8. Đời Sống Tâm Linh

Nỗi Lòng Cha

Trong Phúc Âm thánh Luca, dụ ngôn Chúa bỏ chín mươi chín con chiên trong hoang địa để tìm một con chiên lạc có lối kết luận nghịch với tiền đề. Chúng ta hãy đọc toàn bản văn:

Ai trong các ông, giả sử có trăm con chiên và lạc mất một con, há người ấy lại không bỏ chín mươi chín con ngay nơi hoang địa, để ruổi theo con chiên lạc, cho đến khi tìm được nó ư? Tìm được rồi, há người ấy lại không mừng rỡ, quàng nó trên vai mình, và về đến nhà, mà lại không gọi cả bạn bè hàng xóm, mà phân phô với họ thế này sao: Bà con hãy chia vui với tôi, nay tôi đã tìm thấy con chiên lạc của tôi!?

Tiếp đó dụ ngôn được kết luận như sau:

Tôi bảo các ông: Cũng vậy, trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính, những kẻ không cần phải ăn năn (Lc. 15: 4-7).

Bản văn được chia làm 2 phần. Ta có thể vẽ thành họa đồ sau đây

Phần một diễn tả câu chuyện, có bốn chi tiết:

– nói về con chiên đi lạc,
– người chăn chiên đi tìm,
– tìm thấy rồi ôm trên vai,
– vui mừng khoe với bà con,

Phần hai kết luận:
– Nước Trời vui mừng vì một người sám hối.

Xét qua bản văn ta thấy kết luận rất lạ với tiền đề câu chuyện, vì cả câu chuyện không hề nói tới lòng sám hối. Có một con chiên lạc, rồi Chúa đi tìm. Người chăn chiên đi tìm chứ đâu có phải con chiên tìm lối trở về, như thế làm sao mà gọi là lòng sám hối được?

Xem ra lối kết luận trên đây không hợp luận lý. Tuy nhiên, thinh lặng một chút ta sẽ thấy có điều phải suy nghĩ lại trong lối viết văn của Luca. Luca không trình bày rõ lòng sám hối của con người nhưng làm nổi bật lòng xót thương của Chúa. Ở Luca tôi thấy dựa vào lòng xót thương của Chúa mà ta có thể về chứ không phải sự tốt lành của ta. Lối kết luận này vẫn hợp lý, và chỉ hợp lý khi ta giả sử là người chăn chiên tìm thấy, rồi con chiên đồng ý trở về. Sự đồng ý trở về ấy Chúa coi như lòng sám hối.

Một đêm dừng chân trên lưng núi, Chúa thao thức vì một tâm hồn. Giờ này con tôi ở đâu? Tiếng lòng vọng về đáp trả giữa đêm đen vẫn chỉ là một khoảng không cô tịch. Cũng trong tiếng lòng ấy, vọng về nỗi thương, Người phải đi tìm vì đó là con của Ngài. Ruổi rong cho đến khi gặp, nhưng vì còn tự do của nó, Ngài chỉ có thể thương yêu hỏi:

– Cha muốn con về.

Ánh mắt người chăn chiên có nỗi đau thương vì Satan đã lừa gạt con của Ngài. Nhưng khổ tâm, Satan cũng đã không cưỡng bách được sự tự do của con cái Ngài. Ra đi vẫn là một lựa chọn tuỳ ý. Trở về cũng thế, Ngài chỉ có thể hỏi đứa con ấy:

– Con có muốn trở về?

Trong cái gật đầu mệt mỏi của con chiên lạc, Ngài mừng rỡ vác lên vai mà đem về. Chỉ ở điểm này, gọi đó là lòng sám hối, ta mới có thể chấp nhận kết luận kia hợp lý.

* * *

Lạy Chúa, một lần ra đi, một quãng đời nào của con vương trong bụi gai chẳng còn lối thoát. Chúa thương tìm con về. Bụi đất làm con xơ xác. Chúa chẳng ngại, Chúa bế con rồi ôm trên vai. Chúa không sợ dơ áo của Chúa vì những vết thương của con lâu ngày mưng mủ.

Lối trình bầy Tin Mừng của thánh sử Luca cho con thấy rực lên lòng thương xót của Chúa đi tìm con hơn là con sám hối ăn năn.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

GIỮ ĐẠO VÀ SỐNG ĐẠO

Ta thường nghe nói: “Tin Đạo chứ không tin người có Đạo”. Lời khuyên trên hàm ý phân-biệt “Sống đạo” với “Giữ Đạo”. Bởi lẽ người giữ đạo chưa hẳn đã sống Đạo, chưa thể-hiện được tinh-thần của phúc-âm, cốt lõi của Đạo. Bởi thế mới kêu gọi, cổ-võ phúc-âm-hoá và hơn thế nữa tân phúc-âm-hoá đời sống của Kitô-hữu.

1- Người giữ Đạo chưa hẳn đã sống Đạo. Những người này chỉ biết nhai đi nhai lại thói quen kinh hạt, khấn vái cầu xin ban ơn vật-chất hơn là cầu nguyện để kết-hợp với Chúa, chưa thấm nhuần vì chưa hề hoặc ít khi đọc và suy niệm Kinh Thánh, do đó chưa nhận-thức đúng được vai trò của người Kitô-hữu để trở thành chứng-nhân đích thực của Chúa như lời sách Thánh chép“Không phải là tôi sống, nhưng là Thiên-Chúa sống trong tôi”, tóm lại là để “trở thành kẻ tham gia theo cách của mình vào chức vụ tư tếchức vụ rao giảng Lời Chúa và chức vụ vương giả của Chúa Kitô”, như Hiến-Chế “Ánh Sáng Muôn Dân” đã giải-thích.    

 

* Bề ngoài nhìn vào, ai chẳng bảo là họ rất ngoan đạo, nhưng thực ra chỉ là giữ đạo cách giả dối. Siêng năng đến thánh-đường, mở miệng là kêu tên cực trọng “Giêsu Ma…! Lạy Chúa tôi lòng lành vô cùng!”, nay viếng đền thánh nọ, mai hành hương đại hội kia, có mặt khắp mọi buổi cầu kinh phụng-vụ, có chân trong nhiều hội-đoàn, v.v., nhưng ra khỏi thánh-đường giao tiếp với người xung quanh thì đem chuyện nói xấu người này, kể tội người khác, đâm bị thóc chọc bị gạo, ăn gian nói dối, ích-kỷ, phạm đức công-bằng, lỗi đạo thương yêu, điều mà thế-gian thường gọi là “khẩu Phật tâm xà”. Họ không nêu gương tốt lành, trái lại làm gương mù gương xấu. Làm sao thuyết phục được người ngoài đạo, đem Chúa đến cho người xung quanh?

* Cũng có nhiều người tâm-địa rất tốt, nhưng thờ-ơ biếng nhác việc phụng vụ Lời Chúa, biện-hộ là “giữ đạo tại tâm”. Trái hẳn với người giữ đạo hoặc theo thói quen tập- tục, cảm-tính, hoặc quá sốt-sắng đến mụ-mẫm, nặng tính giáo-điều (dogmatic), nhất nhất vin vào lề luật mà xử sự hơn là đem Chúa đến cho tha-nhân để họ nhận ra hình ảnh đích thực của Con Thiên-Chúa làm người đồng hành nơi trần thế. Họ không “thực thi ơn gọi để chiếu sáng sự mới lạ và sức mạnh của Phúc-Âm trong đời sống thường ngày, trong đời sống gia-đình và xã-hội của họ” (Hiến-Chế Lumen Gentium, 35). Họ không thể-hiện được trong bản thân mình có sự hiện-diện sống động của Thiên-Chúa.

 

2- Người sống Đạo thì thể-hiện trung thực tinh-thần phúc-âm, nói khác là đã phúc-âm hóa đời sống.

* Trong cuốn “Kitô-Hữu Trước Thềm Thời-Ðại Mới”, cổ- võ việc phúc-âm hoá, Ðức cố Hồng-Y Suenens (1) nói rằng: “Một Giáo-Hội chỉ có người ‘giữ đạo’ mà thôi thì chưa đủ, cần phải có một Giáo-Hội ‘tuyên xưng đức tin’. Chúng ta cần làm chứng cho đức tin của chúng ta và phải sống đức tin ấy… Chúng ta đã từng nỗ-lực ‘ban bí-tích’ (sacramentaliser) cho dân Chúa thật càng nhiều càng tốt, thế nhưng chúng ta đã không ‘phúc-âm-hoá’ (évangéliser) dân ấy một cách đầy đủ” và phải “làm thế nào để Kitô-hoá từng khối người chỉ có danh là Kitô-hữu mà thôi, để họ sống đức tin Kitô-giáo thực sự?”. Rồi Ngài giới-thiệu bài thơ tuyệt-diệu mang tên “Phúc-Âm Của Bạn” của tác-giả Wallace E. Norwood, đại-ý là (1):  

“….Bạn viết Phúc-âm, mỗi ngày, mỗi chương, bằng cách sống của mình, sai lạc hay ngay thật, khi kẻ khác đọc thấy, họ sẽ nghĩ gì về cuốn Phúc-Âm bạn đang viết đây?.... Bạn vẫn viết cho mọi người, mỗi ngày một chữ, hãy cố làm sao viết cho ngay thật, tốt lành, vì Phúc-Âm mà người ta có thể đọc được thì chỉ có Phúc-Âm do chính cuộc đời bạn viết nên mà thôi.” (1).

* Sống Đạo chính là phúc-âm-hoá đời sống. Tuy nhiên, trước nền văn minh đa dạng ngày càng phức-tạp, với  những thay đổi sâu rộng về mọi mặt, sự xuất-hiện đa giáo cùng với những quan-điểm lệch lạc với đức tin, sự phúc-âm-hóa xem ra vẫn chưa đủ để đáp ứng sứ-vụ loan báo Tin Mừng Cứu-Độ, vấn-đề tân phúc-âm-hoá được đặt ra. Đây không phải là phúc-âm mới mà là canh-tân việc phúc-âm-hoá, canh-tân phương-pháp, ngôn-ngữ và cách diễn-tả Tin Mừng sao cho thích-hợp với nhu-cầu thời đại và con người hôm nay. Tại hội-nghị các Giám-mục châu Mỹ La-tinh, ngày 9 tháng 3 năm 1983, Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh: "Loan báo Tin Mừng phải đi kèm với hành-động dấn thân; dấn thânkhông phải để tái phúc-âm-hóa, mà là tân phúc-âm-hóaMới trong sự nhiệt-thành, trong phương-pháp, trong lối diễn-tả".

3- Thật vậy, ngay như những người đã dâng mình cho Chúa, chưa hẳn đã thực sự sống đạo, vì chưa thể-hiện mình là chi-thể của Chúa Ki-tô, như là “cành nho trong một cây nho” vì vẫn vụ luật của con người hơn là vụ luật của Thiên-Chúa là Đấng ban sự sống: Có một cuốn phim năm 2016 mang tựa-đề “Les Soeurs Innocentes” (Các Nữ-Tu Trong Trắng) đã được đón nhận nồng-nhiệt tại Vatican. Đức Tổng Giám Mục José Rodriguez Carballo, Tổng thư ký Bộ Phụ Trách Đời Sống Thánh-Hiến và Các Hiệp Hội Đời Sống Tông đồ, phát-biểu rằng: "Đây là một phim điều-trị cho Giáo Hội (C’est un film thérapeutique pour l’Église)”

http://fr.aleteia.org/2016/01/12/les-innocentes-lhistoire-vraie-de-religieuses-violees-en-quete-desperance/

http://bomtan.org/xem-phim/cac-nu-tu-trong-trang-15239/full.html

Cuốn phim dự-trù chiếu ở Pháp ngày 10 tháng 2, được chiếu trước vào chiều thứ bảy 30-1 tại phòng chiếu phim của Viện Văn-Hóa Pháp, khán-giả là các nữ-tu, các linh-mục, thuộc mọi quốc-tịch về Rôma dự lễ kết thúc Năm Thánh-Hiến. Họ từng người một, đã đến cám ơn nữ đạo diễn Anne Fontaine: “Xin cám ơn, phim hay lắm, cuốn phim đã làm chúng tôi xúc-động, chúng tôi thực sự đã dao-động.” Cuốn phim dựng từ chuyện có thật xảy ra tại Ba-Lan, tháng 12 năm 1945. Trong một nữ tu-viện Dòng Biển-Đức, tiếng hét của một nữ tập-sinh trẻ làm náo động giờ hát kinh chiều. Sơ Maria vội lẻn đi tìm một nữ y-tá trẻ của Hội Chữ Thập Đỏ Pháp, đang đóng quân bên cạnh đến giúp đỡ. Cô này đến nơi, phát-hiện một bí-mật khủng-khiếp: Lính Đức và Xô-Viết từng ba lần ập vào tu-viện cưỡng hiếp các nữ-tu, bảy người mang thai. Cả nhà đều muốn từ bỏ. Cô y-tá bất mãn khi các bệnh-nhân không chịu cho khám bệnh và giải-phẫu, không muốn cho đụng vào thân thể mình, vì sợ mang tội “phải xuống địa-ngục” bởi đã không giữ lời khấn tiết hạnh, đâm ra mất đức tin vì mặc-cảm đã mang thai. Bà mẹ Bề Trên thì muốn giấu kín, sợ người ngoài chê-bai, gièm-pha làm mất uy-tín thể-diện của nhà dòng. Ngay chính bà mẹ cũng là nạn-nhân, nhưng “thà cắn răng chịu đựng”, chứ không cho cô y-tá chạm đến thân thể bà và các sơ kia cũng “không được phép xét đoán mà chỉ biết vâng lời bà”. Cô y-tá là người Cộng-Sản nhưng đã dũng-cảm, động lòng, quyết thi-hành sứ-mạng cứu nhân. Lần sau đến, cô hỏi đứa bé của sơ Zophia kia đâu. Theo lệnh của bề trên Jadwiga Oledzka, sơ Maria nói là đã gửi cho người dì của Zophia. Thực ra, đêm khuya tuyết giá, bà Bề Trên đã lén đem đứa bé ra nghĩa-trang, đặt nó dưới chân Thánh-Giá, đọc kinh, làm phép rửa tội rồi bỏ đi. Một đêm kia, sơ Zophia lo lắng tất-tả đi tìm con, té bất tỉnh ngoài trời. Sơ Maria tìm đến bà dì báo tin Zophia qua đời, trao đôi vớ mà Zophia đan cho con mình. Bà dì ngạc-nhiên vì bà đâu có cháu nhỏ nào. Chuyện vỡ lở. Sơ Maria vặn hỏi, bà Bề Trên vẫn một mực quả-quyết: “Ta phó thác cho Chúa… Ta tin Chúa là đấng toàn năng đã đón nhận đứa bé”. Trong bữa ăn chung, bị sơ Maria chất-vấn, sự thật bị phơi trần, bà Bề Trên bẽ-bàng đành nại cớ tuyên-bố: “Ta muốn tránh cho các sơ khỏi xấu hổ và nhục nhã”, rồi lẳng lặng ra khỏi phòng giữa tiếng giận dữ của cộng-đoàn lên án bà: “Kẻ Giết Người!” 

Rõ là một đức tin chết, đức tin khép kín, một đức tin vô- thức, trốn trách-nhiệm, một đức tin mù quáng, “giáo-điều”, chỉ biết kêu van "Xin Chúa cứu vớt đứa trẻ đó!" Rõ là ích-kỷ vô lương-tâm, không một chút vị tha, tình người, không có Chúa thực sự ở trong lòng. Bà là hiện-thân của con người chưa được Phúc-Âm soi chiếu, chưa được phúc-âm-hoá, không biết rằng Chúa hạ sinh giáng thế là để cứu chuộc ta khỏi làm nô-lệ cho lề-luật, tội lỗi, và ban sự sống cho nhân-loại. Họ không biết rằng phẩm-giá con người rất quí trọng trước mặt Thiên-Chúa, các lề luật Ngài ban là để bảo-vệ và phục-vụ con người, nó chỉ là phương-tiện, chứ không phải là cứu-cánh. Thấy bọn Pharisiêu đến xem Chúa Giêsu chữa lành bệnh trong ngày Sabbat, tính bắt bẻ Ngài không giữ luật, Ngài bảo họ rằng: “Tôi hỏi các ông, ngày Sabbat được phép làm sự lành hay làm sự dữ, cứu sống hay giết chết?” (Luca:6, 6-11) vì “Ngày Sabbat được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabbat” (Mc: 2, 27).

Đóng lại câu truyện, cuốn phim mở ra một cảnh-tượng tràn đầy tình người: Cô y-tá cùng sơ Maria, mỗi người ẵm một em bé dẫn các trẻ vào phòng ăn chung, trước khi chất-vấn bà mẹ Bề Trên, cô hân-hoan giới-thiệu với cả nhà: “Những đứa trẻ này vô gia cư sống lang-thang, quý sơ có thể chăm sóc chúng”. Các Sơ đã hiểu rõ thế nào là dấn thân, nhà dòng nay thành trung-tâm nuôi trẻ mồ-côi trong chiến tranh, những trẻ đã sinh ra trong hoàn-cảnh mà mẹ chúng đã bị cưỡng hiếp. Trước đó, một sơ kia đã gửi con lại cho các chị em chăm sóc, nhận ra ơn gọi mới để hoàn tục sau khi nở nụ cười khoe với sơ Maria: “Đây là con tôi, nó có quyền được yêu thương”. Quả thực “Đây là phim trị-liệu cho Giáo-Hội”, tiếng nói của Đấng thẩm-quyền đã nói lên xác-quyết của Thánh Giáo-Hoàng Gioan Phaolô II: "Loan báo Tin Mừng phải đi kèm với hành động dấn thân; dấn thân, không phải để tái phúc-âm-hóa, mà là tân phúc-âm-hóa.”

Kết:

Thế-giới hôm nay đang bị ô-nhiễm bởi văn-hoá sự chết muốn dập tắt nền văn-hóa Sự Sống (2). Bây giờ, phá thai, trợ tử, hôn-nhân đồng tính không còn là điều cấm kỵ, nay được định-chế đồng-loã, công-khai thừa-nhận, tán-trợ. Đã có cả một mặt trận chống Satan, vì “ma qủy đang hoành-hành khắp thế gian và rất nhiều người đã sa vào lưới của nó đến mất cả tính người, trở thành con cái của chúng”. Mới đây, Giáo-Hội được thỉnh-cầu đến trừ quỷ trên trực-thăng cho cả thành phố Detroit ở Mỹ vốn đầy tội ác do ma quỷ lộng-hành (3).

Tại Việt Nam, những bài giảng vang động vạch trần sự thật nơi thánh-đường, lời kêu gọi thiết-tha của các đấng, những tiếng kêu oan tức-tưởi của đám đông tuần hành nơi công cộng, hình như chưa đủ để xoá màn đêm của sự chết đang bao trùm. Thảm-họa môi-trường nhiễm độc, dẫn đến diệt chủng cho các thế-hệ mai sau, quả là khối u bộc-phát hiển-hiện, nhưng di căn ngấm ngầm mọc rễ trong cơ thể èo-ọt đã không cần được biết đến, hoặc đã thấy mà làm ngơ không thấy, đó mới là nọc độc của ung thư. Ấy là não-trạng tham-lam, ích-kỷ, vô-cảm đã tiếp tay cho tội ác lên ngôi. Còn những kinh-doanh nhơ nhớp để cho sống chết mặc bay, miễn sao vét cạn cho đầy túi tham, thì vẫn còn khói mù ô-nhiễm phủ kín quê hương. Bởi vì lương-tâm con người còn bị khoá chặt chẳng cho Chúa ngự vào, Lời Chúa chưa thể thấm nhuần hầu thức-tỉnh nhân-tâm. Lúc này hơn bao giờ hết, tân phúc-âm-hoá là việc làm bức-thiết, nhất là đối với người Ki-tô-hữu cần sống đạo thực sự, để từ bản thân mình biết lan toả ánh sáng phúc-âm ra xung quanh. Quả như lời Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt nhận định: “Tôi thấy cái chết của cá nó chỉ là cái ngọn vấn-đề, cái chính gây ra cái chết này là do cái chết của tâm-hồn con người. Tôi thấy có ít nhất bốn cái chết: cái chết của lương-tâm, cái chết của luân-lý, cái chết của lý-trí, cái chết của chính-trị”.

Lạy Chúa, “xin cho con biết lắng nghe lời Ngài trong đêm tối”, xin lay động cho con biết “KHI NÀO CHÚA ĐÃ GỌI CON”:

https://bit.ly/3fNUMG1

 

Khi con nghe những con tim thổn-thức

Khóc cuộc đời dông bão quét rạng đông,

Khi con nghe lời gièm-pha tranh-chấp,

Vì ghét ghen, vì oán thù bất đồng,

Khi vọng tiếng kêu não lòng chẳng dứt,

Mang oan khiên bị luận tội bất công,

Con nhớ rằng khi ấy Chúa gọi con.

Khi con nghe dấy lên tâm vị-kỷ

Chẳng phục-vụ, nhưng muốn chỉ được hơn,

Khi con nghe lòng mình không tự-chủ,

Vì trí khôn bị cảm tình lấp mờ

Khi tầm mắt con giới hạn bảo-thủ,

Không trông xa, hẹp hòi, chẳng dám cho,

Con nhớ rằng khi ấy Chúa gọi con.

Khi con nghe tiếng kêu van nài nỉ,

Khóc cuộc đời cơm áo hết còn đâu.

Khi con nghe luận-điệu xa chân-lý,

Lạc đức tin vì cao ngạo cứng đầu.

Khi nhìn Thánh Kinh lửa hồng triệt huỷ,

Quân ma vương cuồng dậy định tóm thâu

Con nhớ rằng khi ấy Chúa gọi con.

Con nghe gõ cửa trong mơ,

Chạy ra thấy Chúa đứng chờ gọi con

Gọi con lội suối trèo non,

Gọi con đi khắp lối mòn nhân-gian,

Gọi con gieo rắc bình-an,

Gọi con làm đúng chứng-nhân của Ngài.

Ben. Đỗ Quang-Vinh

Hẹn gặp lại 

--------------------------------------------------------------------

Cước-chú: Xin mời đọc thêm

(1) Xin mời đọc thêm bài “KI-TÔ HỮU VÀ SỨ-VỤ TÔNG-ÐỒ ” http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=117&ia=11271

(2) Xin mời đọc thêm bài “Văn hoá sự sống”

http://doquangvinhvenguon.com/uploads/3/5/3/0/3530842/van_hoa_su_song_new.pdf

(3) Xin mời đọc thêm:

Trừ quỷ cho cả một quốc gia

http://yeumen.blogspot.ca/2015/08/tru-quy-cho-ca-mot-quoc-gia.html

      * Mặt Trận chống Satan=>Trừ qủy từ trực thăng

http://vietcatholic.org/News/Html/140649.htm 

Mượn Xác

Có một loài ốc mang tên ốc “mượn hồn”. Nó là con ốc đã chết từ lâu, sóng biển trôi nó dật dờ. Rồi có kẻ đi mượn nó để sống. Kẻ mượn nó là một con cua nhỏ. Gặp chiếc vỏ ốc lăn lóc này, con cua nhỏ chui vào nương thân, lấy vỏ ốc làm nhà. Từ đó, nó lê đi trong đời. Không biết câu chuyện có thật vậy không. Nghe như có vẻ hoang đường. Tuy nhiên có điều chắc chắn, vỏ ngoài là ốc nhưng bên trong lại là con cua nhỏ có còng cứng.

Không biết gốc tích nó từ đâu. Ai mượn hồn ai, ai mượn xác ai. Chuyện chắc là không thật. Nhưng lối đặt tên cho loài ốc nhỏ đó: Ốc “mượn hồn”, tự cái tên ấy có phần mang nhiều ý nghĩa. Ý nghĩa là hồn xác ấy thuộc về nhau, sống với nhau. Nghe như đâu đây, trong Kinh Thánh cũng có câu chuyện mượn hồn, mượn xác na ná: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà chính Ðức Kitô sống trong tôi” (Gal. 2:20). Xác thì xác Phaolô, mà hồn lại là hồn Kitô.

* * *

Ðã là cuối mùa. Ðức Kitô đứng trên đê nhìn trời chiều mênh mông. Nắng hoàng hôn nhuộm đỏ ối cả một đồi dâu. Tóc Người bay rối trên trời chiều cô tịch. Cánh đồng vẫn mông mênh ngát vàng. Dạt dào. Một không gian lúa đến mùa rũ chín vào nhau. Người vung tay hái, nhưng kỳ lạ thay, Người chỉ là hồn. Cánh tay Người chỉ là vô hình với vào thinh không hụt hẫng. Lúa cứ là lúa. Thời gian từ từ xuôi mùa. Rồi đi buổi chiều. Rồi về buổi sáng. Gió xạc xào đưa lúa chín mùa quá độ rơi trên đồng vắng. Người xôn xao lòng dạ. Nhìn đồng lúa không người gặt mà bối rối khôn nguôi.

Có người nông phu bước qua. Ðức Kitô vội vã vui mừng bảo anh ta dừng chân. Nói chuyện về đồng lúa thiếu thợ gặt rồi hồn Người muốn mượn đôi tay anh ta để bước xuống cánh đồng. Lưỡng lự, người thanh niên chối từ cúi đầu bước. Thế là, Ðức Kitô bùi ngùi khoé mắt băn khoăn. Cứ nhìn đồng lúa không thợ gặt mà xót xa. Người muốn mượn đôi tay để cho hồn Người ký thác.

* * *

Sau khi Ðức Kitô đặt nền tảng Giáo Hội của Ngài trên Phêrô, về trời rồi, Ngài tiếp tục xây dựng Giáo Hội. Nhưng Ngài xây dựng Giáo Hội của Ngài bằng cách nào? Hai khuôn mặt tông đồ cột trụ, Phêrô và Phaolô đã sống xác của mình nhưng với hồn của Ðức Kitô. Nói cách khác, Ðức Kitô xây dựng Giáo Hội bằng cách lấy hồn mình rồi đi “mượn” xác thân con người.

Phaolô nổi tiếng với các tông thư mục vụ, chúng ta sẽ dựa vào Thánh Kinh Thư này để khai triển đề tài. Rồi lấy việc làm của Phêrô để soi sáng thêm cho căn bản trong Thánh Kinh Thư của Phaolô.

Xác Phaolô nhưng hồn Kitô

Trong văn viết, nhiều lần Phaolô kêu gọi tín hữu của mình hãy mặc lấy hồn Kitô. Hoặc diễn tả cách khác là để hồn Ðức Kitô sống trong thân xác mình. “Anh em hãy bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy con người mới” (Col. 3: 10). Nhưng rõ hơn là chính lời trực tiếp thú nhận mình đã để cho hồn Ðức Kitô sống trong thân xác mình.

“Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi” (Gal. 2:20).

“Tôi sẽ không dám nói đến điều gì Ðức Kitô đã không dùng tôi để thi thố ra” (Rom. 15: 18).

“Chính Người làm bật sáng nơi lòng chúng tôi, để chúng tôi làm cho thiên hạ nhìn biết, trong ánh sáng ấy, vinh quang của Thiên Chúa chói lòa nơi Ðức Kitô” (2 Cor. 4: 6).

Xác Phêrô nhưng hồn Kitô

“Khi ngươi còn trẻ, ngươi tự thắt lưng mình và đi đâu tùy ý” (Yn. 21: 18). Ðây là lúc xác Phêrô mà hồn cũng Phêrô, xác ông đi đâu thì hồn ông đi đấy. “Khi về già, ngươi sẽ giang tay ra và NGƯỜI KHÁC sẽ thắt lưng cho và lôi đi nơi ngươi không muốn” (Yn. 20: 18). Lúc này, xác thì xác Phêrô mà hồn là hồn NGƯỜI KHÁC, hồn Ðức Kitô.

Sách Tông Ðồ Công Vụ kể lại chuyện Phêrô chữa người què như sau:

Có người què từ khi lọt lòng mẹ sinh ra, được người ta khiêng đến đặt thường ngày bên cửa Ðền thờ để xin của bố thí với khách Ðền thờ. Nó thấy Phêrô và Yoan sắp vào thì xin của bố thí. Phêrô nhìn thẳng vào nó, Yoan cũng thế, và nói: “Nhìn lên chúng tôi!” Nó chú ý vào các ông, hy vọng cũng được chút gì. Nhưng Phêrô nói: “Bạc vàng tôi không có, song điều tôi có là Ðức Kitô người Nazareth, nhân Danh Ngài anh hãy chỗi dậy mà bước đi!”. Nó nhẩy vùng lên, đứng dậy vào Ðền thờ cùng các ông, vừa đi vừa nhẩy, và ngợi khen Thiên Chúa.

Sau đó, người què níu lấy Phêrô và Yoan, còn toàn dân, theo lời tường thuật kể tiếp, “họ chạy ùa tới các ông ở hành lang Salômôn, họ rất kinh ngạc.” Bấy giờ, Phêrô lên tiếng khẳng định không phải ông, mà chính hồn Ðức Kitô đã dùng ông mà thực hiện ơn sủng:

Các ông, người Israel, tại sao lại đăm đăm nhìn chúng tôi, như thể bởi quyền phép riêng gì, hay lòng đạo đức của chúng tôi mà chúng tôi làm cho người què này bước đi được? ? Ðức Yêsu, kẻ các ông đã nộp. Vị khơi nguồn sự sống, các ông đã giết đi, Ðấng mà Thiên Chúa đã cho sống lại từ cõi chết. Chúng tôi xin làm chứng. Chính nhờ tin vào Danh Ngài, chính danh Ngài làm cho anh ta lành mạnh (Tđcv. 3: 1-16).

Rồi một lần khác nữa, trên đường xuống Lyđa, ông gặp Ênê, một người đã tám năm trời liệt giường vì bất toại. Ông nói: “Ðức Kitô chữa lành anh. Hãy chỗi dậy, dẹp chõng đi!” Lập tức người ấy chỗi dậy (Tđcv. 9: 32).

Phêrô chối không phải ông chữa lành những người tật nguyền này, nhưng là chính Ðức Kitô. Nói cách khác, vì tin vào Danh Ngài mà hồn Ðức Kitô, qua lời nói của Phêrô đã chữa họ. Khi nói Phêrô xây dựng Giáo Hội bằng những việc làm cả thể, đó chỉ là cách diễn tả ông đã để hồn Kitô mượn xác mình mà xây dựng nhiệm thể ấy. Ông luôn luôn khẳng định rằng không phải ông hành động. Khi nói “mượn hồn”, điều ấy không hàm ý loại bỏ sự tự do chấp nhận lời mời gọi, là sống trọn vẹn trong tự do đích thực là Ðức Kitô.

* * *

Lạy Chúa,

Hôm nay có những việc Chúa muốn làm mà Chúa không làm được nữa vì Chúa không còn xác thân như con. Ngay trên quê hương của con vì nghèo đói mà nhiều kẻ sống không xứng đáng với phẩm giá con người. Vì nghèo đói mà bao nhiêu tuổi thơ phải lầm than không được học hành. “Trong tâm tư biết bao người ngày đêm cô đơn buồn không nói. Nhưng ai đâu đến với họ để hát tiếng hát của niềm vui”. Chúa muốn mượn bàn tay con để xoa dịu một nỗi bất hạnh. Chúa muốn mượn đôi chân của con để dìu em đến trường. Con có dám để Chúa mượn đời con cho hồn Chúa sống không.

Con xin lấy lời ca của Nguyễn Duy như kinh chiều phụng vụ mơ ước dâng Chúa đêm nay. “Xin cho con suốt một đời tình yêu cho đi là lẽ sống. Xin cho con biết trung thành hoàn tất những bước chân đẹp xinh. Nguyện một đời con tìm đến, đến với hết những ai chân tình để tình người vẫn còn xanh ngát hương như hoa xuân trên cành.”

Lm. Nguyễn Tầm Thường

 

Đôi điều suy nghĩ

Chúa đem con vào đời, nhưng mục đích chính yếu của cuộc sống lại là chờ đợi một chuyến đi. Sân ga không phải là quê hương của con để con bám víu và xây đắp, nhưng chỉ là bến tạm để đợi chờ con tàu. Khi nào thì con tàu sẽ đến để đem con đi? Khi nào con từ giã cuộc sống? Con chẳng biết được thời giờ định mệnh này. Thưa Chúa, có điều con muốn nói là trong khi chờ đợi, trong lúc nhìn thời gian tiến về điểm mốc trọng đại ấy, con luôn luôn cần hạnh phúc.

* * *

Con đã cảm nghiệm được nhiều thứ hạnh phúc. Hạnh phúc khi nhận được tin vui. Hạnh phúc đến từ một tâm hồn biết thông cảm. Hạnh phúc đến từ sự thành công trong công ăn việc làm. Nhưng, những hạnh phúc ấy vẫn chẳng làm con an lòng. Con vẫn lo âu. Những hạnh phúc ấy vẫn là bấp bênh. Quá khứ minh chứng rằng nhiều lần con đã mất hạnh phúc ấy.

Vì những hạnh phúc ấy có thể mất nên cũng có những ngày tháng con sống không niềm vui, chung quanh con là sa mạc. Mà đời người thì chẳng thể sống không niềm vui. Nên con đi tìm niềm vui mới. Có khi con oán giận Chúa, bỏ đời sống đức tin để tìm bất cứ một an ủi nào đó. Trong những giây phút ấy con thường tìm hạnh phúc trong tội lỗi. Con không nhìn thấy những tàn phá của tội mà con chỉ thấy những hứa hẹn và bóng mát của tội mà thôi. Thật sự con chẳng muốn bỏ Chúa bằng con đường chủ tâm sống trong tội. Con vẫn biết con không thể sống thiếu Chúa, nhưng trong yếu đuối của đời mình, con đã thấy quyến rũ nơi tội mạnh hơn hạnh phúc do đời sống đức tin đem lại.

Hạnh phúc thật thì chỉ có một định nghĩa. Nếu con đi tìm bất cứ hạnh phúc nào ngoài thứ hạnh phúc thật đó, con sẽ hoang mang và hụt hẫng. Hạnh phúc thật đó chỉ có Chúa mới cho con được mà thôi. Chúa là nguyên ủy của tất cả, thì hạnh phúc cũng phải do Chúa là nguyên nhân. Bởi đấy, khi con đi tìm niềm vui ngoài nguyên nhân tối thượng là Chúa, con sẽ gặp thất vọng.

* * *

Khi con phạm tội, tội cũng cho con một chút “niềm vui”. Nhưng tội làm con xa Chúa. Niềm vui hay hạnh phúc là lúc trầm mình thưởng thức trong dòng nước chảy của dòng sông. Mức độ và sắc thái khác nhau của hạnh phúc tùy thuộc vào nguồn gốc của dòng sông ấy. Chúa là nguyên nhân của một thứ hạnh phúc. Tội cũng sinh ra một dòng hoan lạc. Nguyên nhân khác nhau thì hạnh phúc hay hoan lạc đến từ các nguyên nhân đó phải khác nhau. Từ sự khác nhau ấy, con chọn lựa cho mình một dòng sông. Dòng sông hạnh phúc của Chúa hay đôi bờ hoan lạc của tội.

Con là một tạo vật hữu hạn. Thứ hạnh phúc của tội cũng là một sản phẩm hữu hạn, bởi vì chính con tạo nên nó. Vì con tạo nên nó, do đấy, nó chẳng bao giờ thỏa mãn con được. Hạnh phúc của con hệ tại bám vào hạnh phúc tự thể là Chúa. Nên khi con mất cái tự hữu để ký sinh thì con chênh vênh và hao hụt ngay.

Tội làm con xa Chúa. Chúa xa con không phải vì Chúa bực mình, ghen tức. Dù con thánh thiện tới đâu đi nữa thì cũng chẳng vì thế mà sự trọn hảo của Chúa thêm trọn hảo hơn. Dù con có cầu nguyện thiết tha đến đâu đi nữa thì chẳng vì thế mà Chúa được cao cả hơn. Tự Chúa đã tràn đầy tất cả. Chúa chẳng cần gì. Nếu con cầu nguyện là con bám vào sự trọn hảo của Chúa để được thương ban mà thôi.

Tội là thái độ tự do để lựa chọn một đối tượng ngoài Chúa. Khi phạm tội là con nghe theo một tiếng gọi khác, chấp nhận một đối tượng khác. Khi con chấp nhận một đối tượng khác rồi thì lẽ dĩ nhiên là Chúa phải xa con. Chúa không áp bức con bằng sức mạnh, bằng quyền năng, nhưng Chúa kính nể sự tự do của con. Khi con phạm tội, khi con lựa chọn một đối tượng rồi thì Chúa muốn ở với con cũng không được vì con đã dành khoảng trống của lòng mình cho một chủ khác rồi.

Khi con kiếm tìm niềm vui nơi tội là con tạo nên cơn bão táp cho chính vườn rau của mình. Càng để tội lỗi làm chủ con tim mình thì Chúa càng phải ở xa. Mà Chúa càng xa thì hạnh phúc thật càng mù tăm, khuất bóng. Lý tưởng cuộc đời con là kiếm tìm và quy về nguồn cõi hạnh phúc thật đó. Do vậy, càng xa nguồn hạnh phúc thật thì con càng đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Mà không còn ý nghĩa thì cuộc sống trở nên man dại, tính toán, lo âu, giành giật, hận thù và chán chường.

* * *

Khi con phạm tội là con phá hủy hết tất cả tự do của con. Cơn bão táp ấy xóa nhòa nhân phẩm của con. Tội là điều xấu. Con không muốn để người khác biết những điều xấu xa của con. Từ đó, con có hai khuôn mặt. Một khuôn mặt thật và một khuôn mặt để “show up”, trình diễn để tha nhân nhìn vào. Khi con giấu kín khuôn mặt thật tội lỗi để phô bày khuôn mặt giả cao thượng là con xây dựng giá trị của mình trên sự lầm lẫn của tha nhân. Con lừa dối kẻ đối diện. Nếu con còn may mắn để nhìn thấy rằng mình có hai khuôn mặt mỗi khi xét mình thì con còn lương tri để biết rằng mình chỉ lừa gạt người chứ không lừa dối mình. Nhưng ngày nào đó, con lẫn lộn giữa thực và hư. Ngày nào đó, con người để trình diễn kia rợp bóng đến nỗi con chỉ thấy nó là chính mình và con tin nó là khuôn mặt thật của mình, con không còn thấy bóng khuôn mặt thật của con đâu nữa thì ngày đó con chẳng còn gì. Con đã là nạn nhân của sự giả tạo. Gian dối với tha nhân đã nên lừa đảo chính mình.

Khi tha nhân tưởng con là gương mẫu của đời mà con không là gương mẫu thì con sẽ lo âu cho cái ngưỡng mộ kia bị đổ vỡ nếu tha nhân nhận ra con người thật tội lỗi của con, cho nên con lại càng phải cất giấu con người đó kỹ hơn. Bởi đấy, tội cướp mất tự do. Sống trong tội, con phải sống trong hồi hộp, gian dối, lo âu.

Chẳng có người cha nào không mủi lòng khi thấy đứa con mình sắp xuống tắm trong dòng sông ngầu vẩn rác đục. Vì kính trọng tự do Chúa đã ban cho con, nên Chúa biết con xa Chúa là đời con sẽ chán chường, Chúa cũng đau khổ, nhưng Chúa chẳng thể cưỡng bách con chọn Chúa được. Mà thật sự con cũng không muốn mất tự do. Hành vi chọn lựa là một thú vui chan chứa của tự do. Không có tự do sẽ là gỗ đá. Nếu con không phải là gỗ đá, nếu con có tự do, thì con phải biết lo âu biết bao về sự tự do của mình.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

TIN YÊU TRONG CHÚA GIÊSU KITÔ

Đức tin theo Kinh thánh không phải là niềm hy vọng rằng mọi việc ở trần thế này sẽ ổn thỏa. Đó là niềm tin trống rỗng. Đức tin trong Kinh thánh không phải là tin rằng chúng ta sẽ vượt qua mọi trở ngại. Đó là niềm tin tự dựa vào sức mình. Đức tin theo Kinh thánh không phải là một cảm giác đến rồi đi. Đó là niềm tin sai hướng. Đức tin theo Kinh thánh là một hành vi đặt niềm tin và hy vọng vào Chúa cũng như vào tình yêu và ý muốn hoàn hảo của Ngài cho cuộc sống của chúng ta.

Đức tin không chỉ là thứ chúng ta sở hữu. Đức tin là đặt niềm hy vọng, sự tín thác và lòng tin tưởng của chúng ta vào Chúa. Đó không chỉ là niềm tin rằng Thiên Chúa có thể làm điều gì đó mà còn là sự tin tưởng và hy vọng, một sự xác tín rằng Thiên Chúa sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta theo ý muốn tốt lành, trọn vẹn và đẹp lòng Ngài.

Đôi khi, lớn lên trong đức tin, chúng ta không “cảm thấy” mình đang lớn lên. Trên thực tế, chúng ta có thể thực sự cảm thấy dường như Thiên Chúa không còn ở gần như trước. Điều này xảy ra khi chúng ta dựa dẫm quá nhiều vào cảm giác và cảm xúc của mình. Ví dụ, có lẽ bạn đã có cơ hội tuyệt vời để tham gia một khóa tĩnh huấn thú vị và đầy cảm hứng. Những khóa tĩnh huấn có thể mang lại cho chúng ta một “tinh thần phấn chấn”. Chúng ta có thể rời khỏi một khóa tĩnh huấn với cảm giác gần gũi với Chúa hơn bao giờ hết. Chúng ta có thể đưa ra những quyết tâm mới, tràn ngập niềm vui, hứng khởi với cuộc sống, và sau đó, trong vòng vài tuần, chúng ta sẽ trở lại con người cũ của mình - mong chờ kỳ tĩnh huấn tiếp theo để chúng ta có thể có lại cảm giác đó. Tất cả điều này là tốt. Và những cuộc tĩnh huấn, bao gồm cả những cuộc tĩnh huấn có mức độ thiêng liêng cao, là những cách rất hữu ích để đức tin tăng trưởng. 

Nhưng về lâu dài, điều chúng ta cần biết là cảm giác gần gũi với Chúa không giống với tình trạng thực sự gần gũi với Thiên Chúa. Đôi khi, Thiên Chúa sẽ lấy đi những cảm xúc tâm linh tốt đẹp của chúng ta trong một thời gian để Ngài có thể giúp chúng ta củng cố sự cam kết của mình với Ngài. Chính sự cam kết của chúng ta với Ngài sẽ làm đức tin của chúng ta sâu sắc hơn. Nếu chúng ta chỉ theo Ngài vì chúng ta cảm thấy muốn theo Ngài, thì chúng ta có thực sự dấn thân không? Nhưng nếu Thiên Chúa lấy đi một số cảm giác tốt lành ban đầu đó và chúng ta vẫn cam kết như trước, thì chúng ta biết rằng mình đang đi đúng đường. Trong trường hợp đó, chúng ta có thể chắc chắn rằng đức tin của chúng ta đang được đào sâu.

Cụ thể bạn hãy lần chuỗi Mân Côi, đi lễ thường xuyên, đọc truyện các thánh, nghiên cứu giáo huấn của Giáo hội, tham gia tĩnh tâm, đọc và suy niệm Kinh thánh hàng ngày, và dành thời gian yên tĩnh để cầu nguyện cá nhân mỗi ngày, v.v. bạn có thể đắm mình trong các hoạt động này càng nhiều thì càng tốt.

Một cách cần thiết khác để đào sâu đức tin của bạn là lớn lên trong đức ái. Đức tin và lòng bác ái đi đôi với nhau, và điều này sẽ củng cố điều kia. Vì vậy, hãy tìm cơ hội để thể hiện tình yêu với người khác.

Tình yêu là một trong những chủ đề lớn của Thánh Gioan, dù trong sách Tin Mừng của ngài: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13: 34- 35), hay trong các bức thư của ngài: “Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Ngài nơi chúng ta mới nên hoàn hảo” (1 Ga 4: 12). 

Những điều nhỏ nhặt tạo nên sự khác biệt lớn trong đời sống đức tin của chúng ta. Ví dụ, hãy tìm cơ hội để tạm đứng lại và chỉ cần mỉm cười với ai đó. Nói một lời tử tế và nâng đỡ tinh thần của nhau. Tại sao không đi ra khỏi nếp sống của bạn để giúp đỡ ai đó? Điều này có thể chỉ đơn giản là mở cửa cho ai đó, giúp con cái làm bài tập hoặc dọn dẹp nhà cửa. Cuộc sống hàng ngày của chúng ta mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội để làm việc bác ái. Tất cả những gì chúng ta cần làm là tìm kiếm những cơ hội này, dù chúng nhỏ nhoi đến đâu, và đưa ra lựa chọn sáng suốt để hành động theo chúng. 

Thiên Chúa không yêu cầu chúng ta đảo lộn thế giới, nhưng yêu cầu chúng ta làm việc cho một thế giới nhiều tình thương hơn, quảng đại hơn, và chính trong cuộc sống hàng ngày mà Chúa đang chờ đợi chúng ta thực hiện tình thương mến ấy: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Rm 13: 8-9). Một ly nước nhỏ mà chúng ta dâng cho Chúa có giá trị vô cùng: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9: 41). Ly nước đó là sự chia sẻ hàng ngày, tương trợ lẫn nhau, phục vụ láng giềng, bạn bè... Là chuyện trò, thăm viếng người đau yếu, nghĩa tình với người già...Tất nhiên, tất cả những điều này chỉ là những điều nhỏ nhặt, nhưng chúng không thể diễn ra mà không thay đổi thế giới và chúng là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Chúa ở giữa chúng ta, vốn tùy thuộc vào chúng ta có làm những việc đó không: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” (Mt 25: 35-36). Nếu không có tất cả sự chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau như vậy thì tình bạn, đoàn kết, thế giới sẽ không thể an hòa, sẽ chỉ còn luật rừng như câu tục ngữ La tinh “Homo homini lupus est” nghĩa là “người với người như là sói”. Khi đó sức mạnh và bạo lực có quyền trên tất cả và dễ dàng gây bất lợi cho những kẻ bé nhỏ và yếu đuối. Lịch sử nhân loại đã chứng minh điều này rất rõ. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta học bài học rửa chân mà Thánh Gioan thuật lại: “Anh em gọi Thầy là "Thầy", là "Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13: 13-15). Chính bằng cách phục vụ người khác mà chúng ta làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với con người 

Không phải lúc nào cũng dễ dàng học bài học này. Chúng ta cần rất nhiều ơn Chúa để kiên trì sống lời mời gọi yêu thương của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hiểu rõ điều này: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14: 18). Ngài biết rằng chúng ta có nguy cơ bị cuốn theo những lo toan của cuộc sống rồi trở nên thờ ơ. Ngài chỉ ra cho chúng ta thấy rằng người ta thường dễ quên những người khác đang sống bên cạnh chúng ta và chúng ta tự nhốt mình trong chủ nghĩa cá nhân nhỏ nhoi của mình… Có lẽ hơi giống các tông đồ sau khi Chúa sống lại: họ không còn chắc chắn về bản thân, họ sợ hãi, họ rút lui, họ co cụm lại một chỗ. Chúa Giêsu hứa ban cho họ Thần Khí: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (Ga 14: 16-17). Thần Khí mà họ sẽ lãnh nhận vào ngày Lễ Ngũ Tuần và sẽ thúc đẩy họ công bố tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người đến tận cùng thế giới. Chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Ngài luôn ở trong chúng ta, Ngài đồng hành với chúng ta, chính Ngài giúp chúng ta hiểu Kinh Thánh, hiểu sứ điệp của Chúa Kitô, hiểu giới răn yêu thương mà Ngài đã để lại cho chúng ta: chính Ngài yêu tôi, Ngài vẫn mãi trung thành với tình yêu đó.

Vì vậy, hãy cầu nguyện nhiều, tìm hiểu đức tin của bạn, cố gắng sống một cuộc sống bác ái, và hãy tin chắc rằng đức tin của bạn sẽ phát triển, ngay cả khi không phải lúc nào bạn cũng cảm thấy như vậy. Và bạn đã đi đúng đường chỉ bằng cách mong muốn có một đức tin sâu xa hơn. Hãy tiếp tục mong muốn đó, và hãy tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện mong muốn đó!

Xin Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Thánh tẩy, vả còn lãnh nhận lại vào những lúc chúng ta kêu cầu Ngài, giúp chúng ta mỗi ngày xây dựng một thế giới nhân bản hơn!

 

Phêrô Phạm Văn Trung

tổng hợp từ mycatholic.life