8. Đời Sống Tâm Linh

ĐỜI SỐNG ĐẠO HẠNH VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT THA NHÂN

Một ngày nọ, cách đây rất lâu, vào khoảng năm 400, có người đã nói mỉa mai với Thánh Augustinô thành Hippo: “Tôi không muốn thừa hưởng Nước Trời; đối với tôi chỉ cần tôi không bị trầm luân đời đời là đủ.” Đây là đoạn văn trong Kinh thánh mà người hoài nghi vừa thảo luận với vị giám mục của mình:

Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Galát 5:19-21).

Lời khuyên của Thánh Phaolô trong Galát chương 5 nghe rất khác với những lời của Chúa chúng ta hôm nay trong Mátthêu chương 25. Trong câu chuyện của Phaolô, thánh nhân nhấn mạnh rằng tội xác thịt, tội đam mê, cảm xúc và khoái lạc thể xác đã cắt đứt người ta khỏi Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong phần trình bày của Chúa về Cuộc Phán xét Cuối cùng, Ngài nói với chúng ta rằng bỏ bê các công việc thương xác bảy mối sẽ khiến chúng ta không được thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho chúng ta ngay từ thuở tạo thiên lập địa: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không choăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25: 41-43).

Đôi khi hai cách nói này có vẻ như rất khác nhau về giọng điệu, nhưng sự khác nhau này lại bị nhiều người phóng đại và hiểu lầm. Chúng ta hãy xem xét.

Ví dụ, trong giáo xứ của tôi, khi tôi giảng về Lễ Trọng Chúa Kitô Vua, tôi đã nói với mọi người rằng tội phạm đến sự trong sạch hoặc các quan niệm tôn giáo sai lầm hầu như là những nguyên nhân dẫn linh hồn xuống địa ngục. Tôi thậm chí nói thêm rằng đây là điều Đức Mẹ đã nói tại Fatima với ba trẻ được diễm phúc. Bạn có thể tưởng tượng rằng sau đó tôi nhận được một số phản hồi từ vị Giám đốc phụ trách giáo dục tôn giáo (DRE: director of religeous education) hoặc từ các giáo hữu ngay trước cửa nhà thờ, vì nói những điều khá là không hợp thời. Tuy nhiên, khi tôi nói với mọi người rằng nếu họ bỏ bê người nghèo và người túng thiếu thì họ có nguy cơ mất đi linh hồn, và tôi thậm chí còn thêm một số lời của Đức Thánh Cha Phanxicô về việc phục vụ người nghèo, thì rõ ràng rằng sẽ chẳng có ai phản đối những gì tôi nói, bạn có thể hình dung ra chuyện đó.

Ngày nay, tội xác thịt không bị coi là xấu xa như thế, và việc nhấn mạnh tính hiểm độc của chúng đến mức cảnh báo rằng chúng sẽ dẫn người ta đến lửa hỏa ngục thường bị coi là suy nghĩ thấp kém hoặc quá khắc nghiệt. Nhưng việc nhấn mạnh nghĩa vụ xã hội của chúng ta đối với những người bất hạnh lại được coi là rất đáng trân trọng.

Vì vậy, người ta có thể dễ dàng tưởng tượng một phiên bản hiện đại của người phản đối Thánh Augustinô nói với vị linh mục: “Này Cha, tôi không cần thừa kế vương quốc dành riêng cho người trong trắng và khắc khổ. Tôi sẽ chỉ đóng góp cho người nghèo và người thiếu thốn, và điều đó sẽ đưa tôi vào thiên đàng. Tôi không cần một nước trời nào khác.”

Tuy vậy, thực tế là có mối liên hệ sâu sắc giữa việc chúng ta tận hưởng những cảm xúc và ham muốn khoái lạc của mình với cách chúng ta đối đãi những người gặp hoạn nạn. Một xã hội chìm đắm trong những cảm xúc và ham muốn khoái lạc sẽ không mấy quan tâm đến việc đối đãi những người túng thiếu.

Đây là cách Thánh Augustinô trả lời người phản đối trong bài giảng về việc sám hối (Bài giảng 351). Ngay sau dòng nói về việc không cần Nước Trời, vị tiến sĩ ân sủng vĩ đại giải thích cho kẻ tội lỗi bất chấp đạo lý này:

  • Chúa đã phán: “Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24: 12-13), Ngài hứa sự cứu rỗi cho những ai kiên trì trong lòng bác ái, chứ không phải cho những ai cố lỳ trong sự suy đồi trái ngược đạo lý. Ở đâu có lòng bác ái, thì những việc xấu xa vốn ở ngoài vương quốc Thiên Chúa không thể tồn tại, vì “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Galát 5: 14).

Quan điểm của Thánh Augustinô có thể dễ dàng hiểu được nếu chúng ta tự hỏi mình câu hỏi này: tại sao những con dê, những kẻ ở bên trái, sẵn sàng chịu ném vào lửa hỏa ngục, lại bỏ bê việc làm của lòng thương xót? Điều gì ở họ đã khiến họ không để ý đến hoạn nạn của người khác? Rõ ràng là họ ích kỷ theo đuổi khoái lạc và thỏa mãn cảm xúc của chính họ. Một loạt tội lỗi mà Thánh Phaolô mô tả ở trên: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, đã dẫn đến việc xao lãng những việc lành: Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han, mà Chúa chúng ta khen ngợi và tưởng thưởng.

Không có sự phân ly giữa nhân đức cá nhân và tình yêu thương người lân cận; thực sự cả hai là một và như nhau. Suy cho cùng, “Vương quyền của Thiên Chúa” có nghĩa là quan tâm đến hạnh phúc của người khác, và vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Chúa Kitô, nên chúng ta nhất định phải yêu mến Ngài, yêu người khác như chính mình và như Chúa yêu họ: “Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22: 37-39). Vì vậy, cách yêu bản thân tốt nhất chính là trở nên giống Chúa Kitô và thực hành tình yêu thương người lân cận, và điều này trái ngược với tính xác thịt. Ai cũng thấy dâm đãng, say sưa khiến con người trở nên hèn hạ, sao nhãng bổn phận đối với người lân cận, nên ai muốn “bền chí đến cùng” trong việc yêu thương người lân cận cũng phải kiềm chế những đam mê, ham muốn của mình.

Thánh Tôma nói điều đó rất hay – ở đây chúng ta thấy ngài viện dẫn, ít nhiều,  Thánh Augustinô – khi ngài nói với chúng ta:

  • Một người yêu bản thân mình hơn khi người ấy nhiệt thành vì hạnh phúc và chăm sóc người khác, và người ấy dành phần tốt hơn cho mình, vì người ấy giống Chúa hơn khi trở thành duyên do làm điều tốt cho người khác hơn là cho chỉ bản thân mình.

Xin cho tình yêu tha nhân làm cho chúng ta trở nên giống Chúa Kitô, Vua của chúng ta. Rồi thì, Ngài sẽ coi việc chúng ta phục vụ người khác như đã làm cho chính Ngài và chúng ta sẽ cùng Ngài thừa kế Nước trời. Amen.

 

Phêrô Phạm Văn Trung,

(phỏng theo Lm Hugh Barbour, catholic.com)

CON NHÌN CHÚA. CHÚA NHÌN CON

Mỗi khi đến trước Chúa như chầu hoặc rước Thánh Thể, thông thường là chúng ta đọc kinh, hát thánh ca, hoặc dâng lời nguyện cộng đồng. Nhưng đối với các thánh, những tâm hồn suy niệm, các ngài thường chỉ “im lặng” và “nhìn” Chúa.

Im lặng và nhìn Chúa là một lối biểu lộ tình cảm thân mật, tâm giao nhất mà một linh hồn có thể làm khi ở trước Chúa, trước Thánh Thể, hay một mình trước Nhà Tạm. Chúa Giêsu cũng có một trái tim, nên Ngài cũng biết rung động và thổn thức. Ngài cũng muốn được chia sẻ và tâm sự với những bạn hữu của Ngài. Nhu cầu chia sẻ của Ngài đòi hỏi những người bạn biết lắng nghe. Linh đạo này chúng ta có thể nhận ra khi suy niệm Phúc Âm của Thánh Luca.

“Trong khi Thầy trò đi đường, Ðức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mátta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mátta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” Chúa đáp: “Mátta! Mátta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (10:38-42). 

Maria đã chọn ngồi lắng nghe Chúa nói và tâm sự với Ngài, và hành động của cô được Chúa khen. Điều này cũng phải, vì quanh Chúa có bao tiếng ồn ào, thở than, năn nỷ, và phàn nàn. Vậy Chúa cần ai đây để có thể thoải mái, có thể nhẹ nhàng trút bỏ những phiền toái ấy? Ngoài ra, Chúa cũng cần một người biết lắng nghe, một người hiểu để chia sẻ những gì mà Ngài đang ưu tư trong lòng: Ơn cứu độ, sự thánh thiện và phần rỗi nhân loại, cũng như phần rỗi từng linh hồn.

Truyện kể là hôm đó cả dân thành sốt sắng tổ chức cung nghinh Thánh Thể khắp đường phố, có hồng y chủ sự, các giám mục, nhiều linh mục, nam nữ tu sỹ, và đông đảo giáo dân tham dự. Cùng lúc đó, một tia sáng nhỏ lách qua kẽ hở của khung cửa thánh đường, chiếu thẳng vào Nhà Tạm. Điều làm cho ánh sáng sửng sốt là từ trong Nhà Tạm phát ra những tiếng than thở “Ta cô đơn quá!”.

-Lạy Chúa, cả một đoàn rước đông đảo, trang nghiêm, và sốt sắng ngoài kia không đủ làm Chúa vui sao. Tại sao Chúa cô đơn? Tia sáng nhỏ hỏi lại. Nhưng tiếng “Ta cô đơn quá” vẫn tiếp tục vang ra từ trong Nhà Tạm.

Rồi bỗng nhiên, tiếng than cô đơn im bặt. Tia sáng lấy làm lạ và hỏi Chúa:

-Lạy Chúa, giờ này sao Chúa hết cô đơn?

Và khi tia sáng nhìn về phía cuối thánh đường, nơi đó bắt gặp một bà lão vừa từ ngoài bước vào. Bà im lặng và nhìn lên Nhà Tạm. *

Mệt và đói khi đến nhà của chị em Mátta và Maria, cô đơn trong Nhà Tạm, và ngủ vùi trên thuyền của các Tông Đồ. Giấc ngủ say sưa đến nỗi bão tố nổi lên muốn chìm thuyền mà Ngài không biết: “Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng biết sao?” (Mc 4: 38).

Vâng. Chúa cũng có những nhu cầu như ăn, uống, ngủ, nghỉ như mọi người chúng ta. Sự mệt mỏi thân xác, suy tư về tinh thần còn dẫn đến nhu cầu tâm lý và tinh thần của Ngài nữa. Và đó là lý do tại sao Chúa hài lòng với sự đón tiếp của Maria, cần một giấc ngủ. Và đó cũng là lý do Ngài hết cô đơn khi có bạn tâm giáo đến nghe và tâm sự với Ngài.   

Ngồi bên Chúa, lắng nghe và tâm sự với Chúa, và nhìn lên Chúa. Đây là cách cầu nguyện bằng hình thức suy niệm của các linh hồn đã tiến cao trên đường tu đức. Theo Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, cầu nguyện là một phút hướng tâm lên với Thiên Chúa. Không cần nói nhiều, không cần kể lể nhiều. “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt 6:7). Ngôn ngữ không chỉ được biểu lộ bằng lời, ngôn ngữ còn được biểu lộ bằng cử chỉ (body language). Trong tình yêu, chỉ một cái nhìn, một ánh mắt cũng đủ để hai kẻ yêu nhau hiểu được ý của nhau.

Phút hướng tâm đối với Maria là sự thân mật, ngồi nghe Chúa. Maria cũng nhìn lên Chúa để hiểu và để cảm được sự mệt mỏi của Ngài sau những ngày dài trên cánh đồng truyền giáo.

Phút hướng tâm đối với bà lão là sự đơn sơ, thành kính trước Nhà Tạm. Bà kết hợp với Chúa bằng tâm tình nhỏ bé, đơn sơ, và khiêm nhường. Có lẽ vì bà già nên không theo được với đoàn rước. Và cũng có thể vì bà không chen lấn được giữa đoàn người đông đảo.

Phút hướng tâm của Mátta có hơi khác. Mátta tìm đến Chúa bằng thái độ hờn dỗi, trách móc. Nếu Maria hiểu Chúa, và chia sẻ với Chúa, thì ngược lại, Mátta muốn Chúa hiểu và chia sẻ với mình. Khi thưa với Chúa: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (40), có lẽ Mátta đã tự cho mình là thân tình, là yêu mến Thầy, và hiểu Thầy nên mới có những lời “hờn dỗi” với Chúa. Nhưng Ngài, Chúa Giêsu đã không quan tâm đến những chuyện ăn uống, mà Ngài thật sự đang cần được nghỉ ngơi. Do đó Chúa đã vui khi có Maria trò truyện, đã hết cô đơn khi có cái nhìn của một bà lão. Đối với Chúa Giêsu, thái độ nũng nịu của Mátta không làm Chúa vui, và những tiếng đàn hát, câu kinh, và việc làm đạo đức của đoàn người cũng đã không an ủi được Trái Tim cô đơn của Ngài. Ngài cần một ai đó biết lắng nghe và tâm sự với Ngài.   

Nhưng dù phút hướng tâm mang mầu sắc nào, thì nhu cầu gần gũi và hiện diện là đòi hỏi cần thiết. Chúa đã dạy Thánh nữ Catarina (1347-1380) lập một gian phòng trống trong tâm hồn để có thể vào đó mà tâm sự với Ngài, và cũng để làm nơi nghỉ ngơi giữa muôn ồn ào, náo nhiệt đang vây quanh Ngài.

Con nhìn Chúa. Chúa nhìn con.

Lạy Chúa Giêsu mến yêu. Linh hồn con nhỏ bé, nghèo nàn, và không đầy đủ tiện nghi cho một Thiên Chúa đến trú ngụ. Nhưng trên hành trình truyền giáo, nếu Chúa thấy mỏi mệt, và cần một nơi để nghỉ ngơi như căn nhà ở Bêthania xưa, thì lạy Chúa, xin Chúa hãy cứ ghé thăm. Con đang ở đây để tiếp đón và trò truyện với Chúa mặc dù con bất xứng. Vì lạy Chúa Giêsu. Con yêu mến Chúa.  

________

*Câu truyện được ghi lại theo trí nhớ của tác giả. Có thể tác giả đọc được đâu đó trong cuốn Tin Cậy Chúa Quan Phòng của Thánh Elizabeth Chúa Ba Ngôi (1880-1906).

Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt

CON ĐƯỜNG NÀO THỰC SỰ DẪN ĐẾN HẠNH PHÚC ĐÍCH THỰC?

Có thể có nhiều con đường dẫn đến hạnh phúc, nhưng chỉ có một con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.

Khát vọng hạnh phúc đã khắc sâu trong mỗi chúng ta. Và vì lý do chính đáng, chính Thiên Chúa đã đặt khát vọng đó vào trái tim của con người. Do đó, việc khát khao hạnh phúc là điều bình thường: chúng ta được tạo dựng nên để khát khao hạnh phúc đó! Điều quan trọng là đừng nhầm lẫn hạnh phúc. 

Trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc của chúng ta, ma quỷ tìm cách gài bẫy chúng ta, treo lủng lẳng trước mắt chúng ta những thú vui giả tạo và những thỏa mãn tầm thường. Tuy nhiên, những thứ đó không thể làm chúng ta hài lòng, bởi vì chúng ta không được đẽo gọt cho vừa với thứ hạnh phúc rẻ tiền. Chúng ta được dựng nên để đạt tới hạnh phúc của Thiên Chúa. Do đó, tất cả những hạnh phúc giả tạo khác chỉ có thể làm chúng ta thất vọng và đói khát. Qua Tám Mối Phúc, Chúa Giêsu nhắc lại ơn gọi hạnh phúc của chúng ta và mô tả “những chỉ dẫn sử dụng” (Mt 5, 1-2).

  1. “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất”

Con đường dẫn đến hạnh phúc mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi theo thật khó hiểu: đó là con đường nghèo đói, nước mắt, bắt bớ, đói khát. Hoàn toàn ngược lại với ý tưởng rằng thế giới có hạnh phúc! Bản thân chúng ta không mơ ước, cho chúng ta và cho con cái chúng ta, về một con đường dễ dàng sao? Về cơ bản, chúng ta muốn dung hòa giữa việc chinh phục hạnh phúc trần thế - tiện nghi vật chất, thành công xã hội, thắng lợi, thú vui - và việc tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng Chúa Giêsu thì rõ ràng: “Hãy qua cửa hẹp mà vào” (Mt 7:13); “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23); “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất” (Mt 6,19); “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16:13).

Chúng ta phải lựa chọn: chúng ta có thực sự muốn niềm hạnh phúc vô biên mà Thiên Chúa muốn đổ đầy cho chúng ta không? Nếu vậy, chúng ta hãy kiên quyết theo dấu chân của Chúa Giêsu. Chúng ta không thể nửa vời hay hai lòng: một chút cho Thiên Chúa, một chút cho trần gian. Nhưng chọn một trong hai, hoặc điều này hoặc điều kia. Chúng ta tin cậy ai: Thiên Chúa, hay tài khoản ngân hàng của chúng ta? Chúng ta có tham vọng gì cho con cái mình: hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa (nói cách khác: nên thánh), hay thành công trần gian? “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài, còn tất cả những thứ kia, Ngài sẽ thêm cho” (Lc 12: 29-31). 

  1. Hạnh Phúc Vĩnh cửu với Thiên Chúa khó đạt được đến thế sao?

Hạnh phúc đến từ Thiên Chúa không phải là một lời hứa xa vời, hạnh phúc đó được ban tặng cho chúng ta hôm nay. Nếu chúng ta đọc kỹ Tám Mối Phúc Thật, như Thánh Mátthêu thuật lại cho chúng ta, thì chúng ta nhận thấy rằng mối phúc thứ nhất và mối phúc thứ tám ở thì hiện tại: Nước Trời được ban ngay bây giờ cho những ai tìm kiếm nó. Bất cứ ai mong muốn những gì là công chính trước mặt Thiên Chúa, bất cứ ai mong đợi mọi sự từ Ngài, đều nếm trải niềm vui Thiên Đàng hôm nay, một cách cụ thể và hữu hình. 

Chúa Giêsu đã hứa điều đó với chúng ta: những gì chúng ta từ bỏ vì Ngài, thì từ nay trở đi, chúng ta sẽ được trả lại gấp trăm lần: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Ngài cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10, 29-30). Tìm kiếm Nước Thiên Chúa không có nghĩa là chúng ta chỉ biết đến những khó khăn và cay đắng ở dưới trần thế này: trái lại! Trái tim chúng ta càng gắn bó với Thiên Chúa bao nhiêu, thì tâm hồn chúng ta càng mở rộng ra để đón nhận những niềm vui mỗi ngày, dù nhỏ hay lớn, nhưng rất thực! Chúng ta càng tìm kiếm Nước Trời bao nhiêu, chúng ta càng được ban cho phần còn lại bấy nhiêu!

Nước Trời dường như khó đạt tới. Đây là một nhiệm vụ có vẻ phức tạp đối với chúng ta. Thế mà Thiên Chúa chỉ đặt ra một điều kiện: “Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18: 3). Trẻ thơ đồng nghĩa với tình yêu không giới hạn, phó thác cho cha mẹ trong mọi việc. Đứa trẻ, cũng giống như người nghèo, là người phó thác vô điều kiện cho tình yêu của Chúa Cha. Chúng ta không dám đặt cược mọi sự vào Thiên Chúa, và chỉ mong hạnh phúc của chúng ta từ một mình Ngài, bởi vì chúng ta sợ Thập Giá. Nhưng Thiên Chúa không gửi đau khổ: Ngài ban niềm vui, ngay bây giờ. Và khi chúng ta gặp thử thách, Ngài đề nghị chúng ta sống thử thách với Ngài, thay vì cam chịu thử thách, và như thế, chúng ta tìm thấy ở đó sự nếm trước Hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta có muốn điều đó không? 

  1. Khát khao Thiên Chúa, con đường duy nhất dẫn đến hạnh phúc đích thực

Chỉ có một khát khao duy nhất trong đời, đó là được hiệp thông thường xuyên với Thiên Chúa, đó chẳng phải là điều điên rồ dành riêng cho các nhà thần bí sao? Tuy nhiên, mỗi người đều cảm thấy trong mình niềm khao khát vô tận. Dù đôi khi không biết gọi tên nó như thế nào, đôi khi chỉ biết im lặng, nhưng sự khao khát Thiên Chúa là con đường duy nhất dẫn đến hạnh phúc thực sự.

Một bữa tối xã giao như bao bữa ăn khác. Các cuộc trò chuyện xoay quanh công việc, học tập hay chọn trường học cho con cái, những chuyến đi trong tương lai. Dù ý thức hay không ý thức, mỗi vị khách đều bắt đầu một câu chuyện cho thấy điều gì đang thống trị trên cuộc sống của người ấy. Đây là quy luật của cuộc sống như trong một trò chơi, mọi người đều biết điều đó: bạn phải chứng tỏ rằng bạn quản lý, rằng bạn quyết định, rằng bạn kiểm soát cuộc sống của mình một cách hiệu quả và thành công. Nếu không, chúng ta có nguy cơ bị coi là một kẻ thua cuộc, vô trách nhiệm hoặc ít nhất là một người “đầu óc trên mây” hoặc sống bên lề… Tất nhiên, không phải lúc nào điều đó cũng xảy ra. Nhưng rất thường xuyên, rất khó để từ bỏ ý tưởng về việc làm chủ cuộc sống của chính mình. 

  1. Khao khát Thiên Chúa là để Ngài ngự trị trong mình.

Dấu hiệu của thời đại, theo Denis Marquet, tác giả của cuốn sách tuyệt vời Cầu nguyện hay nghệ thuật đón nhận (sẽ được Flammarion xuất bản ngày 17 tháng 2). Ông giải thích rằng chúng ta đang sống trong một thời đại đã thiết lập sự thống trị của cái tôi: “Cả cuộc đời chúng ta là một cuộc đấu tranh cho sự thống trị của cái tôi. Từ giờ trở đi, con người muốn trở thành tác giả câu chuyện của mình, con người từ chối việc người khác ngự trị cuộc đời họ: con người muốn cai trị chính mình”, ông viết. Một quan niệm về hạnh phúc bao gồm việc nói với chính mình: Tôi hạnh phúc khi mọi thứ diễn ra như tôi muốn. Chỉ có điều, sự thống trị này của cái tôi ngăn cản sự thống trị của Thiên Chúa. Tác giả viết tiếp, thế mà “khao khát Thiên Chúa là để Ngài ngự trị trong chính mình”. Với lòng khao khát Thiên Chúa, đó là con đường duy nhất dẫn đến hạnh phúc đích thực.

  1. Sự thống trị của cái tôi hay sự thống trị của Thiên Chúa?

Khi những người Pharisêu hỏi Chúa Giêsu “Bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến?” Chúa Giêsu trả lời họ “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: Ở đây này! hay Ở kia kìa! vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17, 20-21). Denis Marquet nhấn mạnh trong cuốn sách của mình: “Vì vậy, vấn đề không phải là chờ đợi Triều Đại Thiên Chúa đến, mà là cho phép Triều Đại Thiên Chúa đến, nghĩa là, cho phép Triều Đại Thiên Chúa tự biểu hiện ngay bây giờ. Làm cách nào? Bằng cách kết nối chúng ta với nội tâm của chúng ta”. 

Do đó, chìa khóa là quay lưng lại với thế giới bên ngoài, một thế giới vốn tạo ra nhu cầu và dự phóng của chúng ta, để hướng về nội tâm của mình. Chính ở đó, nơi trung tâm của sự thân mật, mà Triều đại của Thiên Chúa hiện diện, nơi ngự trị một tình yêu vô biên. Tác giả tiếp tục: “Vì lý do này, chỉ có một điều có thể cản trở sự biểu lộ của Triều đại Thiên Chúa: để cho một uy quyền khác ngoài Thiên Chúa ngự trị trong chính mình”. 

Thánh Bernarđô đã viết trong Khảo Luận của Ngài về Tình yêu của Thiên Chúa  “Thiên Chúa đã biến bạn thành một hữu thể biết khao khát và sự khao khát của bạn chính là Thiên Chúa.” Ngài được truyền cảm hứng từ Thánh Augustinô, vốn đã định nghĩa niềm khát khao là “đáy lòng”. Bằng cách khao khát Thiên Chúa, chúng ta làm cho mình có khả năng được Ngài đáp ứng. Để Thiên Chúa ngự trị trong mình dẫn đến hạnh phúc viên mãn.

  1. Khao khát Chúa, phải chăng là gạt bỏ những khao khát khác?

Thật thú vị khi nghĩ rằng niềm khao khát Thiên Chúa được ghi khắc trong mỗi con người. Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo mở đầu với sự cân nhắc này:

  • “Tận đáy lòng, con người khao khátThiên Chúa vì con người được tạo dựng do Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với mình, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm gặp chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng tìm kiếm. Sự khao khát Thiên Chúa được khắc ghi trong tâm hồn con người, vì con người được tạo dựng bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa; Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với Ngài, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm được chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng kiếm tìm” (số 27).

Nhưng khao khát Thiên Chúa có nghĩa là gạt bỏ những khao khát khác sang một bên không? Làm sao chúng ta có thể không sợ để mình bị lôi cuốn bởi ước muốn tuyệt đối về Thiên Chúa, và nhất thời từ bỏ những điều khác của cuộc sống, cũng là những điều đáng ao ước? Nếu con người “thường xuyên bị nhiều ham muốn lấn át, thì ước muốn cơ bản lớn lao của họ là khao khát vô tận về sự sung túc, ngay cả khi họ không biết gọi tên sự hấp dẫn không thể cưỡng lại này", Đức Bênêđictô XVI trả lời theo cách riêng của Ngài trong buổi tiếp kiến ​​chung ngày 07 tháng Mười một năm 2012 nhân dịp Năm Đức Tin.

Do đó, vấn đề không phải là từ bỏ những khát khao của mình, mà là hiểu rằng trong mỗi khát khao, thực sự có khát khao của Thiên Chúa. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, còn mọi thứ khác sẽ được thêm cho” (Mt, 6, 33). Khao khát Thiên Chúa là tiếp cận sự phong phú và ân sủng. Đó là đón nhận tình yêu vô bờ bến của Ngài.

  1. “Xin cho Nước Cha trị đến”,một trường học của sự khát vọng

Câu “Xin cho Nước Cha trị đến” từ Kinh Lạy Cha là lời khẳng định về khát khao của Thiên Chúa và sự ngự trị của Ngài nơi con người, loại trừ mọi quyền lực khác. Denis Marquet tiếp tục: “Muốn có triều đại của Thiên Chúa là từ bỏ bất cứ hình thức quyền lực nào khác ngoài quyền lực của Thiên Chúa”. Khao khát Thiên Chúa là luôn luôn sẵn sàng cho một sự gặp gỡ lòng với lòng ngày càng sâu xa hơn với Ngài. Thánh Augustinô mô tả điều đó một cách đáng thán phục:

  • “Thiên Chúa, bằng cách bắt mọi người chờ đợi,Ngài mở rộng khát khao của họ; bằng cách làm cho họ khát khao, Ngài mở rộng tâm hồn của họ; bằng cách mở rộng tâm hồn của họ, Ngài gia tăng khả năng đón nhận. (…) Giả sử rằng Thiên Chúa muốn đổ đầy mật ngọt vào bạn: nhưng bạn lại đầy giấm chua, bạn sẽ để mật ngọt này ở đâu? Bạn phải đổ những thứ bên trong chiếc bình ra, bạn phải tự làm sạch chiếc bình, bạn phải làm sạch nó bằng cách ra sức chùi rửa, bằng cách chà xát, để chiếc bình đó có khả năng tiếp nhận thứ khác. Thiên Chúa đã biến bạn thành một hữu thể có niềm khao khát và khao khát của bạn chính là Ngài, là Thiên Chúa” (Bài giảng của Thánh Augustinô về thư thứ nhất của Thánh Gioan)

Khi đó, lòng khao khát Thiên Chúa này, sự nghỉ ngơi này trong Thiên Chúa sẽ giúp con người đạt đến sự viên mãn, một sự viên mãn với hai ánh sáng cốt yếu: ân sủng và tình yêu.

 

Tác giả: Christine Ponsard, và Marzena Devoud, aleteia.org.

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.