8. Đời Sống Tâm Linh

Đôi điều suy nghĩ

Chúa đem con vào đời, nhưng mục đích chính yếu của cuộc sống lại là chờ đợi một chuyến đi. Sân ga không phải là quê hương của con để con bám víu và xây đắp, nhưng chỉ là bến tạm để đợi chờ con tàu. Khi nào thì con tàu sẽ đến để đem con đi? Khi nào con từ giã cuộc sống? Con chẳng biết được thời giờ định mệnh này. Thưa Chúa, có điều con muốn nói là trong khi chờ đợi, trong lúc nhìn thời gian tiến về điểm mốc trọng đại ấy, con luôn luôn cần hạnh phúc.

* * *

Con đã cảm nghiệm được nhiều thứ hạnh phúc. Hạnh phúc khi nhận được tin vui. Hạnh phúc đến từ một tâm hồn biết thông cảm. Hạnh phúc đến từ sự thành công trong công ăn việc làm. Nhưng, những hạnh phúc ấy vẫn chẳng làm con an lòng. Con vẫn lo âu. Những hạnh phúc ấy vẫn là bấp bênh. Quá khứ minh chứng rằng nhiều lần con đã mất hạnh phúc ấy.

Vì những hạnh phúc ấy có thể mất nên cũng có những ngày tháng con sống không niềm vui, chung quanh con là sa mạc. Mà đời người thì chẳng thể sống không niềm vui. Nên con đi tìm niềm vui mới. Có khi con oán giận Chúa, bỏ đời sống đức tin để tìm bất cứ một an ủi nào đó. Trong những giây phút ấy con thường tìm hạnh phúc trong tội lỗi. Con không nhìn thấy những tàn phá của tội mà con chỉ thấy những hứa hẹn và bóng mát của tội mà thôi. Thật sự con chẳng muốn bỏ Chúa bằng con đường chủ tâm sống trong tội. Con vẫn biết con không thể sống thiếu Chúa, nhưng trong yếu đuối của đời mình, con đã thấy quyến rũ nơi tội mạnh hơn hạnh phúc do đời sống đức tin đem lại.

Hạnh phúc thật thì chỉ có một định nghĩa. Nếu con đi tìm bất cứ hạnh phúc nào ngoài thứ hạnh phúc thật đó, con sẽ hoang mang và hụt hẫng. Hạnh phúc thật đó chỉ có Chúa mới cho con được mà thôi. Chúa là nguyên ủy của tất cả, thì hạnh phúc cũng phải do Chúa là nguyên nhân. Bởi đấy, khi con đi tìm niềm vui ngoài nguyên nhân tối thượng là Chúa, con sẽ gặp thất vọng.

* * *

Khi con phạm tội, tội cũng cho con một chút “niềm vui”. Nhưng tội làm con xa Chúa. Niềm vui hay hạnh phúc là lúc trầm mình thưởng thức trong dòng nước chảy của dòng sông. Mức độ và sắc thái khác nhau của hạnh phúc tùy thuộc vào nguồn gốc của dòng sông ấy. Chúa là nguyên nhân của một thứ hạnh phúc. Tội cũng sinh ra một dòng hoan lạc. Nguyên nhân khác nhau thì hạnh phúc hay hoan lạc đến từ các nguyên nhân đó phải khác nhau. Từ sự khác nhau ấy, con chọn lựa cho mình một dòng sông. Dòng sông hạnh phúc của Chúa hay đôi bờ hoan lạc của tội.

Con là một tạo vật hữu hạn. Thứ hạnh phúc của tội cũng là một sản phẩm hữu hạn, bởi vì chính con tạo nên nó. Vì con tạo nên nó, do đấy, nó chẳng bao giờ thỏa mãn con được. Hạnh phúc của con hệ tại bám vào hạnh phúc tự thể là Chúa. Nên khi con mất cái tự hữu để ký sinh thì con chênh vênh và hao hụt ngay.

Tội làm con xa Chúa. Chúa xa con không phải vì Chúa bực mình, ghen tức. Dù con thánh thiện tới đâu đi nữa thì cũng chẳng vì thế mà sự trọn hảo của Chúa thêm trọn hảo hơn. Dù con có cầu nguyện thiết tha đến đâu đi nữa thì chẳng vì thế mà Chúa được cao cả hơn. Tự Chúa đã tràn đầy tất cả. Chúa chẳng cần gì. Nếu con cầu nguyện là con bám vào sự trọn hảo của Chúa để được thương ban mà thôi.

Tội là thái độ tự do để lựa chọn một đối tượng ngoài Chúa. Khi phạm tội là con nghe theo một tiếng gọi khác, chấp nhận một đối tượng khác. Khi con chấp nhận một đối tượng khác rồi thì lẽ dĩ nhiên là Chúa phải xa con. Chúa không áp bức con bằng sức mạnh, bằng quyền năng, nhưng Chúa kính nể sự tự do của con. Khi con phạm tội, khi con lựa chọn một đối tượng rồi thì Chúa muốn ở với con cũng không được vì con đã dành khoảng trống của lòng mình cho một chủ khác rồi.

Khi con kiếm tìm niềm vui nơi tội là con tạo nên cơn bão táp cho chính vườn rau của mình. Càng để tội lỗi làm chủ con tim mình thì Chúa càng phải ở xa. Mà Chúa càng xa thì hạnh phúc thật càng mù tăm, khuất bóng. Lý tưởng cuộc đời con là kiếm tìm và quy về nguồn cõi hạnh phúc thật đó. Do vậy, càng xa nguồn hạnh phúc thật thì con càng đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Mà không còn ý nghĩa thì cuộc sống trở nên man dại, tính toán, lo âu, giành giật, hận thù và chán chường.

* * *

Khi con phạm tội là con phá hủy hết tất cả tự do của con. Cơn bão táp ấy xóa nhòa nhân phẩm của con. Tội là điều xấu. Con không muốn để người khác biết những điều xấu xa của con. Từ đó, con có hai khuôn mặt. Một khuôn mặt thật và một khuôn mặt để “show up”, trình diễn để tha nhân nhìn vào. Khi con giấu kín khuôn mặt thật tội lỗi để phô bày khuôn mặt giả cao thượng là con xây dựng giá trị của mình trên sự lầm lẫn của tha nhân. Con lừa dối kẻ đối diện. Nếu con còn may mắn để nhìn thấy rằng mình có hai khuôn mặt mỗi khi xét mình thì con còn lương tri để biết rằng mình chỉ lừa gạt người chứ không lừa dối mình. Nhưng ngày nào đó, con lẫn lộn giữa thực và hư. Ngày nào đó, con người để trình diễn kia rợp bóng đến nỗi con chỉ thấy nó là chính mình và con tin nó là khuôn mặt thật của mình, con không còn thấy bóng khuôn mặt thật của con đâu nữa thì ngày đó con chẳng còn gì. Con đã là nạn nhân của sự giả tạo. Gian dối với tha nhân đã nên lừa đảo chính mình.

Khi tha nhân tưởng con là gương mẫu của đời mà con không là gương mẫu thì con sẽ lo âu cho cái ngưỡng mộ kia bị đổ vỡ nếu tha nhân nhận ra con người thật tội lỗi của con, cho nên con lại càng phải cất giấu con người đó kỹ hơn. Bởi đấy, tội cướp mất tự do. Sống trong tội, con phải sống trong hồi hộp, gian dối, lo âu.

Chẳng có người cha nào không mủi lòng khi thấy đứa con mình sắp xuống tắm trong dòng sông ngầu vẩn rác đục. Vì kính trọng tự do Chúa đã ban cho con, nên Chúa biết con xa Chúa là đời con sẽ chán chường, Chúa cũng đau khổ, nhưng Chúa chẳng thể cưỡng bách con chọn Chúa được. Mà thật sự con cũng không muốn mất tự do. Hành vi chọn lựa là một thú vui chan chứa của tự do. Không có tự do sẽ là gỗ đá. Nếu con không phải là gỗ đá, nếu con có tự do, thì con phải biết lo âu biết bao về sự tự do của mình.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

Mượn Xác

Có một loài ốc mang tên ốc “mượn hồn”. Nó là con ốc đã chết từ lâu, sóng biển trôi nó dật dờ. Rồi có kẻ đi mượn nó để sống. Kẻ mượn nó là một con cua nhỏ. Gặp chiếc vỏ ốc lăn lóc này, con cua nhỏ chui vào nương thân, lấy vỏ ốc làm nhà. Từ đó, nó lê đi trong đời. Không biết câu chuyện có thật vậy không. Nghe như có vẻ hoang đường. Tuy nhiên có điều chắc chắn, vỏ ngoài là ốc nhưng bên trong lại là con cua nhỏ có còng cứng.

Không biết gốc tích nó từ đâu. Ai mượn hồn ai, ai mượn xác ai. Chuyện chắc là không thật. Nhưng lối đặt tên cho loài ốc nhỏ đó: Ốc “mượn hồn”, tự cái tên ấy có phần mang nhiều ý nghĩa. Ý nghĩa là hồn xác ấy thuộc về nhau, sống với nhau. Nghe như đâu đây, trong Kinh Thánh cũng có câu chuyện mượn hồn, mượn xác na ná: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà chính Ðức Kitô sống trong tôi” (Gal. 2:20). Xác thì xác Phaolô, mà hồn lại là hồn Kitô.

* * *

Ðã là cuối mùa. Ðức Kitô đứng trên đê nhìn trời chiều mênh mông. Nắng hoàng hôn nhuộm đỏ ối cả một đồi dâu. Tóc Người bay rối trên trời chiều cô tịch. Cánh đồng vẫn mông mênh ngát vàng. Dạt dào. Một không gian lúa đến mùa rũ chín vào nhau. Người vung tay hái, nhưng kỳ lạ thay, Người chỉ là hồn. Cánh tay Người chỉ là vô hình với vào thinh không hụt hẫng. Lúa cứ là lúa. Thời gian từ từ xuôi mùa. Rồi đi buổi chiều. Rồi về buổi sáng. Gió xạc xào đưa lúa chín mùa quá độ rơi trên đồng vắng. Người xôn xao lòng dạ. Nhìn đồng lúa không người gặt mà bối rối khôn nguôi.

Có người nông phu bước qua. Ðức Kitô vội vã vui mừng bảo anh ta dừng chân. Nói chuyện về đồng lúa thiếu thợ gặt rồi hồn Người muốn mượn đôi tay anh ta để bước xuống cánh đồng. Lưỡng lự, người thanh niên chối từ cúi đầu bước. Thế là, Ðức Kitô bùi ngùi khoé mắt băn khoăn. Cứ nhìn đồng lúa không thợ gặt mà xót xa. Người muốn mượn đôi tay để cho hồn Người ký thác.

* * *

Sau khi Ðức Kitô đặt nền tảng Giáo Hội của Ngài trên Phêrô, về trời rồi, Ngài tiếp tục xây dựng Giáo Hội. Nhưng Ngài xây dựng Giáo Hội của Ngài bằng cách nào? Hai khuôn mặt tông đồ cột trụ, Phêrô và Phaolô đã sống xác của mình nhưng với hồn của Ðức Kitô. Nói cách khác, Ðức Kitô xây dựng Giáo Hội bằng cách lấy hồn mình rồi đi “mượn” xác thân con người.

Phaolô nổi tiếng với các tông thư mục vụ, chúng ta sẽ dựa vào Thánh Kinh Thư này để khai triển đề tài. Rồi lấy việc làm của Phêrô để soi sáng thêm cho căn bản trong Thánh Kinh Thư của Phaolô.

Xác Phaolô nhưng hồn Kitô

Trong văn viết, nhiều lần Phaolô kêu gọi tín hữu của mình hãy mặc lấy hồn Kitô. Hoặc diễn tả cách khác là để hồn Ðức Kitô sống trong thân xác mình. “Anh em hãy bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy con người mới” (Col. 3: 10). Nhưng rõ hơn là chính lời trực tiếp thú nhận mình đã để cho hồn Ðức Kitô sống trong thân xác mình.

“Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi” (Gal. 2:20).

“Tôi sẽ không dám nói đến điều gì Ðức Kitô đã không dùng tôi để thi thố ra” (Rom. 15: 18).

“Chính Người làm bật sáng nơi lòng chúng tôi, để chúng tôi làm cho thiên hạ nhìn biết, trong ánh sáng ấy, vinh quang của Thiên Chúa chói lòa nơi Ðức Kitô” (2 Cor. 4: 6).

Xác Phêrô nhưng hồn Kitô

“Khi ngươi còn trẻ, ngươi tự thắt lưng mình và đi đâu tùy ý” (Yn. 21: 18). Ðây là lúc xác Phêrô mà hồn cũng Phêrô, xác ông đi đâu thì hồn ông đi đấy. “Khi về già, ngươi sẽ giang tay ra và NGƯỜI KHÁC sẽ thắt lưng cho và lôi đi nơi ngươi không muốn” (Yn. 20: 18). Lúc này, xác thì xác Phêrô mà hồn là hồn NGƯỜI KHÁC, hồn Ðức Kitô.

Sách Tông Ðồ Công Vụ kể lại chuyện Phêrô chữa người què như sau:

Có người què từ khi lọt lòng mẹ sinh ra, được người ta khiêng đến đặt thường ngày bên cửa Ðền thờ để xin của bố thí với khách Ðền thờ. Nó thấy Phêrô và Yoan sắp vào thì xin của bố thí. Phêrô nhìn thẳng vào nó, Yoan cũng thế, và nói: “Nhìn lên chúng tôi!” Nó chú ý vào các ông, hy vọng cũng được chút gì. Nhưng Phêrô nói: “Bạc vàng tôi không có, song điều tôi có là Ðức Kitô người Nazareth, nhân Danh Ngài anh hãy chỗi dậy mà bước đi!”. Nó nhẩy vùng lên, đứng dậy vào Ðền thờ cùng các ông, vừa đi vừa nhẩy, và ngợi khen Thiên Chúa.

Sau đó, người què níu lấy Phêrô và Yoan, còn toàn dân, theo lời tường thuật kể tiếp, “họ chạy ùa tới các ông ở hành lang Salômôn, họ rất kinh ngạc.” Bấy giờ, Phêrô lên tiếng khẳng định không phải ông, mà chính hồn Ðức Kitô đã dùng ông mà thực hiện ơn sủng:

Các ông, người Israel, tại sao lại đăm đăm nhìn chúng tôi, như thể bởi quyền phép riêng gì, hay lòng đạo đức của chúng tôi mà chúng tôi làm cho người què này bước đi được? ? Ðức Yêsu, kẻ các ông đã nộp. Vị khơi nguồn sự sống, các ông đã giết đi, Ðấng mà Thiên Chúa đã cho sống lại từ cõi chết. Chúng tôi xin làm chứng. Chính nhờ tin vào Danh Ngài, chính danh Ngài làm cho anh ta lành mạnh (Tđcv. 3: 1-16).

Rồi một lần khác nữa, trên đường xuống Lyđa, ông gặp Ênê, một người đã tám năm trời liệt giường vì bất toại. Ông nói: “Ðức Kitô chữa lành anh. Hãy chỗi dậy, dẹp chõng đi!” Lập tức người ấy chỗi dậy (Tđcv. 9: 32).

Phêrô chối không phải ông chữa lành những người tật nguyền này, nhưng là chính Ðức Kitô. Nói cách khác, vì tin vào Danh Ngài mà hồn Ðức Kitô, qua lời nói của Phêrô đã chữa họ. Khi nói Phêrô xây dựng Giáo Hội bằng những việc làm cả thể, đó chỉ là cách diễn tả ông đã để hồn Kitô mượn xác mình mà xây dựng nhiệm thể ấy. Ông luôn luôn khẳng định rằng không phải ông hành động. Khi nói “mượn hồn”, điều ấy không hàm ý loại bỏ sự tự do chấp nhận lời mời gọi, là sống trọn vẹn trong tự do đích thực là Ðức Kitô.

* * *

Lạy Chúa,

Hôm nay có những việc Chúa muốn làm mà Chúa không làm được nữa vì Chúa không còn xác thân như con. Ngay trên quê hương của con vì nghèo đói mà nhiều kẻ sống không xứng đáng với phẩm giá con người. Vì nghèo đói mà bao nhiêu tuổi thơ phải lầm than không được học hành. “Trong tâm tư biết bao người ngày đêm cô đơn buồn không nói. Nhưng ai đâu đến với họ để hát tiếng hát của niềm vui”. Chúa muốn mượn bàn tay con để xoa dịu một nỗi bất hạnh. Chúa muốn mượn đôi chân của con để dìu em đến trường. Con có dám để Chúa mượn đời con cho hồn Chúa sống không.

Con xin lấy lời ca của Nguyễn Duy như kinh chiều phụng vụ mơ ước dâng Chúa đêm nay. “Xin cho con suốt một đời tình yêu cho đi là lẽ sống. Xin cho con biết trung thành hoàn tất những bước chân đẹp xinh. Nguyện một đời con tìm đến, đến với hết những ai chân tình để tình người vẫn còn xanh ngát hương như hoa xuân trên cành.”

Lm. Nguyễn Tầm Thường

 

CÓ PHẢI THIÊN CHÚA ĐÃ TẠO RA CÁI ÁC?

Một vị giáo sư đại học đã hỏi sinh viên của mình câu hỏi sau:
- “Có phải tất cả mọi thứ tồn tại được tạo ra bởi Thiên Chúa?”
 
Một sinh viên đã mạnh dạn trả lời:
- “Vâng, được tạo ra bởi Chúa.”
 
Vị Giáo sư hỏi lại:
- “Chúa đã tạo ra mọi thứ?”
 
Cậu sinh viên trả lời:
- “Vâng, thưa ngài.”
 
Giáo sư hỏi:
- “Nếu Thiên Chúa tạo ra mọi thứ, thì Thiên Chúa đã tạo ra cái Ác vì nó tồn tại. Và theo nguyên tắc rằng: hành động của chúng ta định nghĩa chúng ta, thì Thiên Chúa là xấu xa.”
 
Sau một câu trả lời như vậy, cậu sinh viên im lặng.
 
Vị Giáo sư rất hài lòng với chính mình vì đã chứng minh được cho các sinh viên rằng, niềm tin vào Chúa là một huyền thoại.
 
Bất chợt, một cậu sinh viên khác giơ tay và nói:
- “Tôi có thể hỏi Ngài một câu hỏi không, thưa Giáo sư?”
 
Vị Giáo sư trả lời:
- ‘Tất nhiên,”
 
Cậu sinh viên đứng dậy và hỏi:
- “Giáo sư, Ngài có lạnh không?”
 
Vị Giáo sư trả lời:
- “Loại câu hỏi nào vậy? Tất nhiên là có.”
 
Các sinh viên khác bắt đầu cười nhạo câu hỏi của chàng sinh viên trẻ.
 
Cậu sinh viên tiếp tục:
- “Thật ra, thưa Ngài, không có thứ gọi là Lạnh. Theo định luật vật lý, những gì chúng ta nghĩ là lạnh thực sự là sự vắng mặt của nhiệt. Một người hoặc đối tượng chỉ có thể được phân tích nếu họ có sở hữu hoặc chuyển hoá năng lượng nhiệt.
 
Số 0 tuyệt đối (-460 độ Fahrenheit) là một sự vắng mặt hoàn toàn của nhiệt.
 
Tất cả vật chất trở nên đông cứng và không thể phản ứng với nhiệt độ này. Cái Lạnh như vậy, không thực sự tồn tại. Chúng ta đã tạo ra từ này để mô tả cảm giác của chúng ta trong trường hợp không có sự nóng ấm.”
 
Cậu sinh viên lại tiếp tục:
- “Vậy, thưa Giáo Sư, Bóng Tối tối có tồn tại không?”
 
- “Tất nhiên nó tồn tại.”
 
- “Không hoàn toàn chính xác, một lần nữa, thưa Ngài, ngay cả Bóng Tối cũng không tồn tại. Bóng Tối thực sự là sự vắng mặt của Ánh Sáng. Chúng ta có thể nghiên cứu Ánh Sáng, nhưng không thể nghiên cứu Bóng Tối.
 
Chúng ta có thể sử dụng lăng kính của Newton để khuếch tán, phân giải ánh sáng trắng thành nhiều màu và khám phá các bước sóng khác nhau của mỗi màu.
 
Nhưng chúng ta không thể làm tương tự như vậy với Bóng Tối, chúng ta không thể đo Bóng Tối.
Một chùm ánh sáng đơn giản có thể xâm nhập vào thế giới của bóng tối, và chiếu sáng nó.
 
Làm thế nào ta có thể biết một căn phòng tối như thế nào?
 
Đo lường mức độ ánh sáng được chiếu đến bên trong đó, có phải vậy không?
Bóng tối là một thuật ngữ chúng ta sử dụng để mô tả những gì xảy ra trong trường hợp không có Ánh Sáng.”
 
Cuối cùng, chàng sinh viên trẻ đã hỏi giáo sư:
- “Thưa Ngài, vậy cái Ác có tồn tại không?”
 
Lần này pha lẫn một chút do dự, vị Giáo Sư đã trả lời:
- “Có thể lắm chứ, như tôi đã nói. Chúng ta nhìn thấy cái Ác mỗi ngày. Sự tàn nhẫn, độc ác, và bạo lực trên toàn thế giới. Những ví dụ này không có gì khác ngoài biểu hiện của cái Ác.”
 
Chàng sinh viên trả lời:
- “Cái Ác không thực sự tồn tại, thưa Ngài, hoặc ít nhất nó không tồn tại bởi chính nó.
 
Cái Ác chỉ đơn giản là sự vắng mặt của Phúc Lành, của Tình Yêu Thương, của Thiên Chúa.
Về mặt ngôn ngữ, Cái Ác cũng giống như Bóng Tối và sự Lạnh Lẽo - là từ mà chúng ta tạo ra, dùng để mô tả sự vắng mặt của Tình Yêu Thương.
 
Thiên Chúa đã không tạo ra cái Ác.
 
Cái Ác - cũng không tồn tại giống như Bóng Tối và sự Lạnh Lẽo.
Cái Ác - là sự thiếu vắng của Đức Tin và Tình Yêu Thương, thứ mà ta luôn có thể cảm nhận và hiện hữu;
Cái Ác là kết quả của sự vắng mặt Tình Yêu thiêng liêng trong trái tim con người.
 
Đó là loại cảm giác Lạnh khi không có nhiệt, hoặc loại Bóng Tối xuất hiện khi không có Ánh Sáng.”
 
Vị Giáo Sư nín lặng, cả lớp vắng bặt đi những tiếng cười chế giễu lúc ban đầu.
 
Cậu sinh viên trong mẩu chuyện này chính là nhà khoa học lỗi lạc, mà sau này thế giới được biết đến với cái tên: Albert Einstein.
 
Chia sẻ bởi Manuel Cadonau (sao chép từ Raymond Bloch).
Biên tập & phiên dịch: Tạ Minh Trãi.

TIN YÊU TRONG CHÚA GIÊSU KITÔ

Đức tin theo Kinh thánh không phải là niềm hy vọng rằng mọi việc ở trần thế này sẽ ổn thỏa. Đó là niềm tin trống rỗng. Đức tin trong Kinh thánh không phải là tin rằng chúng ta sẽ vượt qua mọi trở ngại. Đó là niềm tin tự dựa vào sức mình. Đức tin theo Kinh thánh không phải là một cảm giác đến rồi đi. Đó là niềm tin sai hướng. Đức tin theo Kinh thánh là một hành vi đặt niềm tin và hy vọng vào Chúa cũng như vào tình yêu và ý muốn hoàn hảo của Ngài cho cuộc sống của chúng ta.

Đức tin không chỉ là thứ chúng ta sở hữu. Đức tin là đặt niềm hy vọng, sự tín thác và lòng tin tưởng của chúng ta vào Chúa. Đó không chỉ là niềm tin rằng Thiên Chúa có thể làm điều gì đó mà còn là sự tin tưởng và hy vọng, một sự xác tín rằng Thiên Chúa sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta theo ý muốn tốt lành, trọn vẹn và đẹp lòng Ngài.

Đôi khi, lớn lên trong đức tin, chúng ta không “cảm thấy” mình đang lớn lên. Trên thực tế, chúng ta có thể thực sự cảm thấy dường như Thiên Chúa không còn ở gần như trước. Điều này xảy ra khi chúng ta dựa dẫm quá nhiều vào cảm giác và cảm xúc của mình. Ví dụ, có lẽ bạn đã có cơ hội tuyệt vời để tham gia một khóa tĩnh huấn thú vị và đầy cảm hứng. Những khóa tĩnh huấn có thể mang lại cho chúng ta một “tinh thần phấn chấn”. Chúng ta có thể rời khỏi một khóa tĩnh huấn với cảm giác gần gũi với Chúa hơn bao giờ hết. Chúng ta có thể đưa ra những quyết tâm mới, tràn ngập niềm vui, hứng khởi với cuộc sống, và sau đó, trong vòng vài tuần, chúng ta sẽ trở lại con người cũ của mình - mong chờ kỳ tĩnh huấn tiếp theo để chúng ta có thể có lại cảm giác đó. Tất cả điều này là tốt. Và những cuộc tĩnh huấn, bao gồm cả những cuộc tĩnh huấn có mức độ thiêng liêng cao, là những cách rất hữu ích để đức tin tăng trưởng. 

Nhưng về lâu dài, điều chúng ta cần biết là cảm giác gần gũi với Chúa không giống với tình trạng thực sự gần gũi với Thiên Chúa. Đôi khi, Thiên Chúa sẽ lấy đi những cảm xúc tâm linh tốt đẹp của chúng ta trong một thời gian để Ngài có thể giúp chúng ta củng cố sự cam kết của mình với Ngài. Chính sự cam kết của chúng ta với Ngài sẽ làm đức tin của chúng ta sâu sắc hơn. Nếu chúng ta chỉ theo Ngài vì chúng ta cảm thấy muốn theo Ngài, thì chúng ta có thực sự dấn thân không? Nhưng nếu Thiên Chúa lấy đi một số cảm giác tốt lành ban đầu đó và chúng ta vẫn cam kết như trước, thì chúng ta biết rằng mình đang đi đúng đường. Trong trường hợp đó, chúng ta có thể chắc chắn rằng đức tin của chúng ta đang được đào sâu.

Cụ thể bạn hãy lần chuỗi Mân Côi, đi lễ thường xuyên, đọc truyện các thánh, nghiên cứu giáo huấn của Giáo hội, tham gia tĩnh tâm, đọc và suy niệm Kinh thánh hàng ngày, và dành thời gian yên tĩnh để cầu nguyện cá nhân mỗi ngày, v.v. bạn có thể đắm mình trong các hoạt động này càng nhiều thì càng tốt.

Một cách cần thiết khác để đào sâu đức tin của bạn là lớn lên trong đức ái. Đức tin và lòng bác ái đi đôi với nhau, và điều này sẽ củng cố điều kia. Vì vậy, hãy tìm cơ hội để thể hiện tình yêu với người khác.

Tình yêu là một trong những chủ đề lớn của Thánh Gioan, dù trong sách Tin Mừng của ngài: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13: 34- 35), hay trong các bức thư của ngài: “Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Ngài nơi chúng ta mới nên hoàn hảo” (1 Ga 4: 12). 

Những điều nhỏ nhặt tạo nên sự khác biệt lớn trong đời sống đức tin của chúng ta. Ví dụ, hãy tìm cơ hội để tạm đứng lại và chỉ cần mỉm cười với ai đó. Nói một lời tử tế và nâng đỡ tinh thần của nhau. Tại sao không đi ra khỏi nếp sống của bạn để giúp đỡ ai đó? Điều này có thể chỉ đơn giản là mở cửa cho ai đó, giúp con cái làm bài tập hoặc dọn dẹp nhà cửa. Cuộc sống hàng ngày của chúng ta mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội để làm việc bác ái. Tất cả những gì chúng ta cần làm là tìm kiếm những cơ hội này, dù chúng nhỏ nhoi đến đâu, và đưa ra lựa chọn sáng suốt để hành động theo chúng. 

Thiên Chúa không yêu cầu chúng ta đảo lộn thế giới, nhưng yêu cầu chúng ta làm việc cho một thế giới nhiều tình thương hơn, quảng đại hơn, và chính trong cuộc sống hàng ngày mà Chúa đang chờ đợi chúng ta thực hiện tình thương mến ấy: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Rm 13: 8-9). Một ly nước nhỏ mà chúng ta dâng cho Chúa có giá trị vô cùng: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9: 41). Ly nước đó là sự chia sẻ hàng ngày, tương trợ lẫn nhau, phục vụ láng giềng, bạn bè... Là chuyện trò, thăm viếng người đau yếu, nghĩa tình với người già...Tất nhiên, tất cả những điều này chỉ là những điều nhỏ nhặt, nhưng chúng không thể diễn ra mà không thay đổi thế giới và chúng là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Chúa ở giữa chúng ta, vốn tùy thuộc vào chúng ta có làm những việc đó không: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” (Mt 25: 35-36). Nếu không có tất cả sự chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau như vậy thì tình bạn, đoàn kết, thế giới sẽ không thể an hòa, sẽ chỉ còn luật rừng như câu tục ngữ La tinh “Homo homini lupus est” nghĩa là “người với người như là sói”. Khi đó sức mạnh và bạo lực có quyền trên tất cả và dễ dàng gây bất lợi cho những kẻ bé nhỏ và yếu đuối. Lịch sử nhân loại đã chứng minh điều này rất rõ. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta học bài học rửa chân mà Thánh Gioan thuật lại: “Anh em gọi Thầy là "Thầy", là "Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13: 13-15). Chính bằng cách phục vụ người khác mà chúng ta làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với con người 

Không phải lúc nào cũng dễ dàng học bài học này. Chúng ta cần rất nhiều ơn Chúa để kiên trì sống lời mời gọi yêu thương của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hiểu rõ điều này: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14: 18). Ngài biết rằng chúng ta có nguy cơ bị cuốn theo những lo toan của cuộc sống rồi trở nên thờ ơ. Ngài chỉ ra cho chúng ta thấy rằng người ta thường dễ quên những người khác đang sống bên cạnh chúng ta và chúng ta tự nhốt mình trong chủ nghĩa cá nhân nhỏ nhoi của mình… Có lẽ hơi giống các tông đồ sau khi Chúa sống lại: họ không còn chắc chắn về bản thân, họ sợ hãi, họ rút lui, họ co cụm lại một chỗ. Chúa Giêsu hứa ban cho họ Thần Khí: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (Ga 14: 16-17). Thần Khí mà họ sẽ lãnh nhận vào ngày Lễ Ngũ Tuần và sẽ thúc đẩy họ công bố tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người đến tận cùng thế giới. Chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Ngài luôn ở trong chúng ta, Ngài đồng hành với chúng ta, chính Ngài giúp chúng ta hiểu Kinh Thánh, hiểu sứ điệp của Chúa Kitô, hiểu giới răn yêu thương mà Ngài đã để lại cho chúng ta: chính Ngài yêu tôi, Ngài vẫn mãi trung thành với tình yêu đó.

Vì vậy, hãy cầu nguyện nhiều, tìm hiểu đức tin của bạn, cố gắng sống một cuộc sống bác ái, và hãy tin chắc rằng đức tin của bạn sẽ phát triển, ngay cả khi không phải lúc nào bạn cũng cảm thấy như vậy. Và bạn đã đi đúng đường chỉ bằng cách mong muốn có một đức tin sâu xa hơn. Hãy tiếp tục mong muốn đó, và hãy tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện mong muốn đó!

Xin Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Thánh tẩy, vả còn lãnh nhận lại vào những lúc chúng ta kêu cầu Ngài, giúp chúng ta mỗi ngày xây dựng một thế giới nhân bản hơn!

 

Phêrô Phạm Văn Trung

tổng hợp từ mycatholic.life

BUÔNG BỎ…

Chuyện Nghe kể:

Đầu làng có cây cao to,

cổ thụ thì chưa hẳn

nhưng cũng thuộc hàng ông- cụ nếu tính thế hệ trẻ mới sinh...

Cây che bóng mát cho bao người,

bao thế hệ,

nhất là những ngày hè nóng nực, đi đồng ruộng mệt mỏi

và ngang qua...

Cây cũng lạ, cũng biết thương người,

Mùa hè thì càng sum suê cành lá,

còn mùa đông trơ trụi lá như thể dồn lực cho mùa hè thêm xanh tươi, thêm che mát,

thêm yêu thương...

Ai đó 'suy tư' thế...

Thể là Cây To cao ấy mặc nhân linh

người làng ban đầu chỉ có lòng biết ơn,

Qua bảo vệ, chăm sóc

rồi sau nâng thành Cây Thần...,

Có nghi thức cúng bái, mâm gà vịt, trái cây...

luôn có bát nhang ngút khói.

Có thờ có thiêng...

Mỗi lần ngang qua đều chắp vái,

cung kính như Bàn thờ Tổ tiên…

Nhiều câu chuyện huyền bí thêu dệt của ai đó,

qua nhiều người, nhiều thế hệ...

Cây To thêm huyền sử....

Bỗng...

Một trận cuồng phong nổi lên,

giữa mùa hè,

giữa đêm khuya...

Sáng ra, Cây thiêng thần ấy đổ gãy, bật gốc...

Cây chết...

Cây hết thiêng.

Người làng chặt về làm củi !

Có điều lạ, cả làng thắc mắc:

Tai sao nhiều trận cuồng phong mùa đông xem ra nhiều hơn, mạnh hơn mà Cây không bị quật đổ, trong lúc Cây rụng hết lá, chỉ trơ ít cành, tức đang ốm yếu...

Thế sao chỉ trận cuồng phong mùa hè, ít ỏi, cấp độ nhẹ hơn, Cây lại đang độ sung sức sum suê, sức sống mạnh nhất trong năm... Cây lại bị đổ, lăn cu đơ,

chết khô... dễ thế.

Thế là cây hết thiêng.

Hết thiêng thì hết kiêng.

Cây thành củi khiên về đun cám heo

Những câu chuyện huyền bí làm tăng thêm mê tín dị đoan chỉ là câu chuyên bịa dặt, thêu dệt....

Mua vui như kỷ niệm đẹp,

thời dại khờ, u minh.

* Vụn vặt suy tư:

Thắc mắc xem như khó hiểu, đáng cho ta suy nghĩ lắm.

Mùa đông, Cây trơ trụi lá, lên không có sức cản nhiều,

Cuồng phong có đến không có sức cản nên cũng hôn nhẹn, lọt qua...

Cây vẫn đứng vững, bình an vô sự.

Mùa hè cây nhiều cành lá, xanh tươi,

cuồng phong đến, gặp ngay nhiều sức cản, chống đất trời thiên nhiên,

thêm sức cuồng điên...

Bật đổ, không lạ…

Cuộc sống Trần gian ta cũng thể...

Mỗi khi mình Buông Bỏ,

cuộc đời thêm thanh thoát, nhẹ nhõm...

Càng thuận thiên

Biển cả cuộc đời dẫu có cuồng phong bão táp...

Không sao quật ngã.

Cuộc đời Tươi vui- Thanh thoát - Tự do,...

Trái lại, mỗi khi tích lũy, ham tích lũy...

Của có hàng ngày dùng ĐỦ chưa xong,

của DƯ chưa đủ;

của THỪA vẫn thiếu,

của THÃI không thỏa...

Lòng Tham vô đáy, tích mãi không vừa...

Ai ngờ, mỗi lần tích lũy ấy, cuộc đời mình thêm gánh nặng,

thêm mất tự do;

Thêm lưng còng, bám đất

thêm sức cản thanh thoát...

Và khi sóng gió đến,

chưa cần mức cuồng phong cũng dễ bị quật đổ.

Tham sân si chưa buông bỏ,

lại lạm dụng sức mạnh thần quyền, thế quyền…

Càng tệ hơn.

Hào nhoáng, hoành tráng, lắm tiền…

càng cho thấy mong manh, yếu đuối,

Thiếu vững bền…

Có thiêng cũng hết kiêng,

hết siêng cúng bái

Giật Mình:

Phúc Thật đầu tiên trong Tám Mối Phúc Thật:

"Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,

vì Nước Trời là của họ'

TINH THẦN NGHÈO KHÓ khó chính là BUÔNG BỎ.

Buông bỏ dần,

Buông bỏ để nên giống Thầy Giê-su,

Buông Bỏ để thêm cho Giê-su hữ lơn hơn,

Đấng 'Là Đường- Sự Thật- Sự Sống'.

Buông bỏ để có Tự do trong tư cách là- làm Chủ- Là- làm Vua

điều mà ngay từ đầu Cha Trời đã trao cho Con Người- Thụ tạo ưu tuyển được dựng nên Giống Hình Ảnh Thiên Chúa.

Buông Bỏ như Thầy Giê-su:

'Chim có tổ,

cáo có hang

còn Thầy không có chỗ gối đầu'

Buông bỏ như Thầy Giê-su trên thập giá,

không một tấm vải che thân,

nhưng lại toát sáng hình ảnh đẹp: Tình Yêu Tha Thứ cho chính người gây ra oan tử cho mình

'Lạy Cha, xin tha cho chúng,

vì chứng không biết việc người làm',

Buông bỏ mà không có Tình Yêu- Không có Giê-su thì buông bỏ ấy chưa phải là buông bỏ...

Và nếu có buông bỏ, coi chừng buông bỏ thừa.

(Sinh thời, Thầy Giê-su từng kêu mời: Bỏ mình vác Thập Giá mình mỗi ngày mà theo Thầy...

Thập giá là đau khổ, thất bại nhưng Thập Giá theo Thầy Giê-su lại thành Thánh Giá - Tin Mừng Cứu Độ

Yếu tố 'theo Thầy' thiết yếu mới làm Thập Giá thành Thánh Giá

Đau Khổ có Tin vui, thành Tin Mừng)

Lm. Đaminh Hương Quất