8. Đời Sống Tâm Linh

Ý Nghĩa Sự Đau Khổ 26. Thiên Đàng

Sáng ngày 20 tháng Ba năm 1811, một trăm phát đại bác từ điện Invalides (Anh-va-lít) nước Pháp nổ vang, báo cho dân thành Balê biết một tin quan trọng. Một hoàng tử, con vua Nã-phá-luân, đã chào đời. Sau khi hoàng đế băng hà, hoàng tử sẽ lên ngôi hoàng đế nước Pháp. Trong khi hoàng đế còn sống, hoàng tử được gọi là Quốc vương La-mã. Nhưng, thương hại thay, không đầy năm năm sau, Nã-phá-luân mất chức hoàng đế.

Năm năm sau nữa, vua từ trần giữa một đảo xa xôi. Vua cha chết được 11 năm, ông “Quốc vương La-Mã” cũng chết theo, chưa kịp thừa hưởng nước Pháp.

Các gia tài ở đời là thế. Hoặc người chia gia tài, sau không thể giữ được lời hứa, hoặc người thừa hưởng gia tài không kịp nhận gia tài hoặc không giữ nổi gia tài đã chiếm được.

Nhưng Bạn ạ, chúng ta, người công giáo, chúng ta có một gia tài, mà gia tài ấy, nhất định chúng ta sẽ được hưởng, miễn chúng ta giữ Đạo cho nên. Gia tài ấy, Bạn biết rồi, chính là Thiên đàng.

Thiên đàng là gì? Trong những bài trên, tôi đã nhắc đến Thiên đàng nhiều lần. Trước khi từ biệt Bạn, tôi thấy cần phải nói qua về Thiên đàng, để cho cuộc nói truyện cần đầy đủ hơn.

Trước hết Thiên đàng là chốn nghỉ đời đời.

Đời này, chúng ta lúc nào cũng lo sợ… sợ đau đớn cho thân thể; trên Thiên đàng, không còn đau khổ nữa.

Ở đời ta phải làm việc: hằng ngày lúc thức dậy, phải ghé vai vào ách… nếu những người ác tâm, không làm rầy rà cho chúng ta, đã là khá lắm rồi.

Trên Thiên đàng, không còn phải làm việc nữa.

Ở đời chúng ta rên rỉ vì bệnh tật: một cơ quan trong mình ta chưa kịp khỏi thì một cơ quan khác đã bắt đầu đau. Nếu toàn thân ta, không cùng đau một lúc, thì đã hạnh phúc cho ta lắm rồi. Thân thể ta tế nhị hơn, tinh vi hơn thân thể cầm thú, chẳng qua cũng là để ta chịu đau khổ hơn.

Trên thiên đàng không còn bệnh tật nữa.

Ở đời, ta phải chết: đau đớn thay những giây phút hấp hối, ghê tởm thay những sự rùng rợn trong mồ.

Trên thiên đàng không còn chết nữa.

Chúng ta hãy trông cậy! Có lẽ Bạn đã thấy con sâu róm… trông thấy mà rùng mình. Nhưng đến một lúc kia, con sâu ấy cuộn mình trong một miếng lá, không khác gì bị chôn trong mồ. Những sức tiềm tàng của Tạo hóa bắt đầu làm việc, những chân nó dùng để bò, sẽ rụng xuống, các phần khác mọc ra: kìa những cánh nhẹ nhàng sặc sỡ, đẹp như ánh sáng mặt trời.

Nó bay lên không gian, ánh sáng mặt trời lại như tô thêm vẻ đẹp… Trước đây một tháng, ai trông thấy nó cũng sợ, bây giờ từng đoàn trẻ chạy theo bắt nó, vì sắc đẹp của nó đã làm chúng mê mẩn. Trước đây, nó ăn những lá cây thô, bây giờ nó chúi đầu hút những nhụy trong những cánh hoa vàng.

Xác ta này, cũng thế. Một ngày kia, nó cũng sẽ biến hình. Nó cũng sẽ tung những cánh đầy ánh sáng, nó sẽ gieo vào không gian những tiếng ca khải hoàn, nó sẽ tắm gội trong không gian nức mùi thiên hương. Và ở đấy, nó không còn phải làm việc nữa, nó không còn bệnh tật nữa, nó không còn chết nữa: trên Thiên đàng chỉ có nghỉ ngơi, trong một cuộc đời dài vô tận.

Nói tắt, trên Thiên đàng, thân thể ta không còn đau khổ nữa.

Ở đời, tim ta đau khổ: trên Thiên đàng, tim ta không còn đau khổ nữa.

Ở đời, tim ta đã gặp bao nhiêu thất vọng chua chát. Nó đã mơ màng lạc thú, nhưng nó đã gặp biết bao sự ưu phiền. Thánh Jeanne de Chantal (Gio-an-na Săng-tan) nói: “Trong tim tôi, có một cái gì lúc nào cũng run rẩy!”. Chúng ta cũng nói được: Trong tim tôi có một cái gì lúc nào cũng làm cho phải khóc. Vậy thì cuộc đời ta phải đem so sánh với cái gì? Với một ngày tưng bừng thơm nức của mùa xuân chăng? Không, phải so sánh với một ngày đông sầu ảm đạm. Thương ôi, những cái chúng ta gặp trên đời, không phải là những cái chúng ta mơ ước. Hãy nhớ lại, hồi chúng ta mười sáu, hai mươi tuổi, chúng ta hăng hái tiến thủ, lòng đầy hy vọng, tràn trề vui vẻ, hai môi nhấp nháy những bài ca hùng mạnh. Đó là những mơ mộng của tuổi trẻ, của tuổi hai mươi. Những mơ mộng ấy, ngày nay đã biến đâu rồi? Lớn lên chúng ta không còn mơ mộng khoái lạc, chúng ta mơ ước thành công. Nhưng thành công có thấy đâu, chỉ thấy toàn thất bại. Còn gì đau đớn ê chề hơn nữa!

Nhưng, này, ta hãy ngửa mặt lên. Vì nếu ta thật tình muốn, thì ta sẽ vào Thiên đàng, và trên Thiên đàng không còn bị thất bại.

Tim ta đã gặp thất bại, nó lại còn gặp những sự bội phản.

Ai trong ta cũng cần có một quả tim thân ái. Ta đã tìm, ta tưởng rằng: đã thấy. Nhưng một hôm, trong một lúc không ngờ, người Bạn ấy đã biến tan trong sương sớm, để ta lại trơ trọi cô độc. Vì một tí lợi, vì một lời nói vô tình, vì sự hiểu lầm không đáng kể, họ đã quay lưng lại với ta và ta đã gạt lệ trong âm thầm… để tiếp tục bước đi trong im lặng buồn tủi.

Nhưng ta hãy can đảm lên, vì rồi đây lên Thiên đàng, ta không còn gặp bội phản nữa.

Tim ta đã gặp bao cảnh biệt ly tang tóc. Tang tóc biệt ly trong gia đình, biệt ly tang tóc ở những người thân quyến, bạn hữu… Họ ra đi, không hẹn ngày về, chúng ta ở lại hàn gắn những vết thương sâu hoắm.

Chúng ta hẳn chưa quên những lời than thở của người chinh phụ; mấy lời vắn tắt nhưng cũng tả hết nỗi đau đớn của cảnh biệt ly và mong chờ:

Thuở lâm hành, oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca,
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió,
Hỏi ngày về phỏng độ đào bông,
Nay đào đã quyến gió đông.
Tuyết mai trắng bãi, phù dung đỏ bờ…
Hoặc một câu vắn tắt trong “Hai chị em lưu lạc”:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau.
Trông nhìn mả mẹ ruột đau chín chiều.

Bèo tan, trăng khuyết… kẻ ở, người đi, tuy cái cảnh ấy chẳng có gì lạ, nhưng nó cũng đã gây bao mối hận lòng, nó đã khoét thành bao nhiêu hồ nước mắt.

Nhưng ta hãy ngửa mặt lên: một ngày kia, ta sẽ nghe lời Chúa phán như đã phán với người trộm lành: “Ngày hôm nay, con sẽ ở nơi cực lạc cùng Ta” [69], và khi ấy, hết tang tóc, hết biệt ly [70].

Ở đời ta sợ những sự đau khổ cho linh hồn. Trên Thiên đàng linh hồn không còn đau khổ nữa.

Sống ở đời, nhiều khi ta phạm tội, và đã mang tội vào thân, thì lao đao tân khổ chừng nào! Chúng ta hãy nhớ lại truyện Chàng thanh niên hoang đàng… chàng ngồi sầu khổ dưới bóng cây… Cạnh chàng là một đàn lợn đẵm trong đám bùn hôi. Mặc không đủ che thân, hai tay ôm lấy đầu, chàng lặng lẽ nghĩ đến cuộc đời đã qua và hiện tại. Bên ngoài là một sự yên lặng nặng nề. Nhưng trong người chàng là cả một cơn giông tố dữ dội… Chàng ước mong biến thành bầy lợn vô linh tính… Nhưng không được, trước sau, chàng vẫn là người… để chịu đau khổ, để bị những cắn rứt của lương tâm.

Phàm kẻ có tội, đều bị khổ, giống như chàng hoang đàng kia.
Nhưng nếu ta muốn, thì ta cũng có thể một ngày kia lên Thiên đàng, và trên Thiên đàng, không còn tội lỗi nữa.

Sống ở đời, nhiều khi sợ mình đang sống trong tội. Áy náy thay ! Chính Thánh Bênađô cũng đã từng than lên: “Loài người không biết chắc được Chúa yêu hay bị Chúa ghét”. Ta chưa phải thánh Bê-na-đô, thì ta còn phải kêu lên đến thế nào nữa. Có lẽ chúng ta đã ngã, thì chúng ta đã đứng dậy chưa? Chúng ta đã bị cám dỗ, thì chúng ta có chống lại cho mạnh mẽ không?
Nhưng nếu ta muốn, thì ta sẽ được lên Thiên đàng, và trên Thiên đàng ta không còn áy náy nữa.
Sống ở đời, vẫn còn lo sẽ phạm tội. Lúc nào ma quỷ cũng mạnh mẽ và mưu mô, lúc nào thế gian cũng quỷ quyệt và quyến rũ, lúc nào tim ta cũng hùa theo tình dục. Lúc nào cũng bị cám dỗ, lúc nào cũng sợ mất nghĩa cùng Chúa… Thật là chua xót đắng cay!

Nhưng trên Thiên đàng, thì không còn sợ phạm tội nữa.

Nói tóm lại: trên Thiên đàng không còn phải làm việc, không còn bệnh tật, không còn phải chết, không còn bị thất bại, không còn bị bội phản, không còn phải ly biệt, không còn tội lỗi, không còn áy náy, không còn nguy hiểm… sống trên Thiên đang như thế, thì sung sướng chừng nào!

Thánh Tê-pha-nô nằm dưới những trận mưa đá, Người ngửa mặt lên và kêu: “Tôi thấy Thiên đàng mở ra”, rồi Người mỉm cười. [71]

Trong lúc thấy trăm nghìn sự đau khổ đổ trên người Bạn, Bạn hãy nhìn lên Thiên đàng và hãy tự bảo mình: Trên Thiên đàng, tôi không còn gặp những cái làm tôi sợ hãi, đau khổ nữa. Lời ấy cũng sẽ tăng sức mạnh cho Bạn và Bạn cũng sẽ mỉm cười được như thánh Tê-pha-nô.

Trên Thiên đàng, Bạn không còn đau khổ nữa, nhưng đã hết chưa?
Là vì Thiên đàng của chúng ta còn có hết những cái ta ước ao.
Ta ước ao được ngắm, ta sẽ được ngắm Chúa.

Ta sẽ được thấy lâu đài Chúa, và nó đẹp chừng nào! Chúng ta hãy ngắm một nắm bụi, mà ta gọi là quang chất. Nó có những tính cách rất lạ lùng… ta đã thấy những tấm kính ba mặt, nhìn qua, ta sẽ thấy màu sắc của ánh sáng mặt trời… Ta đã thấy đôi cánh của con cánh quýt, một con sâu nhỏ, nhưng Chúa đã mặc cho nó một bộ cánh với những màu sắc rất xinh đẹp… Đã thế, thì Chúa có thể tạo một ngôi nhà, một cung điện còn đẹp đẽ lộng lẫy, xứng đáng với con cái Chúa đến chừng nào nữa!

Chúng ta được thấy con cái Chúa, tức là triệu triệu các thánh, ngự trên những ngai tòa sáng láng hơn mặt trời, và không cái nào giống cái nào. Ta sẽ thấy triệu triệu Thiên thần, không đấng nào giống đấng nào.

Tại La Mã cổ, những nhà được người ta tìm thuê hơn cả, là những nhà mà chung quanh là những người lân bang tử tế. Những nhà muốn bán mà có treo cái biển “lân bang tử tế”, thì dù là những căn nhà tầm thường, cũng được người ta ham mua. Vậy thì trên Thiên đàng, chúng ta được thân cận với các Đấng thánh thì ta sẽ sung sướng chừng nào! Nhất là ta sẽ có Đức Mẹ, hai tiếng “Đức Mẹ” cũng đủ kích thích lòng ta rồi, và nguyên sắc đẹp của Đức Mẹ cũng đủ làm ta ngây ngất đời đời.

Nhưng nhất là chúng ta sẽ thấy Chúa, sẽ được ngắm Nhan Thánh Chúa. Chúa chính là sự đẹp tuyệt đối, tất cả những cái đẹp ở trần gian và Thiên đàng, chỉ là những phản ảnh lờ mờ của cái đẹp vô cùng ấy. Vậy thì mắt ta sẽ được đứng trước một cái đẹp mê hồn chừng nào! Và lòng ta sẽ sung sướng ngây ngất chừng nào nữa!

Trên núi Tabo, Thánh Phêrô được thấy ánh sáng ở thân thể Chúa giãi ra trong chốc lát, người đã ngây ngất đến nỗi “quên cả cõi tục”. “Lạy Thầy, ở đây thì tốt lắm, chúng tôi xin làm ba nhà…” [72] làm mà ở luôn trên núi ấy, để ngắm sự xinh đẹp của Chúa… Vậy thì rồi đây chúng ta sẽ được ngắm Chúa, không phải chỉ trong mấy phút, không phải chỉ qua quít ở cái vỏ ngoài, nhưng là đời đời và tận đáy lòng Chúa… khi ta được thấy Chúa nhãn tiền trước mắt, thì ta sung sướng chừng nào!

Phải, nếu Chúa không lấy sức mạnh vô cùng của Chúa mà nâng đỡ ta, thì ta sẽ biến tan vì sung sướng.

Chúng ta mong được yêu. Chúng ta sẽ yêu mến Chúa.

Trước hết, chúng ta sẽ yêu các con cái Chúa: các Thiên thần, các Thánh nam nữ, nhất là những người bà con, thân quyến, bạn hữu của ta lúc còn ở trần gian. Trên Thiên đàng, chúng ta sẽ nhận ra nhau, chúng ta sẽ sống cùng nhau, không còn chia rẽ, không còn biệt ly và sẽ yêu nhau đời đời. Đó là một điều yên ủi lòng ta ngay từ đời này.

Chúng ta sẽ yêu mến Đức Mẹ, và được Đức Mẹ yêu. Cái yêu ấy mới là cái yêu thâm thúy sâu xa êm đềm biết chừng nào!

Nhất là ta sẽ yêu mến Chúa. Đứng trước vẻ đẹp của Chúa, ta sẽ ngây ngất. Khi ta thấy lòng thương vô hạn của Chúa, lòng yêu đã yêu ta từ đời đời, thì ta sẽ bị chìm đắm trong bể ái, lòng ta sẽ sung sướng chừng nào!

Thánh Phanxicô Xaviê chỉ được có một tàn lửa mến của Chúa bắn vào trong tim, mà Người còn phải kêu lên: “Lạy Chúa, thôi, đủ rồi, nếu Chúa cho thêm thì con chết mất”. Vậy thì khi không phải chỉ một tàn lửa mến, nhưng cả lò lửa mến thiêu đốt lòng ta thì ta sẽ kêu lên những lời gì nữa?

Nếu Chúa không lấy sức mạnh vô cùng Chúa để giữ ta thì sự vui mừng sẽ giết chết ta.

Ở đời nhiều khi đứng trước một vẻ đẹp thiên nhiên, mà người ta còn ngây ngất ngắm không biết mỏi… Huống nữa về sau, khi được chìm ngắm trong những cái đẹp ngoài sức tưởng tượng, thì chúng ta biết lấy lời gì để tả những sự ngây ngất ấy!

Sau cùng, ta muốn được hưởng; Ta sẽ hưởng Chúa.

Nhiều lần chúng ta đã mơ thấy những cái làm ta mê mẩn sung sướng, ta làm tổng thống, ta được giàu sang, ta được lạc thú… bao lâu còn trong giấc mộng, ta còn thấy hạnh phúc của ta êm đềm trong trẻo… nhưng đùng một cái, ta giật mình dậy, thế là bao nhiêu mộng đẹp đều biến tan… quả đất lại hóa ra chốn lưu đày khóc lóc…

Vậy thì chúng ta hãy tưởng tượng hết những cái gì có thể tưởng tượng được, không phải chỉ là một giấc mơ, nó sẽ là những sự thực. Thiên đàng là tự do: ta muốn đi đâu thì đi, ta muốn làm gì thì làm, là vì ta không thể phạm tội được nữa. Thiên đàng là bao nhiêu kho báu của Chúa sẽ là của ta. Thiên đàng là danh vọng: chúng ta sẽ ngồi đồng bàn cùng Chúa. Thiên đàng là mau kíp: ta muốn đi đâu, thì trong nháy mắt đã đến. Thiên đàng là sức mạnh: không còn cái gì là khó ngại, là trở lực. Thiên đàng là hòa thuận: một đại gia đình, tất cả các anh chị em hòa thuận dưới mắt một người cha hiền. Thiên đàng là lạc thú: ta sẽ hưởng hạnh phúc vô cùng và đời đời. Thiên đàng là sức khỏe: không còn bệnh hoạn tật nguyền, không còn biệt ly chết chóc. Thiên đàng là tình yêu: ta sẽ yêu Chúa, yêu Đức Mẹ, yêu các Thánh và được yêu lại. Thiên đàng là an ninh: không còn đạo tặc, trộm cướp, thù địch. Thiên đàng là sự đẹp: khiến ta luôn luôn ngây ngất. Thiên đàng là thông minh: chúng ta sẽ nhìn thấy Chúa rõ ràng. Thiên đàng là trường thọ: một thứ hạnh phúc hoàn toàn và lâu dài vô tận. Bạn hãy tưởng tượng hết các cái đẹp, cái hay, cái tốt, cái gì Bạn cũng được gặp trên Thiên đàng, và lại chắc được hưởng tất cả những cái ấy cùng một lúc và đời đời.
Nói tắt một tiếng: tất cả ngũ quan và tâm tư chúng ta đều được hưởng những hạnh phúc riêng của mình, và sẽ hưởng đầy đủ và mãi mãi…

Nhất là ta sẽ được hưởng chính Chúa. Ta sẽ được uống trong suối khoái lạc Thiên Chúa. Hạnh phúc chúng ta không làm chúng ta chán ngán; được thỏa mãn nhưng vẫn muốn được thêm luôn. Hạnh phúc của chúng ta không khi nào có cùng, mỗi phút sung sướng, ta phát lên một câu hỏi, như một người bị đầy: “Cho đến khi nào ?” và cũng như người bị đầy chung thân, chúng ta sẽ nghe đáp lại: “Không khi nào hết!”.

Ở đời này, không cái gì bền vững. Bạn còn trẻ trung khỏe mạnh, nhưng ngày mai? Ngày mai, Bạn sẽ đứng tuổi, Bạn sẽ già, rồi bệnh hoạn, rồi chết… Bạn dự một ngày lễ, nhưng ngày mai cuộc đời lại nặng nề trôi, ôm theo những lo nghĩ, những buồn phiền, những đau khổ.

Trên Thiên đàng thì không thế, hạnh phúc của Bạn sẽ là hạnh phúc vô cùng vô tận… Lúc nào cũng là lúc bắt đầu, không khi nào hạnh phúc Bạn đã qua một phần tư, một phần mười… Lúc nào cũng mới và cứ mới mãi mãi…

Bạn sẽ hưởng luôn, luôn mãi, mãi mãi… Đó chính là Thiên đàng.
Nguyên một tư tưởng ấy, nếu không được Chúa giữ Bạn, cũng đủ làm cho Bạn chết đi được.

Bạn hoài nghi chăng? Hoài nghi sao được? Nếu Bạn chết trong khi sạch tội trọng, thì tất cả những cái tôi vừa tả qua đó, sẽ là của riêng Bạn, và Bạn sẽ chiếm giữ mãi cho đến đời đời.
Nói tóm lại, được nhìn ngắm chính sự Đẹp, được yêu chính tình yêu, được hưởng chính hạnh phúc, được tất cả những thứ ấy cùng một lúc và đời đời: đó chính là Thiên đàng.

Đến đây ta có thể hiểu được cơn ngất trí của Thánh Augustinô. Hôm ấy là ngày 30 tháng 9 năm 421, Thánh nhân quỳ trong phòng vắng và suy về hạnh phúc Thiên đàng. Bỗng một tia sáng Thiên đàng bao phủ lấy Thánh nhân, và một tiếng từ xa vọng lại: “Augustinô làm gì thế? Ông thu biển cả vào bàn tay ông, còn dễ hơn hiểu được một sự vui thú nhỏ nhất trên Thiên đàng”. Thánh nhân hỏi tiếng ấy là ai? Tiếng ấy đáp lại: “Tôi là linh hồn linh mục Giêrônimô, tôi vừa từ giã xác nặng nề của tôi ở thành Bê-lem, bây giờ tôi đã được vào Thiên đàng”. Tiếng nói im bặt. Và Augustinô tự nhiên thấy mình được đưa vào khu vực siêu nhiên ngây ngất.

Những cái ngây ngất của Thánh Augustinô, mới chỉ là những giây phút nếm thử phúc lộc Thiên đàng.
Thiên đàng là thế. Hay nói đúng hơn, Thiên đàng chưa phải là thế, vì chúng ta không thể tả được Thiên đàng, như lời Thánh Giêrônimô nói với Thánh Augustinô. Nhưng ít ra ta hiểu được một tí, Thiên đàng là cái gì, và đồng thời ta hiểu thêm đất này là gì.

Khoảng năm 100, thời bách hại của Marc-Aurèle (Mác-ô-ren), hai anh em quý phái Valerien (Va-lê-riêng) và Tiburce (Ti-bút) bị tống ngục vì theo đạo Công giáo. Mắc-xim là một ông quan có trách nhiệm điệu hai anh em ra pháp trường, lúc đến nhà ngục mở cửa, thấy hai anh em đang quỳ gối mắt nhìn lên trời, vẻ mặt bình tĩnh khác thường. Tuổi thanh niên, dòng quý phái, sự trong sạch, tính nhẫn nại của hai người tù đã làm ông ta cảm kích. Ông ta quay ra khóc. Hai anh em liền hỏi: “Sao ông lại khóc?” Ông đáp: “Tôi khóc vì thấy hai anh em trẻ tuổi, giàu sang, quý phái mà phải điệu đi xử”. Hai anh em đáp lại: “Xin ông đừng lầm, chúng tôi có đạo, và những người có đạo, khi từ giã cõi đời, sẽ bước sang kiếp khác, là chỗ không còn chết nữa. -Lời hai ông nói có thật không? Nếu ông hứa theo đạo, thì trong giờ chúng tôi chết, chính mắt ông sẽ thấy những cái chúng tôi nói lúc này”. Mắc-xim hứa. Lúc hai anh em bị chém, ông được thấy linh hồn hai anh em sáng láng… Chính ông, sau cũng được phúc chết vì đạo.

Bạn ôi, chúng ta cũng hãy bắt chước ba Thánh Tử đạo ấy mà ước mong Thiên đàng. Ta đã thấy đất này chỉ là chốn đau khổ và tội lỗi, thì dại gì ta còn dính bén vào nó. Thiên đàng là chốn hưởng đầy tình yêu và hạnh phúc, thì sao ta lại không ước mơ ?

Bạn còn nhớ truyện Lụt Hồng Thủy. Sau khi nước rút xuống, ông Noê thả một con quạ, gặp những xác chết, thì nó bám chặt vào, mà không còn quay về tàu nữa. Ông Noê cũng thả một con chim bồ câu, nhưng nó không tìm được chỗ đậu, thì lại quay về tàu. Ta đừng làm con quạ, ta hãy làm chim bồ câu, hãy may mau về tàu, là Thiên đàng. Muốn được thế, ta đừng bắt chước con quạ, đừng bám vào những cái phù vân, vào những lạc thú đê hèn… trái lại ta hãy tìm, hãy bám vào những cái vô biên.
Sau cùng, ta hãy sống trong hy vọng. Mặc dù sự đau khổ đang vây bọc quanh ta, ta cũng không mất hy vọng. Không gì làm cho ta mất hy vọng, dù chính những tội chúng ta đã phạm, cũng không thể làm cho ta thất vọng, vì ta hãy khóc lóc các tội lỗi ta, và hễ đã khóc lóc tội ta, thì Chúa sẽ trả lại ơn Thánh hóa, và tình yêu của Chúa cho ta, tình yêu đời này, và Thiên đàng đời sau.

Tôi thành thật cầu chúc Bạn ngày sau chiếm được Thiên đàng, và xin Bạn cũng thương cầu cho tôi đừng mất Thiên đàng.

Lm. Nguyễn Văn Tuyên, DCCT

[68] Bài này viết theo Le Crucifix. của Cha Billet, C.Ss.R. và Vivre của ARAMI.
[69] Luca 23,43
[70] K.H. 21,4
[71] CVTĐ 7,55-60
[72] Matt 17,4

Niềm Tín Thác – Chương VI: CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ

I. HY LỄ LƯU TRUYỀN VẠN ĐẠI.

–   CHÚA GIÊSU LƯU TRUYỀN TRÊN BÀN THỜ  CUỘC HY SINH CỦA NGÀI TRÊN NÚI SỌ, ĐỂ CHIẾM LẤY TÌNH MẾN YÊU VÀ NIỀM TÍN THÁC CỦA TÔI.

–   NGÀI XIN TÔI DÂNG CUỘC SỐNG CỦA TÔI CHO NGÀI ĐỂ NGÀI MẾN YÊU CHA NGÀI Ở TRONG TÔI.

Chúa Giêsu lưu truyền vạn đại hy tế Núi Sọ của Ngài trên các bàn thờ. 

– Dưới chân của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, chúng ta được uống no nê niềm tin tưởng tín thác tuôn chảy từ các vết thương, nhất là từ Trái Tim được mở ra nơi cạnh sườn Ngài. Khi tắt thở trên thập giá vì yêu thương chúng ta, Chúa đã mang lại bình an cho tâm hồn ta, xua đuổi mọi sợ hãi, phá tan mọi nghi nan và củng cố niềm cậy trông của ta. Nhưng con suối chảy xuống từ Núi Sọ xưa, nay cũng chảy xuống từ các bàn thờ, nơi diễn ra hằng ngày cuộc hy tế không đổ máu của Chúa Giêsu! Chứng tích vô cùng lớn lao của tình thương, hy lễ của Núi Sọ, vẫn được Chúa Giêsu lặp lại hằng ngày cho đến tận thế, trong Thánh Lễ trên các bàn thờ, ở mọi nơi trên thế giới.

Sau những hy sinh và những sự hạ mình của máng cỏ Bethlêem, của cuộc sống âm thầm Nazareth, của những năm tháng giảng dạy dân chúng, và nhất là đau khổ khôn tả của cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, tình thương của Chúa Giêsu đối với chúng ta vẫn chưa được thỏa mãn. Tình thương của Ngài và sự khôn ngoan thần linh của Ngài vẫn còn tìm ra cách cuối cùng để chiếm lấy trái tim chúng ta : để chúng ta khỏi phải dùng trí tưởng tượng, vượt hai ngàn năm về đàng sau, để chứng kiến hy lễ đổ máu của Ngài trên Núi Sọ, Ngài đã dùng trí khôn ngoan vô cùng của Ngài để hiện tại hóa hy lễ này hằng ngày trên bàn thờ cho chúng ta. Ngài đã lập bí tích Thánh Thể để tái diễn và lưu truyền vạn đại cái chết và hy lễ của Ngài trên Núi Sọ. Ngài muốn tôi cũng có thể như Mađalêna và Gioan, nhìn thấy Ngài bằng mắt tôi, nhìn thấy Ngài hấp hối vì tình thương tôi và van xin tôi hãy mến yêu Ngài. Ngài muốn tôi, linh mục của Ngài, tôi có thể đụng đến chân tay cực thánh của Ngài. Đó là phép lạ đang diễn ra từng giờ, từng phút, một phép lạ vượt xa vô cùng tất cả các phép lạ Ngài đã làm để chữa lành các bệnh nhân và cho kẻ chết sống lại. Chúa đã làm phép lạ này vì yêu thương tôi và để chiếm lấy trái tim tôi.

Từ bàn thờ, cũng như từ Núi Sọ, hằng ngày Ngài vẫn nói với tôi : “Hỡi linh hồn Cha yêu dấu, con hãy xem Cha khao khát tình mến yêu của con. Trên bàn thờ, Cha đã lại sinh ra cho con; trên thập giá của bàn thờ, Cha lại chết vì thương yêu con, và để xin con hãy yêu mến Cha. Vậy con hãy dâng trái tim cho Cha, vì lòng mến yêu của con là hạnh phúc của Cha. Thiếu tình yêu mến của con, Cha sẽ không an vui. Hãy dâng cho Cha tình yêu mến của con, hãy tín thác nơi Cha, tín thác trọn vẹn và vững vàng. Làm sao con còn có thể nghi ngờ lòng nhân ái của Cha, một lòng nhân ái vô cùng lớn lao hơn các tội lỗi và các sự khốn nạn của con ? Con nghi ngờ tình thương của Cha, là con xúc phạm đến Trái Tim Cha, khi mà hằng ngày Cha vẫn chết cách mầu nhiệm trong Thánh Lễ vì yêu thương con và để làm cho con nên thánh. Cha còn có thể làm gì hơn nữa để được con yêu mến và chiếm được niềm tín thác trọn vẹn của con ? Con hãy nói đi, Cha sẽ làm cho con”.

Không, Chúa Giêsu không thể làm gì hơn nữa. Ngài đã làm tất cả những gì có thể làm được, để tôi tin vào tình thương của Ngài đối với tôi, đối với bản thân tôi. Ngài đã làm mọi sự cách cụ thể, cách hiện thực, để tôi thấy rõ tình thương của Ngài, và để tôi tín thác mọi sự nơi Ngài.

Ngài đã ban cho tôi tất cả những gì Ngài có, tất cả những gì Ngài có thể làm. Ngài đã ban cho tôi sự sống của Ngài, máu thánh và thân thể của Ngài. Ngài đã hy sinh đến điên rồ vì tôi. Sánh với những gì Ngài đã ban cho tôi đó, những gì tôi muốn xin Ngài không có đáng gì hết. Không một ân sủng nào, không một ân huệ nào đáng giá chút nào so với sự Ngài ban chính bản thân Ngài cho tôi. Vậy tại sao tôi không cầu xin các ơn đó với niềm tin tuyệt đối ? Tất cả những gì không hại đến ơn cứu độ và con đường trọn lành của tôi, chắc chắn Ngài sẽ ban cho tôi, nếu tôi tin cậy vững vàng nơi Ngài. Và nếu tôi muốn xin một ân sủng đặc biệt để trở nên khiêm nhường và trong sạch, để hoàn toàn chết cho mình, để được biến đổi nên giống Ngài hơn, sao tôi không cầu xin Ngài một cách hoàn toàn tin cậy ? Từ nơi bàn thờ, cũng như từ Núi Sọ xưa, Chúa Giêsu bảo tôi: “Con hãy xin tất cả những gì về lòng mến yêu mà con ước ao, dầu con xin cho con hoặc cho những người khác, con hãy tin chắc sẽ được Chúa nhậm lời”. Ồ, chúng ta đừng bao giờ sợ xin nhiều qúa. Chúa thương ta và rất quảng đại, cho nên không bao giờ là nhiều qúa. Vậy chúng ta hãy cầu xin với một niềm cậy trông tuyệt đối, vì tin rằng Chúa sẽ ban cho như lòng ước nguyện, và nhiều khi Chúa còn ban qúa lòng mong ước của chúng ta.

Ngài xin tôi dâng cuộc sống của tôi cho Ngài, để Ngài yêu mến Chúa Cha ở trong tôi.

– Trên đây chúng ta đã thấy Chúa Giêsu chịu chết vô cùng đau đớn trên thập giá vì yêu thương chúng ta, nhưng nhất là vì yêu mến Cha Ngài : Ngài muốn chiếm lấy trái tim chúng ta, linh hồn và cuộc sống của chúng ta, để Ngài sống ở trong chúng ta và yêu mến Cha Ngài bằng muôn triệu con tim của chúng ta. Chúng ta đã hiểu ước ao đó và yêu cầu đó của Chúa Giêsu. Nhưng để chúng ta thường xuyên nghe thấy lời van xin của Ngài, Chúa Giêsu đã muốn lặp lại lời van xin của Ngài trong Thánh Lễ mỗi ngày. Nếu chúng ta quên suy gẫm về cuộc khổ nạn và thập giá Chúa Giêsu, thì hằng ngày chúng ta có thể nghe tiếng nói đầy yêu thương của Ngài nói với chúng ta từ các bàn thờ : “Con ơi, Cha muốn có cặp mắt của con, miệng lưỡi của con, trái tim của con, tất cả linh hồn con, để yêu mến Chúa Cha ở trong con và nhờ con. Ôi ! Xin con hãy làm thỏa lòng mong ước của Cha, vì Cha khát khao yêu mến Chúa Cha bằng muôn triệu trái tim của tất cả chúng con. Cha cần có trái tim của con, cuộc sống của con để thỏa lòng mến yêu của Cha đối với Chúa Cha”.

Hỡi các linh hồn quảng đại, không từ chối Chúa Giêsu điều gì, những ước ao nồng nàn này của Ngài không phải là những ước ao của các bạn sao ? Mơ ước của các bạn chẳng phải là mất dần đi, biến dần đi, để Chúa Giêsu sống và sống cách đầy đủ trong linh hồn mình sao ? Chúng ta ước mong chết đi, để Ngài sống trong chúng ta và để chúng ta được sống lại trong Ngài. Vậy bạn hãy mở rộng lòng ra để đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể ! Hãy nói và hãy lặp đi lặp lại rằng bạn ước ao nên trọn lành, ước ao Chúa chiếm lấy linh hồn bạn và sống viên mãn ở trong bạn ! Chúa Giêsu sẽ vui sướng được nghe những ước vọng của bạn, vì đó cũng chính là những ước ao của Ngài.

Chính vì muốn được nghe bạn kêu xin Ngài, đôi khi Ngài làm thinh, đi trốn và để bạn ở một mình trong hưu quạnh. Nhưng bạn hãy tin rằng Ngài không để bạn phải chịu thử thách lâu. Chúa không bao giờ để ta bị thử thách qúa sức chịu đựng. “Thiên Chúa rất trung tín : Ngài không để anh em bị cám dỗ qúa sức mình. Cùng với cơn cám dỗ, Ngài sẽ ban sức cho anh em chịu đựng và thoát khỏi” (1Cr 10,13). Ngài để anh em chờ đợi, để anh em cầu nguyện tốt hơn. Ngài biết rằng mỗi tiếng kêu của anh em, mỗi lời cầu xin của anh em là như mỗi lần Ngài mắc nợ anh em. Ngài muốn những món nợ này ngày chất đống lên, vì Ngài biết có ngày Ngài sẽ trả cho anh em cả vốn lẫn lời cách quảng đại, vượt qúa mọi mong ước của chúng ta.

Vậy bạn hãy tỏ bày, hãy nói với Chúa Giêsu những mơ ước mến yêu của bạn. Hãy xin Chúa cho bạn ngày càng cảm nghiệm đầy đủ hơn về sự đáng mến thương vô cùng của Ngài. Những ước nguyện của bạn, niềm lo âu chưa mến yêu Ngài cho đủ, và tất cả những lời khẩn nài của bạn sẽ làm vui lòng Ngài, và sẽ được Ngài đáp ứng cách rất quảng đại vào thời giờ Ngài đã chọn.

II.  BÍ TÍCH TÌNH THƯƠNG. ĐỪNG GHEN TỊ VỚI CÁC TÔNG ĐỒ, HOẶC VỚI MAĐALÊNA.

–   THẦY ĐÃ ĐẾN VÀ GỌI EM. AI KHÁT HÃY ĐẾN MÀ UỐNG. NGÀI SAI TÔI ĐI XIN LÒNG MẾN YÊU NHƯ CÁC MÔN ĐỆ XƯA.

–   ĐÁNG TIẾC THAY ! NIỀM TÍN THÁC CỦA CHÚNG TA GIỐNG NHƯ MỘT CHIẾC PHONG VŨ BIỂU.

–   BIẾT BAO LÝ DO ĐỂ TIN CẬY TẤT CẢ NƠI CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ.

Đừng ghen tị với các Tông đồ hoặc với Mađalêna.

– Chúng ta đã nói : Với hy lễ lưu truyền vạn đại của Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đóng dấu ấn của Ngài trên tình thương của Ngài, nghĩa là Ngài đã dùng hết mọi cách thế để tỏ lòng thương ta. Nhưng không phải thế. Chúng ta đã sai lầm, Chúa Giêsu còn làm hơn thế nhiều. Để làm cho ta hiểu biết ngày càng sâu xa hơn về tình thương vô biên của Ngài, để chắc chắn mỗi người chúng ta cảm nhận được tình thương của Ngài, để chiếm lấy trái tim chúng ta, Chúa Giêsu đã làm nhiều hơn nữa : Thánh Thể không chỉ là hy lễ muôn đời của luật mới, nhưng còn là bí tích tình thương, trong đó Chúa Giêsu ban Mình Ngài cho ta cách khôn tả.

Chúa Giêsu Thánh Thể vẫn hằng ngày ở trên các bàn thờ của chúng ta, không những chỉ trong thờ gian ngắn ngủi của Thánh Lễ, mà Ngài còn ở lại đó suốt đêm ngày vì chúng ta.

Đôi khi, cũng như rất nhiều người khác, tôi thấy như muốn ghen tị với những môn đệ của Chúa Giêsu, luôn được sống bên cạnh Ngài : đó là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, và cả Mađalêna nữa. Họ thật là có phúc !

Họ luôn được nhìn thấy Chúa Giêsu dịu hiền và vô cùng tốt lành, được nghe tiếng nói vừa dịu dàng vừa uy nghi của Ngài, tiếng nói đã làm say mê quần chúng. Họ được chứng kiến những phép lạ Ngài làm để chữa lành những người bệnh tật. Họ có thể nói chuyện thân mật với Ngài, trình bày cho Ngài thấy những nhu cầu của họ. Họ thật là diễm phúc vì đã sống đồng thời với Ngài và được Ngài chọn làm những bạn đồng hành của Ngài.

Nếu như tôi được ở bên cạnh Chúa Giêsu như mấy ông Tông đồ này, chắc tôi đã yêu mến Ngài rất nhiều. Và chắc chắn tôi đã trọn vẹn tin tưởng nơi Ngài, nếu tôi được chứng kiến các phép lạ Ngài làm. Và chắc tôi đã không bị Ngài quở trách như Ngài đã quở trách các ông : “Hỡi những kẻ kém lòng tin !” (Mt 8,26).

Nhưng này ! Nếu đức tin của tôi mãnh liệt, nếu tôi không sống theo giác quan, tôi sẽ không có gì phải ghen tị với các Tông đồ. Tôi cũng có Chúa Giêsu bên cạnh tôi như họ. Tôi có thể tới gặp Ngài bất cứ giờ nào. Tôi còn hạnh phúc hơn cả Mađalêna, vì không chỉ một lần, nhưng mọi ngày, nếu tôi muốn, tôi có thể lấy dầu thơm của lòng yêu mến để xức lên chân Ngài. Hằng ngày tôi có thể chứng kiến phép lạ vĩ đại nhất của Chúa, mà sánh với phép lạ này thì phép lạ Ngài làm tại tiệc cưới thành Cana chỉ là một hình bóng : đó là phép lạ Chúa thực hiện hằng ngày trên các bàn thờ khi làm cho bánh và rượu trở nên Mình và Máu thánh Ngài.

Nếu đức tin của tôi không phải là một đức tin chết, nhưng là đức tin sống động, thì tôi biết rằng có Chúa Giêsu trong Nhà tạm, tôi không phải vất vả chen lấn để vào trước mặt Ngài, trình bày cho Ngài thấy những bệnh tật phần xác và phần hồn của tôi. Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế nhân hậu đã chữa lành thân xác và tâm hồn những bệnh nhân và những người đau khổ, đã an ủi những người sầu khổ, đã tha tội và ban ân sủng cho những kẻ chạy đến với Ngài, thì cũng chính Ngài đang chờ mong tôi đêm ngày trong Nhà Tạm, để chữa lành và an ủi tôi. Ngài vẫn ở đó với quyền năng và tình thương vô biên của Ngài để khiến tôi tin cậy và tín thác nơi Ngài, vì Ngài ở trong bí tích Thánh Thể để lắng nghe tôi và thánh hóa tôi.

Ôi ! Đức tin là nhân đức qúi trọng chừng nào! Bởi vì với một đức tin vững vàng và mãnh liệt, tôi mới cảm thấy Chúa Giêsu trong Thánh Thể với quyền năng vô cùng và tình thương vô biên. Thiếu một niềm tin như thế, tôi sẽ không thể mở rộng linh hồn ra để đón Chúa Giêsu, để Ngài ngự trị trong linh hồn tôi, và để tôi sống trọn vẹn niềm tín thác nơi Ngài và yêu mến Ngài.

Vậy tôi sẽ năng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể. Tôi sẽ thưa với Chúa mọi điều mà không sợ chi. Không ai có thể nghe trộm những tâm sự của tôi với Chúa, những thú nhận của tôi trước nhan thánh hiền hậu của Ngài. Tôi sẽ nói hết những gì tôi nghĩ, những gì có thể đang đè nặng trên trái tim tôi, và tôi không dám than thở với ai. Chính đó là những gì Chúa Giêsu muốn nghe tôi tâm sự. Tôi sẽ thổ lộ hết tâm can tôi cho Ngài, và đó sẽ là như tặng phẩm qúi giá nhất mà tôi hiến dâng Ngài, để đáp lại hồng ân cao qúi vô cùng Ngài ban cho tôi trong bí tích Thánh Thể, vì Ngài đã ban chính mình Ngài cho tôi.

Ngài sai tôi đi xin lòng yêu mến như các môn đệ Ngài xưa.

– Biết bao lần trong cuộc đời, tôi đã cảm thấy cần có một người an ủi tôi, một người để tôi tâm sự! Tôi đã khổ đau, đã gặp những thập giá trên đường đời, và tôi đã đau khổ. Tâm hồn tôi cảm thấy nhọc nhằn, chán nản và phần nào ngã lòng… Những bạn hữu thân thiết nhất cũng chỉ hiểu phần nào cái phần thâm sâu của những đau khổ của tôi. Đó là những lúc tôi phải đến với Chúa Giêsu Thánh Thể. “Thầy đang ở đó và gọi em”. Như Mađalêna, tôi đang khóc, nhưng Chúa Giêsu đang ở đàng kia. Nhà Tạm không ở xa lắm. Nhất là nếu tôi là linh mục hoặc tu sĩ, tôi có thể lập tức chạy đến với Chúa Giêsu và than thở với Ngài. Ngài sẽ hiểu những khát vọng sâu xa nhất của tôi, cũng như những buồn phiền bí mật nhất của tôi. Ngài hiểu sâu xa hơn chính tôi hiểu bản thân tôi.

Ngài vẫn là nguồn suối nước trong và mát, tuôn chảy ra cho đến sự sống muôn đời. Xưa Ngài đã nói : “Ai khát hãy đến với tôi mà uống !”. Lạy Chúa Giêsu, con khát, con đói, con đau khổ. Con mang tới trước mặt Chúa tấm thân đau đớn của con, trái tim đau khổ của con. Xin Chúa an ủi con, xin chữa lành con như Chúa đã thương chữa lành biết bao người chạy đến với Ngài.

Đôi khi sự việc ngược hẳn, các vai trò thay đổi. Có những ngày linh hồn tôi nồng nàn, rung lên vì yêu mến Chúa. Thần Khí của ân sủng đang thổi vào linh hồn tôi, một tâm tình an vui ngọt ngào của tình mến yêu thụ động và thiên phú làm cho tôi nhảy mừng. Trái tim tôi tràn ngập tình mến yêu. Tôi cảm thấy cần phải dâng lên Chúa Giêsu những dạt dào của lòng mến. Khi đó Chúa Giêsu Thánh Thể gọi tôi, và lần này tôi là người an ủi Ngài. Chính tôi sẽ dùng những tâm tình mến yêu nồng nàn của tôi để an ủi Ngài vì vẻ lạnh nhạt của nhiều linh hồn Ngài yêu thương mà không yêu mến Ngài. Chính Chúa Giêsu đang buồn rầu. Ngài khóc. Đây là lúc tôi phải an ủi Ngài, dâng cho Ngài trái tim mến yêu của tôi cùng với những tâm tình đền tạ. Tôi phải ôm lấy Ngài, ôm ghì Ngài trên trái tim tôi và nói với Ngài những lời yêu mến mà đức mến gợi lên trong tâm hồn tôi.

Chắc chắn những trao đổi tâm tình yêu mến, những sự an ủi nhau như thế giữa Chúa Giêsu và chúng ta sẽ mang lại sự thân mật và thêm niềm tín thác của chúng ta đối với Chúa. Được Chúa Giêsu an ủi, tất nhiên là tuyệt hảo để nuôi dưỡng niềm tín thác. Nhưng an ủi Chúa có lẽ còn là điều tốt hơn. Lần lượt an ủi Chúa, rồi lại được Ngài an ủi, yêu mến Chúa và được Ngài yêu thương, đó là cách làm cho tình mến yêu và niềm tín thác của ta ngày thêm thắm thiết và bền vững.

Nhưng lòng mến của tôi chưa làm thỏa lòng Chúa Giêsu. Ngài ước ao chiếm được trái tim của mọi người. Tôi cảm thấy như thế lắm. Cho nên nhiều khi Ngài sai tôi đi tìm kiếm các con tim, các tâm hồn. Ngài sai tôi đi, như đã sai các môn đệ Ngài xưa, để tôi lau nước mắt cho những người đau khổ, viếng thăm các bệnh nhân và nhất là chữa lành các tâm hồn, để xin họ hãy yêu mến Ngài. Có những ngày sứ mạng của tôi được chúc lành, đạt được những thành qủa tốt đẹp. Nhưng cũng có những ngày tôi không cảm thấy ơn trợ lực của Chúa, sự thiếu thành tâm thiện chí của người ta qúa rõ ràng. Sau những lần ra đi như thế, tôi đã về kể lại mọi sự cho Chúa Giêsu. Cũng như các tông đồ xưa, tôi đã kể lại cho Chúa nghe những thành công và những thất bại, những niềm vui và những nỗi buồn của tôi.

Và Chúa Giêsu đã chăm chú nghe tôi kể. Ngài hoan nghênh các kết qủa của tôi, khuyến khích tôi nỗ lực thêm, nhất là những khi xem ra tôi đã lao nhọc vô ích. Cũng có lần Ngài bảo tôi cũng như Ngài đã nói với các môn đệ Ngài xưa : “Thứ qủi này chỉ chịu thua việc cầu nguyện và ăn chay”. Ngài cũng dạy tôi phải chịu đau khổ, phải hãm mình để cầu xin cho những linh hồn cưỡng lại ơn Chúa. Để an ủi tôi, Ngài cũng dạy tôi rằng những lời cầu nguyện với niềm tín thác sẽ luôn được Chúa vui nhận và sẽ ban cho như chúng ta xin, hoặc ban cho cách rộng rãi hơn. Ngài cũng muốn tôi hiểu rằng sự thiếu thiện chí của các linh hồn nhiều khi là trở ngại khó vượt qua, nhưng khi ta kiên trì cầu nguyện và nài nẵng nhiều, thì sau cùng các linh hồn đó cũng nhờ ta mà nhận được các ơn của Chúa[1].

Ôi !  Chúa Giêsu Thánh Thể là người bạn vô cùng mến yêu, là lò lửa tình yêu mà chúng ta phải năng đến đắm mình trong đó, để hâm nóng tình mến yêu và để củng cố niềm tín thác đã bị hao mòn hằng ngày do những nghịch cảnh và những chuyện buồn của cuộc sống. Chúng ta đừng bao giờ sợ làm phiền hoặc quấy rầy Chúa Giêsu. Trái lại Ngài luôn mong chờ chúng ta đến với Ngài.

Người bạn trong Nhà tạm của chúng ta không như các bạn hữu trần gian. Nơi các bạn hữu thân thiết của ta ở đời này, niềm tin cậy của ta thường lâu ngày sẽ suy giảm. Xét cho cùng, các bạn hữu của ta không có nhiều khả năng như ta nghĩ lúc đầu : họ không có thể giúp đỡ ta như họ muốn và như ta trông đợi. Hoặc những nết xấu của họ dần dần lộ ra và làm ta dần dần xa họ. Thế là tình bạn bị nguội dần đi. Hoặc họ không để tâm và không dành thời giờ để luôn nghe ta tâm sự, vì họ còn nhiều việc phải to loan, nhiều nhu cầu cần phải giải quyết.

Trái lại, đối với Chúa Giêsu Thánh Thể, ta càng đến với Ngài, càng hiểu biết Ngài, thì niềm tin cậy của ta càng gia tăng. Muôn ơn lành Ngài ban cho ta sẽ không làm Ngài nghèo đi, và sau khi đổ muôn hồng ân xuống trong linh hồn ta, Ngài vẫn chưa thỏa mãn lòng quảng đại vô cùng của Ngài. Trái lại có thể thấy như những ơn Ngài đã ban sẽ kêu gọi Ngài ban thêm nhiều ơn hơn nữa, để bổ sung những chỗ còn thiếu thốn, hầu chúng ta được no đầy ân sủng của Ngài. Đúng thế, chúng ta càng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta càng cảm nghiệm được tình thương và lòng thương xót của Ngài, và nhờ đó niềm tín thác của chúng ta càng thêm trọn vẹn và vững vàng.

Đó là kinh nghiệm diễm phúc của những linh hồn sống nội tâm và siêng năng tới gặp Chúa Giêsu Thánh Thể, kinh nghiệm của những bài học hằng ngày của cuộc sống, kinh nghiệm của những biến cố do Chúa quan phòng gửi đến cho chúng ta, của những đau khổ và của những bệnh tật. Kinh nghiệm này diễn ra trong đáy lòng chúng ta, khi ta cảm thấy thì tâm hồn vui sướng và tràn ngập niềm sống tín thác.

Niềm tín thác của chúng ta giống như một chiếc phong vũ biểu.

– Bất hạnh thay ! Phải thú nhận rằng niềm tín thác thiếu vững vàng của chúng ta giống như một chiếc phong vũ biểu : nó hạ xuống khi trời mưa, và lên cao khi trời đẹp. Nếu dưới chân Nhà tạm, chúng ta cảm thấy tâm tình mến yêu Chúa Giêsu, cảm thấy được Chúa thương và ở bên Chúa, lập tức niềm tín thác của ta lên cao. Rồi một giờ sau đó, vừa rời xa bàn thờ để trở về với công việc làm của mình, trái tim ta đã trở lại mức bình thường. Có thể ta cảm thấy khô khan và lạnh lẽo. Mà có gì thay đổi đâu ? Chúng ta vẫn tin và mến yêu Chúa như thế. Mọi sự vẫn thế, chỉ có niềm tín thác đã khác đi.

Sau đó, nếu trời mưa, và nhất là nếu có gió bão, niềm tín thác của ta sẽ xuống thấp. Con thuyền nhỏ bé là linh hồn ta bị dao động, trái tim ta, niềm tín thác của ta bị quay cuồng khi nhìn thấy những vực thẳm… Ôi Chúa Giêsu ở đâu bây giờ ? Ngài đang làm gì ? Ngài ngủ chăng ? Sau biết bao kinh nghiệm, sau biết bao phép lạ của lòng nhân hậu Chúa, tôi hoảng hốt kêu lên như các tông đồ, vậy mà tôi cứ tưởng là mình can đảm lắm : “Lạy Chúa, xin cứu chúng con, chúng con chết mất !”.

Thật ra, niềm tín thác của chúng ta đã không sút giảm. Sự sút giảm chỉ là bề ngoài. Chúa Giêsu đã sàng sẩy nó, đã lọc kỹ nó và phân biệt nó với niềm tín thác tự nhiên : Chúa đã tách nó ra khỏi phần rác rưởi là sự tin cậy vào sức mình của ta. Chúng ta đã tưởng niềm tín thác của mình lớn lắm : nay chúng ta mới thấy thực tế nó là gì : một nắm hạt lúa tốt ở giữa nhiều hạt lép.

Nhưng chúng ta đừng sợ những thử thách này, những đêm tối này, những trận bão này. Chúng rất bổ ích cho ta. Chúng giúp ta phát hiện ra khuyết điểm lớn nhất trong đời sống thiêng liêng của ta : đó là sự tin tưởng vào sức mình. Niềm tín thác tử nhiên này thường có dáng điệu như niềm tín thác siêu nhiên và đích thực. Đối với nhân đức cậy trông và niềm tín thác đích thực, nó cũng như tính tự ái và sự yêu mình so sánh với đức ái. Cả hai tính xấu này đều rất tai hại. Điều đáng tiếc là chúng ta quên chống lại thứ tín thác pha phôi này, hơn là chống lại lòng mến yêu pha phôi. Bởi vậy Chúa nhận làm công việc này cho ta bằng những giờ phút chán nản, những cơn cám dỗ, những đêm tối mà không bao giờ chúng ta tự chọn lấy cho mình.

Chúng ta đừng để mình bị ảnh hưởng bởi những sự khô khan và những sự khốn nạn của mình, kể cả những sa ngã và những tội lỗi của mình. Chính bây giờ là lúc phải cậy trông vào Chúa, phải cho thấy chúng ta không cậy vào sức mình, không cậy vào những nhân đức nửa chừng của mình. Thay vì bực mình, thay vì cáu kỉnh với mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, như đứa bé chạy lại với mẹ nó. Sau khi té ngã, đứa bé chạy lại khóc trong lòng mẹ nó, xin mẹ nó xoa những vết thương của nó. Chúng ta cũng hãy làm như vậy với Chúa Giêsu Thánh Thể. Ngài là Đấng nhân hậu vô cùng, Ngài biết rõ sự yếu đuối bẩm sinh của ta, Ngài không ngạc nhiên về những sa ngã của ta. Trong tình yêu đầy thương xót của Ngài, Ngài càng thương xót ta hơn, càng lo cứu giúp ta hơn. “Chúng ta hãy gieo mình vào vòng tay của Chúa ! Ngài sẽ không tránh ra để chúng ta té ngã đâu” (Th.Augustinô). Hãy chạy lại ôm lấy Chúa cách âu yếm, những sự tỏ bày lòng yêu mến như thế sẽ đền bù đầy đủ những lỗi phạm của ta.

Có biết bao lý do để ta cậy trông nơi Chúa Giêsu Thánh Thể.

– Một người thánh, một vị thần bí vĩ đại của thời đại chúng ta, một người đã sống ở Paris cách âm thầm dưới bí danh là Lucia-Christine, một hôm đã nhận được những ánh sáng kỳ diệu của Chúa để nhìn thấy lòng nhân hậu vô biên của Chúa Giêsu. Bà đã ghi lại mấy lời vắn tắt nhưng vô cùng ý nghĩa sau đây trong Nhật ký của bà : “Ngày 25 tháng 8 năm 1882. Cảm nghiệm lòng nhân hậu của Chúa Giêsu khi rước lễ. Chúng ta sẽ chết mà không nhận biết lòng nhân hậu của Chúa Giêsu, dầu đã có những phút hiệp thông khôn tả này”[2]

Đúng thế, làm gì mặc lòng. Chúng ta cũng không bao giờ hiểu thấu được lòng nhân hậu của Chúa Giêsu Thánh Thể, và không bao giờ niềm tín thác của chúng ta có thể đền đáp phần nào tình thương dịu dàng của Chúa đối với chúng ta. Chúng ta sợ xin qúa nhiều, sợ xin những ân sủng qúa đặc biệt. Chúng ta sợ không dám xin ơn được hoàn toàn chết cho bản thân mình, hoặc ơn chiêm niệm thiên phú, hoặc được dồi dào các ơn của Chúa Thánh Thần, dẫn tới cuộc sống thần bí, và giúp cho linh hồn biến đổi nên giống Chúa Giêsu, trở nên thánh thiện thật sự.

Mà Chúa Giêsu không ở trong Nhà tạm để ban phát các ơn đó cho ta sao ? Ngài không đang chờ ta đến xin Ngài các hồng ân đó sao ? Ngài cảm thấy muốn ban phát các ơn đó, và ban phát cách rộng rãi. Ngài cảm thấy khổ tâm vì sự trì hoãn của chúng ta, một sự trì hoãn do thiếu hiểu biết, do một sự khiêm nhường sai lầm. Như vậy do thiếu tín thác đích thực, chúng ta đã để mất rất nhiều ơn lớn lao.

Các thánh Giáo phụ qủa quyết : Thiên Chúa ban các ơn cho ta tùy theo mức cậy trông và tín thác của ta. Thánh Cyprianô nói : “Chiếc bình của niềm tín thác của ta càng sâu, lượng nước các hồng ân Chúa ban cho ta càng lớn. Người ta càng cậy trông nhiều, sẽ càng nhận được nhiều”. Ở thời đại chúng ta, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu cũng nói : “Người ta không bao giờ cậy trông quá nhiều nơi Thiên Chúa. Người ta nhận được tất cả những gì người ta cậy trông nơi Ngài”. Thật chúng ta khờ dại một cách đáng thương hại qúa ! Vì một sự khiêm nhường sai lầm, chúng ta sợ xin nhiều qúa, thành thử chúng ta cứ nghèo hoài, trong khi lẽ ra có thể nên giầu có lắm. Thánh Bênađô nói : “Bạn có thể nhận được tất cả những gì bạn cầu xin với niềm tín thác. Nếu bạn cậy trông nhiều, Chúa sẽ ban nhiều cho bạn; nếu bạn trông cậy ít, bạn sẽ chỉ được ít”.

Tại sao chúng ta không tận niềm tín thác đi? Điều đó sẽ thay đổi hẳn cuộc sống của chúng ta. Con thuyền nhỏ linh hồn chúng ta sẽ căng buồm mau lẹ đi thẳng tới đích là kết hiệp thân mật với Chúa Giêsu ! Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu đã chỉ mau lẹ chạy trên con đường của tình yêu Chúa, từ sau khi niềm tín thác của chị thánh được củng cố. Từ sau hôm đó, cuộc đời của chị thánh đã hoàn toàn đổi mới. Phải chăng đó cũng là điều chúng ta phải làm? Ước chi tôi có thể thực hiện điều đó ngay hôm nay! Không trì hoãn ! Ước chi, trong một nỗ lực tối đa để đáp lại lòng nhân hậu vô cùng của Chúa Giêsu Thánh Thể, tôi có thể gạt bỏ hẳn tất cả mọi sợ hãi vô cớ, mọi sự nhát gan và tất cả những gì do cái thứ tín thác giả hiệu, tín thác theo tính tự nhiên, dựa vào các nhân đức của tôi !

Từ nay, tôi chỉ cậy trông vào các nhân đức và công nghiệp vô cùng của Chúa Giêsu. Niềm cậy trông của tôi, niềm tín thác của tôi là sự dịu dàng vô cùng của Chúa Giêsu, lòng nhân hậu khôn ví của Chúa Giêsu Thánh Thể. Hay là tôi vẫn chưa tuyệt đối tin vào lòng thương xót và nhân hậu của Ngài ? Có thể tôi vẫn chưa tín thác nơi Ngài như nơi một người cha rất thương con và một người mẹ rất âu yếu con mình ? Nếu tôi biết chắc, khi tới kể cho má tôi nghe những đau khổ của tôi, tôi sẽ được an ủi, và nếu tôi tới kể cho cha tôi biết những vết thương của tôi, tôi sẽ được cha tôi lo chữa cho tôi, vậy sao tôi không chạy tới Chúa Giêsu Thánh Thể để được an ủi và chữa lành các vết thương của tâm hồn ? Chúa Giêsu vô cùng nhân hậu, và yêu thuơng ta vô cùng, lại không lo cho ta bằng cha mẹ trần gian sao ?

Đáng buồn thay ! Tôi phải nhận thức rằng tôi chưa có tin tưởng và tín thác nơi Chúa Giêsu Thánh Thể bằng một đứa con thảo tín thác nơi người mẹ hiền của nó. Tôi không biết do thiếu niềm tin, hoặc do không khí của chủ nghĩa duy vật, hoặc do một niềm tin tưởng ngu dại nơi các nhân đức và các nỗ lực của mình, mà tôi chưa có được niềm tin tưởng, tín thác trọn vẹn và tuyệt đối nơi Chúa Giêsu rất dịu hiền và đầy lòng thương xót của tôi.

Qúa khứ của tôi có làm giảm niềm cậy trông của tôi chăng ? Những bài học của bản thân tôi có làm nhụt khí, làm lung lay niềm tín thác của tôi chăng ? Có bao giờ tôi bị lừa dối vì qúa tin cậy vào lòng nhân hậu của Chúa chưa ? Hay là tôi đã đau khổ chỉ vì quá tin cậy vào sức mình ? Sau cùng, có bao giờ, có lần nào trong đời tôi, tôi đã nghĩ rằng mình tin cậy qúa nhiều vào Chúa Giêsu rất thương mến chăng ? Có lần nào tôi đã hối hận vì qúa cậy trông nơi Chúa Giêsu vô cùng tốt lành chăng ? Có lần nào trong đáy lòng tôi, Chúa Giêsu dịu hiền đã trách tôi vì tín thác qúa nhiều nơi Ngài chăng ? Không, không bao giờ ! Chỉ trái lại thì có. Biết bao lần, tôi đã nghe thấy Chúa trách tôi như đã quở trách các tông đồ xưa : “Hỡi người kém niềm tin, tại sao lại nghi ngờ ?” (Mt 14,31). Biết bao lần, tôi đã phải cay đắng trách mình rằng : Lần này cũng vậy, đáng lẽ tôi phải trọn niềm tín thác, nhưng một lần nữa tôi đã thiếu lòng trông cậy.

Lạy Chúa Giêsu con mến yêu, xin tha thứ những sự thiếu tin tưởng và tín thác của con ! Xin Chúa thứ tha những lần con đã dại dột tin cậy vào sức mình : sự tin cậy ngu dại này đã bỏ rơi con trong các cơn nguy khốn. Xin Chúa thứ tha biết bao lần con đã nghi ngờ lòng nhân hậu của Chúa, đã không đáp lại tình thương vô cùng của Chúa bằng một niềm tín thác trọn vẹn. “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Ngài giúp đỡ sự thiếu niềm tin của con” (Mc 9,24).

III. CHÚA GIÊSU, KHÁCH TRỌ CỦA TRÁI TIM TA.

–   HÃY DÂNG LÊN CHÚA CHA LÒNG MẾN YÊU CỦA CHÚA GIÊSU ĐANG HẤP HỐI VÌ VINH QUANG CỦA CHA NGÀI, RỒI CHỜ ĐỢI MỌI SỰ TỪ NƠI NGÀI.

–   NHỮNG NIỀM VUI KHÔN TẢ CỦA VIỆC RƯỚC LỄ.

–   CHÚA GIÊSU ĐÃ LÀM MỌI SỰ CHO TÔI, ĐÓ LÀ LÝ DO ĐỂ TIN TƯỞNG TÍN THÁC NƠI NGÀI.

Hãy dâng lên Chúa Cha lòng mến yêu của Chúa Giêsu đang hấp hối trên thập giá vì vinh  quang của Cha Ngài, rồi chờ đợi mọi sự từ nơi Ngài.

– Khi Chúa Giêsu tự hiến tế cách mầu nhiệm và không đổ máu trên bàn thờ, khi Ngài lặp lại sự hy sinh cao cả của Ngài xưa trên Núi Sọ, nếu tôi có ước nguyện, thì Ngài sẽ đến với tôi khi tôi rước lễ. Tôi đón nhận Ngài vào trong tôi giữa lúc Ngài vừa tự hiến thân làm hy lễ dâng lên Cha Ngài. Trái tim Ngài đang bừng bừng cháy lửa mến yêu Cha Ngài : Ngài là vị tử đạo vĩ đại của lòng mến yêu, Chúa Giêsu của tôi, Ngài là hy lễ của bàn thờ, hy lễ của mến yêu.

Có thể tôi đã thường quên nhãng khía cạnh hy lễ tình yêu của Chúa Giêsu, khi tôi rước lễ. Khi rước lễ, tôi chỉ thường nghĩ tới Chúa Giêsu là Chúa của tôi, là Đấng Cứu Chuộc tôi, là Thầy tôi, là bạn thân của tôi. Tôi cũng kêu van Ngài như Thầy thuốc của linh hồn đau khổ của tôi. Nhưng có thể tôi đã quên Ngài là hy lễ mến yêu dâng lên Cha Ngài, và Ngài đã chết để tỏ lòng mến yêu Cha Ngài và yêu thương tôi.

Nếu tôi nhớ thì điều này sẽ giúp tôi thêm tín thác biết bao ! Đó sẽ là dịp để tôi khẩn nài Chúa, xin Ngài ban thêm các nhân đức tin, cậy và mến cho tôi. Thật là ngọt ngào và vô cùng phấn khởi được dâng lên Thiên Chúa Cha lòng mến yêu vô biên của Chúa Giêsu Con Ngài, đã chết vì yêu mến Ngài. Được dâng lên Cha Ngài trái tim của Con Ngài đang đập một cách kỳ diệu ở trong tôi và đang hấp hối vì mến Cha Ngài ở trong tôi ! Tôi chắc chắn sẽ làm đẹp lòng Chúa Cha, khi tôi dâng lên Ngài của lễ tình yêu của Con Ngài. Ngài sẽ nhìn xuống tôi cách âu yếm khôn tả, vì Ngài nhìn thấy trong ngực tôi Người Con của Ngài là Chúa Giêsu đã hiến tế vì mến yêu Ngài.

Bây giờ, tất cả những gì tôi cầu xin với Chúa Cha, tôi chắc chắn sẽ được Ngài ban cho. Bất cứ hồng ân gì, dầu lớn lao đến đâu, sẽ chỉ là rất nhỏ bé sánh với của lễ mà tôi vừa dâng lên Ngài. Không, Ngài không có thể  từ chối tôi điều gì, bởi vì ít là lần này, dám nói là Ngài mắc nợ tôi…

Những niềm vui khôn tả của việc rước lễ.

– Sau việc tế lễ cảm động này, tôi đã dâng lên Chúa Cha hy lễ tình yêu vô biên của Chúa Giêsu Con Ngài, bây giờ tôi có thể thờ lạy, mến yêu và than thở giờ lâu với Chúa Giêsu mến yêu. Hoặc tôi có thể an nghỉ trong tình thương của Ngài, im lặng cảm nghiệm tình thương của Ngài.

Tôi thật là một vật thọ tạo bé nhỏ diễm phúc, vì nay Chúa Giêsu đang ở trong linh hồn tôi. Ngài ở trong tôi, cho một mình tôi. Đây cũng chính là Đức Giêsu thành Nazareth, đã sống tại xứ Galilêa và xứ Giuđêa xưa, nhưng tôi không gặp những đám đông, không phải chen chúc khó khăn để đến bên cạnh Ngài và xin Ngài chữa những bệnh tật của tôi. Tôi không bị những cặp mắt kiêu căng nhìn ngó, khi tôi muốn hôn chân Chúa và lấy những nước mắt thống hối của tôi để rửa chân Ngài. Tôi không phải lén nhìn giây phút thuận tiện để sờ trộm vào gấu áo Ngài. Tôi cũng không phải trèo lên cây vả để nhìn thấy Ngài qua đường giữa đám đông, hầu thấy được nét mặt vô cùng hiền từ và thương xót của Ngài. Chúa Giêsu Thánh Thể là của tôi, không một đám người nào, không một ai có thể cướp Ngài khỏi linh hồn tôi.

Qùy trước Nhà Tạm, tôi nhớ lại khuôn mặt vô cùng hiền hậu và thương xót mọi người của Chúa Giêsu trong Phúc Âm. Biết bao hoạt cảnh đầy cảm xúc lần lượt diễn ta trong trí tôi : người phụ nữ xứ Samaria, Mađalêna, người đàn bà ngoại tình. Làm sao tâm hồn tôi không chứa chan niềm tín thác ?

Chính Chúa Giêsu Thánh Thể đang nói với tôi: “Hỡi tất cả những ai đang lao nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ cho” (Mt 11,28).

Và cũng chính Ngài đã nói : “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai có thể đến với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

Là thầy thuốc, Ngài có khả năng và vẫn muốn chữa lành những bệnh tật phần xác của tôi, nếu Ngài thấy đó là điều bổ ích cho tôi. Nhưng nhất là Ngài muốn chữa lành những bệnh tật thiêng liêng của tôi. Là người Samaritanô nhân hậu, Ngài đã đến để băng bó các vết thương của tôi, an ủi tôi, và khích lệ tôi. Là mục tử tốt lành, Ngài nâng tôi lên và ôm vào lòng Ngài, để làm cho tôi quên đi những ưu phiền của tôi.

Là người có tài làm say mê quần chúng, Ngài cũng có thể làm tôi say mê, và Ngài đã làm tôi say mê bằng những lời dịu dàng Ngài nói với tôi trong đáy tâm hồn tôi. Ngài cũng có thể trói buộc tôi, như đã trói buộc Mađalêna, bằng những sợi dây huyền diệu của sự yêu thương của Ngài, và ban cho tôi, cũng như đã ban cho Mađalêna, hồng ân của đức mến yêu thiên phú và thụ động và những đặc ân của chiêm niệm thần bí. Sau cùng, như Gioan, người môn đệ Chúa yêu thương cách riêng, tôi có thể ngả đầu trên ngực Ngài và tâm sự cách âm thầm với Ngài, không ai có thể nghe được.

Chúa Giêsu đã làm mọi sự cho tôi : đó là lý do để tín thác.

– Ôi ! Nếu đức tin của tôi sống động hơn và mãnh liệt hơn, nếu tôi hiểu biết nhiều hơn về lòng nhân hậu vô cùng của Chúa Giêsu, nếu tôi hiểu biết được như Mađalêna, tôi cũng sẽ trọn niềm tín thác nơi Chúa như cô ấy, một niềm tín thác táo bạo và trọn vẹn. Mà Chúa Giêsu có làm cho tôi ít hơn đã làm cho cô ấy sao ? Hỡi linh hồn tôi, hãy suy nghĩ cho kỹ ! Còn gì phải làm mà Chúa Giêsu đã không làm để chiếm được trái tim mi ? Ngài đã phải sinh ra trong máng cỏ khó nghèo, sống một cuộc đời đau khổ, chết trên thập giá, và dùng những sự đau đớn của cuộc khổ nạn để sinh ra mi trong cuộc sống siêu nhiên. Sau cùng, Ngài đã phải bỏ trời xuống thế, để trở thành lương thực của mi. Đó là những giai đoạn của con đường dài và vất vả Chúa Giêsu đã phải đi qua để đến với mi. Đó là những phép lạ của tình thương Ngài đã làm để chiếm lấy trái tim mi. Ngài còn phải làm gì nữa để chiếm được lòng mến yêu và niềm tín thác của mi ? Đúng thế, Chúa Giêsu có thể nói với tôi rằng : “Con yêu dấu của Cha, con đã tin vào tình thương của Cha chưa ? Sau cùng, con có tin cậy và tín thác nơi Cha chăng ? Hay con muốn Cha nói với con như đã nói với tông đồ Tôma, con hãy đặt tay trên những vết thương của hai bàn tay và hai chân Cha, hãy đặt tay trên Trái Tim Cha. “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27).

Đúng thế, tôi đã hiểu qúa ít về tình thương và lòng nhân hậu của Chúa Giêsu, cho nên tôi đã không yêu mến Ngài hết linh hồn và hết sức tôi, để đáp lại tình thương bao la của Ngài; tôi đã không trọn vẹn tín thác nơi Ngài, không chút nghi ngại; tôi đã vẫn còn nghi ngờ, khi cầu xin ơn gì, nhất là những ơn đặc biệt; tôi vẫn còn tưởng như Chúa vẫn buồn tôi vì những sự bất trung của tôi, và Ngài chỉ thương tôi phần nào thôi, vì tôi đã có những lỗi phạm và những ngỗ nghịch trước kia. Tôi vẫn chỉ dám đến với Ngài như một kẻ tội lỗi, một bệnh nhân, chứ chưa dám nói tôi yêu mến Ngài và ước ao mến yêu Ngài rất nhiều. Chưa dám xin Ngài làm cho tôi nên thánh.

Vậy bạn đừng sợ nói với Chúa Giêsu về lòng mến yêu. Chính đó là những gì Chúa mong và thích nghe bạn nói với Ngài. Ngài đã làm hết mọi sự để chiếm lấy trái tim bạn, chiếm trọn tình yêu mến của bạn. Ngài không muốn thấy bạn dành tình yêu cho một tạo vật nào khác. Ngài muốn tiêu diệt tất cả lòng tự ái của bạn. Bạn hãy nói bạn yêu mến, rất ước ao mến yêu Ngài như các thánh đã yêu mến Ngài nhiều nhất. Và bạn rất đau khổ vì đã nhiều lần làm phiền lòng Ngài, đã nhiều khi lạnh lùng với Ngài. Chúa Giêsu rất thông cảm và thương cảm với những buồn phiền và đau khổ của bạn, nhất là khi bạn đau khổ và buồn phiền vì đã không nồng nàn yêu mến Ngài như bạn ước ao. Nếu bạn cảm thấy nỗi buồn như những bạn thân nhất của Chúa, buồn vì chưa yêu mến Chúa nồng nàn, yêu mến đến điên cuồng, thì bạn hãy nói với Chúa về sự buồn phiền đó. Bạn hãy than thở ngàn lần với Chúa về nỗi buồn đó, Ngài sẽ thương yêu bạn vô cùng.

 

[1] Nên phân biệt lời cầu nguyện cho mình và cho người khác. Nếu những người mà ta cầu xin cho lại thiếu thiện chí và thành tâm thì có khi lời cầu của ta không kết qủa.

[2] Nhật ký của Lucia – Christine, do cha Poulain S.J. xuất bản, tr. 86-87

 

Paul De Jaegher S.J.

PHÂN ĐỊNH: HIỂU BIẾT VÀ KHÔN NGOAN

Hiểu biết là thứ có thể sao chép, ghi nhớ, ta có thể diễn giải rất rõ ràng, thuyết phục những điều mình biết, nhưng, đó chỉ là lặp lại điều người khác đã nói. Khôn ngoan không thể sao chép, nó chỉ nảy sinh, khi ta trực tiếp chạm vào sự thật, bằng trải nghiệm sống động của chính mình, chứ không phải bằng ký ức vay mượn từ người khác. Trên đường thiêng liêng, ta thường bị mắc kẹt trong chính hiểu biết của mình: ta biết nhiều về cầu nguyện, chiêm niệm, thần bí; có thể giảng giải rất hay, thuyết phục, nhưng, sâu bên trong, ta vẫn chưa phải là người khôn ngoan. Chẳng hạn, ta có thể nói hàng giờ về các phương pháp cầu nguyện, chiêm niệm, thần bí, nhưng rồi, chỉ một lời xúc phạm nhỏ, cũng khiến ta nổi điên lên; một mất mát nhỏ, cũng khiến ta hoảng loạn, suy sụp. Điều này chứng tỏ: những hiểu biết của ta chỉ là những lời thuộc lòng, chứ, chưa được chứng nghiệm, bằng chính cái giá, mà ta phải trả, khi thực hành lời Đức Giêsu đã dạy: từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa.

Sự khác biệt lớn nhất giữa hiểu biết và khôn ngoan nằm ở chỗ: Hiểu biết là biết bằng đầu, còn, khôn ngoan là cảm nghiệm bằng tim. Biết là khi ta có một khái niệm, một định nghĩa, một cấu trúc, ta có thể nói về nó, giải thích nó, dạy lại cho người khác, nhưng, tất cả đều nằm trong khuôn khổ của từ ngữ, tức là, cái đã được định hình, đóng khung, quy ước. Cảm nghiệm thì không cần ngôn từ, nó là sự nhận thức trực tiếp, không qua trung gian của lý trí, nó xảy ra trong khoảnh khắc, nó rõ ràng, không cần diễn giải, nó không nằm trong hệ thống logic, nhưng lại, không thể bị phủ nhận, chẳng hạn, ta có thể nói về sự thinh lặng nội tâm, có thể mô tả nó như trạng thái không còn suy nghĩ, một sự bình an sâu lắng, nhưng, đó chỉ là mô tả, chỉ là biết, còn, cảm nghiệm là khi ta ngồi xuống không làm gì cả, và đột nhiên, nhận ra toàn bộ tâm trí trở nên tĩnh lặng trong sự hiện diện đầy tràn của Chúa: thấy mọi sự, mọi việc, mọi người, như chính Chúa thấy.

Khôn ngoan như mặt trời, nó luôn hiện diện, nhưng nếu, bầu trời đầy mây, ta sẽ không thấy ánh sáng của nó, mây ở đây là các lớp tư duy đã hình thành qua năm tháng: các định nghĩa ta đã học, các khái niệm ta đã tin, các trải nghiệm ta đã gán nhãn, tất cả tạo nên một lớp bụi mù, che phủ cái thấy trong trẻo nguyên sơ. Khi ta thấy mình muốn biết thêm, hãy hỏi, liệu mong muốn ấy có xuất phát từ cái tôi đang khát khao kiểm soát, từng khoảnh khắc tỉnh thức như thế, chính là mảnh đất mà khôn ngoan có thể mọc lên. Chiêm niệm trong bản chất sâu xa của nó, không phải là công cụ để đạt được điều gì đó, chiêm niệm không phải là phương pháp để trở nên an yên hay giải thoát khỏi phiền não, chiêm niệm là sự trở về, tĩnh lặng hóa tâm trí, là ngồi yên với những gì đang là, trong sự thinh lặng ấy, không còn gì để bám víu, không còn gì để mong cầu, chỉ là một sự hiện diện trần trụi trước Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự.

Tóm lại, nếu ta vẫn còn đang tìm kiếm câu trả lời từ bên ngoài, để đạt tới một trạng thái chiêm niệm nào đó, thì ta chưa sẵn sàng để thấy, bởi vì, khôn ngoan không đến từ bên ngoài, không đến từ những lời giảng, từ sách vở, hay từ bất kỳ ai, dù người đó có được gọi là bậc thầy thiêng liêng chiêm niệm; khôn ngoan chỉ đến, khi ta dừng lại, dừng việc cố gắng hiểu, dừng việc cố gắng giải thích mọi thứ, dừng cả mong muốn trở nên khôn ngoan, và trong khoảnh khắc ta thật sự dừng lại, một sự rõ ràng mới xuất hiện không phải như một suy nghĩ, một khái niệm, mà, như một cái thấy trong suốt, không thể chối cãi. Hãy để khôn ngoan tự hiển lộ, không phải vì ta tìm, mà vì, ta không còn bám víu vào điều gì nữa, do bởi, ơn chiêm niệm, thần bí là hoàn toàn nhưng không, thuộc về Chúa 100%: bao lâu Chúa cho, thì ta được; bao lâu còn yếu tố nhân loại chen vào, Chúa không thể hành động được. Việc ta chuẩn bị xô, chậu để hứng nước mưa, ta vẫn phải làm, nhưng, đừng vì đó, mà biến Chúa thành con nợ: phải mưa xuống cho ta; mưa là hồng ân hoàn toàn nhưng không của Chúa, sự cộng tác của ta là mở lòng ra: tin tưởng, cậy trông, đợi chờ Chúa thực hiện lời Người đã hứa.

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.

Hạnh Phúc – Chương 1 - 11. NIỀM VUI TỪ NỘI TÂM

Mỗi người chúng ta đều tự tạo thời tiết, hoạch định màu sắc cho khung trời vũ trụ cảm xúc trong đó chúng ta sống. Với nỗ lực sáng tạo, chúng ta có thể mang ánh sáng mặt trời đến để làm cho tâm hồn chúng ta rạng rỡ mặc cho bất cứ sự cố gì xảy đến trên đường đi của chúng ta. Mặt khác chúng ta cũng có thể để cho mình ngã quị vào nỗi thất vọng nội tâm sâu xa, hoặc bị ngập tràn nỗi phiền muộn đến mức chỉ những khích động mãnh liệt nhất từ bên ngoài tác động lên các giác quan mới có thể đánh thức chúng ta ra khỏi tình trạng lãnh đạm của mình.

Các triết gia bảo với chúng ta là mỗi người đều phải có khoái cảm. Kẻ nào hoà nhập được nhân cách và bản tính của mình đồng thời định hướng cuộc đời mình cho Chúa thì sẽ cảm nhận được niềm khoái cảm to tát bất khả tiêu diệt mà các thánh gọi là Niềm Vui. Không một sự cố từ bên ngoài nào có thể hăm doạ hoặc làm xuyến xao nổi hạnh phúc của người ấy. Đang khi có nhiều người khác thì ngóng ra bên ngoài để tìm khoái cảm và mong đợi các sự cố trong đời sống sẽ cung cấp niềm hạnh phúc cho họ. Vì chẳng ai có thể bắt cả vũ trụ làm nô lệ cho mình được, nên kẻ nào cứ ngóng ra ngoài để tìm khoái cảm thì chắc chắn sẽ thất vọng. Vui đùa quá mức làm chúng ta chán ngán, một tham vọng được thực hiện sẽ trở nên nhàm chán, một ái tình hứa hẹn đầy viên mãn rồi cũng mất đi vẻ hào nhoáng và phấn khích. Hạnh phúc vĩnh tồn không bao giờ có thể đến từ trần gian. Niềm vui không xuất phát từ những gì chúng ta gặt hái hoặc những người chúng ta gặp gỡ mà phải được linh hồn tạo ra một khi chúng ta biết tự quên mình.

Bí quyết để có một cuộc sống hạnh phúc là biết điều hoà các khoái cảm với nhau để gia tăng niềm vui. Thế nhưng một số phương cách sống hiện nay khiến chúng ta khó đạt nổi điều này. Chẳng hạn một trong những phương cách ấy là loại quảng cáo cố gắng gia tăng thị dục chúng ta để chúng ta mua thêm nhiều hàng hoá hơn. Đi kèm theo phương cách này là cái tâm lý trẻ em bị hư vì nuông chiều nơi con người hiện đại. Tâm lý dụ khị con người rằng họ được quyền kiếm tìm mọi thứ họ muốn, rằng thế gian có đủ mọi thứ thoả mãn thị dục nông nổi của họ. Một khi cái tôi của chúng ta đã trở thành trung tâm bắt mọi sự qui phục thì chúng ta rất dễ bị thương tổn: từ đó bình an của chúng ta có thể giống như bị cơn gió lùa từ cánh cửa sổ trống tiêu huỷ; hoặc chỉ vì chúng ta không đủ khả năng mua được tấm áo choàng lông thú quí hiếm mà chỉ quãng 20 người phụ nữ trên trần gian có thể được mặc, hoặc vì chúng ta không được mời đến dự một buổi ăn trưa, hoặc nặng nề hơn, vì chúng ta không đủ khả năng trả được món thuế lợi tức to lớn nhất trong nước. Cái tôi không bao giờ được no thoả nếu nó nắm quyền chỉ huy. Chẳng sự nuông chiều, chẳng vinh dự gì có thể làm yên ổn khát vọng của nó kể cả “nhạc cuồng rượu mạnh”, kể cả những khoái cảm to tát đến từ các bữa tiệc giao hữu hay từ sự trầm trồ của mọi người.

Những kẻ vị ngã đều xem như mình gặp phải tai hoạ nếu bất cứ khát vọng nào của họ cũng bị chối từ, bởi vì họ muốn làm chủ thế giới quanh họ, muốn nắm sợi dây giật con rối cũng như muốn ép buộc mọi kẻ tuỳ thuộc phải vâng theo ý muốn của mình. Và nếu các ước muốn của những cái ngã ấy bị phế bỏ hay bị cái ngã của kẻ khác kiểm soát thì lập tức chúng sẽ rơi vào nỗi tuyệt vọng ngay. Như thế, những dịp gây ra cho chúng nỗi thất vọng và buồn bực rất dễ xảy ra bởi vì tất cả chúng ta đều luôn luôn bị chối từ một số những điều chúng ta ao ước – và rồi chúng ta có thể chọn lựa hoặc sẽ vui vẻ chấp nhận sự mất mát này hoặc sẽ xem nó như một sự xỉ nhục và lăng mạ đối với chúng ta. Ngày nay có cả hàng triệu người hoàn toàn mất hạnh phúc nếu như họ phải mất đi một số đồ vật mà cha ông họ chẳng bao giờ mơ ước. Sự xa hoa đã trở thành nhu yếu đối với họ. Và con người càng cần có thêm đồ vật mới cảm thấy hạnh phúc thì họ càng có nguy cơ bị hụt hẫng và tuyệt vọng. Ham muốn nông nổi chế ngự họ, những điều vụn vặt trói cột họ, họ không còn tự chủ nữa. Các đồ vật bên ngoài, các món đồ chơi hào nhoáng làm chủ họ.

Trong khảo luận mang tựa đề “Republic” (nền Cộng hoà), Platon có viết về một người suốt đời chạy theo những đam mê điên cuồng đầy nông nổi, bài văn ấy được viết ra cách đây 2300 năm thế mà đến hôm nay vẫn còn chính xác: “Anh ta thường khoái lao vào chính trị, vừa đi vừa nhảy, vừa làm vừa nói bất cứ điều gì hiện ra trong óc; hễ khâm phục một vị tướng là mọi chú tâm anh ta hướng về chiến tranh, còn nếu hâm mộ nhà thương gia thì lập tức anh ta đổi chiều theo cùng hàng ngũ với ông này. Anh ta chẳng hề biết đến trật tự và nhu yếu trong cuộc sống, chẳng thèm nghe bất cứ người nào nói cho anh ta biết rằng một số khoái lạc là phần thưởng của những ước muốn cao đẹp tốt lành, một số khác phát xuất từ những ước muốn xấu xa. Vì thế nên kiếm tìm và khuyến khích số tốt cũng như kiềm chế số xấu. Nghe nói thế, anh ta chỉ biết lắc đầu và nói rằng mọi khoái cảm đều giống nhau và đều đáng được quan tâm y như nhau”.

Thực ra, mọi khoái cảm đều phải được sắp xếp theo thứ bậc nếu chúng ta muốn có được sự thoả mãn to tát nhất về cuộc sống. Các niềm vui bền bỉ và mãnh liệt nhất chỉ có thể đến với những kẻ sẵn sàng thực hành sự tự chế, sẵn sàng chịu đựng sự nhàm chán trong việc tuân thủ một kỷ luật sơ đẳng. Quang cảnh đẹp nhất là được nhìn từ đỉnh núi, nhưng lên được đến đó có lẽ phải chịu lắm gian truân. Không ai từng cảm thấy thú vị khi đọc Honace nếu trước đó không từng trui rèn với các mẫu chia văn phạm của sách ấy. Niềm hạnh phúc tràn đầy chỉ được cảm nhận đối với kẻ nào biết tự khước từ một số lạc thú chính đáng ngõ hầu đạt được những niềm vui kéo theo sau đó. Kẻ nào “tự buông thả” thì sẽ thành bệ rạc hoặc điên khùng. Chính Đấng Cứu Độ trần gian đã bảo chúng ta rằng những niềm vui lớn nhất chỉ có thể đến với chúng ta một khi chúng ta đã mua chúng bằng lời cầu nguyện và việc chay tịnh: trước hết chúng ta phải cho đi những đồng xu của mình vì lòng yêu mến Ngài và rồi Ngài sẽ trả lại cho chúng ta những đồng tiền vàng lẫn niềm vui và niềm cực lạc.

Gm. Fulton Sheen

Niềm Tín Thác – Chương V: CHÚA GIÊSU CHỊU ĐÓNG ĐINH TRÊN THẬP GIÁ

I.  CHÚA GIÊSU CHỊU ĐÓNG ĐINH TRÊN THẬP GIÁ LÀ VUA KHÔN VÍ CỦA TÌNH THƯƠNG.

– NGÀI RẤT ĐÁNG MẾN YÊU TRONG VƯƠNG QUYỀN CỦA NGÀI. NGÀI LÀ TÌNH THƯƠNG VÔ CÙNG ĐÃ NHẬP THỂ.

– NGÀI ĐÃ CHẾT ĐỂ CHIẾM LẤY TRÁI TIM TÔI VÀ LÀM CHO TÔI NÊN THÁNH.

Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá là vua khôn ví của tình thương.

– Có một nguồn suối tràn đầy niềm tín thác, nhưng đáng tiếc thay! Lại bị nhiều linh hồn nhiệt thành quên lãng. Đó là nguồn suối chảy vọt ra từ tảng đá đồi Golgôta, dưới chân cây Thập giá Chúa Giêsu. Đó là một nguồn suối tràn lan, không khi nào vơi cạn, nhưng chỉ một số ít linh hồn được Chúa ưu ái biết tới mà thôi. Biết bao linh hồn ước ao nên trọn lành đã quên lãng nguồn suối này ! Trong những lúc khô khan và trong những đêm tối thiêng liêng, biết bao linh hồn đã quên đi đến Núi Sọ, để nhìn ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, và để uống nước mát mẻ và bổ dưỡng của nguồn suối tín thác này !

Trước hết chúng ta hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu đang hấp hối trên thập giá, hãy nhìn ngắm lâu giờ, trong thinh lặng. Ước gì chúng ta có thể nhìn ngắm Chúa với cặp mắt đầy yêu mến nồng nàn của những tâm hồn say sưa yêu mến Chúa chịu đóng đinh, như Catarina Ricci, Catarina Emmerich, hoặc như một trinh nữ Sêraphim đang còn sống giữa chúng ta là Gemma Galgani ! Các trinh nữ này đã sững sờ vì tôn kính và yêu mến Chúa chịu đóng đinh, mỗi khi cảm thấy sắp được những thị kiến mà Chúa đã ban cho nhiều lần.

Hãy nhìn xem Chúa Giêsu chết treo trên thập giá vì tất cả chúng ta, và vì tôi nói riêng. Chúa xanh xao, mặt mũi và toàn thân đầy máu, đầu đội mão gai, Chúa đã chết vì yêu thương ta, vì yêu thương tôi. Không cần nhiều tưởng tượng cũng có thể thấy rõ ràng Chúa đã chịu đau đớn lắm : sự đau đớn của Chúa vượt xa bất cứ những đau đớn nào con người ta phải chịu xưa nay. Không cần phải phân tách từng đau khổ trên thân xác và trong tâm hồn của Chúa. Chỉ cần tôi nhìn ngắm Ngài trong thinh lặng, với một cái nhìn trìu mến, để dần dần tôi nhận ra sự thật này : Chúa Giêsu tôi yêu mến đã chịu đóng đinh vào cây thập giá, đã chết cách vô cùng đau đớn như thế vì yêu thương tôi. Có đúng thế không ? Có đúng là Chúa Giêsu, Chúa Cứu Thế của tôi, Thiên Chúa của tôi, đã chết vì một tạo vật bé nhỏ và thấp hèn như tôi ?

Khi tôi đã phần nào thấu hiểu đươc chân lý này, khi chân lý này đã xâm chiếm trái tim của tôi, tôi sẽ thấy Chúa Giêsu khác hẳn : Ôi ! Đó là Chúa Giêsu Vua của tình thương khôn ví.

Đúng thế, Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá là Vua tình thương, một tình thương khôn ví. So với tình thương của Ngài, tất cả mọi yêu thương của loài người đều là không. Những yêu thương thời danh nhất của nhân loại đều mờ nhạt trước tình thương của Chúa Giêsu chịu đóng đinh, cũng như ánh sáng của các ngôi sao mờ hẳn đi khi mặt trời xuất hiện. Tình yêu của những Oreste và Pylade là gì so với tình thương của Chúa Giêsu ? Tình thương của những người mẹ thương yêu con cái nhất là gì, nếu so với tình thương của Chúa Giêsu chết vì thương yêu ?

Tình thương của Chúa Giêsu chết trên thập giá là đỉnh cao của tình thương. Đó là tất cả những gì tốt đẹp nhất, bao la nhất và cảm động nhất trong lãnh vực tình thương. Trong số tất cả những tình thương từ khi có con người trong vườn địa đàng, cho đến ngày tận thế, không một tình thương nào có thể so sánh, dầu một phần nào thôi, với tình Chúa Giêsu thương ta, khi nhận cái chết vô cùng đau đớn trên thập giá.

Để hiểu điều đó, tôi cũng không cần phải suy nghĩ nhiều về sự Chúa Giêsu là Thiên Chúa của tôi, và tôi là tạo vật bé nhỏ và xấu xa của Ngài. Sự suy nghĩ này có thể chỉ cần để hiểu sâu xa hơn về tình thương của Chúa Giêsu đối với tôi. Nhưng chỉ đơn giản xét theo phương diện con người, coi Chúa Giêsu là một con người như chúng ta, tôi cũng thấy ngay việc Chúa Giêsu nhận cái chết trên thập giá để cứu tôi, cứu nhân loại, thì đó cũng là một tình thương khôn sánh. Tình thương của Chúa chịu đóng đinh trên thập giá vì tôi, và để chiếm lấy trái tim bé nhỏ và vô ân bạc nghĩa của tôi, thật là một tình thương không có tình thương nào sánh với được.

Chúa Giêsu rất đáng mến yêu trong vương quyền của Ngài.

– Chúa Giêsu thật vô cùng đáng mến yêu trong cách tỏ bày tình thương vô cùng đáng tôn thờ của Ngài như thế. Chưa bao giờ trong nhân loại đã có một cảnh tượng lạ lùng như tình thương của Chúa Giêsu, Vua tình thương. Chưa bao giờ lịch sử có thể kể cho ta biết tình thương của một người bạn, hoặc của một người mẹ cao vời như thế ! Thật không có gì sánh được với tình thương vô cùng cao vời của Chúa Giêsu chết vì yêu thương ta, và chết đau khổ vô cùng trên thập giá ! Đây thật là đỉnh cao của tình thương !

Bởi vậy nếu trái tim tôi rung động, nếu linh hồn tôi cảm thấy xúc động khi nhìn ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, nhất là nếu trong khi tôi chiêm ngưỡng Ngài, Ngài cho tôi cảm thấy một tàn lửa của tình thương thần linh của Ngài bốc cháy trong tâm hồn tôi, tôi sẽ để mình từ từ thấm lấy sự ngọt ngào này. Chưa bao giờ tôi thấy Chúa Giêsu tốt lành và vô cùng đáng mến yêu như hôm nay. Những máu me và những khạc nhổ làm biến dạng khuôn mặt Chí thánh của Ngài càng làm tôi yêu mến Ngài. Cặp mắt sưng vù và mờ đi dưới làn nước mắt của Ngài, cặp mắt đang nhìn tôi như van xin lòng mến yêu của tôi, đã làm trái tim tôi như tan vỡ. Những giọt máu nhuộm đỏ tóc và mặt mũi Ngài đã ánh lên như những viên ngọc qúi khiến tôi say mê. “Người yêu của tôi vừa trắng vừa hồng thắm. Tóc của đầu Ngài giống như áo gấm tía của quốc vương” (Dc 5,10). Mão gai trên đầu Ngài là vòng hoa chiến thắng của Vua tình thương. Và tôi sẽ kêu lên như người hiền thê trong sách Diễm ca : “Xin hãy nâng đỡ tôi bằng những cành hoa, vì tôi muốn ngất xỉu vì yêu mến” (Dc 2,5).

Tất nhiên tình thương vô cùng của Vua Giêsu vượt xa tất cả mọi yêu thương của loài tạo vật chúng ta. Đó là tình thương của Chúa Giêsu nhập thể và của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá. Đó là tình thương của một Thiên Chúa, một tình thương muôn thuở và vô cùng lớn lao đã được Chúa cho tôi cảm nghiệm thấy và ôm lấy trong lòng với một lòng mến yêu khôn tả. Khi mà tình thương vô cùng của Chúa Giêsu đã được tôi cảm nghiệm như thế, thì tất nhiên nó vượt xa tất cả mọi tình thương yêu khác.

Con người nào, vật thọ tạo nào dám so sánh tư tưởng của mình với tư tưởng của Đấng tạo thành trời đất ? Ai dám so sánh sự khôn ngoan bằng hạt bụi của mình với sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa? Những hệ mặt trời vô cùng nhỏ bé của các hạt nguyên tử cũng cao rao quyền năng của Thiên Chúa như những tinh tú của ngàn triệu thiên hà trong vũ trụ… Có lẽ nào Thiên Chúa lại chịu thua con người hoặc các thiên thần sốt mến về tình thương chăng ? Thật ra chúng ta thấy Chúa vượt xa vô cùng các tạo vật của Ngài về tình thương.

Hỡi con người khốn nạn ! Mi tưởng chỉ có mi biết yêu thương, nhưng mi nên biết tình thương của mi chỉ là một thứ ích kỷ xấu xa nếu so với tình thương của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá. Trời cao hơn đất bao nhiêu, tình thương của Đấng tạo thành vũ trụ cao hơn tình thương của vật thọ tạo bao nhiêu, thì tình thương của Thiên Chúa, thể hiện nơi tình thương của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá, vô cùng vượt xa tình thương của loài người bấy nhiêu.

Lạy Chúa Giêsu rất mến thương, con yêu mến và tôn thờ Chúa là Vua tình thương, là Vua mọi chiến thắng! Sánh với tình thương của Chúa, mọi tình thương đều hư vô giả dối ! con sung sướng được chiêm ngưỡng Chúa cách dịu dàng… Tình thương của Chúa là hạnh phúc của các thánh trên trời, thì cũng làm con say mê : “Chúa đã chiếm trọn trái tim con bằng một cái nhìn của cặp mắt Ngài” (Dc 4,9).

Chúa đã chết để chiếm lấy trái tim tôi và làm cho tôi nên thánh.

– Từ ngai vàng vấy máu của Ngài là cây Thập giá, Chúa Giêsu giơ hai tay đầy những vết thương về phía tôi và nói với tôi : “Hỡi vật thọ tạo nhỏ bé của Ta, không bao giờ con có thể yêu mến Ta như Ta đã yêu thương con. Con hãy xem, Ta đã chết trên thập giá này để chiếm được trái tim của con. Ta khát khao được con yêu mến. Ta nóng lòng muốn chiếm được tình yêu trung thành, toàn vẹn và tuyệt đối của con”.

Đó là lý do mạnh mẽ để chúng ta tin tưởng và yêu mến. Tôi có hiểu được điều đó không ? Chúa Giêsu ở đó, trên thập giá, để chiếm lấy trái tim tôi. Ngài không chỉ chịu chết để chuộc tội cho tôi : để làm việc này, một lời của Ngài cũng qúa đủ rồi. Ngài ở đó để chinh phục lòng mến yêu của tôi, để xua đuổi khỏi trái tim tôi tất cả mọi quyến luyến nào khác, và để làm nảy sinh trong linh hồn tôi một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu quên mình, một tình yêu kết hợp. Ngài ở đó, trên thánh giá, để làm cho tôi nên thánh.

Ta khát ! Chúa kêu như thế với toàn thể nhân loại. Tiếng kêu khi gần tắt thở đó của Chúa đã vang dội qua các thế kỷ. Vâng, Ngài khát tình mến yêu, tình mến yêu của tất cả mọi người mà Ngài muốn cứu khỏi lửa hỏa ngục, nhưng nhất là lòng mến yêu nồng nàn của những linh hồn quảng đại muốn tận hiến cho Ngài. Ngài khát tình mến yêu của các linh mục, các tu sĩ, các nữ tu của Ngài. Ngài khát khao sự thánh thiện của họ.

Ôi ! Thật là ngọt ngào được nghe biết như thế, sau những lúc khô khan và những đêm tối đầy lo âu, khi tôi tưởng chỉ có tôi yêu mến, còn Chúa Giêsu thì có vẻ bỏ quên tôi, mà tôi thì than thở và héo hon đi tìm sự hiện diện của Ngài.

Chúa Giêsu khao khát kết hiệp với tôi, ở luôn bên cạnh tôi như một người bạn tình. Ngài nóng lòng muốn biến đổi tôi nên giống Ngài. Ngài muốn thấy tôi sống khiêm nhường, quên mình, yêu mến Ngài đến điên rồ, như sự điên rồ của thập tự giá. Ngài ước mong thấy tôi sống thánh thiện, và Ngài khát khao điều đó hơn chính tôi ước ao rất nhiều.

Khi tôi tưởng đang một mình yêu mến Ngài, khi tôi tưởng những sự bất trung và những sự khốn nạn của tôi đã làm Ngài xa lánh tôi và tôi qúa xấu xa không đáng Ngài yêu thương nữa, tôi đã sai lầm dường nào ! Chúa Giêsu đã chết vì yêu thương tôi, Ngài không bỏ qua một phút nào mà không lo cho tôi, không lo làm cho tôi nên thánh.

Vậy, hỡi linh hồn tôi, hãy ôm lấy Chúa Giêsu, Ngài đã chết trên thập giá vì yêu thương mi ! Hãy nói rằng mi yêu mến Ngài, và nhất là hãy an ủi Ngài vì trước đây mi đã làm phiền lòng Ngài vì những sai lỗi của mi. Mi đã thiếu tin tưởng và tín thác, mi đã nghi ngờ tình thương của Ngài, mi đã không nhận ra tình thương vô cùng dịu dàng của Ngài.

Hãy nhìn ngắm Ngài thêm một lúc nữa ! Hãy ở lại với Ngài, đừng rời bỏ Ngài trước khi cảm thấy nơi mi một niềm tín thác trọn vẹn.

Chúa Giêsu còn giang hai cánh tay đầy những vết thương về phía tôi và nói với tôi : “Cha là lòng Nhân hậu vô biên, là sự dịu dàng vô cùng, là tình thương vô cùng. Cha là đại dương bao la của đức ái thần linh. Những đợt sóng của đại dương này giống như cơn thủy triều trào dâng và tìm chỗ để đổ xuống. Cha là tình thương vô biên và chỉ có một niềm ước ao là được yêu mến. Cha chỉ có một niềm ước ao đang thiêu đốt Trái Tim Cha, là ban tình thương của Cha cho các linh hồn. Con là kẻ đang héo hon vì lòng yêu mến, con hãy đến đây với Cha, đến với đầy lòng tín thác. Tất cả những gì về lòng mến, con ước mong cho con, hoặc cho ai khác, con hãy xin Cha, hãy xin Chúa Giêsu chịu đóng đinh của con ! Cha có dịp được ban phát tình thương như thế sẽ là niềm vui lớn lao đối với Cha. Con hãy tạo cho Cha niềm vui đó đi ! Con hãy xin và hãy tin chắc sẽ được Cha ban cho. Thập giá là ngai tòa nơi Cha ban phát tình thương cách rộng rãi. Con hãy xin, hãy xin thật nhiều, đừng sợ xin nhiều qúa. Con càng ước ao yêu mến Cha hết lòng, con sẽ càng làm đẹp lòng Cha.

II.  CHÚA GIÊSU ĐÃ CHẾT NHẤT LÀ VÌ YÊU MẾN CHA NGÀI. THEO PHƯƠNG DIỆN NÀY, NGÀI ĐÁNG MẾN VÔ CÙNG VÀ LÀ NGUỒN SUỐI MỘT NIỀM VUI TINH TUYỀN

– NGÀI CŨNG CHẾT ĐỂ CHIẾM LẤY TRÁI TIM VÀ ĐỜI SỐNG CHÚNG TA, VÀ NHÂN LÊN TỚI VÔ CÙNG TÌNH YÊU CỦA NGÀI ĐỐI VỚI CHA NGÀI. LẼ NÀO TA KHÔNG CẬY TRÔNG.

Chúa Giêsu đã chết nhất là vì yêu mến Cha Ngài.

– Cho tới lúc này, chúng ta mới chỉ xét đến một phương diện, một mặt của tình yêu mến của Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá. Nhưng còn một phương diện khác tốt đẹp hơn, đáng mến hơn đối với một linh hồn chân thành mến yêu Ngài. Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá vì tôi, nhưng cũng vì và nhất là vì yêu mến Cha Ngài. Đó là khía cạnh đáng mến yêu nhất của tình yêu Chúa Giêsu. Và đó cũng là điều bị người ta quên lãng nhiều nhất. Linh đạo của chúng ta qúa vị kỷ, qúa nghĩ về bản thân mình. Yêu mến Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá vì thương yêu chúng ta, và phải yêu mến Ngài để đền đáp tình thương của Ngài. Đó là điều tốt lành. Nhưng một linh hồn quảng đại và thật lòng yêu mến Chúa Giêsu không thể dừng lại ở đó. Chúa đã chịu chết trên thập giá, chính là vì vâng ý Cha Ngài và để tỏ lòng yêu mến Cha Ngài. Cái chết vô cùng đau đớn của Ngài trên Núi Sọ là sự tỏ bày lòng mến yêu vô cùng mà Ngài vẫn có từ thuở đời đời, đối với Cha Ngài, trong sự sống nội tại của Chúa Ba Ngôi, và nay được tỏ bày cho chúng ta trong thời gian.

Ôi, nếu tôi yêu mến Chúa Giêsu bằng một lòng mến yêu vô vị lợi, một lòng mến yêu biết quên mình, thì hình ảnh Chúa Giêsu đội mão gai và chết trên thập giá vì yêu mến Cha Ngài sẽ trở nên vô cùng đáng kính mến và tôn thờ hơn.  Một hào quang sáng chói sẽ tỏa ra từ khuôn mặt vô cùng dịu hiền của Chúa Giêsu. Hình ảnh Chúa Giêsu dâng mình làm của lễ toàn thiêu, dâng lên Cha Ngài, là đỉnh tuyệt cao của tình yêu đối với Cha Ngài. Của lễ toàn thiêu này của tình yêu đã làm Chúa Cha vui sướng vô cùng, và đó cũng là niềm cảm mến tôn thờ muôn đời của các thiên thần Sêraphim và các thánh nam nữ trên trời.

Ôi ! Thập giá Chúa Giêsu là ánh sáng muôn đời, là đại dương của tình thương vô biên, trong đó mọi tội lỗi, mọi điều bất chính và mọi sự khốn nạn của loài người được biến tan, như giọt nước trên một lò than hồng. Đối với một linh hồn yêu mến Chúa, thì đó là niềm an ủi vô cùng : tình yêu Chúa Giêsu không những an ủi tôi về trăm ngàn sự khốn nạn của linh hồn tôi, khiến tôi thường phải than thở, mà còn an ủi tôi về những chuyện ích kỷ của những người xung quanh tôi, làm tôi buồn sầu.

Ôi, lạy Chúa chịu đóng đinh con tôn thờ ! Con đã tìm thấy nơi Chúa tình yêu tinh tuyền mà con đã tìm từ lâu. Tình mến yêu của Chúa đối với Cha Ngài vô cùng tốt đẹp, đáng kính phục và tôn thờ ! Con yêu mến Chúa và cảm tạ Chúa vì đã yêu mến Chúa Cha vô cùng như thế. Giả như Chúa không chịu chết vì con, để chuộc tội cho con, thì nguyên sự chiêm ngưỡng lòng mến yêu của Ngài đối với Cha Ngài, khi Ngài chết trên thập giá, cũng làm cho con cảm mến và yêu mến Ngài vô cùng. Vâng, lạy Chúa, con đã thấy nơi lòng mến yêu này của Chúa thứ tình mến yêu tuyệt đối mà chúng con không thấy ở đâu hết. Đây không còn là một tàn lửa, nhưng là một lò than lửa bừng bừng của tình yêu thương vô cùng. Lò lửa này, chúng con không thể thấy ở đâu hết, mà chỉ thấy nơi Trái Tim của Chúa là Thiên Chúa làm người.

Chúa Giêsu đã chết để chiếm lấy trái tim và đời sống chúng ta.

– Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá để vâng ý và yêu mến Cha Ngài : Đó là tình mến yêu tinh tuyền và quên mình. Nhưng Ngài còn nói với tôi những lời dịu dàng, khiến tôi cảm động sâu xa như sau : “Con xem, Cha chịu đóng đinh và chết trên thập giá vì yêu mến Chúa Cha. Nhưng tình yêu của Cha sẽ không chết để nhân thừa tình mến yêu này lên nhiều vô cùng : Cha chết để chiếm lấy từng triệu trái tim. Cha hiến mạng sống để chiếm lấy muôn triệu mạng sống. Nếu hạt lúa không chết đi nó sẽ trơ một mình; nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ mang lại nhiều hoa trái. Tình mến yêu của Cha sẽ nảy mầm và sinh ra vô vàn vô số những bông lúa cho đến tận thế.

“Đó là niềm ước ao nồng nàn của Cha, niềm vui của Cha và một trong những lý do khiến Cha chấp nhận cái chết trên thập giá. Cha chết để các linh hồn tận hiến cho Cha, để con dâng trái tim con cho Cha, và để từ nay trái tim con chỉ mang nặng một tình mến yêu, là mến yêu Cha hết lòng. Con hãy dâng trái tim con cho Cha, hãy mở nó ra đón lấy tình thương nồng nàn của Cha, để lửa tình thương của Trái Tim Cha thiêu đốt con và thiêu hủy tất cả tính tự ái và ích kỷ của con.

“Con hãy dâng trái tim cho Cha, hãy dâng đời sống của con cho Cha. Cha ước ao thực hiện lòng mến yêu của Cha đối với Chúa Cha ở nơi con, nhờ lòng mến yêu của con. Cha muốn có muôn triệu trái tim của chúng con để thực hiện lòng mến yêu bao la của Cha đối với Chúa Cha. Con hãy dâng hiến trái tim cho Cha, như thể không phải là con sống nữa, nhưng là Cha sống ở trong con. Con hãy nói như Phaolô : “Không phải tôi sống nữa, nhưng đó là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,20). Con hãy để Cha tự do hành động trong con. Con hãy để Cha tỏ bày lòng mến yêu Chúa Cha nơi con, bằng trăm ngàn cách, trăm ngàn nhân đức. Con hãy sống như không còn linh hồn, vì Cha là linh hồn con, là chủ thể của mọi tư tưởng và mọi hành vi của con. “Chúng ta là hương thơm của Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa” (2 Cr 2,15). Cha muốn chiếm lấy tất cả con người của con, biến đổi con người của con, để nhờ con mà mến yêu Chúa Cha đến mức con trở thành như bánh thánh trên bàn thờ, chỉ còn hình bóng là một vật thọ tạo, nhưng bên trong là Cha, vì con đã được thần linh hóa trọn vẹn”.

Như vậy, sau cùng tôi đã có niềm tín thác trọn vẹn và không lay chuyển chưa ? Sau cùng tôi đã hiểu những ước ao và những dự tính của Chúa Giêsu chưa ? Tôi có hiểu rằng nếu tôi ước ao mến yêu Ngài và Cha Ngài cách nồng nàn đến điên rồ, thì Chúa Giêsu còn nóng lòng ước ao điều đó hơn tôi vạn vạn lần ? Những ước ao của Ngài vô cùng vượt xa những ước ao của tôi. Và xét cho cùng, nếu tôi ước ao quên mình đi, chết cho bản thân mình, yêu mến thập giá Chúa Giêsu và được biến thành Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, thì tất cả đều là những ước ao của Chúa Giêsu ở trong tôi. Chính Ngài đã khơi dậy những khát vọng này ở trong tôi, và chính Ngài sống những khát vọng này ở trong tôi. Và chắc chắn Ngài không linh hứng cho tôi những ước vọng tốt lành này, nếu Ngài không muốn thực hiện chúng. Những ước vọng này là thứ tiền đặt cọc Ngài ban cho tôi trước, để loan báo những ân sủng đặc biệt Ngài muốn ban cho tôi. Những ước ao của tôi càng nồng nàn, tôi càng có thể tin chắc Ngài sẽ ban các ân sủng này cho tôi một ngày nào đó.

Khi nào ? Bằng cách nào ? Qua những con đường nào ? Và sẽ qua những đêm tối nào ? Đó là điều bí mật của Thánh Tâm Chúa. Tôi chỉ chắc một điều : Tôi sẽ đi tới chỗ làm vui lòng Ngài cách trọn vẹn, làm vui lòng Ngài như các thánh đã làm Ngài vui sướng. Ngoài ra, mọi sự có quan trọng gì đâu ! Điều chắc chắn là tôi sẽ đạt tới thành qủa cuối cùng, sẽ đi tới chỗ được hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu tôi yêu mến. Nếu tôi giữ vững thiện chí, nhất là nếu tôi không chút tin cậy nơi mình, nhưng trọn vẹn tín thác nơi Chúa Giêsu, tôi chắc chắn sẽ có ngày thực hiện được lý tưởng của tôi, là thấy Chúa Giêsu sống viên mãn ở trong tôi.

Paul De Jaegher S.J.