).

Rước lễ thiêng liêng bao nhiêu lần trong một ngày cũng được.

Rước lễ sinh muôn vàn ơn ích, bởi được kết hợp Chúa và kết hợp với nhau  trong Giáo hội, được xóa bỏ các tội nhẹ và thêm ơn thánh hóa, được thêm sức chống trả chước cám dỗ và sửa nết xấu, nhất là được bảo đảm sự sống đời đời.

* Một lần thánh Raymunđô dâng lễ có bà thánh Catarina Siena tham dự. Sau khi truyền phép, bà khát khao rước Chúa quá sức, nên khi Thánh Raymunđô bẻ Mình Thánh và bỏ phần nhỏ vào chén Máu Thánh, Ngài thấy nửa kia biến đâu mất. Hoảng sợ ngài quay tìm chung quanh xem Mình Thánh rơi chô nào, nhưng Thánh Catarina thưa rằng:     “Chúa đang ngự trong miệng con.” Bởi bà bị bệnh hay ói, nên không được phép rước Chúa. Bà khát khao, bà không thể chịu bệnh nếu thiếu Mình Thánh Chúa, nên Chúa đã làm phép lạ để đến với bà.

* Chân phúc Angela thú nhận, bà không thể chịu những nỗi khổ trên đời, nếu Chúa Giêsu không dạy cách Rước lễ thiêng liêng.

* Bà Đáng kính Gioanna Thánh giá được Chúa phán rằng: “Mỗi khi bà rước lễ thiêng liêng, Chúa ban ơn cho bà như khi bà rước lễ thật vậy”.

Giáo hội cũng ban ân xá cho những ai rước lễ thiêng liêng (Tông huấn Ân xá số 15 của Đức Giáo hoàng Phaolô 6).

Việc rước Mình Thánh Chúa còn sinh ơn ích cứu rõi các linh hồn trong Luyện ngục.

* Thánh nữ Gêtruđê cứu rất nhiều linh hồn Luyện ngục, bà thánh thích nhất là những ngày được rước lễ. Thời đó giáo dân chưa được phép rước lễ hằng ngày. Một lần Chúa phán với Thánh nữ: “Làm sao Cha từ chối lời con cầu xin cho các linh hồn Luyện ngục trong những ngày con rước lễ được, bởi con là bạn trăm năm của Cha”.

* Khi thánh nữ Mađalena de Paoãi  thấy linh hồn em mình đang chịu đau khổ trong Luyện ngục, bà cảm kích, chan hòa nước mắt kêu than: ” Ôi linh hồn khốn cực chừng nào, ôi hình khổ dữ dằn chừng nào, sao người ta không hiểu điều đó và không chịu vác thánh giá mình khi còn sống ở đời này? Em ơi, sao khi còn sống em không nghe lời chị khuyên và bây giờ em nóng lòng muốn chị nghe lời em van xin. Em xin chị điều gì đây? Bà thánh lắng nghe đếm tới số 107, bà nói lớn, đó là 107 lần Rước lễ mà em tôi xin phải không? Được, chị sẽ Rước lễ, nhưng than ôi, thời gian dài chừng nào. Lạy Chúa tôi, nếu Chúa cho phép, chị sẽ xuống Luyện ngục để giải thoát em, và tránh cho những người khác khỏi phải xuống nơi này”.

* Cha Đáng kính Lui Blosio thuật truyện một linh hồn Luyện ngục quanh mình đầy lửa nóng rát rúa quá sức hiện về với ngài lúc giáo dân rước lễ và nài xin rằng: “Xin ngài bởi lòng kính mến Chúa và lòng thương các linh hồn làm ơn rước lễ chỉ cho tôi một lần, nhưng dọn mình thật sốt sắng trước khi rước lễ, có như vậy, tôi sẽ được ra khỏi chốn nóng nảy đau đớn tôi đang chịu bởi tội thờ ơ với Bí tích Mình Thánh Chúa khi  còn sống”. Cha Đáng kính Lui đã sốt sắng rước lễ chỉ cho linh hồn ấy, và ngài đã thấy linh hồn bay vào Thiên đàng.

Chúng ta hãy siêng năng và sốt sắng dọn linh hồn bằng lòng tin cậy kính mến, khiêm nhường, nhất là cậy nhờ Đức Mẹ giúp ta dọn mình và cảm ơn Chúa để được nhiều ơn phúc cứu rõi các linh hồn Luyện ngục.


XIN LỄ MISA CỨU CÁC
LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Giáo hội dâng lễ Misa như Chúa Kitô đã dạy để “loan truyền Chúa đã chịu chết và tuyên xưng Chúa đã sống lại cho tới khi Chúa lại đến” (Lời tung hô sau truyền phép). Thánh lễ cũng được dâng lên để thờ phượng Chúa, tạ ơn Chúa, đền bù tội lỗi nhân loại và cầu xin ơn phúc cho Giáo hội và thế giới (Giáo lý Công Giáo). Chủ tế đích thực và Lễ vật dâng lên trong Thánh lễ để “tôn vinh Danh Chúa, mưu ích cho chúng con cùng toàn thể Hội Thánh Người” (Lời Tiền tụng Thánh lễ) là chính Chúa Kitô Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.

Công Đồng Trentô dạy rằng, “Thánh lễ Misa không những ca tụng Chúa, mà còn là lễ đền tội cho người sống và cho người đã qua đời” (Khóa 22, chương 2). “Lạy Chúa, xin nhớ đến tôi tớ nam nữ mà Chúa đã gọi ra khỏi thế gian, xin ban cho kẻ đã chết như Con Chúa, thì cũng được sống lại như Người” (Lời Tiền tụng Thánh lễ).

* Thánh Benađô thuật truyện về Thánh Malaki, Tổng Giám Mục Armagh, nước Ái nhĩ lan đã dâng nhiều Thánh lễ cho linh hồn chị mình. Tưởng thế là đủ, ngài không dâng nữa. Ba mươi ngày sau, ngài nghe tiếng chị khóc trong phòng mặc áo lễ. Bà than rằng, bà “đã chờ 30 ngày mà không được giúp đỡ”. Ngài tiếp tục dâng lễ cầu cho chị rồi thấy chị mặc đồ đen. Ngài lại tiếp tục dâng lễ cầu cho chị tới khi thấy chị vào Thiên đàng cùng với một số rất đông linh hồn đước giải thoát trong ngày hôm ấy (Charity p.199).

* Thánh Nicholas thành Tolentino thấy vô vàn linh hồn Luyện ngục ở trong một cánh đồng hợp nhau lại van xin ngài dâng lễ cầu cho họ. Sau 8 ngày dâng lễ, ngài được biết các linh hồn ấy đã được giải thoát khỏi Luyện ngục (Charity p.204).

* Thánh Antôn Padua kể rằng Chân phúc Gioan Alverina một lần dâng Thánh lễ vào ngày lễ Các Thánh. Sau khi truyền phép, ngài cầm Mình Thánh Chúa trong tay và khẩn khoản nài xin Chúa bởi công nghiệp Chúa Giêsu xin cứu các linh hồn Luyện ngục. Ngài được thấy một số rất đông linh hồn từ Luyện ngục bay lên như những tia sáng phát ra từ lò lửa về hướng Thiên đàng (Charity p.204).

* Theo Thánh Tôma Aquinô: “Khi Linh mục dâng lễ cầu cho linh hồn nào, dù ngài đọc bài lễ kính Đức Mẹ, lễ kính các Thánh, lễ cầu hồn hay bài lễ nào đi nữa, thì công phúc của Thánh lễ cũng như nhau. Nhưng nếu ngài đọc bài lễ cầu hồn thì công phúc được đặc biệt hơn, bởi Giáo hội đã dọn riêng những lời cầu nguyện và bài đọc chỉ cho người quá cố” (Charity p.215).

* Thánh Vincentê Ferier, một linh mục rất nổi tiếng Dòng thánh Đaminh đã giảng nhiều lần về chân lý Tòa Chúa phán xét. Ngài có một cô em khá cứng lòng, chẳng hề lay động trước lời giảng và gương thánh thiện của anh. Tâm hồn cô em này đầy ắp tinh thần thế tục, bị nhiễm độc về các thú vui ở đời, và bước đi trên con đường diệt vong. Trong khí đó, thánh Vincentê tha thiết cầu cho em được ơn trở lại, sau cùng lời cầu của ngài đã được nhận lời. Cơn bệnh chín chết một sống kéo đến với cô cứng đầu này. Giờ chết gần tới, cô được ơn sám hối chân thành và xưng thú hết tội lỗi. Chết được ít ngày, cô hiện ra với thánh Vincentê anh khi ngài đang dâng thánh lễ, mình quấn đầy lửa bừng bừng và là miếng mồi của các hình phạt. Bà nói:”Ôi anh ơi, em bị luận phạt chịu cực hình trong Luyện ngục đến ngày tận thế, nhưng anh có thể giúp em, xin anh dâng cho em 30 thánh lễ, như thế em có thể hy vọng được kết quả hạnh phúc nhất”. Thánh nhân lập tức thu xếp để dâng cho em các thánh lễ như em xin. Ngày thứ ba mươi, cô em lại hiện ra, nhưng lần này có các thiên thần vây quanh và cô hớn hở đi về Thiên đàng. Ôi thánh lễ Misa có giá trị vô cùng, đã giải cứu linh hồn sau ba mươi ngày thay cho hàng bao thế kỷ (Purgatory p. 96-97).

* Có người như ông Pasqualigo còn chủ trương rằng THÁNH LỄ HÁT cầu cho người đã chết lại gia tăng hiệu quả đặc biệt hơn nữa, bởi không những có Linh mục mà có cả giáo dân cũng thông phần hợp lời cầu nguyện cách trọng thể hơn (Charity p.222). Giáo hội đặt ra những lời ca hát không phải để cộng đoàn vui vẻ, hay cá nhân người xin lễ tự hào, mà để những lời van xin làm vui lòng Chúa hơn và ý chỉ xin lễ dễ được chấp nhận hơn.

Người ta cũng có thể xin dâng lễ để CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CÒN SỐNG VÀ CHO CHÍNH MÌNH. Thánh Leonard Maurice khuyên người ta dâng Thánh lễ cầu cho mình khi còn sống, tốt hơn là sau khi qua đời, bởi những lý do sau đây:

1. Dâng lễ khi còn sống, chính mình được tham dự để xin ơn phúc.

2. Dâng lễ cầu cho mình khi còn sống, nếu là kẻ có tội, hy vọng sẽ được lòng thương xót Chúa ban ơn ăn năn xưng thú đền bù, dù mình không đáng. Chết rồi và đã xuống Hỏa ngục thì không còn cứu vãn cách nào nữa, dù có dâng cả ngàn lễ cũng không đổi được số phận đời đời.

3. Dâng lễ cầu cho mình khi còn sống để xin ơn chết lành, sẽ được Chúa phù hộ trong giờ chết nhờ ơn phúc Thánh lễ.

4. Dâng lễ cầu cho mình khi còn sống, ơn phúc vẫn còn, và nếu có phải vào Luyện ngục, ngày giờ trong ấy sẽ được rút vắn hơn. Chết rồi mới được dâng lễ cầu cho thì linh hồn đã phải đợi chờ khốn khổ.

5. Dâng lễ cầu cho chính mình khi còn sống làm vinh Danh Chúa hơn. Khi dâng lên Chúa tiền bạc Chúa đã ban cho, ta được công từ bỏ của cải. Chết rồi tiền bạc về tay con cái họ hàng, mấy ai lo cứu giúp ta, đâu họ có cảm thấy nỗi khổ sở nóng nảy của ta mà cứu giúp mau chóng.

6. Dâng lễ cầu cho mình khi còn sống, nếu mình có ơn nghĩa Chúa thì được phần thưởng gấp đôi, vừa được tha phạt Luyện ngục, vừa được công thưởng Thiên đàng. Chết rồi mới xin thì chỉ được tha phạt Luyện ngục, không được gia tăng công thưởng Thiên đàng.

Cuối cùng chúng ta nên biết rằng, một Thánh lễ dâng cầu cho ta khi còn sống được tha hình phạt của ta nhiều hơn là dâng nhiều Thánh lễ sau khi ta chết, bởi nếu ta làm mất lòng ai mà xin lỗi ngay thì dễ được tha hơn là chần chừ để phải xin lỗi và đền bù trước tòa án. Một lời bào chữa trước tòa án tốn phí bao nhiêu tiền bạc rồi.

Chúng ta phạm đến Chúa nhiều cách, nếu chúng ta biết đền bù bằng việc lành phúc đức, việc từ thiện bác ái, nhất là nhờ công nghiệp Chúa Giêsu qua Thánh lễ thì nợ nần chúng ta được tẩy xóa. Chờ đến trước tòa án Chúa mới xin đền thì hình phạt lại nặng nề hơn.

* Thánh Anselmo dạy: “Sốt sắng dâng một Thánh lễ khi còn sống, lợi ích hơn cả ngàn Thánh lễ khi đã qua đời” (Charity p.226). Chính Chúa Giêsu dạy: “Hãy làm việc khi trời còn sáng, tối rồi ai thấy đường đâu mà làm” (Ga 4,4).

* Trong các thánh lễ chỉ cho người quá cố, có thánh lễ gọi là “Lễ Ba mươi.” Lễ ba mươi hay ba mươi lễ dâng liên tiếp còn gọi là “Lễ Gregoriô”. Lễ này được nói tới trong cuốn sách Đối thoại của người như sau: Có một tu sĩ tên là Giuttô, đã giữ lại cho mình ba đồng tiền vàng. Đó là điều lỗi nặng phạm lời khấn khó nghèo thầy đã tuyên khấn. Nhà dòng đã khám thấy, và thầy bị phạt “dứt phép thông công”. Đang khi bị hình phạt tuyệt thông này, thầy Giuttô đã qua đời. Cha viện trưởng (sau này chính là Đức Giáo hoàng Gregôriô) muốn để các thầy dòng khác kinh sợ về hình phạt tội tham lam trong đời sống tu trì, đã không cất hình phạt tuyệt thông cho thầy Giuttô. Thầy Giuttô được chôn xa nghĩa trang nhà dòng, và ba đồng tiền vàng kia người ta vứt trên mộ thầy, trong khi các thầy dòng khác lặp lại lời xưa thánh Phêrô đã nói với tên phù thủy Simon: Ngươi hãy chết với tiền bạc của ngươi.

Sau một thời gian, cha viện trưởng thấy rằng hình phạt thầy Giuttô như vậy đã đủ, người cảm kích thương linh hồn thầy Giuttô, đã tìm thầy quản lý nói cách tha thiết rằng: “Từ khi người anh em chúng ta qua đời, thầy đã phải cực hình trong Luyện ngục, trong tinh thần đức ái, chúng ta phải tìm cách cứu giúp. Xin thầy liệu cách xin dâng 30 thánh lễ liên tiếp chỉ cho thầy Giuttô, không ngày nào được cách quãng”. Thầy quản lý vâng lời ngay. Ba mươi thánh lễ liên tiếp đã được dâng lên. Sau ba mươi ngày, thầy Giuttô hiện ra cùng thầy bạn là Copiosô nói rằng: Anh bạn thân yêu ơi, chúc tụng Chúa, hôm nay tôi được tha thứ và được nhận vào nước Thiên đàng cùng với các thánh”. Kể từ đó, thói quen đạo đức dâng ba mươi thánh lễ liên tiếp cầu cho linh hồn đã qua đời được thiết lập và lan tràn trong Giáo hội, nhất là tại nước Ý, nước Anh và nhiều nước khác (Purgatory p. 212).

* Cũng có nơi khác kể rằng: Khi thánh Grêgôriô còn là Bề trên tu viện Bênêđictô. Một thày dòng trong tu viện ngài qua đời, các thầy tìm ra 6 cái Mẹ thầy qua đời đã giữ làm của riêng trái với luật dòng. Thầy qua đời bị phạt không được an táng theo lễ nghi. Thánh Grêgôriô bởi lòng thương linh hồn người quá cố, đã ra lệnh dâng cho thầy 30 lễ liên tiếp. Sau ba mươi ngày, thầy dòng qua đời hiện về với một thầy bạn nói rằng mình bị khổ trong Luyện ngục, nhưng đã được tha để về Thiên đàng. Khi lên ngôi giáo hoàng, thánh Grêgôriô cổ động trong Giáo hội việc dâng 30 lễ liên tiếp cho linh hồn đã qua đời. Các Đức Giáo hoàng kế tiếp cũng đã ban nhiều ân xá cho việc xin lễ như trên. (Trích Tạp chí Fatima Findings tháng 11/1989).

Ước gì các dòng có tục lệ dâng 30 lễ cầu cho linh hồn anh chị em dòng đã qua đời để linh hồn quá cố chóng được hưởng phúc trường sinh bên cạnh Cha nhân từ, Mẹ nhân ái và cộng đoàn các thánh.


VIẾNG ĐÀNG THÁNH GIÁ
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Viếng Đàng Thánh Giá để tưởng nhớ Tình yêu vĩ đại của Chúa Kitô qua cuộc thương khó và chịu chết của Người nên giá cứu chuộc ta, đem lại cho ta Sự Sống muôn đời. Việc đạo đức này đã có trong Giáo hội từ thế kỷ 14 do các cha Dòng thánh Phanxicô khởi xướng. Đức Giáo hoàng Phaolô 6 đã ban một ơn đại xá cho những ai xưng tội rước lễ và đi ngắm các chặng đàng.

Viếng đàng Thánh giá đem lại nhiều ơn ích cho người sống cũng như linh hồn Luyện ngục. Nhiều người sống rất thánh thiện và chết rất thánh thiện, tưởng là được lên Thiên đàng ngay, hay chỉ phải ở Luyện ngục ít ngày, nhưng Chúa lại phán xét cách khác.

* Năm 1870 tại thành phố Malines, nước Bỉ (Bruxelles), sơ Seraphine tự nhiên bị mệt mỏi bần thần như có sức gì đè nén, ám ảnh suốt ngày, và như bị ai lôi kéo. Sau cùng, ngày 29 tháng 7 năm ấy sơ nhận được thư báo tin người cha qua đời. Sơ vẫn không hết mệt mỏi, nhức nhối và luôn nghe như có tiếng kêu: “Con ơi, thương ba, thương cứu ba”.

Gần ba tháng sau, sơ bị nhức nhối hơn trước, đầu đau như búa bổ. Nằm trên giường, vừa chợp mắt liền thấy ba hiện về đứng bên cạnh giường, quanh mình lửa đỏ rực quấn chặt, vẻ mặt nặng trĩu buồn phiền. Hoảng sợ, bà sơ la lên kêu cứu, nhưng ngọn lửa vây luôn cả bà, hết đường trốn thoát.

Chiều hôm sau, khi bà qùi bên cạnh giường, đọc kinh Lạy Nữ Vương trước khi nằm ngủ, thấy ba lại hiện về như hôm trước, và tiếp tục hiện về các ngày sau. Bà sơ nghĩ, có lễ ba mình phạm tội gì bất công trong việc buôn bán, nên phải chịu phạt như vậy! Ba của bà trả lời rằng:

– Ba không làm điều gì bất công, nhưng chỉ bởi ba luôn luôn thiếu nhìn nhục, và những lỗi lầm khác ba không thể nói cho con hay được.

– Bà sơ hỏi: “Vậy ba không nhận được bao nhiêu Thánh lễ gia đình họ hàng ta đã xin cho ba sao?”

– Ông trả lời: “Có con ạ, linh hồn ba được mát mẻ nhờ sương sa từ Thánh lễ mọi buổi sáng, nhưng chưa đủ, ba thật cần có ai viếng đàng Thánh giá nữa”.

Lần khác, ba của bà hiện về trách bà rằng:

– Ba đã ở Luyện ngục 6 năm rồi mà con không thương ba”.

– Bà sơ trả lời: “Ba ơi, sao ba nói vậy, ba mới qua đời gần 3 tháng thôi”.

– Ồ, con không biết sự đời đời là gì cả. Linh hồn khi đã được thấy Chúa thì nóng nảy khát khao gặp lại Ngài. Ba bị án vào Luyện ngục 6 tháng, nhưng nhờ Nhà dòng con cầu nguyện liên tiếp cho ba, nên Chúa bớt cho ba một nửa thời gian. Chúa đã cho phép ba về nài xin con cứu ba. Thật vô lý khi trước ba đã ngăn cản ơn Chúa gọi con đi tu. Bây giờ ba chỉ còn trông vào con. Mấy đứa con khác nghĩ rằng ba đã lên Thiên đàng rồi, thỉnh thoảng mới có đứa đọc cho ba một kinh vực sâu. Bà Gioanna, đầy tớ nhà ta, đã luôn luôn cầu nguyện cho ba, nhờ thế bà ta đã giúp ba bớt hình khổ.

Thật vậy, anh chị em trong gia đình tôi tưởng ba chúng tôi đã lên Thiên đàng rồi, bởi trong thư gia đình viết cho tôi có đoạn nói rằng: “Ba đã chết như một vị thánh, và bây giờ đang ở trên Thiên đàng”.

– Bà sơ tiếp: “Ba ơi, con hoàn toàn làm theo lời ba xin, ba làm phiền con chứ đừng làm phiền nhà Dòng. Con sẽ xin nhiều người cầu nguyện cho ba, cho con biết ba muốn gì?

– Ông trả lời: “Ba muốn được dâng mười Thánh lễ, và có ai năng viếng đàng Thánh giá chỉ cho ba.

Mấy hôm sau ba của bà sơ lại hiện về với vẻ mặt rất buồn, nhưng không còn bị thiêu như trước, ông phàn nàn bởi hôm qua không được mát mẻ.

– Bà sơ nói: “Ba ơi ba không biết rằng các sơ không thể đọc kinh cầu nguyện cả ngày sao, các sơ còn phải làm việc khác nữa.

– Ông trả lời: “Ba không mong họ đọc kinh cầu nguyện cả ngày, nhưng xin họ làm việc với ý chỉ cứu ba. Mọi việc dù nhỏ mọn nhất, làm khi có ơn nghĩa cùng Chúa, dâng lên Chúa, có một giá trị lạ lùng và giảm phần phạt cho chúng tôi. Nếu các sơ không cứu ba, ba sẽ làm phiền con, bởi Chúa đã cho phép ba rồi. Con ơi hãy nhớ đến hy sinh ngày con bắt đầu dấn thân vào đường tu, bây giờ con hãy tiếp tục đi cho đến cùng. Trong bồn lửa ba đang chịu, có hàng trăm người khác nữa. ÔI GIÁ NGƯỜI TA BIẾT LUYỆN NGỤC LÀ GÌ. NGƯỜI TA SẼ CHỊU MỌI THỨ KHỔ ĐỂ KHỎI PHẢI VÀO ĐẤY, VÀ NGƯỜI TA SẼ CẤP CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC. Con phải nên một nữ tu thánh thiện. Con phải trung thành giữ kỷ luật, cả những điều xem ra nhỏ mọn. Ôi Luyện ngục của nhà tu kinh hãi chừng nào!

Bà sơ được thấy khói từ bồn lửa bốc lên và thấy lưỡi ba của bà bị bỏng, và nghe ba của bà kêu khát.

Bà sơ nói với nhà Dòng, khi còn sống ba của bà đã làm những việc lành, nên Chúa cho phép hiện về với bà. Ông cũng có lòng kính mến Đức Mẹ và xưng tội rước lễ trong các ngày lễ kính Người. Ông cũng rất bác ái sẵn lòng giúp đỡ ngay khi có ai cần đến. Ông cũng đã đi từng nhà để quyên tiền giúp các bà sơ nghèo xây Tu viện (Charity p. 343-344).

Theo truyền thống từ xa xưa tới nay trong Giáo hội, các Đức Giáo hoàng như Innocentê 11, Innocentê 12, Bênêđictô 23, Clêmentê 12, Bênêđictô 14 và nhiều đấng khác ban nhiều ân xá cho những ai viếng đàng Thánh giá. Đức Phaỗ 6 đã ban đại xá cho người viếng đàng Thánh giá như nói ở phần Ân xá.


RẢY NƯỚC THÁNH
CỨU CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Nước Thánh hay nước phép là nước đã được Linh mục làm phép nhân Danh Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống thể xác và linh hồn. Linh mục cầu xin Chúa ban phép lành cho nước để những ai tin tưởng mà dùng được Chúa ban ơn tha tội, được ơn chống lại bệnh hoạn và mưu kế ma quỉ (Lời nguyện khi làm phép nước). Khi giáo dân thành tâm tôn kính làm dấu Thánh giá nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần thì được ơn Tiểu xá Giáo hội ban (Tông huấn Ân xá, số 55).

Khi làm dấu Thánh giá với Nước thánh, giục lòng ăn năn tội thì được những ơn ích sau:

1. Được tha các tội mọn (do lòng ăn năn).
2. Được tha một số hình phạt tạm (do ân Tiểu xá).
3. Được sức khỏe phần xác theo Ý Chúa (do hiệu lực Nước thánh).
4. Được ơn chống cám dỗ (do hiệu lực Nước thánh).

Thánh Luca thuật lại dụ ngôn Chúa kể về người giàu và Lagiarô nghèo. Từ dưới Hỏa ngục người nhà giầu ngửa cổ lên van nài tổ phụ Abraham sai Lagiarô nhỏ xuống cho một giọt nước giải khát, nhưng tổ phụ Abraham nói là không được nữa, bởi đôi bên đang ở trong tình trạng khác, không còn giống như khi còn sống (Lc 16,24).

* Lịch sử Giáo hội Rôma cũng kể lại, nhờ rảy Nước thánh do Đức Giáo Hoàng Stephanô 6 làm phép đã giết được cả bầy châu chấu phá hại mùa màng.

* Linh mục Đắc Lộ (Alexander de Rhodes) kể rằng nhờ làm dấu Thánh giá bằng Nước thánh và rẩy Nước thánh mà các giảng viên giáo lý của ngài ở Việt nam đã được rất nhiều ơn lạ. Một lần ngài nhờ 6 giảng viên giáo lý đi thăm một làng có nhiều người bệnh, nhờ Nước thánh, họ đã chữa được 272 bệnh nhân (Charity p. 133).

Nước thánh có thể mưu ích cho người hiện ở đó mà cũng có thể mưu ích cho các linh hồn Luyện ngục. Một giọt Nước thánh nhiều khi có giá trị hơn một kinh dài, bởi nhiều khi đọc kinh dài, người ta khó cầm trí trọn vẹn được. Các linh hồn Luyện ngục khát khao Nước thánh lắm.

* Một người chết được chôn ở nghĩa địa thành Roma, nước Ý, đã chết 17 năm. Ông ta hiện về với Đấng Đáng kính Đaminh Giêsu Maria nài xin rảy Nước thánh cho mình để linh hồn ông ta được mát mẻ.

* Một thầy dòng Carmelô để sọ người trên bàn làm việc của thầy để dễ suy sự chết, một hôm thầy lấy Nước thánh rảy trên sọ ấy, liền nghe tiếng xin: “Rảy nữa! Rảy Nước thánh nữa!”

* Bà Đáng kính Mình Thánh Chúa thấy một sơ bạn đã qua đời thường hiện về xin rảy Nước thánh trên mộ mình để linh hồn được mát mẻ dưới Luyện ngục.

* Bà đáng kính Lindmayer đôi khi được Chúa nhắc cho rảy Nước thánh cho các người đã chết. Bà có thói quen rảy Nước thánh rồi mới đi ngủ. Một hôm bà vội vàng lên giường, quên rảy Nước thánh như thói quen thì nghe tiếng các linh hồn nài van, bà lập tức chỗi dậy rảy Nước thánh và không thấy tiếng kêu nài như trước (Charity 133).

Nếu các linh hồn Luyện ngục xin chúng ta một chút Nước phép để các ngài được mát mẻ, chúng ta đừng tiếc. Khi vào hay ra khỏi cửa nhà thờ đừng quên giơ tay chấm Nước phép làm dấu Thánh giá, giục lòng ăn năn tội, lãnh ân xá cầu cho các linh hồn.

Nhiều giáo dân đạo đức quen làm dấu Thánh giá bằng Nước phép trước khi ra khỏi nhà và khi trở về, khi rời khỏi phòng, trước khi đi ngủ, khi bị cám dỗ. Cha Mẹ nên dạy con cái năng dùng Nước phép để chúng được ơn phù hộ hồn xác và cứu giúp các linh hồn Luyện ngục.

 

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ: 2. Sao Lại Buồn

Hỡi linh hồn đau khổ, hỡi Bạn thân ái, Kinh thánh có lời rằng: “Ớ linh hồn tôi, sao mày buồn sầu cùng bối rối? Mày hãy trông cậy vào Chúa… ”(4)

Lời Thánh vịnh ấy, tôi cũng có thể dùng để nói với Bạn. Hỡi Bạn, sao Bạn buồn phiền bối rối? Sao lúc nào trên mặt Bạn cũng điềm những nét nhăn nheo, sao trên môi Bạn không lúc nào thấy nở một nụ cười? Sao đêm nào Bạn cũng khóc than? Sao Bạn chỉ muốn chết để thoát nợ đời? Sao Bạn nhìn thế giới như chốn tử địa? Sao Bạn không say sưa nhìn ngắm những ánh sáng tưng bừng của buổi sớm, nhất là những buổi rạng đông lộng lẫy của mùa xuân? Sao Bạn không khoan khoái khi đứng trước một cảnh trăng sao dầy đặc của mùa hạ? Sao Bạn không hưởng hết cái khí vị êm đềm ở nụ cười hồn nhiên của đứa trẻ? Sao Bạn không nhìn sâu vào đôi mắt trong suốt của đứa bé thơ, để nhận cho hết những cái đáng yêu đáng quí của một tâm hồn trong sạch?

Rồi những buổi mặt trời nhô trên mặt bể, rồi những lúc trăng lặn bên kia những lớp sóng bạc, rồi những đám lân tinh tung toé mỗi lúc mặt bể bị lay động… rồi những cử chỉ ân ái của người mẹ săn sóc đứa con nằm trên giường… rồi những cái chết anh dũng của người lính đã chết trên trận địa, để gìn giữ đất nước…

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, lúc mới 14 tuổi, cũng đã biết ngắm nhìn cảnh vật thiên nhiên và nâng lòng tới Đấng Cao Cả.

Sau đây là một trang rất êm đềm, đầy thi vị trích trong Truyện Một Linh hồn chính Người đã chép:

“Trước khi tới đích cuộc đi viếng, là La Mã, chúng con đã vượt qua nước Thụy Sĩ, có nhiều núi cao, ngọn tuyết trắng xóa, hòa lẫn với mây trời: có những thác nước đổ xuống trắng như màn bạc, có những thung lũng sâu hoắm, chi chít những cây cổ thụ, những bụi phượng vĩ to lớn, với những chòm hoa đỏ hồng.

Mẹ thân mến, cái phong cảnh thiên nhiên hữu tình đẹp đẽ, do một bàn tay bí mật tạo tác, khiến lòng con được ích lợi muôn phần. Nó nâng rước hồn con lên tới Tòa Đấng Tạo hóa, đã chẳng ngại ném xuống cõi tục, một mai sẽ đi vào hư vô, những công trình vĩ đại bao la ấy.

Thỉnh thoảng chúng con được lên đỉnh núi cao chót vót: đứng đấy nhìn xuống chân, thấy những vực sâu hoắm, không biết đâu là tận cùng, con có cảm giác như chúng muốn nuốt trửng chúng con. Xa xa hơn, chúng con lại đi qua một làng coi cũng xinh xinh với những nhà gỗ, với ngọn tháp thơ mộng cao quá tầm mắt, như đang đùa giỡn với những đám mây nhạt. Chỗ kia là chiếc hồ rộng, nước trong như lọc, mặt lặng như phản, pha lẫn màu xanh biếc với ánh nắng nhạt của ác vàng đang lặn.

Con biết tả sao cái cảm giác mê man trước cảnh hùng vĩ, đầy thi vị ấy? Con liên tưởng đến những cảnh vô cùng ngoạn mục trên nơi hằng sống… ”.

Rồi cái cảnh hiện tại đem lòng thiếu nữ tưởng đến đoạn đời tương lai:

“Khi ấy cũng như bây giờ, con cũng đã hiểu thế nào là cuộc đời đi tu: đi tu là phải sống trong khuôn phép nhiệm nhặt, sống với hy sinh hằng ngày, sống với trăm nghìn thứ kềm hãm trong âm thầm, trong kín đáo. Con đã biết, vì thế người ta có thể quên mục đích cao thượng của ơn kêu gọi dễ như không. Nên con đã răn mình rằng: Sau này được đi tu trong Nhà Kín, gặp bước gian nan hay bị những cám dỗ ám ảnh rằng: mình chỉ được xem có một quãng trời hẹp, lúc ấy tôi sẽ nhớ lại ngày hôm nay, tôi đã được đứng giữa cảnh thiên nhiên uy hùng lộng lẫy, với muôn cảnh ngoạn mục, để thêm can đảm mà tu thân tích đức. Nghĩ đến uy quyền toàn năng của Chúa, tôi chẳng còn thèm gì đến những lợi nhỏ nhen của tôi, tôi sẽ quyết chí yêu một mình Chúa, tôi sẽ không để lòng dính bén các loài thụ sinh rơm rác nữa, vì giờ đây, tôi đã được thoáng thấy những cái Chúa dành để cho những ai tận tình mến Chúa”.

Trong ngày lĩnh nhận bí tích Rửa tội, vị đại diện Chúa khuyên Bạn phải làm tôi Chúa trong sự vui vẻ. Là vì trong ngày ấy Chúa đổ ơn Thánh hóa đầy tràn linh hồn Bạn. Nhờ ơn Chúa Thánh hóa Bạn đã chiếm được chính hạnh phúc đích thực của Thiên đàng, ấy là chính Chúa. Linh hồn Bạn đã biến thành thiên đàng, vì có Chúa ngự trong ấy. Như thế, thì lẽ gì Bạn không vui? Cả trong khi bị đau đớn, bị bách hại, bị vu khống, già, chết, chân lý ấy cũng đủ yên ủi Bạn, và tiêm thuốc bổ vào người Bạn, vì ngay cho Bạn có thiếu hết mọi mùi hạnh phúc ở đời, Bạn mà còn giữ được ơn Thánh hóa, bạn vẫn còn vui được.

Bởi vậy, Thánh Phaolô đã kêu lên: “Tôi đầy tràn vui thú giữa những tai vạ của tôi”.  (5)

Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, trong lúc máu chảy tràn ra ngoài miệng cũng than thở: “Tôi thấy máu sôi lên trong cổ tôi, tôi tưởng tôi sắp chết và tim tôi vui mừng đến bị vỡ tan ra”.

Thánh Phanxicô khó khăn nói: “Sự buồn sầu chỉ xứng cho ma quỷ và các thủ hạ của nó; còn chúng ta, hãy vui mừng trong Chúa”.

Thánh Bênêdictô Láp (Labre), giữa lúc bị lũ trẻ chế nhạo, vì mặt mũi gầy còm, áo mặc rách tã, Người đã kêu lên: “Ước gì các em hiểu được hạnh phúc của tôi”.

Những lời như những lời ấy tôi không thuật lại hết được.

Nhưng tôi cũng xin thuật lại một truyện. Một hôm Bá tước Stolberg (Xi-tô-bê) gặp một cụ già đang khóc bên cạnh đường. Bá tước dừng lại, và hỏi cụ già sao khóc. Cụ già chỉ cho Bá tước xem đống gạch vụn của ngôi nhà cụ vừa bị thần hỏa thiêu. “Bây giờ tôi chỉ có một mình. Trước đây tôi cũng có gia đình. Nhưng giờ không còn sống một ai”. Bá tước thở dài: “Cụ già khốn nạn quá… ” rồi lấy tiền làm phúc cho cụ. Bỗng nhiên, như lấy lại được sức mạnh của Đức Tin, cụ đứng lên, nhìn thẳng vào mặt Bá tước, và nói: “Không, tôi không phải người khốn nạn. Mẹ tôi đã dạy tôi rằng: trên đời chỉ có một cái khốn nạn, ấy là tội trọng. Nhờ ơn Chúa, đời tôi chưa khi nào tôi dám phạm tội trọng. Tôi không phải người khốn nạn”. Không khác gì cụ già nói: Giữa những tai bay vạ gió này, tôi vẫn sung sướng, vì ơn Thánh hóa vẫn ở trong lòng tôi.

Bạn, hết những cái vui cái đẹp ấy, những cái có sức làm thỏa mãn lòng Bạn hoặc làm cạn những nguồn đau khổ của lòng Bạn ấy, cũng như những tấm gương anh hùng ấy, chính Chúa đã tạo nên, và đã tặng cho Bạn. Chúa có tiếc gì với Bạn đâu. Sao Bạn không nhìn nhận những lạc thú tự nhiên, hoặc siêu nhiên đầy yên ủi ấy. Bạn cứ mặt ủ mày chau, Bạn không muốn hưởng những thú vui trong sạch, Chúa đã dành riêng cho Bạn; những thú vui ấy, là con đường đưa Bạn đến niềm vui thật trên trời, miễn Bạn biết dùng cho nên.

Bạn hãy trông cậy vào Chúa. Chúa sinh ra Bạn không phải để làm khổ cho Bạn, Chúa sinh ra Bạn, để mai sau thưởng Bạn một cuộc đời sung sướng bất tuyệt, vô cùng vô tận… Và ngay lúc còn sống ở đời, Chúa cũng không bắt Bạn chịu khó quá sức Bạn.

Tôi xin nói lại, Kinh Thánh đã chép: “Anh em hãy làm tôi Chúa trong sự vui vẻ”. (6) Thánh Phaolô cũng viết thư cho giáo hữu thành Philiphê: “Anh em hãy vui mừng. Thầy nói lại, Anh em hãy vui mừng”. (7) Trong khi dâng lễ, biết bao lần chúng ta đã hát lời: “Gaudeamus omnes in Domino: Chúng ta hãy vui mừng trong Chúa”. Cả mùa Phục Sinh, trong khi dâng lễ, đọc kinh, Bạn thấy vang dội những tiếng Alleluia, chúng ta hãy vui mừng, hãy ca tụng Chúa.

Chính Chúa Giêsu cũng đã làm gương cho ta. Ngày Chúa Giáng Sinh, dù Chúa ra đời để chịu đau khổ chuộc tội ta, mà các Thiên thần cũng phán với các trẻ mục đồng: “Này ta đưa tin mừng cho các em” chứ không phải đưa tin buồn. Rồi các Đấng hát ca khải hoàn: “Gloria in allissismis Deo… Trên trời mừng Chúa hiển vinh”.

Trong khi còn sống, Chúa đã không nhiều lần dự các cuộc vui như tiệc cưới là gì?

Chúa đã muốn Bạn vui, Giáo Hội đã muốn Bạn vui, sao Bạn lại muốn làm trái lời Chúa, đi ngược với huấn lệnh của Giáo Hội?

Không, tôi hiểu Bạn lắm. Sở dĩ Bạn buồn phiền là vì Bạn chưa hiểu sự đau khổ, Bạn chưa biết dùng những phương thế giúp Bạn hưởng những thú vui trong sạch thanh cao, thú vui cả trong lúc đau khổ, thú vui vì được đau khổ.

Vậy thì như tôi đã nói ở trang trên, mấy trang này viết riêng cho Bạn, cốt giúp Bạn hiểu thêm ý nghĩa sự đau khổ. Hiểu thêm, để Bạn chịu khó cho nhẫn nại, chịu cho có công nghiệp trước mặt Chúa; hiểu thêm, để lúc nào Bạn cũng tươi cười, cái tươi cười của con cái Chúa, vui cười sung sướng để người khác cùng vui sướng lây.

Là vì, như người ta nói: “một vị thánh hay buồn, là một vị thánh đáng buồn”.

Tôi mong Bạn sẽ hiểu những điều tôi viết ra đây, và Bạn hãy vừa đọc vừa cầu nguyện để Chúa giúp Bạn hiểu xa hơn cả những điều tôi muốn viết, mà không viết được.

Chúc Bạn được như lòng tôi và lòng Bạn mong ước.

 

Lm. Nguyễn Văn Tuyên - DCCT

 

(4) Tv 41,6

(5) II Cor. 7,4

(6) Tv. 99,2

(7) Phil. 4,4

Dành giờ cho Chúa – Chương II. Sử dụng thời giờ thế nào để kết hiệp với Chúa

1. Những ý tưởng mở đầu
2. Khi vấn đề không đặt ra
3. Tính ưu việt trong hành động của Thiên Chúa
4. Tính ưu việt của tình yêu
5. Thiên Chúa thông ban chính mình qua nhân tính Đức Giêsu
6. Thiên Chúa cư ngụ trong tâm hồn chúng ta

 

1. Những ý tưởng mở đầu

“Tôi đã quyết định dành nửa giờ hay một giờ mỗi ngày cho việc kết hiệp với Chúa. Tôi phải khởi đầu làm sao? Tôi phải làm gì để sử dụng tốt thời gian này?”. Trả lời những câu hỏi đó thật không dễ chút nào, vì ba lý do sau đây.

Trước tiên, các linh hồn rất khác nhau. Các linh hồn khác biệt nhau hơn những khuôn mặt của họ. Tương quan của mỗi người với Thiên Chúa là độc nhất vô nhị, do đó, việc cầu nguyện của mỗi người cũng độc nhất vô nhị. Không ai có thể vạch ra một lộ trình hay phương pháp vốn có thể áp dụng cho mọi người, bởi điều đó có nghĩa là coi thường tự do của người khác cũng như tính đa dạng của các hành trình thiêng liêng mà họ đang theo. Khi đáp trả sự thôi thúc của Thần Khí và trong sự tự do của Ngài, mỗi tín hữu khám phá lộ trình mà Thiên Chúa muốn dẫn mình đi.

Thứ đến, đời sống cầu nguyện tuỳ thuộc vào sự lớn lên trong đức tin và trải qua các giai đoạn. Những gì được áp dụng cho một thời điểm nào đó trong đời sống thiêng liêng lại không thể áp dụng ở một thời điểm khác. Phương thế đúng đắn cho việc tiến bộ trong đời sống cầu nguyện có thể rất khác nhau và điều đó lại phụ thuộc vào việc liệu người nào đó đang ở bước đầu trên con đường cầu nguyện hay là Chúa đã bắt đầu dẫn dắt người ấy đến một trạng thái đặc biệt nào đó, những trạng thái mà thánh Têrêxa Avila gọi là “những nơi cư ngụ”. Đôi khi, chúng ta phải hành động; có lúc, phải bằng lòng đón nhận; khi khác, phải nghỉ ngơi hoặc phải chiến đấu.

Thứ ba, những gì được trải nghiệm trong đời sống cầu nguyện thật khó mô tả. Thông thường người cảm nghiệm nó không ý thức rõ điều đó. Một khi sống với những thực tại nhiệm mầu bên trong, chúng ta không thể diễn tả trọn vẹn bằng ngôn ngữ loài người. Thông thường, ngôn từ sẽ không bao giờ đủ để diễn tả những gì đang xảy ra giữa linh hồn và Thiên Chúa của nó. Hơn nữa, mỗi người nói về đời sống cầu nguyện đều nói đến những trải nghiệm riêng của họ, hay những gì nghe được từ người khác. Những trải nghiệm này chẳng là gì so với muôn hình vạn trạng trải nghiệm khác trong đời sống kết hiệp với Chúa.

Dẫu các chướng ngại là như thế, nhưng giờ đây tôi vẫn sẽ thử giải quyết vấn đề, hy vọng Chúa sẽ ban ơn để có thể đưa ra một số chỉ dẫn, dẫu không phải là câu trả lời đầy đủ chính xác cho những trường hợp cụ thể, nhưng vẫn có thể đem đến một vài ánh sáng và khích lệ cho những độc giả thành tâm.

 

2. Khi vấn đề không đặt ra

Vậy chúng ta nên sử dụng thời giờ kết hiệp với Chúa thế nào? Hãy bắt đầu bằng việc nhận ra rằng, một đôi khi, điều đó không là vấn đề.

Sẽ không có vấn đề khi đời sống cầu nguyện diễn ra cách tự nhiên, có thể nói như thế… khi tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa là cả một thông hiệp yêu thương, khi mà thời giờ cầu nguyện được sử dụng thế nào không là vấn đề. Quả vậy, một đời sống kết hiệp với Chúa phải luôn như thế, vì theo thánh Têrêxa Avila, “cầu nguyện là tương giao bằng hữu, trong đó, con người tìm gặp và trò chuyện một mình với Thiên Chúa, Đấng mà qua đó, con người biết mình đang được yêu thương” (Tự Truyện, ch. 8). Hai người yêu nhau say đắm thường sẽ không gặp nhiều vấn đề về cách thức họ dành thời giờ cho nhau. Đôi lúc, chỉ cần ở bên nhau – và họ không cần làm điều gì khác! Nhưng thông thường, thật không may, tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa quá hời hợt và không đạt đến cấp độ đó.

Về phía chúng ta, đối với loại hình “cầu nguyện tự nhiên” như thế, chỉ cần chấp nhận, vì nó có thể xảy ra ở những giai đoạn khác nhau trong hành trình thiêng liêng và cũng có thể có những hình thức khác nhau.

Chẳng hạn, điều này thường xảy đến với những người mới trở lại, tràn ngập niềm kính phục đối với vị Thiên Chúa họ mới khám phá, lòng đầy hân hoan và sốt sắng của những trẻ sơ sinh. Họ không gặp vấn đề gì về việc cầu nguyện. Được sinh ra bởi ân sủng, hăng hái dành thời giờ cho Đức Giêsu, họ có hàng ngàn điều cần thưa hỏi Chúa và họ đầy cảm xúc yêu thương với những ý nghĩ kiên cường.

Họ không nên ngần ngại từ chối tận hưởng thời gian ân sủng đó, đồng thời phải cảm tạ Chúa về điều đó. Nhưng họ phải khiêm tốn và đề phòng việc tự cho mình thánh thiện bởi lòng sốt sắng chủ quan hoặc có thể họ đoán xét người khác ít nhiệt tâm hơn mình. Ân sủng của những khoảnh khắc đầu tiên sau khi trở lại đó không xoá bỏ những lầm lỗi và bất toàn của họ, nhưng chỉ phủ lấp chúng thôi. Họ không nên ngạc nhiên nếu một ngày đẹp trời nào đó, lòng sốt sắng ấy biến mất và những lỗi lầm mà họ nghĩ việc trở lại đã giúp họ thoát khỏi đột nhiên quay trở lại với một sức mạnh không ngờ. Nay là lúc để họ kiên trì rút ra những bài học hữu ích từ sa mạc cằn khô của những thử thách như họ đã làm khi sống trong thời gian ân phúc với Thiên Chúa.

Cũng thế, thông thường, vấn đề sử dụng thời gian cầu nguyện thế nào cũng không nảy sinh ở cuối hành trình. Lúc ấy, Thiên Chúa có thể chiếm hữu con người trong giờ cầu nguyện ở một mức độ mà họ không thể kháng cự hoặc làm bất cứ điều gì cho chính mình: khả năng của họ bị cầm lại và tất cả những gì họ có thể làm là buông mình và vui lòng trước sự hiện diện của Người, Đấng đang xâm chiếm toàn bộ hữu thể của họ. Họ không làm một điều gì ngoài việc thưa lên “xin vâng”. Tuy nhiên, những người như thế phải mở lòng mình ra với vị linh hướng để được xác định rằng, liệu ân sủng họ đang lãnh nhận có thật là chính thực không, vì ở giai đoạn này, họ không còn ở trên những con lộ trơn tru nữa và cần phải thổ lộ cách chân thành với một ai đó. Các đặc ân phi thường trong cầu nguyện thường kéo theo những xung đột và nghi ngờ khi họ ngưng cầu nguyện và không còn kiên định như là nguyên nhân của những xung đột và nghi ngờ đó. Đôi lúc, nguyên việc chỉ cần cởi mở với vị linh hướng cũng có thể bảo đảm nguồn gốc thiêng thánh của các đặc ân đó, đồng thời giúp người ta tự do đáp trả các đặc ân đó cách trọn vẹn.

Cũng có một trường hợp trung gian, khá phổ biến và đáng nói đến bởi lẽ một đôi khi, hoàn cảnh xảy đến bất chợt hầu như không thể nhận thức được và người ta có thể cảm thấy nghi ngờ hoặc do dự không biết phải phản ứng làm sao: họ không chắc việc mình làm là đúng hay sai nhưng xem ra không có chọn lựa nào khác về vấn đề đang nảy sinh trong trường hợp đó. Điều đang xảy ra, trong thực tế, là những gì Chúa Thánh Thần bắt đầu dẫn dắt người đó vào một lối kết hiệp thụ động hơn. Trước đây, việc cầu nguyện của người đó khá “chủ động” theo nghĩa cốt ở suy tư, nguyện ngắm, đối thoại nội tâm với Đức Giêsu, những hành động của ý chí… chẳng hạn, việc dâng mình cho Ngài[1]. Nhưng rồi, đôi lúc họ bắt đầu mà không nhận ra rằng, lối cầu nguyện của mình đã được biến đổi. Thật khó để suy niệm và lý luận. Họ cảm nhận một thứ khô khan và có xu hướng ở lì trước mặt Chúa mà không làm hay nói bất cứ điều gì hoặc ngay cả nghĩ đến bất cứ điều gì đặc biệt với thái độ bình thản chú tâm và yêu mến. Hơn thế nữa, sự chăm chú đầy yêu thương thường phát sinh từ con tim hơn là khối óc thì hầu như không thể nhận thức được. Về sau sự chú tâm đó có thể mạnh hơn biến thành ngọn lửa bừng cháy yêu thương, nhưng thông thường, lúc khởi đầu, điều này hầu như không thể nhìn thấy.

Trong tình trạng này, nếu người ta tìm cách làm một điều gì khác để trở lại lối cầu nguyện “chủ động hơn” trước đây, họ sẽ không thành công. Thay vào đó, họ hầu như luôn có khuynh hướng trở lại tình trạng vừa được mô tả; đôi lúc họ có thể lo lắng hay ái ngại về điều đó bởi có cảm tưởng hiện giờ mình chẳng làm gì cả, đang khi cho đến lúc này, họ có cảm giác như đang làm một điều gì đó trong khi kết hiệp với Chúa.

Khi biết mình đang ở trong tình trạng này, đơn giản, hãy ở lại trong đó, đừng lo lắng cũng đừng để mình bị kích động. Thiên Chúa muốn đưa họ vào một lối cầu nguyện sâu sắc hơn và đây là một ân huệ lớn lao. Cứ để Người hành động và theo xu hướng tự nhiên, hãy trở nên thụ động. Hướng về Chúa trong bình an nơi tâm hồn như thế đã đủ cho việc cầu nguyện. Đây không phải là lúc hành động theo ý mình để sử dụng những khả năng và tài năng nhưng là lúc để Thiên Chúa hành động. Thiên Chúa chưa chiếm hữu hoàn toàn linh hồn. Tâm trí và ý chí của chúng ta vẫn đang hành động ở một mức độ nào đó: những ý tưởng và hình ảnh thoắt ẩn thoắt hiện, nhưng chỉ ở mức độ bên ngoài, hiếm khi được để ý đến và ít nhiều vô tình. Điều quan trọng không phải là sự dịch chuyển của tâm trí[2], nhưng là việc hướng lòng về Chúa cách mật thiết.

Vậy đây là một số tình huống, trong đó, chúng ta không cần thắc mắc “Tôi phải dùng thời giờ cầu nguyện thế nào?”. Câu trả lời đã được đưa ra.

Dẫu vậy, đôi lúc vấn đề vẫn nảy sinh. Cách chung, trường hợp này xảy ra với những người lòng đầy thiện chí nhưng họ không có lửa yêu mến hoặc chưa cháy lửa yêu mến Chúa đủ, vì thế, chưa lãnh nhận ơn cầu nguyện cách thụ động. Tuy nhiên, một khi đã nắm được tầm quan trọng của cầu nguyện, họ muốn dành thời giờ cho công việc đó cách đều đặn mà thực sự không biết phải bắt đầu làm sao. Bạn sẽ khuyên họ những gì?

Tôi sẽ không đưa ra câu trả lời trực tiếp cho câu hỏi này bằng cách bảo “Suốt thời gian cầu nguyện, bạn nên làm điều này điều kia, cầu nguyện thế này thế nọ”. Có lẽ sẽ tốt hơn khi bắt đầu bằng cách đưa ra những nguyên tắc hướng dẫn những con người này đi vào cầu nguyện.

Chương trước đã giải thích những thái độ nền tảng, chúng có giá trị cho mọi hình thức cầu nguyện và có thể nói, cho toàn bộ đời sống Kitô hữu như đã trình bày. Điều quan trọng không là các phương pháp hay những chỉ dẫn… nhưng điều quan trọng chính là thái độ – thiên hướng của linh hồn khi người ta đi vào cầu nguyện. Có một thái độ hay một thiên hướng đúng đắn là điều tối cần thiết cho việc kiên trì và sinh hoa kết trái trong việc cầu nguyện.

Lần này tôi sẽ đưa ra một số chỉ dẫn, không phải để xác định một thái độ cho bằng định hình một loại cảnh quan bên trong với những cột mốc và đường đi. Những ai muốn cầu nguyện sẽ tự do tìm cho mình một phương cách đi qua cảnh quan đó tuỳ vào việc họ đang ở đâu trong hành trình thiêng liêng và Chúa Thánh Thần đang dẫn họ đi lối nào. Một khi các tín hữu biết đôi chút về những cột mốc này, họ có thể định hướng cho mình và xác định những gì cần làm.

“Cảnh quan bên trong” của một đời sống cầu nguyện Kitô giáo được xác định và hình thành bởi một số chân lý thần học như sau.

 

3. Tính ưu việt trong hành động của Thiên Chúa

Nguyên tắc đầu tiên đơn giản nhưng cực kỳ quan trọng. Điều quan trọng trong đời sống cầu nguyện không hệ tại những gì chúng ta làm nhưng những gì Thiên Chúa làm trong chúng ta.

Nhận thức này sẽ mang lại cho chúng ta một sức mạnh giải phóng lớn lao, vì đôi khi, chúng ta không thể làm một điều gì cả trong việc cầu nguyện. Dẫu thế, điều đó thật ra không quan trọng lắm, vì cả khi chúng ta không thể làm gì, Thiên Chúa vẫn có thể. Người luôn hành động tận thâm sâu của linh hồn cả khi chúng ta không nhận ra điều đó. Cuối cùng, hành vi cốt lõi của việc cầu nguyện là đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa và ở lại đó. Vì rằng, Người không phải là Chúa của kẻ chết nhưng là của kẻ sống và sự hiện diện của Người, sự hiện diện của một Thiên Chúa sống động, thì linh hoạt, trao ban sự sống, chữa lành và thánh hoá. Đứng trước ngọn lửa, không ai không nóng lên; dưới ánh mặt trời, không ai không cháy sạm da. Cũng thế, duy trì việc ở lại trước nhan Thiên Chúa và để Người hành động tận nơi sâu thẳm của hữu thể mình, chúng ta đang thực sự làm những gì quan trọng nhất.

Nếu việc cầu nguyện của chúng ta không gì khác hơn ngoài điều ấy – ở lì trước mặt Thiên Chúa mà không làm hay nghĩ đến bất cứ điều gì đặc biệt, cũng không có bất cứ cảm giác khác thường nào nhưng với một thái độ thành tâm và tin tưởng phó thác – chúng ta đã làm một việc tốt nhất và không thể làm gì tốt hơn.

Đừng đo lường giá trị các giờ cầu nguyện bằng những việc chúng ta làm trong suốt thời gian đó khi nghĩ rằng… nó tốt đẹp và ích lợi khi chúng ta nói và nghĩ ra nhiều điều, để rồi, sẽ thất vọng nếu chúng ta không thể làm bất cứ điều gì. Việc cầu nguyện như thế hẳn sẽ rất nghèo nàn; ấy thế, Thiên Chúa vẫn có thể đã âm thầm làm những điều kỳ diệu nơi tâm hồn chúng ta suốt thời gian đó, Người làm những gì mà hoa trái của chúng chỉ tỏ hiện mãi về sau. Cái nguyên nhân của nguồn phú túc vô tận phát sinh từ việc cầu nguyện không là những ý tưởng hay hành động của chúng ta, nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa nơi tâm hồn mỗi người. Chỉ trong Vương Quốc Nước Trời, chúng ta mới có thể thấy bao hoa trái của việc cầu nguyện.

Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu biết rõ điều này. Chị đã gặp vấn đề trong việc cầu nguyện: Chị đã từng buồn ngủ! Đó không phải lỗi của chị – chị còn rất trẻ khi vào Nhà Kín Carmel và giờ ngủ không đủ cho chị với lứa tuổi đó. Nhưng chị không quá thất vọng về yếu đuối này, chị nói:

Tôi nghĩ các em bé làm vui lòng cha mẹ chúng biết bao khi chúng ngủ cũng như khi chúng thức; các bác sĩ không để bệnh nhân ngủ để phẫu thuật đó sao. Và cuối cùng, tôi nghĩ, “Chúa thấy chúng ta yếu đuối nhường nào, Người nhớ chúng ta là cát bụi” (Tự Truyện, Thủ Bản A).

Phần bị động trong cầu nguyện lại là phần quan trọng nhất. Cầu nguyện không hệ tại việc làm một điều gì đó cho bằng phó mình cho hành động của Thiên Chúa. Một đôi khi, chúng ta cần chuẩn bị và bám sát hành động của Người, nhưng rất thông thường, chỉ cần thuận theo hành động đó, ấy là thời điểm khi những gì quan trọng nhất đang xảy ra. Thỉnh thoảng, chúng ta thậm chí ngưng mọi hoạt động để Thiên Chúa có thể tự do hành động. Như thánh Gioan Thánh Giá đã giải thích rất rõ, đây là lý do tại sao thỉnh thoảng, chúng ta trở nên khô khan khi không thể suy tư, tưởng tượng hay cảm nhận bất cứ điều gì… kể cả không thể nguyện ngắm. Thiên Chúa đặt chúng ta vào tình trạng đó, một loại đêm tối, để chỉ mình Người hành động cách thâm sâu như một nhà phẫu thuật gây mê bệnh nhân hầu có thể tự do tiến hành công việc!

Chúng ta sẽ trở lại điểm này. Giờ đây, những gì cần nắm bắt là nếu, dù rất thiện chí, chúng ta vẫn không thể cầu nguyện tử tế, không có lấy một cảm xúc tốt đẹp hay một ý tưởng hay ho nào… thì không vì thế mà chúng ta buồn. Chúng ta nên dâng sự nghèo khó của bản thân cho hành động của Thiên Chúa, đồng thời, làm cho việc cầu nguyện trở nên giá trị hơn hình thức cầu nguyện vốn thường làm cho mình cảm thấy tự mãn. Thánh Phanxicô Salêsiô hay cầu nguyện rằng, “Lạy Chúa, con không là gì khác ngoài một khúc gỗ: xin hãy đốt nó đi!”.

 

4. Tính ưu việt của tình yêu

Nguyên tắc thứ hai cũng tuyệt đối căn bản: tình yêu trổi vượt trên tất cả mọi sự. Thánh Têrêxa Avila bảo, “Trong cầu nguyện, điều quan trọng không phải là suy tư nhiều nhưng yêu mến nhiều”.

Điều thánh Têrêxa Avila lưu ý trên đây mang một ý nghĩa giải thoát lớn lao! Một đôi khi, chúng ta không thể suy tư, không thể suy niệm hoặc không thể cảm nhận… nhưng lại luôn luôn có thể yêu mến. Thay vì lo lắng và nản lòng, những người mệt mỏi, những người phải giày vò bởi lo ra chia trí, những người không thể kết hiệp với Chúa luôn luôn có thể dâng lên Người sự ngặt nghèo của mình trong tín thác bình an. Làm như thế, họ đang thực hiện tuyệt vời việc kết hiệp với Chúa. Tình yêu là đế vương và dù hoàn cảnh thế nào, rốt cuộc, vẫn luôn chiến thắng. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu thích trích dẫn câu nói của thánh Gioan Thánh Giá, “Tình yêu rút ra lợi ích từ mọi sự, xấu cũng như tốt”. Tình yêu rút ra lợi ích từ những cảm xúc, những khô khan, những suy tư sâu xa… từ sự cằn cỗi cũng như những nhân đức, kể cả tội lỗi… và từ nhiều điều khác nữa.

Nguyên tắc này gắn liền với nguyên tắc đầu tiên: hành động của Thiên Chúa trổi vượt trên hành động của chúng ta. Nhiệm vụ chính của mỗi người trong cầu nguyện là yêu mến. Thế nhưng, trong tương quan với Thiên Chúa, yêu mến trước hết, có nghĩa là hãy để cho mình được yêu. Điều này không dễ như người ta tưởng. Nó có nghĩa là phải tin vào tình yêu… đang khi rất thông thường, nghi ngờ tình yêu là điều quá dễ dàng. Nó còn mang một ý nghĩa khác là chúng ta phải chấp nhận sự ngặt nghèo của mình.

Thông thường, chúng ta cảm thấy dễ dàng khi yêu hơn là để mình được yêu. Làm một điều gì đó, trao tặng một điều gì đó khiến chúng ta hài lòng và cảm thấy hữu ích… nhưng để mình được yêu có nghĩa là bằng lòng không làm bất cứ việc gì và trở nên không là gì cả. Nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta trong việc kết hiệp với Chúa là để mình được Thiên Chúa yêu thương như những trẻ nhỏ thay vì trao tặng Người hoặc làm bất cứ một điều gì đó cho Người. Hãy để Thiên Chúa thoả thích yêu thương chúng ta. Điều đó thật khó, vì nó có nghĩa là phải có một niềm tin vững như bàn thạch vào tình yêu Người dành cho chúng ta; đồng thời, cũng hàm ý chấp nhận nỗi ngặt nghèo của mình. Ở đây, chúng ta chạm đến một điều gì đó tuyệt đối căn bản: sẽ không có một tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa nếu tình yêu đó không được xây dựng trên việc thừa nhận tính tiên thiên tuyệt đối của tình yêu Người dành cho chúng ta; không có tình yêu đích thực nào dành cho Người lại không nắm vững điều này là, trước khi làm bất cứ việc gì, tiên vàn, chúng ta phải lãnh nhận. Thánh Gioan nói với chúng ta, “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa yêu chúng ta trước” (1Ga 4, 10).

Trong tương quan với Thiên Chúa, hành vi yêu thương đầu tiên, hành vi vốn là nền tảng cho mọi hành động yêu thương chúng ta dành cho Người, là thế này: tin rằng Người yêu thương và chúng ta để cho mình được yêu trong sự khốn cùng của bản thân, mà quả đúng như thế; điều này hoàn toàn tách biệt với bất cứ công nghiệp hay nhân đức nào mà chúng ta có thể có. Đây quả là nền móng vững chắc để xây dựng mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa, một tương quan bền vững. Bằng không, tương quan ấy sẽ bị méo mó bởi một tinh thần Biệt Phái Giả Hình nào đó mà trung tâm của nó không được chiếm ngự hoàn toàn bởi Thiên Chúa nhưng bởi chính cái tôi của mình, hoạt động của chúng ta, nhân đức của chúng ta hay một điều gì đó tương tự như thế.

Đây là một thái độ khá gắt gao vì nó đòi buộc chúng ta dịch chuyển trọng tâm đời mình từ cái tôi của bản thân sang Thiên Chúa và quên mình đi. Nhưng điều đó giải thoát chúng ta. Thiên Chúa không tìm kiếm chúng ta trước hết để làm công kia việc nọ, chúng ta là “những đầy tớ vô dụng” (Lc 17, 10). Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu bảo, “Thiên Chúa không cần việc làm nhưng Người khao khát tình yêu của chúng ta”. Tiên vàn, Người đòi chúng ta để cho mình được yêu, tin vào tình yêu của Người và điều đó lại luôn luôn có thể. Cầu nguyện tự bản chất cốt tại điều này: ở lại trước sự hiện diện của Thiên Chúa và để cho Người yêu thương. Một cách dễ dàng, việc đáp lại tình yêu của Chúa sẽ xảy ra hoặc trong suốt thời gian cầu nguyện hoặc kết hiệp với Người bên ngoài thời gian đó. Chính Người sẽ sản sinh những gì tốt lành trong chúng ta và làm cho chúng ta có khả năng thực hiện “công trình tốt đẹp mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Eph 2, 10).

Một hiệu quả khác nảy sinh từ tính ưu việt của tình yêu là hoạt động của chúng ta trong đời sống kết hiệp với Chúa phải được hướng dẫn bởi nguyên tắc này: hãy làm bất cứ điều gì hưởng ứng và củng cố tình yêu. Đây là tiêu chí duy nhất để nói rằng, việc làm này, việc làm kia trong cầu nguyện là đúng hay sai. Bất cứ điều gì dẫn đến tình yêu đều đúng. Nhưng dĩ nhiên, phải là tình yêu đích thực chứ không hời hợt, giàu cảm xúc – ngay cả những cảm xúc cháy bỏng, nếu được Thiên Chúa ban cho vẫn có những giá trị của chúng trong khi biểu lộ.

Những ý tưởng, những quan tâm và những hành vi bên trong vốn nuôi dưỡng hay biểu thị tình yêu dành cho Thiên Chúa… đều làm chúng ta lớn lên trong niềm tri ân tín thác với Người, đồng thời khơi dậy và thôi thúc một niềm khát khao phó mình hoàn toàn cho Người, thuộc về Người và trung tín phụng sự Người như vị Chúa duy nhất của mình – đây là những gì thường tạo nên cái được gọi là cần thiết nhất, quan trọng nhất mà chúng ta làm được trong cầu nguyện. Tất cả những gì vốn làm tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa trở nên mạnh mẽ đều là một chủ đề tốt cho việc cầu nguyện.

 

NHẮM ĐẾN ĐIỀU GIẢN DỊ

Từ tất cả những điều trên đây, một hệ quả rất thiết thực kéo theo: trong khi kết hiệp với Chúa, chúng ta không nhảy từ việc này sang việc nọ hoặc nhân lên gấp bội những ý tưởng, những suy tính hoặc ngây ngất trong một trạng thái lý thú nào đó với những gì bay bỗng phiêu diêu hơn là một sự hoán cải tâm hồn thiết thực và cụ thể. Sẽ chẳng ích lợi bao nhiêu cho tôi khi ấp ủ các ý tưởng cao siêu về những mầu nhiệm đức tin rồi thay đổi việc chú tâm vào suy niệm của mình để rảo qua các chân lý thần học và toàn bộ Thánh Kinh rồi rốt cuộc, không cương quyết hơn trong việc phó mình cho Chúa và bỏ mình vì yêu mến Người. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu bảo, “Yêu là hiến dâng mọi sự và hiến dâng chính mình”. Việc kết hiệp với Chúa mỗi ngày chỉ tập trung vào một ý tưởng duy nhất, rồi cứ suy đi nghĩ lại không ngơi – để khuấy động tâm hồn mình hiến trao hoàn toàn cho Chúa và không ngừng củng cố quyết tâm phụng sự Người và tuân theo quyền năng của Người – rồi việc cầu nguyện của tôi hẳn sẽ ít lớn lao hơn, nhưng tốt hơn nhiều.

Một sự kiện được kể lại nổi bật trong cuộc đời thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu cho thấy sự trổi vượt của tình yêu. Không lâu trước khi Têrêxa qua đời, khi chị rất đau đớn và nằm liệt trên giường, Mẹ Agnès, chị của ngài, đã đến bên Têrêxa và hỏi “Em đang nghĩ gì thế?”, “Em không nghĩ gì cả, em đau quá. Vì thế em cầu nguyện”. Mẹ Agnès gặng hỏi, “Thế em nói gì với Chúa Giêsu”. Têrêxa thưa, “Em không nói gì, em chỉ yêu mến Ngài”.

Đây là phương thức cầu nguyện nghèo khó nhất và sâu thẳm nhất: một hành vi yêu mến đơn sơ, vượt xa mọi ngôn từ và ý tưởng. Chúng ta cũng hãy khát khao sự đơn sơ ấy. Cuối cùng, việc kết hiệp với Chúa của chúng ta cũng phải là một hành vi yêu mến đơn thuần và chỉ cần như thế. Nhưng để đạt được sự đơn sơ đó, cần có nhiều thời gian và hoạt động của ân sủng ở một cấp độ thâm sâu. Tội lỗi khiến chúng ta trở nên quá phức tạp và như thế, làm hao mòn toàn bộ khả năng của mình. Hãy nhớ rằng: giá trị của việc kết hiệp với Chúa không được đo bởi bao việc chúng ta làm; trái lại, việc cầu nguyện càng đến gần hành vi yêu thương đơn sơ đó, càng có giá trị. Cũng thế, thông thường, cầu nguyện càng đơn sơ, đời sống thiêng liêng càng tiến bộ. Chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn về điều đó.

Trước khi tạm gác chủ đề này, chúng ta cần bàn đến một cơn cám dỗ có thể nảy sinh trong việc kết hiệp với Chúa. Một đôi lần, khi cầu nguyện chúng ta có thể nghĩ đến một điều gì đó rất sâu xa và hấp dẫn – một soi sáng mới về mầu nhiệm Thiên Chúa, một hiểu biết mới về đời sống mình hay một điều gì đó tương tự. Dù chúng có vẻ sáng sủa lúc đó… nhưng thường vẫn có một nguy cơ trong các ý tưởng chợt đến và chúng ta cần cảnh giác. Chắc chắn, có lúc Thiên Chúa soi rọi và tạo những cảm hứng sâu xa trong suốt quá trình cầu nguyện, nhưng nán lại trong những ý tưởng này, có thể chúng ta sẽ quay lưng với sự hiện diện ít phô trương nhưng lại rất thiết thực hơn của Người. Bị lôi cuốn, cháy bừng nhiệt tâm… cuối cùng, có thể chúng ta chú tâm đến những ý tưởng của mình hơn là để lòng để trí đến Thiên Chúa. Khi giờ cầu nguyện kết thúc, toà nhà tâm trí sụp đổ, để lại chút ít đằng sau.

 

5. Thiên Chúa thông ban chính mình qua nhân tính Đức Giêsu

Theo sau tính ưu việt của hành động Thiên Chúa và của tình yêu, còn có một nguyên tắc thứ ba vốn cũng là nền tảng cho đời sống chiêm niệm của người Kitô hữu: chúng ta tìm gặp Thiên Chúa trong nhân tính Đức Giêsu.

Lý do chúng ta thực hành kết hiệp là để đi vào thông hiệp với Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa, nào ai biết. Vậy, tìm kiếm Người bằng cách nào? Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật, Đấng Trung Gian duy nhất. Nhân tính của Ngài, nhân tính của Con Thiên Chúa, là môi giới của mọi cuộc tìm kiếm, tìm gặp và nên một với Thiên Chúa. Thánh Phaolô dạy, “Nơi Ngài, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2, 9). Nhân tính của Đức Giêsu là bí tích đầu tiên, qua đó, Thiên Chúa tự tỏ lộ Thần Tính cho con người.

Với tư cách phàm nhân, chúng ta cần sự hỗ trợ của những gì thuộc vật chất để đạt được những thực tại thiêng liêng. Thiên Chúa biết điều này và đây là lời giải thích cho toàn bộ Mầu Nhiệm Nhập Thể. Chúng ta cần nhìn thấy, chạm đến và cảm nhận. Nhân tính thể lý và hữu hình của Đức Giêsu Kitô là sự bộc lộ việc hạ mình tuyệt diệu của Thiên Chúa đến với chúng ta. Biết chúng ta được dựng nên bằng gì, Người ban cho chúng ta khả năng vươn tới những thực tại thần linh bằng phương thế của con người, chạm đến những gì là thần thiêng bằng phương tiện của con người. Thần Khí đã hoá thành nhục thể. Đức Giêsu là đường dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa. Thánh Philipphê thưa với Đức Giêsu, “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”, Đức Giêsu đáp, “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 8-9).

Ở đây, chúng ta gặp thấy một mầu nhiệm vĩ đại và tuyệt diệu. Nhân tính Đức Giêsu, trong tất cả mọi khía cạnh của nó, cả những khía cạnh có vẻ hèn hạ và ít quan trọng nhất, là một không gian bạt ngàn để con người có thể kết hiệp với Thiên Chúa. Mỗi khía cạnh của nhân tính, mỗi đặc điểm tính cách của Ngài, cả những đặc điểm nhỏ bé và lu mờ nhất; mỗi lời Ngài nói, mỗi việc Ngài làm, mỗi cử chỉ, mỗi giai đoạn trong đời Ngài từ lúc tượng thai trong lòng Đức Maria cho đến Ngày Lên Trời… đều dẫn chúng ta đi vào hiệp thông với Thiên Chúa Cha nếu mối hiệp thông đó được lãnh nhận trong đức tin. Bằng việc khám phá nhân tính của Ngài như khám phá một mảnh đất thuộc về mình, xét xem nó tỉ mỉ như xem xét một cuốn sách được viết riêng cho mình, biến nó thành của riêng mình trong đức tin và đức mến… chúng ta sẽ lớn lên vững vàng trong sự thông hiệp với mầu nhiệm Thiên Chúa, một mầu nhiệm không thể tiếp cận, không thể dò thấu.

Như thế, đời sống cầu nguyện của một Kitô hữu sẽ luôn luôn được xây dựng trên nền tảng của một tương quan nào đó với nhân tính Đấng Cứu Độ con người[3].

Các hình thức khác nhau về đời sống kết hiệp với Chúa của người tín hữu mà chúng ta sẽ đưa ra một số ví dụ ngay sau đây, thì giống nhau trong việc tìm kiếm những suy tư thần học, ở chỗ, chúng đều mang chúng ta vào sự hiệp thông với Thiên Chúa qua nhân tính của Đức Giêsu. Bởi nhân tính của Đức Giêsu Kitô là một loại bí tích – một dấu chỉ hữu hiệu cho sự hiệp nhất của con người với Thiên Chúa – chỉ cần kết hiệp với nhân tính đó trong đức tin, ngần ấy đủ cho chúng ta đi vào thông hiệp với Người.

Bérulle[4] diễn tả rất sâu sắc cái chiều kích, qua đó, các mầu nhiệm cuộc đời Đức Giêsu, dẫu đã qua, vẫn là những thực tại trao ban sự sống và sống động cho những kẻ chiêm ngắm chúng trong đức tin.

Một cách nào đó, chúng ta phải thừa nhận bản tính vĩnh cửu của những mầu nhiệm này, vì trong một số hoàn cảnh nhất định, chúng đã qua đi nhưng vẫn trường tồn và đang là hiện tại cũng như sẽ mãi mãi như thế theo một cách khác. Những mầu nhiệm đó là quá khứ xét về mặt thực hiện, nhưng là hiện tại xét về mặt nhân đức và nhân đức thì không bao giờ mất cũng như tình yêu mà nhờ đó, mầu nhiệm được hoàn tất cũng không bao giờ mất. Nhờ đó, tinh thần, trạng thái, nhân đức, công nghiệp của mầu nhiệm sẽ luôn luôn là hiện tại… Điều này đòi buộc chúng ta phải xem những gì đã xảy ra, những mầu nhiệm thuộc về Đức Giêsu không như những gì đã qua, đã khuất; trái lại, như những gì đang sống động và rất hiện sinh; từ đó, cả chúng ta nữa, chúng ta thu hoạch những hoa trái hôm nay và hoa trái đời đời.

Chẳng hạn, ngài áp dụng điều này cho thời thơ ấu của Đức Giêsu:

Thời thơ ấu của Con Thiên Chúa là một tình trạng tạm thời: những hoàn cảnh của thời thơ ấu đó đã qua, Ngài không còn là một trẻ thơ, nhưng có một điều gì đó thiêng thánh trong mầu nhiệm này tiếp tục tồn tại trên trời mang lại một trạng thái ân sủng tương tự cho các linh hồn đang lữ thứ trên trần gian, những linh hồn làm vui lòng Đức Giêsu Kitô bằng việc gắn bó và hiến dâng mình cho trạng thái khiêm hạ đầu tiên của Con Thiên Chúa làm người.

Có rất nhiều cách thức gặp gỡ nhân tính Đức Giêsu. Chúng ta có thể chiêm ngắm những việc làm và cử chỉ của Ngài; suy tư về lời nói và hành động của Ngài, về những biến cố trong cuộc đời trần thế và ghi nhớ những điều đó, chúng ta có thể nhìn vào gương mặt của Ngài trên một bức tượng, thờ phượng Thân Mình Ngài trong Thánh Thể, tuyên xưng danh Ngài cách trìu mến và khắc ghi danh đó trong lòng… Tất cả những điều này giúp chúng ta kiên trì kết hiệp với Chúa, miễn là chúng ta không làm điều đó vì sự tò mò của trí óc nhưng trong sự tìm kiếm đầy yêu thương dành cho Đức Giêsu: “Tôi tìm người lòng tôi yêu dấu” (Dc 3, 1).

Suy tư trí óc không phải là những gì giúp chúng ta nhìn chằm chằm vào nhân tính Đức Giêsu theo một cách thức đến nỗi qua đó, chúng ta gặp được nhân tính Ngài ngang qua mối hiệp thông đích thực với mầu nhiệm Thiên Chúa khôn dò khôn thấu, nhưng điều này xảy ra nhờ đức tin – đức tin trong tư cách một nhân đức đối thần – được dậy lên bởi đức mến. Chỉ đức tin (thánh Gioan Thánh Giá đặc biệt nhấn mạnh điểm này) mới làm cho chúng ta mạnh mẽ để đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa ngang qua con người Đức Kitô. Đây là đức tin, qua đó, chúng ta tháp nhập toàn bộ hữu thể mình vào Đức Kitô, trong Ngài, Thiên Chúa thông ban chính mình cho chúng ta.

Và đó là lý do tại sao phương thế ưu tiên để người Kitô hữu thực hành kết hiệp với Chúa là thông hiệp mật thiết với nhân tính của Đức Giêsu bằng bất cứ phương tiện hay phương pháp nào.

Chẳng hạn một phương pháp cổ điển rất được thánh Têrêxa Avila khuyến khích ít nhất ở Tây Phương, đó là: Sống cùng Chúa Giêsu như sống với một người bạn mà mình chuyện trò.

Chúng ta có thể hình dung mình đang đứng trước mặt Đức Kitô… khơi lên trong lòng những cảm xúc yêu thương sống động nhất dành cho Nhân Tính Thánh Thiêng của Ngài; sống trong sự hiện diện của Ngài, tâm sự với Ngài, cầu xin Ngài những điều chúng ta cần, kể cho Ngài những điều làm chúng ta đau khổ, chia sẻ niềm vui với Ngài thay vì để chúng xua Ngài ra khỏi những ý nghĩ của chúng ta; không tìm kiếm những cụm từ trau chuốt trong lời cầu nguyện nhưng tìm những từ ngữ diễn tả niềm khát khao hay nhu cầu của mình. Đây là phương thế tuyệt hảo để tiến nhanh trong đời sống cầu nguyện; những ai nỗ lực sống tình bạn quý giá với Ngài sẽ được hưởng nhờ Ngài và cảm nghiệm tình yêu đích thực dành cho Ngài, Đấng mà qua Ngài, chúng ta lãnh biết bao ơn ích – đó là những linh hồn, theo tôi, rất tiến bộ (Tự Truyện, ch. 12).

Chúng ta sẽ trở lại điểm này.

 

6. Thiên Chúa cư ngụ trong tâm hồn chúng ta

Nguyên tắc thần học thứ tư của chúng ta cũng đưa ra những chỉ dẫn hữu hiệu cho việc cầu nguyện. Bằng việc kết hiệp với Chúa, chúng ta tìm cách tháp nhập vào sự hiện diện của Người. Nhưng vì những mô thức hiện diện đó quá phong phú, nên có rất nhiều cách cầu nguyện khác nhau. Thiên Chúa hiện diện trong thọ tạo của Người và ở đó, chúng ta có thể chiêm ngắm Người; Người hiện diện trong Thánh Thể, và ở đó, chúng ta có thể tôn thờ Người; Người hiện diện trong Lời và chúng ta có thể tìm gặp Người bằng cách suy niệm Thánh Kinh…

Tuy nhiên, còn có một phương thức hiện diện khác của Người quan trọng bậc nhất đối với đời sống cầu nguyện là: Sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta.

So với các phương thức hiện diện khác, phương thức hiện diện của Thiên Chúa bên trong chúng ta không phải là một điều gì đó được cảm nghiệm (dù chúng ta có thể đạt đến điều đó, dần dần, ít nữa là vào những khoảnh khắc ưu tiên nào đó) nhưng là một điều gì đó được thấu hiểu nhờ đức tin. Không thành vấn đề những gì chúng ta có thể hoặc không thể cảm nhận, nhờ đức tin, chúng ta đoan chắc rằng, Thiên Chúa ngự trong nơi sâu thẳm tâm hồn mình. Thánh Phaolô bảo, “Anh em không biết thân xác anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em sao?” (1Cr 6, 19). Chính thánh Têrêxa Avila nói đến chân lý này, chân lý vốn đã biến đổi sâu sắc đời sống cầu nguyện của bà thế nào một khi nó được hiểu thấu.

Rõ ràng là nếu tôi đã hiểu, như hôm nay tôi hiểu, rằng trong cung điện bé nhỏ này của linh hồn tôi, một Vị Vua vĩ đại như thế đang sống, hẳn tôi đã không thường xuyên để Người ở một mình, hẳn tôi đã luôn mong gặp Người và quét tước từng bước hầu đoan chắc rằng, cung điện đó ít bẩn hơn. Thật cảm phục biết bao khi biết rằng Đấng mà sự cao cả của Người có thể khoả lấp khắp ngàn thế giới và hơn thế nữa… lại tự giam mình trong một nơi chật hẹp đến thế! Quả thật, là Chủ Thể, Người tự do; và vì yêu thương chúng ta, Người thu nhỏ lại cho vừa kích cỡ nhỏ bé của con cái Người[5].

Chính đây là chân lý vốn mặc ý nghĩa cho yếu tố hướng nội trong đời sống cầu nguyện. Bằng không, hướng nội chỉ là sự quan tâm đến mình. Người Kitô hữu có quyền hướng vào nội tâm mình, bởi lẽ một khi vượt quá hơn cũng như chìm sâu hơn những yếu hèn nội tại của mình, họ gặp thấy Thiên Chúa, Đấng cư ngụ trong họ ngang qua tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng “gần gũi với chúng ta hơn chúng ta gần gũi với chính mình”, thánh Augustinô nhận định như vậy; thánh Gioan Thánh Giá lại cho rằng, “Trung tâm sâu thẳm nhất của linh hồn là Thiên Chúa”[6].

Bước vào cõi lòng mình trong đức tin, con người kết hiệp với Thiên Chúa đang ở đó. Một đôi khi kết hiệp với Thiên Chúa, chúng ta liên kết với Người như một Đấng Khác bên ngoài chính mình, một Đấng hiện diện cách ưu việt trong nhân tính của Đức Giêsu. Nhưng đôi lúc cũng chính trong cầu nguyện, chúng ta đi vào thâm sâu nội tâm mình, ở đó, chúng ta gặp Đức Giêsu, rất gần gũi và cận kề.

“Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe… Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi?… Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, ngay trong lòng anh em” (Đnl 30, 12-14).

Bạn có nghĩ, sẽ chẳng ích gì cho một linh hồn đau khổ khi nó nắm bắt chân lý này để thấy mình không cần lên trời hưởng kiến thánh nhan Người Cha vĩnh cửu của nó… để nói với Người và nó cũng không cần phải la lên nhằm gây sự chú ý của Người đến nó? Dù chúng ta nói nhỏ nhẹ đến đâu, Người vẫn ở gần chúng ta đến nỗi có thể nghe chúng ta; cũng không cần chấp cánh để bay đi tìm Người, chỉ cần tĩnh lặng và chiêm ngắm Người bên trong chúng ta, và rồi, không ngạc nhiên trước sự hiện diện của một Vị Khách tốt lành đang ở đó. Với tất cả lòng khiêm tốn, hãy nói với Người như với một người cha, kể cho Người hay những nhu cầu của chúng ta như kể với một người cha, cho Người nghe những nỗi đau của chúng ta và xin Người chữa lành, nhưng vẫn nhận ra rằng mình không đáng làm con của Người[7].

Khi chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào, cách đơn giản nhất là trầm tư, giữ thinh lặng, đi vào tâm hồn, xuống tận thâm tâm… và trong đức tin, kết hiệp với sự hiện diện của Đức Giêsu, Đấng đang cư ngụ trong chúng ta và ở lại trong an bình với Ngài. Đừng để Ngài một mình, hãy ở bên Ngài. Ai kiên tâm thực hiện điều này, sẽ sớm khám phá thực tại của những gì mà các Kitô hữu Đông Phương gọi là “nơi chốn của linh hồn” – “căn phòng nội tâm”, theo cách gọi của thánh Catarina Siêna. Đây là trung tâm của hữu thể chúng ta, nơi Thiên Chúa cư ngụ và chúng ta có thể luôn cận kề Người. Vậy mà nhiều người, nam cũng như nữ, không hề biết đến không gian nội tâm này, một không gian dành cho sự kết hiệp với Thiên Chúa… bởi họ chưa bao giờ đến đó, chưa bao giờ viếng thăm khu vườn này để thưởng nếm hoa thơm quả ngọt của nó. Phúc thay ai khám phá Nước Thiên Chúa bên trong chính mình. Vương quốc này sẽ đổi đời họ.

Quả thế, tâm hồn con người là một vực thẳm của khốn cùng và tội lỗi, dẫu thế và sâu hơn thế, ở đó còn có Thiên Chúa. Thánh Têrêxa Avila cho rằng, một người kiên trì kết hiệp với Chúa khác nào một người đến giếng để lấy nước – người đó thả gầu xuống và thoạt đầu, những gì múc lên được chỉ là bùn; nhưng nếu tin tưởng và kiên trì, sẽ đến ngày người đó tìm được nước tinh khiết nhất. “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Thánh Kinh đã nói: từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7, 38).

Đây là chân lý về tầm quan trọng lớn lao đối với toàn bộ đời sống. Nếu kiên tâm cầu nguyện, chúng ta sẽ tìm được “nơi chốn của linh hồn”, rồi dần dần, những ý tưởng, quyết định và hành động vốn thường nảy sinh từ những gì bên ngoài (những băn khoăn lo lắng, bực dọc, những phản ứng trực tiếp) sẽ bắt đầu khơi nguồn từ trung tâm sâu thẳm của linh hồn, nơi chúng ta được kết hợp với Thiên Chúa trong tình yêu. Rồi mọi sự sẽ bắt nguồn từ tình yêu và chúng ta sẽ được tự do.*

Như vậy, chúng ta đã có bốn nguyên tắc chủ đạo dẫn dắt trong đời sống kết hiệp với Chúa: tính ưu việt của hành động Thiên Chúa, tính ưu việt của tình yêu, nhân tính của Đức Giêsu như một khí cụ và cuối cùng, sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta. Bốn nguyên tắc này là những điểm quy chiếu giúp cho việc cầu nguyện của chúng ta được tốt đẹp.

Nhưng chúng ta cũng cần ý thức về sự phát triển của đời sống cầu nguyện qua những giai đoạn của đời sống thiêng liêng. Đó là chủ đề tiếp theo.


 


[1]Đề tài này sẽ được đề cập đầy đủ hơn sau này khi nói đến việc phát triển đời sống cầu nguyện.

[2] Việc lo ra chia trí sẽ được bàn dưới đây.

[3] Như mọi người đều biết, thánh Têrêxa Avila bám chặt vào chân lý này, ngược lại với một số người dạy rằng, để đạt đến sự kết hiệp với Thiên Chúa và sự chiêm ngắm tinh tuyền, cần đạt đến mức độ từ bỏ mọi quy chiếu đối với mọi sự liên quan đến các giác quan, ngay cả với nhân tính của Chúa chúng ta. Xem cuốn Tự Truyện, ch. 22, và Six Dwellings, VII.

[4] Hồng Y Pierre de Bérulle (1575-1629), Đấng Sáng Lập Dòng Giảng Thuyết (nước Pháp), tác giả nhiều tác phẩm thần học và đời sống thiêng liêng.

[5] Way of Perfection, ch. 28.

[6] Living Flame of Love, khổ 1, dòng 3.

[7] Ibid.

 

Hoa nghĩa trang

Nghĩa trang có nhiều loại hoa. Chúng khác nhau ở tên gọi mà giống nhau ở một sự kiện: Hoa nghĩa trang là hoa ở lại với người sống chứ làm sao theo người chết ra đi được. Trong không gian lạnh, trong vùng tối không còn bầu trời của huyệt mộ làm sao người chết biết đến màu sắc của hoa? Vì thế, hoa ân tình hay hoa xã giao thì cũng chỉ người sống nhìn thấy hoa thôi.

Bi thương của con người trong kiếp sống nhân sinh là kẻ sống có thể lấy hoa thật tiễn đưa người chết bằng những tâm tình giả. Bi thương của người chết là có những tâm tình thật, nhưng kẻ đã miền miệt ra đi rồi thì chẳng bao giờ nhìn thấy hoa.

Hoa nghĩa trang vẫn là hoa chỉ kẻ sống nhìn thấy thôi. Chết là đi vào thế giới khác rồi. Hoa hãy ở lại, giã từ hoa.

Lời của một đóa hoa.

Tôi là đóa hoa hồng. Tôi ra đời trong một thửa đất miền quê. Chúng tôi vui với gió và nắng. Bình minh lên, chúng tôi thức dậy chào một ngày mới. Nắng trang điểm cho chúng tôi rực lên sắc đỏ, mướt lên màu xanh. Chiều về chúng tôi chờ sương đêm. Những giọt sương trong và mát như suối tiên xoa trên da chúng tôi nước tinh khiết của trời. Rồi ngày mai nắng lại làm những cánh hoa chúng tôi óng ả. Chúng tôi sống êm dịu với sương đêm và nắng ngày. Thế rồi, bỗng đến một bình minh khắc nghiệt.

Tôi đang sống tuổi thần tiên nhất trong đời thì có người đến bứng khỏi thửa vườn rất thân mến dấu yêu. Tôi không biết mình bị đem đi những đâu, bị đưa qua những chốn nào. Một sáng nọ, khi tôi thấy ánh mặt trời thì chung quanh tôi hoàn toàn khác lạ. Nơi tôi ở không phải là khu vườn miệt quê nữa. Tôi không còn thở hơi của đất, hương nồng của cỏ. Các loại hoa chung quanh tôi cũng bàng hoàng như thế. Tôi đang được bày bán ở một chợ hoa. Và từ đó, định mệnh chúng tôi bắt đầu.

Chỗ nào con người muốn sang trọng huy hoàng, họ đem chúng tôi đến. Chúng tôi trở nên nhan sắc cho con người. Ai trong chúng tôi cũng băn khoăn về duyên số của mình. Riêng tôi, tôi không biết mình sẽ lại trôi dạt một chuyến đò nữa đi đâu. Nghe chuyện con người nói với nhau khi họ đến chợ hoa, chúng tôi mới biết thế giới của con người rất phức tạp chứ không như khu vườn của tôi ngày xưa. Và, họ đang có một định mệnh cho tôi.

Có những cành hoa sẽ theo cô dâu về nhà chồng. Trên tay người thiếu nữ xinh nào đó, chúng sẽ làm cho người con gái ấy mơ màng duyên dáng. Có những đóa hoa còn trang trọng hơn nữa, chúng sẽ ở trên bàn thờ, gần chỗ của Thượng Ðế. Có bông hoa thì hạnh phúc vì tình yêu ban đầu tặng nhau. Chúng được đưa lên môi nồng nàn. Chúng cũng ban hương cho những nụ hôn của các đôi tình nhân thêm mộng mị. Chung quanh chúng tôi là một thế giới bí mật của loài người. Chúng tôi tự hỏi mình, rồi hỏi lẫn nhau:

Nơi nào hạnh phúc nhất?

Tôi chưa bao giờ có kinh nghiệm về định mệnh này. Chẳng thấy đóa hoa nào đã ra đi rồi trở lại kể cho chúng tôi hay. Tôi biết có những đóa hoa được tặng cho các danh nhân lỗi lạc. Ước mơ một đời làm hoa như tôi là một ngày nào đó, sau khi người nghệ sĩ trình tấu một tình ca tuyệt vời, tôi được trao tặng và người nghệ sĩ giơ tôi lên cao trước hàng ngàn bàn tay ngưỡng mộ. Ôi! hạnh phúc biết mấy!

Tôi cũng nghĩ, biết đâu tôi được cắm trong bình ngọc quý, êm ả ru đời trong phòng một cô thiếu nữ mới lớn. Tôi sẽ rình mò lén nghe cô nhỏ viết nhật ký. Bao nhiêu tưởng tượng thần thoại đi về trong giấc ngủ của tôi.

Tôi là loài hoa cũng lãng mạn, đôi khi tôi thích những chân trời màu tím, và có nước mắt. Nhất là nước mắt của tình yêu, nó dịu dàng làm sao! Một ngày nọ, tôi bồi hồi quá đỗi khi biết mình sắp về vùng trời có nước mắt và màu tím. Mầu tím hôm nay là tím ở trong lòng. Màu tím của một nghĩa trang. Tôi chưa bao giờ biết nghĩa trang. Tôi chỉ bâng khuâng hiểu rằng nơi đó có biệt ly và sầu nhớ. Tôi yêu những khung trời có nỗi đau ngọt ngào, vì tôi nghĩ rằng trong nước mắt sẽ có nhớ, có thương. Tôi hân hoan giã từ bè bạn đi theo định mệnh của tôi ra nghĩa trang.

Tôi được trân trọng đưa vào khung trời cô đơn này. Bây giờ tôi hiểu cô đơn cũng có nhiều thứ. Có cô đơn của một cánh lá chiều hoang. Nó biệt ly thầm lặng, lững thững một mình tìm nỗi sầu. Có cô đơn của một cánh chim lẻ bạn. Nó man mác trong hồn niềm thương. Có cô đơn của thập giá. Nó linh thiêng dũng cảm. Trong nghĩa trang, tôi hiểu thêm những cô đơn khác, và nhất là nỗi cô đơn trong tôi.

Khi cành hoa đứng một mình trong vườn hoa, cô đơn của nó là cô đơn chờ mong, đẹp như cô đơn của người thiếu nữ. Cô đơn của người thiếu nữ mới lớn là cô đơn làm cho kẻ khác cô đơn. Khi những cô đơn ấy tìm nhau thì cô đơn âm lên những giai điệu ngọt ngào thích thú. Nhưng cô đơn của tôi trong nghĩa trang này là cô đơn của một bông hoa thật đã thành đóa hoa giả.

Tôi yêu màu tím của biệt ly, nhưng tôi không gặp màu tím thương nhớ ở đây. Tôi muốn là bông hoa tím nối dài thương nhớ của người ra đi và kẻ ở lại. Tôi muốn là bông hoa ân tình làm vòng khăn tang cho thương tiếc. Tôi yêu những dòng nước mắt có nhớ, có đau, nhưng tôi chỉ gặp thờ ơ. Tôi muốn là bông hoa cho người ra đi. Tôi muốn theo người đã vĩnh biệt để vào thế giới vĩnh hằng bên kia. Nhưng tôi chỉ được đem tới đây để làm vui người sống. Thế giới của con người kỳ lạ quá. Trong nghĩa trang này tôi đã thấy: Có những người con khi mẹ còn sống thì quên lãng thờ ơ. Rồi ngày mẹ chết, cũng ôm một đóa hoa cho nhân thế khen mình hiếu trung. Có những vợ chồng lúc còn sống, thầm ao ước được một bông hoa, mà sao hiếm hoi quá. Khi chết rồi họ đem ra nghĩa trang những vòng cườm lặng lẽ.

Những đóa hoa đem ra mộ huyệt mà chỉ là của người sống làm vui lòng người sống với mục đính tư lợi cho mình thì đấy là những đóa hoa giả hình. Khi tôi phải làm cánh hoa như thế thì nỗi cô đơn trong tôi sầu buồn chất ngất.

* * *

Hỡi bạn ơi, để tìm vẻ đẹp của loài hoa chúng tôi, không phải là chưng hoa, tặng hoa mà là nhìn thấy tiếng nói của Thượng Ðế trong hồn hoa. Loài hoa chúng tôi không chối từ người gian dối hay người thành thật. Hoa không chọn lựa là hoa cưới hay hoa nghĩa trang. Hoa chấp nhận ở trên bàn thờ cũng như trong phòng trà. Chúng tôi yêu đời sống bằng trái tim của Thượng Ðế. Vẻ đẹp của hoa là làm đẹp bất cứ nơi nào mình tới, bất cứ thửa vườn nào mình được ươm trồng. Con người thích hoa mà sao chẳng thấy vẻ đẹp sâu thẳm trong màu sắc của chúng tôi. Thượng Ðế dựng nên chúng tôi để nói về lòng thật thà, bao dung. Sự thật thà là vẻ đẹp Thượng Ðế yêu quý.

* * *

Tôi không là hoa giả. Tôi là đóa hồng với tất cả sự sống Thượng Ðế đã ban tặng. Tôi bị gọi là giả, bởi, tôi rơi trong tay người giả dối, họ đem tôi ra đây với những ý nghĩ giả dối mà thôi. Tôi đang ở trong nghĩa trang. Tôi đã nghe nhiều bài điếu văn tiễn người chết. Nhưng chết rồi làm sao nghe? Rất nhiều khi chỉ là lời của kẻ sống mượn người chết mà tìm vinh quang cho nhau. Tại sao thân phận tôi lại là đóa hoa của người sống muốn làm vui lòng người sống? Tôi thấy những bài điếu văn tiễn người chết nhưng lại cố ý là để lấy lòng người sống vô duyên thế nào thì thân phận làm hoa nghĩa trang của tôi cũng vô duyên như thế. Có những chuyện đời chỉ vì nghi lễ tiễn đưa người chết không làm cho người sống được tiếng khen mà tâm tình gia tộc bị đổ vỡ. Có người đến nghĩa trang vì xã giao, vì lý do chính trị, vì chuyện làm ăn. Ôi! ở ngoài nghĩa trang này có nhiều ý nghĩ tâm tình khác nhau lắm.

Tôi đang cô đơn vì tôi chỉ là cành hồng của người sống mượn người chết mà lợi dụng nhau. Nỗi cô đơn ấy xót xa, vì linh hồn người chết rất tủi, không muốn nhìn tôi, họ không nhận tôi vì tôi không thuộc về họ. Còn người sống sẽ bỏ tôi ngoài nghĩa trang rồi ra về, họ quên tôi.

Chết mà không được nhớ là chết lần thứ hai, thì sống mà không được nhớ là chết hai lần trong một lúc. Vì thế tôi đang sống, nhưng trong tôi là hai nỗi chết.

* * *

Chúa trang điểm trái đất bằng vẻ đẹp của hoa. Chung quanh con có biết bao nhiêu hoa. Hoa mọc ngoài đường. Hoa mọc ngoài đồng. Hoa trên bàn thờ. Hoa bên hàng rào. Chúng là ngôn ngữ thật nên thơ. Nếu con biết đứng nhìn cành thiên lý trong một chiều êm ả, con sẽ nghe được sự đơn sơ cần thiết trong cuộc sống. Nhìn đóa sen trong ao, con sẽ thấy sự thanh tao cần thiết trong cõi đời. Hương bưởi thoang thoảng bên ngõ nhà ai một tối trời nào đó, sẽ đưa con về ý nghĩ trong đêm đen vẫn có vẻ diễm kiều của đêm đen. Trong những hoàn cảnh khó khăn vẫn có vẻ đẹp của cuộc sống.

Hoa không chọn nơi nào đẹp mới tới, mà, bất cứ nơi nào tới hoa sẽ làm đẹp nơi đó. Hoa thành thật. Hoa bao dung. Ngôn ngữ loài hoa nghĩa trang thật xót xa. Con muốn cầu xin cho con nhìn hoa mà biết ý nghĩa cuộc sống trên đời.

Hãy cho nhau cánh hoa lúc còn sống, khi chết rồi thì cả rừng hoa đem ra nghĩa trang cũng chẳng ý nghĩa gì.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ: 1. Tiếng Lòng

Bạn thân mến, đau khổ mà năn nỉ thở than, phải chăng là biểu hiện một tâm hồn yếu nhược khuyết điểm?

Nhiều người nghĩ thế, nhưng trái lại, tôi tưởng than thở trong những phút phiền muộn, chỉ là tiếng tự nhiên của lòng người. Chúng ta không phải thiên thần, chúng ta là người có thân thể, là vật dễ cảm xúc nên mỗi khi gặp điều khó chịu, tự nhiên chúng ta phát lộ ra ngoài.

Những câu ca dao truyền tụng trong dân gian, biểu lộ tấm lòng đau đớn, đời nào mà không được ngâm đi học lại:

– Sống đời chinh chiến Vũ Thang,
Cho nên phải chịu nhiều đàng đắng cay.
– Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần.
– Có con phải khổ vì con,
Lấy chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.

Những câu như thế và trăm nghìn câu khác còn não nùng hơn nữa, đều tỏ rằng: Người ta khó tránh khỏi thở than trong những lúc sầu buồn.

Trong các sách cổ điển, chúng ta cũng gặp nhan nhản những lời than thở não nuột bi ai.

Cuốn “Cung oán” là gì, nếu không phải một tiếng đau da diết?

Cả cuốn “Chinh phụ ngâm” cũng chỉ là một lời than không dứt của một thiếu phụ xa chồng.

Quyển “Bần nữ thán” nào không phải những dòng nước mắt của một thiếu nữ nghèo?

Tại sao tôi nhắc tên những sách ấy? Là để đáp câu tôi nói lúc nãy: gặp đau khổ mà thở than đó chỉ là tiếng tự nhiên của lòng người. Mấy ai thoát được cái công lệ ấy.

Thật vậy, không những các người trần tục, những người chưa hiểu giá trị sự đau khổ, mà cả đến những bậc vĩ nhân, những bậc thánh nhân trong những giờ phút đau khổ, cũng phát ra những tiếng não nùng, những tiếng lòng.

Trong “Sấm truyền cũ”, không thiếu gì những truyện ấy, Bạn hãy mở ra mà đọc. Đây là vài đoạn làm ví dụ.

Ông Gióp ngồi trên đống tro đã làm gì ?

Ngài đã than những lời rất u uất; đọc lên, những người đa cảm không thể cầm nổi giọt lệ:

“Vô phúc cho ngày tôi đã sinh ra.
Và cái ngày người ta nói: một người đã ra đời.
Ước gì ngày ấy đã hóa nên tối tăm u ám,
Ước gì Chúa trên trời đã không săn sóc đến ngày ấy,
Ước gì ánh sáng đừng soi cho ngày ấy.
Ước gì sự tối tăm đã bao phủ lấy ngày ấy,
Và ngày ấy đã không được tính vào ngày trong năm.
Ước gì đừng ai tính ngày ấy vào ngày trong tháng.
Ước gì đêm ấy là một rừng hoang không cây cỏ.
Ước gì không ai nghe một tiếng vui vẻ ở đấy…” (1)

Bạn thân mến, đó là tiếng than thở của các vị thánh nhân. Các Ngài là những bậc mến Chúa hơn ta nên đã hiểu mọi việc đều do Chúa Quan phòng, và sự đau khổ có một giá trị cao cả, thế mà, đứng trước đau khổ, các Ngài còn phải phát lên những tiếng não nùng bi ai như thế, huống chi những người phàm trần…

Các Đấng Thánh trong Đạo cũ đã thế, mà các Đấng Thánh trong Đạo mới, nhiều Đấng cũng vậy. Nhiều Đấng cũng đã kêu gọi sự chết đến, để các Đấng mau thoát cõi tù ngục tội lỗi và đau khổ này.

Tôi không dám nói: mong chóng chết là điều tốt hơn. Nếu ta mong chết, để hết phạm tội, để kết hợp cùng Chúa đời đời, thì cái mong ấy tốt. Nhưng ta mong chết, chỉ vì sợ chịu đau khổ, chỉ vì muốn “thoát nợ đời” thì cái muốn ấy không được cao thượng. Chính Chúa cũng đã quở trách ông Gióp.

Tôi chỉ muốn nói, nếu đôi khi Bạn thấy mình nản chí, gần như thất vọng, Bạn đừng bối rối, đừng ngạc nhiên vì chính các Vị Thánh cũng đã gặp những giây phút ấy.

Đây tôi xin thuật thêm vài truyện, để minh chứng lời tôi vừa quả quyết.

Trước là truyện Đức Mẹ – Như Bạn đã biết, Đức Mẹ đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem chầu lễ. Lễ xong, Chúa Giêsu ở lại, mà không cho Đức Mẹ biết. Đức Mẹ phải khó nhọc tìm Chúa trong ba ngày. Sau cùng, Đức Mẹ đã tìm thấy Chúa trong Đền Thánh. Bạn đã biết, giờ ấy Đức Mẹ làm gì. Đã hẳn, Đức Mẹ mừng lắm, nhưng vì đã tốn công tìm Chúa trong ba ngày, nên khi tìm thấy, Đức Mẹ đã phát lộ sự đau đớn ra ngoài “Hỡi con, con làm gì vậy? Con có biết, Thầy Mẹ đã phải khó nhọc đau đớn tìm con trong ba ngày không?” (2)

Đó chính là tiếng lòng, tiếng lòng đau đớn. Đã đành, Đức Mẹ là Đấng Thánh, nên trong khi Đức Mẹ thổ lộ sự đau đớn, Người không than trách như ta. Nhưng câu Đức Mẹ nói ấy cũng cho ta thấy rằng: Gặp sự đau đớn mà phát lộ ra ngoài, không phải một điều lạ; đó chỉ là sự phù hợp với tính tự nhiên của con người. Đó chỉ là tiếng của quả tim bằng thịt, là vật dễ rung động, dễ cảm xúc. Một việc cỏn con cũng đủ làm cho nó rung động, một nụ cười thân mật của người yêu, một cử chỉ vô nghĩa của người ghét… tất cả đều có thể làm cho nó rung động được.

Rồi như Bạn đã biết, Chúa Giêsu trong vườn Giệtsimani, Người đã làm gì. Đối diện với sự đau khổ Người sắp chịu trong ngày Thương khó, đứng trước những tội lỗi thiên hạ sẽ phạm sau này, nhìn thấy những sự tệ bạc của chúng ta, nhất là của những linh hồn Người yêu cách riêng, Chúa Giêsu thấy tim mình xúc động. Người phán: “Linh hồn Thầy buồn đến chết được..”. Rồi Người than thở cùng Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được xin cất chén đắng này đi cho con…” (3)

Tiếng lòng đấy, Bạn ạ.

Chính Chúa, phải, chính Chúa là Đấng đã xuống thế gian để cứu loài người, chính Chúa là Đấng đã hiến toàn thân chuộc tội thiên hạ, chính Chúa là Đấng các Thánh Tiên Tri đã gọi là “Hiện thân” sự đau khổ, chính Chúa là Đấng đã hiểu giá trị sự đau khổ hơn mọi người, thế mà khi sự đau khổ đến, Chúa cũng đi tìm sự yên ủi, Chúa cũng xin Đức Chúa Cha cất chén đắng đi cho mình, nghĩa là xin cho khỏi chịu đau đớn…

Huống nữa là ta!

Nhưng Bạn đừng quên. Sau khi đã xin Đức Chúa Cha cất chén đắng đi, Chúa Giêsu đã không quên nói tiếp lời: “Nhưng xin tuân thánh ý Cha, chứ đừng theo ý riêng con.”

Và đó cũng là mục đích cuốn sách này.

Vậy xin Bạn hãy vui lòng cầm lấy mà đọc. Tôi tặng riêng Bạn.

Mong rằng: dù thô thiển, nó cũng có thể hiến Bạn một vài tia sáng, và tất nhiên, giúp Bạn chịu khó cho công nghiệp hơn.

Tôi chắc sẽ có câu làm phật ý Bạn. Nhưng xin Bạn nhớ cho rằng: đó chỉ là những tiếng lòng của một người bạn theo hết nghĩa của tiếng “Bạn”.

(1) Gióp 3,1-7
(2) Luca 2,48
(3) Matt. 26,39

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT