8. Đời Sống Tâm Linh

Hạnh Phúc – Chương 1 - ĐỨC KHIÊM TỐN

Nguyên nhân chính khiến người ta không được hạnh phúc trong nội tâm là tính vị kỷ hay còn gọi là ích kỷ. Kẻ nào tự cho mình là quan trọng bằng cách khoe khoang thì thực sự kẻ ấy đang phô bày bằng cứ cho thấy hắn thuộc loại người vô giá trị. Tính kiêu ngạo là một nỗ lực gây ra ấn tượng về những gì thực ra chúng ta không hề có.

Người ta hẳn sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu thay vì tán dương cái ngã của mình đến vô tận thì lại biết đẩy lùi cái ngã ấy vào con số không. Lúc đó họ sẽ gặp được cái vô biên đích thực nhờ vào nhân đức quý hiếm nhất trong các nhân đức của thời hiện đại này đó là đức khiêm tốn. Khiêm tốn là đưa ra sự thực về chính mình. Một người cao 1,8m mà lại nói: “Tôi chỉ cao 1,5m” thì chẳng phải là khiêm tốn đâu. Một văn sĩ giỏi sẽ không được xem là khiêm tốn nếu ông ta nói: “Tôi là một nhà văn bất tài”. Những xác quyết như thế được nói ra chỉ nhằm mục đích từ chối hầu để được khen ngợi nhiều hơn. Tốt hơn ông ta nên khiêm tốn nói rằng: “Vâng, bất cứ tài năng nào tôi có được đều là quà tặng của Chúa và tôi xin cảm ơn Ngài về điều ấy”. Toà nhà càng cao thì nền móng càng sâu; chúng ta mong đạt đến những chiều cao luân lý càng to lớn thì chúng ta càng phải khiêm tốn nhiều hơn. Như thánh Gioan Tẩy giả đã nói khi ngài trong thấy Chúa chúng ta: “Tôi phải nhỏ xuống, Ngài phải lớn lên”. Vào mùa đông những bông hoa khiêm tốn rời khỏi cành để trở về với mẹ gốc. Chúng có vẻ như đã héo úa trước mặt thế gian vì chúng khiêm tốn nằm dưới lòng đất chẳng ai trông thấy. Nhưng nhờ khiêm tốn nên chúng được tán dương và ca tụng khi mùa xuân mới sẽ đến.

Chiếc hộp có trống rỗng mới có thể được chất đầy. Chỉ khi nào cái tôi xẹp đi thì Thiên Chúa mới có thể đổ vào ân phúc của Ngài. Một số người nhồi nhét đầy nghẹt cái ngã riêng của họ đến mức tình yêu mến Chúa và đồng loại chẳng thể nào lọt vào được. Vì cứ mải miết tìm kiếm cho riêng mình nên cuối cùng mọi người đều từ bỏ họ. Ngược lại lòng khiêm tốn khiến chúng ta tiếp nhận sự ban tặng của kẻ khác. Bạn không thể cho nếu như tổi chả lấy. Chính vì có kẻ nhận nên mới có kẻ cho. Cũng thế, trước khi Thiên Chúa muốn làm người ban phát thì Ngài phải tìm được kẻ muốn nhận đã. Tuy nhiên, nếu người ta không đủ khiêm tốn để nhận lãnh ân phúc của Chúa thì người ta sẽ chẳng nhận được gì hết. Một người bị quỉ ám nọ được mang đến cho một vị ẩn sĩ trong sa mạc, khi vị thánh truyền lệnh cho con quỷ rời bỏ người ấy, con quỷ liền hỏi: “Đâu là sự khác biệt giữa chiên và dê mà Chúa xếp ở bên phải và bên trái Ngài trong ngày phán xét?” Vị thánh trả lời: “Tôi là một trong những con dê”. Con quỉ đáp lại: “Vì đức khiêm tốn của ngài, tôi xin rời khỏi người này”. Nhiều người nói rằng: “Tôi đã khổ nhọc bao năm trời cho kẻ khác và ngay cả cho Chúa, thế mà tôi được gì đâu? Tôi vẫn không là gì hết”. Xin trả lời là họ đã có gặt hái chứ, họ đã gặt hái chân lý về sự nhỏ bé của họ và dĩ nhiên, cả công trạng lớn lao trong cuộc sống mai sau. Ngày nọ có hai người muốn vào trong một cỗ xe, một người bảo: “Chẳng đủ chỗ cho bạn ngồi đây đâu?” Người kia nói: “Chúng ta hãy yêu nhau thêm một chút nữa và lúc ấy sẽ có đủ chỗ mà!” Người nọ hỏi tiếp: “Bạn là một vị thánh à?” Nếu người này trả lời là phải thì bạn có thể tin chắc chắn anh ta chẳng phải là vị thánh đâu.

Người khiêm tốn chú tâm đến lầm lỗi riêng mình chứ không chú ý lầm lỗi kẻ khác, người ấy chỉ nhìn thấy nơi tha nhân những gì tốt đẹp và nhân đức, người ấy không mang lầm lỗi riêng mình trên phía sau lưng mà là mang chúng đằng trước mặt. Còn những khiếm khuyết của tha nhân thì anh ta mang nơi một túi xách trên lưng mình. Vì thế, anh ta sẽ không nhìn thấy những khiếm khuyết ấy. Ngược lại, người kiêu căng thì luôn phàn nàn về mọi người và tin rằng anh ta bị xử tệ hoặc không được đối xử cho xứng đáng. Khi bị xử tệ người khiêm tốn không phàn nàn vì anh ta biết mình còn đáng bị xử tệ hơn thế!

Đứng về quan điểm thiêng liêng mà xét, người luôn kiêu hãnh về trí thông minh, về tài năng hay ảnh hưởng của mình mà chẳng bao giờ biết cảm tạ Chúa về những điều ấy, thì anh ta là một kẻ cướp, anh ta đã nhận lấy những quà tặng của Chúa mà chẳng bao giờ nhận biết Đấng trao tặng. Những gié lúa mạch mang nhiều hạt nhất luôn luôn trĩu xuống thấp nhất. Người khiêm tốn không bao giờ ngã lòng, còn người kiêu ngạo thường rơi vào nỗi tuyệt vọng. Người khiêm tốn vẫn luôn có Chúa để kêu cầu, còn người kiêu ngạo thì chỉ có cái ngã riêng của mình là cái thường sụp đổ.

Một trong những lời nguyện đẹp nhất xin cho có được lòng khiêm tốn là lời nguyện của thánh Phanxicô: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem tin kính vào nơi nghi nan, đem trông cậy vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào chốn tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Thầy chí thánh, xin hãy dạy con tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

GM. Fulton Sheen

 

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 16. Một Cái Gai

Đây là một nhận xét: trên đời, chính những cái làm ta khó chịu, thì nhiều khi ta lại cần đến nó.

Chẳng hạn, Bạn giẫm phải một cái gai, Bạn tức mình, đem nhổ nó đi ngay, rồi trong lúc bực mình, Bạn bẻ nó ra nhiều khúc và quăng cho xa… Phải, Bạn có quyền làm thế, và có lẽ phần đông chúng ta đều làm thế.

Nhưng ngờ đâu, một lúc sau, Bạn bị một cái dằm đâm vào thịt, nặn thế nào cũng không ra. Lúc ấy Bạn làm gì? Bạn đi tìm cái gai để lẩy nó.

Trên đời, nhiều truyện cũng như truyện cái gai ấy. Chúng làm ta khó chịu trong chốc lát. Nhưng, rồi có lúc chúng ta lại cần đến. Chúa không làm cái gì vô ích, miễn chúng ta hiểu Thánh ý Chúa, và vui lòng nhẫn nhịn.

Tôi muốn dẫn thật nhiều ví dụ, để khi gặp cái tôi nói đây, Bạn hiểu ngay bài học tôi muốn tặng Bạn lúc này và nhờ thế, Bạn thêm nhẫn nại để đền tội lập công.

Con nhện làm ta khó chịu, vì trong nhà luôn luôn phải quét những cái màng nó chăng tứ phía. Vừa quét buổi sáng, thì đến trưa đến chiều lại phải quét, vì nó lại đã chăng đầy nhà. Nếu thiếu nhẫn nại, thì ta đã tức bực chửi rủa những con vật vô tội ấy. Nhưng tôi hỏi Bạn, Bạn có biết chính những con nhện ấy đã giết cho nhà Bạn bao nhiêu con muỗi không, mà chính những con muỗi ấy, mới là những con vật làm hại cho Bạn hơn? Không những thế, đến khi Bạn đứt tay, Bạn làm gì? Chắc Bạn cũng biết ở nhà quê, người ta lấy trứng nhện để rịt chỗ đứt tay. Nhưng nếu bao nhiêu trứng nhện trong nhà bị đập dập hết, thì còn đâu để chữa những vết thương cho Bạn? Con nhện phải chăng là nguồn đau khổ cho Bạn? Bạn nhẫn nại một tí, thì nó đã mưu ích cho Bạn, Bạn thấy không?

Một người muốn thắp đèn, nhưng bị gió thổi tắt. Người ấy phát khùng, la lối, quăng cả diêm, cả chụp vào xó nhà: “Để tao làm giời cho, lúc gió thì không gió, lúc này thì gió như bão”. Đó là một truyện thật, chính tôi đã chứng kiến.

Nhưng Bạn ạ, gió, phải chăng là căn cớ làm ta khó chịu? Cũng con người tôi vừa nói đó, lúc nóng nực họ lại la: “Lúc cần gió, thì không gió”. Thế thì biết làm sao để chiều họ được? Cái mà lúc trước họ nguyền rủa, thì một lúc sau lại đi tìm.

Một ví dụ khác. Người ta thường nói: “Thủy khắc hỏa”, nước và lửa nghịch nhau. Cái ấy cũng có phần đúng. Nhưng người ta quên hẳn cách Chúa Quan phòng an bài mọi sự. Chúng ta cần cả hai thứ như nhau và bằng nhau. Nếu không có nước, thì nhiều khi tắt sao được lửa? Trong những đám cháy nhà, người ta làm gì? Người ta đi tìm nước. Không có nước là hỏng. Khi muốn nấu dọn đồ ăn, muốn có một chén nước, người ta làm gì? Người ta đi tìm lửa. Thì ra cả hai cái mà người ta cho là tương khắc nhau, lại bổ túc cho nhau, lại có thể dung hòa với nhau được, để mưu ích cho chúng ta.

Nói xa chẳng qua nói gần. Trong gia đình, có hai người, hai chị em chẳng hạn, khác tính nhau. Một người thì nóng nảy, một người thì chậm chạp. Người nóng nảy làm người chậm chạp khó chịu, và ngược lại, người chậm chạp cũng làm người nóng nảy khó chịu; nhưng hai người ấy đều cần cho nhau, và đều có thể giúp đỡ bổ túc cho nhau. Người nóng nảy có thể lấy người chậm chạp làm bài học cho mình, và người chậm chạp cũng có thể lấy người nóng nảy làm bài học cho mình. Vậy, cả hai người nếu biết lợi dụng, thì đều có thể, một người bớt chậm chạp, một người bớt nóng nảy, như thế cả hai sẽ hóa nên người đúng mực. Rồi có những việc phải giao cho người nóng nảy để họ thi hành cấp tốc, có những việc phải giao cho người chậm chạp để họ làm cho cẩn thận hơn. Hai người cùng bổ túc cho nhau, và giúp đỡ lẫn nhau ở những công việc mà người nọ làm không bằng người kia.

Bạn đã thấy chưa? Ở đời, Chúa không làm cái gì vô ích, chỉ cần một điều, là chúng ta biết lợi dụng, biết nhẫn nại để mưu ích cho mình, và mưu ích lẫn nhau.

Đó chỉ là những ví dụ. Và tôi không có ý nói, chẳng hạn, không được lẩy cái gai mắc ở chân. Tôi chỉ có ý lợi dụng những ví dụ tự nhiên ấy để dẫn Bạn đến phương diện khác, tôi có ý bàn đến ở đây, là phương diện siêu nhiên, vì những cái xung khắc ấy, những cái ngược ý ấy, giúp chúng ta rất nhiều trong việc luyện tập nhân đức. Mỗi giờ mỗi phút, chúng ta có dịp tập nhẫn nại, có dịp lập công.

Bạn hãy lấy truyện Đức Chúa Giêsu làm tỉ dụ. Trong ba năm ở với các tông đồ, Chúa làm gì? Trước hết Chúa có thể chọn những tông đồ sáng suốt, minh mẫn, dịu dàng và có đủ đức tính; hoặc Chúa làm ngay cho các ông nên thánh thiện, xứng với chức vị tông đồ. Đàng này Chúa làm khác, Chúa đã chọn những người tầm thường, có nhiều tật xấu. Chúa giảng đi giảng lại nhiều lần, mà các ông vẫn không hiểu những điều Chúa dạy. Sao Chúa làm thế? Là để Chúa có dịp hãm mình, để các tông đồ có dịp tập nhẫn nại, và chịu đựng sự khó với nhau.

Ấy cũng là một tấm gương để chúng ta cùng soi. Chúa không muốn chúng ta sống giữa những người hoàn toàn. Chúa muốn chúng ta sống cạnh những người có nhiều tật xấu, và chính chúng ta có nhiều tật xấu – ai dám tự phụ mình không có tật xấu? Nhân vô thập toàn, mà! – Như vậy để chúng ta có dịp giúp đỡ nhau lập công, do sự tập nhẫn nại. Nếu chúng ta không hiểu bài học ấy thì cuộc đời sống chung với nhau, sống cạnh những người không hợp tính, sẽ là một cuộc đời đau khổ. Phải sống cạnh những người từ sáng đến tối không hiểu nhau, và chỉ làm cho nhau khó chịu, thì còn gì đau đớn bằng? Trái lại, nếu chúng ta hiểu bài học ấy, nếu chúng ta biết lợi dụng hết những người chung quanh chúng ta để làm lợi cho mình, và mưu ích cho họ, thì cuộc đời chúng ta sẽ đỡ khổ nhiều, và những người sống chung với ta cũng được hạnh phúc.

Các Thánh đã hiểu thế, nên ít khi các đấng tránh những người không hợp tính với mình.

Chẳng hạn Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã tình nguyện săn sóc một chị nữ tu già khó tính, dù chị đã hết sức chiều chuộng, mà chị kia vẫn không khi nào được như ý… Nhưng Thánh nữ vẫn tươi cười, khiến chị kia phải ngạc nhiên. Nhờ thế, Bà đã lập được nhiều công, và chị nữ tu kia sau cũng được nhiều ích lợi.

Đời các Thánh không thiếu gì những truyện giống như thế. Bạn hãy đọc lại truyện thánh Catarina Siêna với một chị bạn Dòng Ba, tôi đã kể ở đoạn “Phải đổ máu”.

Bạn muốn làm Thánh không? Chắc là có. Vậy thì hãy soi gương các Thánh, đừng tránh trút những dịp làm mình khó chịu, nhất là khi không thể tránh được, thì lại càng nên nhẫn nại. Làm Thánh ở chỗ ấy, chứ không phải ở chỗ luôn luôn gặp những điều vừa ý.

Ta hãy đi xa hơn tý nữa. Bạn hãy tưởng tượng, nếu ở đời, cái gì cũng giống nhau, thì sẽ ra thế nào? Nếu ai cũng lớn như ai, ai cũng nhỏ như ai, nếu cái gì cũng đỏ, cái gì cũng trắng, cái gì cũng đen… nếu lúc nào cũng mưa, lúc nào cũng nắng… nếu chỉ có ngày, nếu chỉ có đêm… thì buồn chán biết mấy!

Trăm nghìn điều khác vậy. Chúa khôn ngoan vô cùng đã hiểu những cái ấy trước ta, nên Người đã an bài mọi cái cho khác nhau, khác nhau về vị trí, khác nhau về tính tình, khác nhau về sức khoẻ, khác nhau về học lực, khác nhau về nhiều phương diện khác, để trên thế giới có sự thay đổi, nhờ thế, có sự đẹp, và vì khác nhau, các vật mới có thể giúp đỡ lẫn nhau, và làm ích cho nhau.

Bạn hãy nghĩ, trong một đám rước nếu tất cả ban tổ chức, cùng tính tình như nhau, nên tất cả mọi cái đều theo một màu xanh, thì tuy có đẹp, nhưng không đẹp bằng biết nhiều màu, con mắt ta sẽ được thỏa mãn hơn…

Hay nếu các phần mình ta đều như nhau cả, nếu phần nào cũng là tay, thì lấy gì mà đi, nếu phần nào cũng là chân, thì lấy gì mà nói, nếu phần nào cũng là miệng, thì lấy gì mà nghe v.v… Đó chỉ là một ví dụ, nhưng nó giúp Bạn hiểu được các sự điều hòa trong thế giới, khi thấy các vật khác nhau, và người ta khác tính nhau.

Nói tóm lại, Chúa đã an bài mọi việc từ việc lớn đến việc nhỏ, với một trật tư hoàn toàn khôn ngoan, chúng ta hãy cúi đầu xuống để ca tụng Chúa và cảm tạ Chúa. Chả lẽ Chúa lại không bằng một họa sĩ khi vẽ một bức tranh, biết chỗ thì tô đậm, chỗ thì tô nhạt, có chỗ nét to, có chỗ nét nhỏ… Ta hãy vui lòng lĩnh nhận những cách Chúa an bài, không khi nào dám phàn nàn năn nỉ… chịu cho vui lòng, để tỏ mình biết vâng phục Thánh ý Chúa, để tập thêm nhẫn nại, để lập công, để mình được bình tĩnh mà sống… để nên thánh. Vậy từ nay Bạn hãy đem những ý tưởng ấy ra mà suy ngắm. Nhờ sự suy ngắm, ta có thể chôn chặt những điều ấy vào lòng, và như thế, mỗi khi gặp sự khó, ta có thể hiểu ngay Thánh ý Chúa, và ta sẽ vui lòng chịu được các sự khó Thánh ý Chúa gửi đến cho.

Ước gì được như vậy!

Lm. Nguyễn văn Tuyên, DCCT

Trở Về

Nói trở về là nói tới mình đang ở xa. Xa nhà, nay tôi trở về. Cái khoảng cách không gian cho ta cảm tưởng rõ ràng một sự cách biệt.

Khi định nghĩa trở về trong ý nghĩa thiêng liêng, ta thấy khó hơn. Thí dụ, nói tôi trở về với Chúa. Cái khoảng cách giữa tôi và Chúa không biết ngắn hay dài. Lấy gì để mà đo. Nếu xét rằng tôi không phạm tội nặng, tôi vẫn đi lễ thì dường như tôi không xa Chúa. Tôi không cần đặt vấn đề trở về.

Ðọc dụ ngôn con chiên lạc, ta thấy ngay là con chiên đó xa đàn. Hình ảnh Chúa đi tìm làm ta thấy con chiên này cần trở về. So sánh mình với người khác, ta thấy có người bỏ nhà thờ, có người có đời sống tội lỗi công khai. Như thế, họ cần trở về hơn mình. Tuy nhiên, đọc kỹ đoạn Tin Mừng, ta thấy sự trở về có thể là cần thiết cho chính những con chiên không bỏ đàn đi, không bỏ nhà thờ, vẫn ở trong nhà thờ.

Bản văn không nói rõ lý do nào làm con chiên đã lạc đàn. Dụ ngôn chỉ nói “Ai trong các ông, giả sử có trăm con chiên và lạc mất một con” (Lc. 15: 4). Nguyên do nào làm nó lạc? Ta thấy có hai nguyên nhân. Một là nó bỏ đàn đi vì lầm lỡ đồi cỏ dại là hạnh phúc. Có thể nó bỏ đàn đi vì theo chủ thì dài và vắng vẻ, nó thích tiếng ca của bầy chồn hơn. Có thể trên những quãng đời nắng khát hạnh phúc nó đã bị giọng nói tinh vi của Satan lừa gạt. Lý do thứ nhất này nó sa ngã vì những cám dỗ.

Giữa những nguyên nhân lạc xa đàn, có khi nào nó bỏ đàn vì những con chiên khác trong đàn? Nghĩa là vì sự kết án, chia rẽ, phe nhóm ngay trong xứ đạo. Từ những nguyên nhân này làm con chiên tách xa đàn, rồi mới đi tới lạc đàn. Lý do thứ hai này là điều ta thử tìm hiểu.

Nhìn vào lịch sử, vết thương buồn vẫn còn là dấu chứng: Ðã bao lần chúng ta kết án nhau! Trong tiến trình ý thức về tội, Adam bảo tại Evà mà ông ta phạm tội. Evà bảo tại con rắn mà bà sa ngã (Stk. 3: 12-13). Không ai có nước mắt ăn năn. Không ai nhận rằng tôi phải trở về. Chỉ có kẻ khác phải trở về.

Hôm nay, trong đời sống thiêng liêng, có những linh hồn cũng đã phải xa xứ đạo của mình vì sự mất bình an giữa cộng đoàn tín hữu của họ. Nơi đây không phải là nhà. Nơi đây chẳng có lý tưởng. Có người phải sống mặc cảm dưới cái nhìn rẻ rúng của những kẻ chung quanh. Những tiếng xầm xì về một lỗi lầm của quá khứ. Những nghi kỵ về một xét đoán mù mờ, những thêu dệt về một sự thật không đúng sự thật. Có những góp ý xây dựng những đổ vỡ, nhưng lại đề cập đến khuyết điểm của kẻ khác để vì cái khuyết điểm ấy mà mình được nổi hơn. Có những cạnh tranh vì tháp nhà thờ mình phải cao hơn tháp nhà thờ bên cạnh. Có nhiều cuộc phải lên đường trở về vì có nhiều thứ xa Chúa. Mà xa Chúa nhất là xa Chúa ở trong đền thờ.

* * *

Câu chuyện người đàn bà ngoại tình trong Phúc Âm (Yn. 8:1-11) cũng là câu chuyện của bao nhiêu cánh cửa tâm hồn khắc nghiệt với nhau hôm nay. Lạc lối buồn bã nhất là ảo tưởng tiên tri thấy mình phải chỉ lối cho người lạc lối. Vì phải đi tìm chiên lạc nên không thấy mình lạc. Ðó là thái độ của các Biệt Phái. Chúa rộng lượng thứ tha. Ngài nâng lên cây sậy bị dập. Ngài che đậy ngọn đèn sắp tắt. Nhưng con người đối với nhau lại khắc nghiệt. Người thiếu nữ ngoại tình ấy đi tìm một miền đất để sống. Chẳng còn vùng trời nào khác ngoài sự đau khổ. Vì gian truân nên muốn đến với Chúa, cửa nhà thờ mở ngõ nhưng cửa tâm hồn người coi nhà thờ khắc nghiệt.

Có những tâm hồn vì yếu đuối đã sa ngã, Chúa thương băng bó vết thương, nhưng người chung quanh không để cho lành. Người phụ nữ ấy bơ vơ, muốn đến giáo đường tìm Chúa mà phải đến lén sợ người trong Giáo Hội trông thấy. Câu chuyện của Tin Mừng năm xưa cũng chưa phải là phai nhòa trong đời sống chúng ta hôm nay.

Có cha mẹ hắt hủi con mình, người trong gia tộc miệt thị nhau, giai cấp trong đạo lên án chỉ vì cây sậy đã bị dập, ngọn đèn đã leo lét. Ra đi tìm một miền đất sống, nhưng im lặng của các tâm hồn đó đã dọn đường trở về với Chúa rồi. Những đau khổ họ phải chịu vì người anh em mình đã nặng hơn lỗi lầm họ phạm. Vì thế, khi họ phải bỏ xứ đạo ra đi, trốn khỏi gia đình, quãng đường xa ấy biết đâu lại rất gần Chúa.

Vào một giã từ không tiếng nói. Thất vọng vì bị kết án. Chán nản trong một họ đạo đố kỵ. Lặng lẽ, một tín hữu nào đó bỏ nhà thờ. Trong đêm mờ tối ấy, đời họ chìm sâu hơn trong tội lỗi có khi chỉ vì muốn tránh những nhánh gai trong vườn gia đình, xứ đạo mình quá sắc.

Có những lỗi chung thủy đến từ người mà mình đã rất thuỷ chung. Có những đau khổ mình phải chịu đến từ người mà mình đã chịu khổ đau cho. Có những hố thẳm mà người cùng một lý tưởng tông đồ đào cho nhau. Có những vực sâu trước nhà thờ.

Khi Ðức Kitô hỏi các Ký Lục và Biệt Phái ai là người trong họ vô tội mà đòi ném đá người phụ nữ. Tất cả họ từ từ rút lui (Yn. 8:7-9). Kẻ cần phải trở về là chính người không đi xa, đang ở ngay trong đền thờ.

* * *

Lạy Chúa, nếu con không phải là con chiên lạc, là kẻ trong đàn nhưng đã là nguyên cớ làm cho tâm hồn khác xa đàn, thì, lạy Chúa, sự có mặt của con trong đàn có khi còn nguy hiểm hơn là vắng mặt. Vì sự có mặt ấy mà bao nhiêu người phải vắng mặt. Nếu vậy, lạc lối trong hồn con còn xa xôi hơn nữa. Con cần phải trở về biết bao. Con đã xa cách Giáo Hội khi con ở trong đền thờ.

Khi con bỏ đền thờ thì con biết mình xa nơi thánh. Khi con ở trong đền thờ mà làm cho người khác phải ra đi thì khó mà nhận ra là sự thánh thiện đã xa mình.

Khi phạm tội thì có thể con biết mình xa Chúa, nhưng khi làm cho người khác xa Chúa thì khó mà biết mình phạm tội.

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

Hạnh Phúc – Chương 1 - TÍNH HAY BẰNG LÒNG

Tính hay bằng lòng chẳng phải là một nhân đức bẩm sinh. Người ta sở dĩ có được nó là nhờ sự chuyên cần dốc quyết to lớn trong việc chế ngự những ước muốn hỗn loạn; vì thế đây quả là một nghệ thuật mà ít người chịu học hỏi. Bởi vì có đến cả hàng triệu tâm hồn bất mãn trong thế giới hôm nay cho nên việc phân tích bốn nguyên nhân chính gây ra bất mãn cũng như đề ra những phương cách đem lại sự bằng lòng quả là hữu ích cho họ.

Nguyên nhân căn bản thường gây ra sự bất mãn là tính vị kỷ hay còn gọi là ích kỷ tức là đặt cái ngã của mình vào trung tâm điểm và bắt mọi kẻ khác quay vòng chung quanh. Nguyên nhân kế tiếp gây bất mãn là lòng ganh tị. Tính xấu này khiến chúng ta nhìn của cải và tài năng của kẻ khác như thể là họ ăn cắp của chúng ta vậy. Nguyên nhân thứ ba là lòng ham muốn hay còn gọi là ước muốn không chừng mực trong việc đòi cho có thêm nữa nhằm bù đắp sự trống rỗng nơi tâm hồn. Nguyên nhân thứ tư gây bất mãn là lòng ghen tuông, khi thì biểu lộ qua sự sầu muộn, khi thì qua sự căm ghét những người có được những cái chúng ta ao ước cho chính mình.

Một trong những lầm lẫn to tát nhất là nghĩ rằng sự bằng lòng phát xuất từ một sự việc gì đó bên ngoài chúng ta chứ không do từ một đặc tính nơi tâm hồn. Một chú bé nọ từng chỉ ước muốn có được một viên bi, khi đã có viên bi rồi chú lại mong ước một quả banh, khi có banh rồi chú lại mong ước một con quay, có con quay rồi lại mong ước một cái diều và sau khi đã có được viên bi, quả banh, con quay và cái diều, chú bé cũng vẫn chưa cảm thấy hạnh phúc. Cố gắng làm cho một kẻ luôn bất mãn được hạnh phúc khác nào cố gắng đổ đầy nước vào một cái rổ. Dù đổ cho nhiều mấy vào đó thì nó cũng chạy tuốt hết đừng hòng giữ lại được.

Cũng không phải hễ thay đổi nơi chốn là có được sự bằng lòng. Có một số người tin rằng giả như họ ở vào một nơi chốn khác trên mặt đất hẳn họ sẽ có được sự bình an tâm hồn nhiều hơn. Vào một ngày oi bức nọ, chú cá vàng trong bầu nước và chị hoàng yến trong lồng bắt đầu chuyện vãn. Chú cá vàng nói: “Hoàng yến ơi! Ước gì tôi biết bay như chị, ước gì tôi được lên ở trên chiếc lồng ấy”. Còn chị hoàng yến nọ thì nói: “Cá ôi! Được dìm mình trong làn nước mát lạnh như chú thì thú vị biết bao! Này chú cá, hãy lên ở trên chiếc lồng này đi”. Lập tức chúng thay đổi vị trí cho nhau nhưng rồi cả hai đều không hạnh phúc vì tự nguồn căn, Thiên Chúa đã ban cho mỗi con vật một vị trí tuỳ theo khả năng của từng con, phù hợp nhất với bản chất riêng của chúng.

Điều kiện để giúp chúng ta có được sự bằng lòng là chúng ta phải biết kiềm chế, biết nhận thức được các giới hạn. Bất cứ điều gì nằm bên trong tầm giới hạn thì chắc chắn được yên tĩnh. Một khu vườn có tường chắc hẳn là một trong những chỗ yên tĩnh nhất trên trần gian; thế giới bên ngoài bị đóng lại, và xuyên qua các cánh cổng, người ta có thể nhìn ra thế gian với lòng trìu mến có khoảng cách, dù vẫn say mê nó. Cũng thế, nếu người ta biết giữ tâm hồn mình nằm trong các giới hạn (nghĩa là không tham lam, ham hố, không vượt quá tầm tay hoặc ích kỷ) thì tâm hồn con người cũng sẽ được đóng khung trong sự bằng lòng an tĩnh, vui tươi. Con người biết bằng lòng thì dù bị giới hạn cũng như bị vây bọc bởi các hoàn cảnh, người ấy cũng sẽ làm cho những giới hạn này trở thành liều thuốc chữa trị cho sự áy náy âu lo của mình. Điều quan trọng chẳng phải là khu vườn rộng một hay ba mẫu, có tường rào hay không, mà điều quan trọng là chúng ta biết sống bên trong vòng đai của nó, dù vòng đai này rộng hay hẹp ngõ hầu chúng ta có thể có được một tinh thần an tĩnh và một trái tim hạnh phúc.

Vì thế, sự bằng lòng một phần đến do đức tin – nghĩa là do sự nhận biết được mục đích của đời sống và xác tín rằng dù cho những thử thách có thế nào đi nữa thì chúng cũng đều phát xuất từ bàn tay của người Cha Từ Ái. Thứ đến, để có được sự bằng lòng người ta cũng cần phải có một lương tâm tốt lành. Nếu bản ngã nội tâm không hạnh phúc vì những vấp ngã thuộc bình diện đạo đức cũng như vì lỗi lầm chưa được đền bù, thì lúc đó không một sự vật ngoại tại nào có thể đem lại an tĩnh cho tinh thần được. Điều cần thiết thứ ba và cũng là sau cùng chính là biết hãm dẹp các ước muốn, biết giới hạn các khoái cảm. Cái gì chúng ta say đắm quá, thì thường chúng ta sẽ phải lắm luỵ phiền. Sự bằng lòng làm gia tăng niềm thích thú đồng thời làm giảm nhẹ nỗi cơ cực của chúng ta. Mọi truân chuyên sẽ nhẹ bớt nếu chúng ta biết kiên nhẫn chịu đựng chúng và những ân huệ to tát nhất cũng có thể bị tổn thương do lòng bất mãn. Những cơ cực của cuộc sống cũng đủ sâu, đủ mạnh rồi cần gì chúng ta lại góp phần gia tăng một cách không cần thiết như thế!

Bằng lòng với điều kiện hiện tại của chúng ta không có nghĩa là cứ khăng khăng không muốn cải tiến. Đối với những người nghèo khổ nhất, Kitô Giáo không chỉ bảo họ hãy bằng lòng mà còn bảo phải siêng năng làm việc. Tuy nhiên phải biết bằng lòng ngay trong tình trạng hiện tại của mình, nghĩa là ngày hôm nay bị nghèo khổ, thì trong khoảng thời gian này đức tin truyền bảo ta hãy biết hài lòng; tuy nhiên điều tốt nhất cho ngày hôm sau là ta phải rán giải phóng mình ra khỏi cái nghèo và vì thế ta sẽ cố làm việc để gia tăng sự thịnh vượng cho mình. Có thể ta sẽ không gặp được thành công, tuy vậy nếu qua thêm ngày nữa mà vẫn còn nghèo khổ, thì ta vẫn cứ chấp nhận nó và rồi cố gắng thêm cho đến khi nào đỡ khổ hơn. Như thế, sự bằng lòng liên hệ đến tình trạng hiện thời của chúng ta chứ không tuyệt đối liên quan đến toàn bộ các nhu cầu thuộc bản thể chúng ta. Một con người biết bằng lòng thì không bao giờ nghèo dù anh ta có rất ít ỏi. Còn người luôn bất mãn thì chẳng bao giờ giàu cả dù cho anh ta có rất nhiều…

Gm. Fulton Sheen 

Hạnh Phúc – Lời Mở Đầu và Dẫn Nhập

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Cuốn sách này dành cho tất cả những ai muốn tìm một cuộc sống phong phú thoả mãn và hạnh phúc.

“Cho dầu thế giới này có xa cách Thiên Chúa đi nữa, thì con tim của mỗi người cũng không cách xa Ngài”.

Là một Giám mục thông minh và khôn ngoan đặc biệt, Đức cha Fulton Sheen đã phát động một cuộc tấn công đầy phấn khích chống lại những tác nhân có hại cho hạnh phúc con người: tính cay độc, sự chán nản và thất vọng.

Ngài nói với chúng ta: “Đức tính bằng lòng với số phận không phải là một nhân đức bẩm sinh”. Như vậy nghĩa là với nỗ lực và quyết tâm ta có thể tập luyện được đức tính ấy.

Trong cuốn sách đầy cảm hứng và gây thoả mãn này, Đức cha Fulton Sheen, với một nhãn quan sắc bén và tầm hiểu biết sâu rộng, chỉ cho chúng ta phương cách tạo cho mình một sự bình an vững chắc trong tâm hồn để luôn luôn hài lòng với cuộc sống, đồng thời chỉ cho ta cách tích luỹ nghị lực và can đảm để đối phó với những chán chường, thất vọng, để gây dựng lòng tin tưởng giúp ta nắm bắt được hạnh phúc trong tầm tay.

C.B.

DẪN NHẬP

Sơ đồ và mục đích

Tôi viết những bài này với mục đích đặc biệt, với phương pháp đặc biệt và với tinh thần cũng đặc biệt. Mục đích tôi nhắm là ủi an chữa trị và tạo hy vọng cho bao trái tim, đem chân lý và nguồn sáng cho bao tâm trí, đem điều thiện, sức mạnh và lòng quyết tâm cho mọi ý chí. Phương pháp tôi đề nghị ở đây chẳng qua chỉ là áp dụng các nguyên tắc luân lý và thiêng liêng trường cửu vào những vấn đề căn bản thuộc đời sống cá nhân cũng như xã hội của thời đại hôm nay. Còn tinh thần thấm nhuần xuyên suốt các đề tài này thực ra cũng không gì khác ngoài tinh thần bác ái: mến Chúa yêu người. Như thế, qua lời phi lộ này tôi muốn công bố những trọng điểm của cuốn sách như sau:

Thứ nhất: lưu tâm đến tình hình chính trị thế giới hôm nay, chúng ta thấy con người hiện đang bị cai trị chứ không phải đang nắm quyền cai trị. Tính cách phức tạp của nền văn minh hiện đại ép buộc chúng ta phải tự tổ chức thành những đơn vị ngày càng rộng lớn hơn, và vì quá lo cai trị những gì ở bên ngoài rốt cuộc chúng ta lơ là việc quản trị chính bản thân mình. Thế mà phải nói ngay rằng chìa khoá giúp xã hội thăng tiến chỉ có thể tìm thấy nơi sự thăng tiến cá nhân. Cải tạo con người tức là đã cải tạo thế giới nơi con người sống. Chúng ta cần khẩn thiết phục hồi lại cho con người lòng tự trọng và trao ban cho con người niềm danh dự thích đáng, điều này sẽ giữ cho con người không hèn hạ cúi mình trước những kẻ hăm doạ đòi nô lệ hoá nó, đồng thời ban cho con người lòng can đảm dám bênh vực lẽ phải, nếu cần thì vẫn dám chấp nhận đơn độc, mặc cho thế giới chung quanh toàn làm điều sai quấy.

Thứ hai: Xã hội do con người tạo thành, và tới phiên mình con người lại được tạo thành do những tư tưởng, quyết định và chọn lựa của họ. Không một sự gì từng xảy đến cho thế giới mà trước hết không từng được ấp ủ trong tâm trí một ai đó, chẳng hạn có xây nên toà nhà chọc trời thì chẳng qua cũng chỉ nhằm chu tất giấc mơ của nhà kiến trúc. Ngay cả chất liệu làm nên cái tôi vật lý của chúng ta cũng là đầy tớ của tư tưởng chúng ta, như các nhà tâm lý học từng cho thấy thân xác chúng ta mệt mỏi có thể chỉ vì tâm trí chúng ta bị mệt mỏi. Khi thân xác âu lo, xao xuyến sợ hãi chán nản, thì mệt mỏi tâm trí sẽ trở thành mệt mỏi thể lý.

Lý do nền tảng khiến tâm trí mỏi mệt chính là sự xung đột nơi chúng ta: xung đột giữa lý tưởng và sự hoàn tất, giữa cái chúng ta phải là và cái chúng ta đang là, giữa khát vọng và hiện thực, giữa năng lực hiểu biết của ta và mầu nhiệm khôn thấu của vũ trụ. Căn nhà bị phân cách làm sao đứng vững được! Cần phải nhìn nhận sự căng thẳng này nơi con người là cố hữu, đồng thời nhìn nhận rằng để giúp con người chịu đựng được căng thẳng ấy thì chỉ có phương cách duy nhất là bắt mình qui phục Thiên Chúa. Và từ đó, dẫu có gì xảy đến thì chúng ta cũng đón nhận như quà tặng của tình yêu; không gì có thể khiến chúng ta ngã lòng nữa vì chúng ta không còn giữ lại cho mình ý muốn ích kỷ đòi này hỏi nọ nữa.

Xã hội chỉ có thể được cứu rỗi nếu con người được cứu khỏi những xung đột hầu như không thể chịu nổi của mình, tuy nhiên con người chỉ có thể thoát được các xung đột ấy một khi linh hồn họ được cứu rỗi. Cách đây không lâu, con người từng đặt niềm hy vọng hạnh phúc của họ vào tiến bộ vật chất, giờ đây thì tâm thức lạc quan nông cạn ấy đã chấm dứt rồi; gánh nặng âu lo xao xuyến về tương lai nòi giống và cá nhân đã khiến con người phải ý thức đến linh hồn mình.

Thứ ba: Hạnh phúc chúng ta hệ tại việc chu toàn mục đích cuộc đời của mình. Mỗi người đều biết rõ là khi tạo dựng con người, Chúa đã phú cho họ khả năng tìm kiếm ba điều sau đây, và cơn đói khát ba điều này luôn dày vò tâm trí chúng ta: trước hết ai trong chúng ta cũng mong sống, dĩ nhiên chẳng phải là thêm vài ba phút mà là được sống vĩnh cửu, sống mà không sợ tuổi tác hay bệnh hoạn đe doạ; thứ đến chúng ta mong nắm được chân lý, dĩ nhiên không chỉ các chân lý toán học, địa lý… mà là toàn bộ chân lý; và cuối cùng ai trong chúng ta cũng mong ước tình yêu, không phải thứ tình yêu bị thời gian giới hạn, bị pha trộn với nỗi chán ngấy và cơn mộng vỡ mà là thứ tình yêu đạt đến trạng thái xuất thần ngây ngất.

Không thể tìm được ba điều ước muốn trên đây một cách viên mãn trong cuộc đời này bởi vì ở trần gian này, cuộc sống luôn bị thần chết dõi bóng, chân lý luôn bị pha lẫn lạc lầm, tình yêu luôn hoà chung niềm căm ghét. Tuy nhiên ai cũng biết rằng nếu không bao giờ có thể đạt được những niềm ước mơ đó thì chắc con người đã không thèm mơ ước gì. Vì thế bẩm sinh là con vật có lý trí, con người luôn gắng tìm kiếm cội nguồn từ đó phát sinh ra những cấp độ bất toàn pha tạp liên quan đến Sự sống, Tình yêu và Chân lý.

Đây là sự kiếm tìm y hệt sự kiếm tìm ánh sáng trong một căn phòng: ánh sáng ấy không thể đến với đêm đen và bóng mờ. Ánh sáng ấy chỉ có thể đến từ mặt trời, nơi đó ánh sáng tinh tuyền không hề bị bóng mờ và đêm đen ảnh hưởng. Trên đường tìm kiếm nguồn mạch Tình yêu, Ánh sáng và Chân lý, như chúng ta biết, chúng ta phải băng qua các giới hạn của thế giới mờ tối này mới mong đạt được thứ Chân lý tinh tuyền không bị trộn lẫn với bóng mờ của nó là sự sai lầm, mới mong đạt được Tình yêu không bị pha trộn lẫn với bóng mờ của nó là lòng thù ghét. Chúng ta phải tìm kiếm sự sống trinh nguyên, chân lý tinh tuyền và tình yêu thuần khiết. Và những điều này lại chính là nằm nơi định nghĩa về Thiên Chúa. Ngài vừa là Sự sống mật thiết của Ngôi Cha, vừa là Chân lý mật thiết khả thông nơi Ngôi Con vừa là Tình yêu sâu đậm thiêng liêng nơi Thần Trí.

Khi hội đủ số người kiếm tìm con đường dẫn đến hạnh phúc này thì con người sẽ gặp được nhau trong tình huynh đệ. Và lúc đó xã hội sẽ có được hoà bình.

Ðức cha Fulton J. Sheen