20. Những Bài Về Đức Mẹ

ĐIỀU THIÊN CHÚA ĐÃ THỰC HIỆN NƠI MẸ MARIA, NGÀI SẼ THỰC HIỆN NƠI CHÚNG TA

Hôm nay Mẹ Maria mời gọi chúng ta bước vào năm mới, sống một khoảng thời gian mới, với nhiều sự việc trong một tương lai chưa xác định. Mẹ mời chúng ta bước vào năm mới như vậy vì chính Mẹ cũng đã sống cuộc sống của chính mình, theo hoàn cảnh và cung cách riêng của Mẹ. Mẹ mời chúng ta bước vào cuộc sống của chính chúng ta, theo hoàn cảnh và cung cách riêng của chúng ta.

Nhưng đâu là điều mà cuộc sống chúng ta cần phải trở nên giống như Mẹ? Thật vậy, chúng ta thấy nơi Mẹ một sự bình an lặng lẽ sâu thẳm, dẫu Mẹ đang ở trong một hoàn cảnh bấp bênh: rời xa quê hương bản quán, “không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2: 17), ở giữa những người xa lạ. Thánh Giuse và Mẹ, cả hai dường như sẵn sàng cho bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả những tình huống không ngờ nhất: “Một trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2: 13). Có người cha, người mẹ nào lại muốn sinh con trong cảnh cơ hàn như thế không?  Tại sao lại có cách sống như thế?

Trình thuật của thánh Luca có thể giúp chúng ta hiểu điều đó. Kể từ cuộc gặp gỡ với sứ thần, Mẹ đã đoan hứa về cung cách sống của mình: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1: 38). Kể từ lời xin vâng đó, Mẹ đã sẵn sàng đón nhận các sự kiện trong cuộc đời mình như những dấu chỉ đầy ý nghĩa khởi đi từ lời loan báo của sứ thần liên quan đến Người Con Giêsu của Mẹ. Mẹ đặc biệt chia sẻ điều đó với người chị họ Elisabeth của mình trong Lễ viếng thăm, bày tỏ sự vui mừng hớn hở và niềm tin tưởng của mình trong bài ca Magnificat:

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

thần trí tôi hớn hở vui mừng

vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,

Ngài đoái thương nhìn tới;

từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả

(Lc : 46-49).

Và hôm nay, sau khi sinh con, Mẹ tiếp tục đón nhận những gì đang xảy ra: “Mấy người chăn chiên… liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2: 16-19). Mẹ trung thành với cung cách sống này, Mẹ cũng sẽ như vậy sau lần lạc mất con khi lên đền thờ Giêrusalem: “Sau đó, Ngài đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Ngài thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2: 9).

Ghi nhớ các sự kiện có nghĩa là gì? Chúng ta ghi nhớ một sự kiện khi chúng ta chấp nhận đối mặt với nó, để nó trong tâm trí chúng ta, không chạy trốn nó. Chúng ta không ghi nhớ một sự kiện khi chúng ta quay lưng lại với nó, coi nó như thể không tồn tại, và điều này xảy ra khi sự kiện đó không xẩy ra theo cách nhìn nhận của chúng ta hoặc khi nó gây hại đến những gì chúng ta đang mong chờ có được. Chúng ta suy ngẫm về các sự kiện khi những câu hỏi chưa được trả lời, vẫn còn bỏ ngỏ, dang dở. Chấp nhận suy ngẫm về một sự kiện theo cách này là một cử chỉ của niềm tin, bởi vì điều đó giả thiết rằng thế giới này mang một ý nghĩa có thể hiểu được và tin rằng ý nghĩa đó có thể được tìm thấy trong cuộc đời mình. Đối với một người nào đó, nếu thế giới này ngay từ đầu đã hoàn toàn là kết quả của sự ngẫu nhiên, không có ý nghĩa gì cả và do đó việc cố tìm hiểu nó chỉ là chuyện ngớ ngẩn, thì người đó sẽ không lãng phí thời gian của mình để ghi nhớ, suy ngẫm, tìm kiếm ý nghĩa của thế giới. Xưa cũng như nay, không ít người trong chúng ta sống theo cách này: cuộc sống không có ý nghĩa gì, đừng tốn công sức đi tìm, sống tới đâu hay tới đó. Như thế, người ta mặc nhiên chấp nhận sống trong vô minh tăm tối, chủ trương bất khả tri dẫn đến duy vật vô tín, thực dụng duy lợi, chối bỏ mọi ràng buộc đạo đức…Nhưng thánh Luca trình bày cho chúng ta thấy Mẹ Maria là một con người của đức tin, một con người cảm nghiệm sự căng thẳng đau khổ giữa những câu hỏi chưa có lời giải đáp: “Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” (Lc 1: 29). Nhưng Mẹ xác tín vững chắc rằng nguồn gốc của thế giới này và mọi biến cố trong đó là ánh sáng và tình yêu của Thiên Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài” (Lc 1: 49-50), và do đó đáng để tiếp tục cố gắng tin tưởng và tìm hiểu: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1: 37).

Mẹ để cho lời của sứ thần Gabriel, vốn đã khắc ghi vào tâm trí và cõi lòng Mẹ, được suy ngẫm và lớn lên. Mẹ để cho những hạt mầm đó ngày càng trở nên vững chắc, nên một ý nghĩa. Mẹ sẵn sàng chờ đợi đón nhận ý nghĩa đó, vốn sẽ dần dần thành hình khi Mẹ chăm sóc Người Con của mình. Mẹ để cho lời hứa vững chắc của Thiên Chúa, được loan báo cho Mẹ, dẫn dắt Mẹ qua các sự việc xẩy đến cho Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1: 49).

Lời hứa này cho Đức Maria cũng thật là lời hứa cho mọi người chúng ta. Thiên Chúa làm chúng ta vui mừng, như: “Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2: 20). Niềm vui này thúc đẩy chúng ta hành động như thúc đẩy Mẹ Maria đi thăm người chị họ Elisabeth. Niềm vui giúp chúng ta nhìn ra lối sống của mình nếu trước đó chúng ta bước vào một thái độ suy niệm hơn, như Mẹ Maria: “Ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Chúng ta cần phải tin rằng cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa, có một bàn tay dẫn dắt, nhưng không phải để chúng ta không cần phải làm gì nữa, mà để chúng ta hành động và sống như Mẹ. Mẹ Maria chăm sóc Người Con của mình, Mẹ đã tuân giữ lề luật và hoàn thành bổn phận tôn giáo của mình: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Ngài trước khi Ngài được thụ thai trong lòng mẹ” (Lc 2: 21). Mẹ còn lên Đền thờ để dâng Chúa Giêsu là con trai đầu lòng của Mẹ: “Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa” (Lc 2: 22).

Hôm nay công việc của chúng ta không chỉ là dựng lại cuộc sống của Mẹ, mà là để lắng nghe Mẹ nói với chúng ta. Về điều này, chúng ta có thể tự hỏi mình, khi xem xét một năm đã qua, lời Thiên Chúa hứa với Mẹ Maria cũng đã được thực hiện như thế nào trong đời tôi? Sự giáng sinh của Thiên Chúa trong trần gian đã trở nên như thế nào nơi tôi, và tự hỏi tại sao tôi đã không nhận được những gì Thiên Chúa hứa ban… Và vào ngày đầu năm mới, chúng ta hãy xin rằng những gì sứ thần Gabriel đã loan báo cho Mẹ Maria cũng được nẩy sinh trong tâm hồn chúng ta, cũng được thực hiện trong cuộc đời chúng ta, giống như trong cuộc đời của Mẹ Maria: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” (Lc 1: 28)  và: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1: 35). Do đó, từng bước một, tôi tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Đấng giúp mỗi tạo vật của Ngài nối kết với Ngài khởi đi từ những gì mà Mẹ Maria đã bắt đầu: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa…” (Lc 1: 38). Đối với chúng ta, dù nam hay nữ, điều này được ban cho chúng ta, nhưng tùy thuộc vào tự do đón nhận hay khước từ của chúng ta. Năm 2023 là một năm hồng ân để mỗi người chúng ta trở nên chính mình hơn, bằng cách đảm nhận và gánh vác dự án vĩ đại của Chúa Cha dành cho mỗi người khi chúng ta biết thưa lên với Ngài như Mẹ Maria: “…Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1: 38).

Vào ngày đầu năm mới này, chúng ta khẩn cầu Thiên Chúa đầy lòng thương xót, qua lời bầu cử của Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, ban cho mỗi người chúng ta ơn bình an nội tâm như Mẹ trong mọi cảnh huống của cuộc sống. Sự bỉnh an đó là phúc lành của Thiên Chúa. Không phải thứ hòa bình đến từ việc không còn chiến tranh, không còn âu lo, mà là thứ an bình đến từ bên trong chúng ta, bắt đầu từ chính chúng ta. Cuộc sống của chúng ta cần trở thành dấu chỉ cho người khác thấy phúc lành đó của Thiên Chúa: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên:“Abba, Cha ơi!” Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4: 6-7).

Chúng ta cũng xin Chúa ban cho toàn thế giới ơn hòa bình như Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Nguyện Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6, 24-26).

 

Phêrô Phạm Văn Trung.

 

ĐỨC MARIA LÀ MẸ THIÊN CHÚA


Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình.” Điều này có nghĩa Ngài là Alpha và Omega - Nguyên Thủy và Cùng Đích - như vậy gọi Đức Maria là “mẹ” của Ngài có phải là xúc phạm và vô lý không? Nhưng cái vô lý đó lại là một tín điều mà người Công Giáo buộc phải tin, nếu không tin thì không phải là người Công Giáo. 

Theo lịch sử các tín điều về Thánh Mẫu Học, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Đức Trinh Nữ Maria 4 đặc ân vượt trên các thần thánh và mọi loài thụ tạo. Đây cũng là những hồng ân mà trí tưởng tượng và sự hiểu biết của con người không thể cắt nghĩa và hiểu nổi, nên phải dùng đến đức tin. Giáo Hội gọi đây là 4 tín điều thuộc về Đức Maria: 

1-Mẹ Thiên Chúa

2-Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội

3-Trọn Đời Đồng Trinh

4-Hồn Xác Lên Trời

 

Tín điều thứ nhất Mẹ Thiên Chúa được Công Đồng Ephesus tuyên tín năm 431 A.D. Tín điều này nhằm phủ nhận tư tưởng của Nestorius, tổng giám mục Constantinople, chủ trương rằng Đức Maria chỉ nên được xưng tụng là Christotokos hay “Người sinh ra Đức Kitô”, nhưng không được xưng là Theotokos hay “Mẹ Thiên Chúa”. Trong tuyên tín của mình, Công Đồng xác tín rằng Đức Maria là mẹ của toàn Con Người của Chúa Giêsu Cứu Thế, không chỉ nguyên phần xác. Ba tín điều sau lần lượt được tuyên tín bởi các triều đại giáo hoàng khác nhau: 

Trọn Đời Đồng Trinh tuyên tín bởi Công Đồng Constantinople thứ hai năm 553 và Công Đồng Lateran năm 649. Tại Công Đồng năm 553, Đức Maria được tuyên xưng danh hiệu “Aeiparthenos” có nghĩa là “Trọn Đời Đồng Trinh”. Còn ở Công Đồng Lateran, Người được tuyên xưng là đồng trinh trước khi mang thai, đang khi mang thai, và sau khi sinh hạ Đức Giêsu. 

Đầu Thai Vô Nhiễm tuyên tín bởi Đức Giáo Hoàng Piô IX năm 1854. Đức Maria ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng thân mẫu đã được miễn nhiễm Nguyên Tội. 

Lên Trời Cả Hồn Lẫn Xác tuyên tín bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII năm 1950. Mẹ được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác.   

KHÁI NIỆM VỀ MẸ THIÊN CHÚA 

Maria là Mẹ Thiên Chúa. Nghe thì khó hiểu mà đúng ra là chẳng ai có thể hiểu nổi. Chính Đức Maria đã thưa với tổng thần Gabriel trong ngày Truyền Tin: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa.” (Luca 1:38). Vừa là nữ tỳ lại vừa là mẹ. Nhưng đã là đối tượng của đức tin thì trí khôn con người làm sao mà hiểu thấu! Chúa Giêsu khi nói về mối tương quan giữa trí khôn nhân loại và những việc làm của Thiên Chúa cũng đã nói với người Do Thái đương thời: “Nếu Ta nói với các ngươi những chuyện dưới đất, mà các ngươi không tin, làm sao các ngươi tin nổi nếu ta nói cho các ngươi những sự trên trời.” (Gioan 3:12) 

Tuy nhiên, nếu trí khôn con người không tìm được câu trả lời, thì với những tâm hồn đơn sơ lại có thể chấp nhận: “Vì Cha đã dấu những sự này với kẻ khôn ngoan và thông thái, mà lại mặc khải cho những kẻ bé mọn.” (Mátthêu 11:25) Điều này cũng tương tự như câu chuyện đã xảy ra không lâu tại nhà một người bạn.    

Hôm đó trong buổi họp mặt thân mật của một nhóm anh em thân hữu. Sau khi bữa tiệc xong đến phần mọi người ngồi uống nước trà, thì chủ nhà mới hỏi mọi người một câu mà có lẽ nhắm tới một trong hai anh trước đây đã từng có thời “ăn cơm Chúa” nhưng nay lại múa tối ngày cho “vợ”. Câu hỏi đại khái: “Mình hỏi các anh, tại sao Đức Mẹ là người thường mà lại được gọi là mẹ của Thiên Chúa? Không lẽ Đức Mẹ sinh ra Thiên Chúa?” 

Hai anh được hy vọng có câu trả lời đều ngồi im lặng, và mọi người cũng không ai trả lời. Bầu khí xem như hơi căng thẳng, và câu hỏi hơi đột ngột hôm ấy đã không có câu trả lời nếu một anh trong nhóm không lên tiếng.   

-Em xin góp ý theo sự hiểu biết bình thường của em, một tư tưởng không mang vốn liếng thần học, chỉ căn cứ vào niềm tin chân thành của một người. Nhưng trước hết, em cũng hỏi anh chủ nhà là đã có gia đình và được mấy con rồi?

-Hai đứa, một gái và một trai.

-Anh gọi hai đứa đó là gì?

-Là con.

-Và hai đứa đó gọi anh là gì?

-Là bố.

-Nhưng anh có sinh ra linh hồn hai đứa đó không?

-Làm sao được, vì linh hồn thiêng liêng và do Thiên Chúa tạo dựng.

 

Im lặng một chút, bạn tôi nói; 

-Vậy câu trả lời của em là như thế này: Anh không sinh ra được linh hồn các con của anh, nhưng hai đứa con ấy vẫn là con anh, và anh vẫn là bố của chúng nó. Tương tự vậy, Mẹ Maria không sinh ra thiên tính của Chúa Giêsu vì thiên tính ấy phát xuất từ Chúa Cha, nhưng Mẹ chính thật là mẹ của Chúa Giêsu đấng vừa là Thiên Chúa vừa là người thật. Đã là mẹ thì là mẹ toàn thể con người, và đó là lý do mà Thiên Chúa làm Con Đức Mẹ. Điều này vừa mang ý nghĩa thần linh, vừa có tính cách nhân loại. 

Ý tưởng về Mẹ Thiên Chúa là gì?

Tư tưởng của bạn tôi cũng phần nào nói lên quan điểm thần học, đó là khi Đức Maria sinh Chúa Giêsu Cứu Thế, Con Người Thần Linh (divine person). Dù Đức Maria không phải “nguyên thủy” (originate) hoặc “sinh ra” (generate) Thiên Chúa mà chỉ mang Ngài trong dạ và sinh Ngài ra, thì vẫn là Mẹ của Thiên Chúa. Công Đồng Ephesus năm 431 đã xác nhận điều này. 

Phúc Âm nói gì về Mẹ Thiên Chúa?

Mặc dù Kinh Thánh không nói đến từ “Mẹ Thiên Chúa”, nhưng chúng ta có thể tìm được ý nghĩa của từ này trong Tin Mừng của Thánh Luca khi chị họ là Elizabeth chào Đức Maria liền sau khi Người mang thai Chúa và đến thăm bà: “Bởi đâu tôi thật có phúc, là Mẹ của Chúa tôi đến thăm tôi.” (1:43) Danh xưng “Mẹ Thiên Chúa” căn bản trên giáo lý Nhập Thể, cũng có nguồn gốc trong thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Galatians: “Nhưng khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai Con của Ngài, sinh bởi một người nữ, sinh dưới chế độ luật.” (4:4) 

Thần Học Mẹ Thiên Chúa?

Căn cứ vào nguồn gốc Thánh Kinh, Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dạy rằng “Maria thật sự là ‘Mẹ Thiên Chúa’ vì Mẹ là mẹ của người Con muôn thuở của Thiên Chúa nhập thể, Đấng là chính Thiên Chúa”. Theo lời dạy của Giáo Lý, từ nguồn Tin Mừng Gioan 1:1-14, Đức Maria không tạo dựng nên con người thần linh của Chúa Giêsu, Đấng hiện hữu với Chúa Cha từ muôn thuở. 

Vậy Đức Maria lại trở nên Mẹ Thiên Chúa có nghĩa là Người đã tạo dựng Thiên Chúa bằng cách sinh ra Chúa Giêsu. Một cách căn bản, Chúa Kitô là người thật và là Chúa thật. Là một phần trong chương trình đặc biệt được Thiên Chúa tuyển chọn, Đức Maria xứng đáng với danh hiệu đáng tôn kính là Mẹ Thiên Chúa. 

LỊCH SỬ LỄ MẸ THIÊN CHÚA 

Lịch sử Lễ Mẹ Thiên Chúa có thể tóm lược theo những biến cố từ sau Công Đồng Ephesus năm 431 đã tuyên tín Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. 

Công Đồng Vatican II tuyên bố: “Một cách rõ ràng từ những thời gian của buổi ban đầu, Trinh Nữ Rất Thánh đã được tôn vinh dưới danh hiệu Mẹ Thiên Chúa.” Và ngay từ đầu Giáo Hội Công Giáo Rome đã cử hành lễ kính Mẹ vào ngày 1 tháng Giêng tính theo tuần bát nhật Giáng Sinh. Theo Tin Mừng Luca 2:21, đó cũng là thời gian Con Trẻ được cắt bì và được đặt tên là Giêsu. 

Thế kỷ 13 hoặc 14, ngày Con Trẻ được cắt bì và đặt tên được cử hành tại Rome, Tây Ban Nha, và Gaul.  

Từ năm 1751, lễ Cắt Bì cho Con Trẻ được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIV cho phép Giáo Hội Bồ Đào Nha cử hành vào Chúa Nhật I của tháng Năm. Lễ này lan rộng đến nhiều quốc gia trong hai thế kỷ kế tiếp.  

Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, theo lịch chung Roma năm 1950 đã bỏ không nói đến việc cắt bì Chúa Giêsu, và đã gọi ngày 1 tháng Giêng là cuối tuần Bát Nhật Giáng Sinh. Và năm 1974, Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI thay thế lễ Chúa Chịu Cắt Bì bằng lễ trọng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Ngày 1 tháng Giêng cũng được gọi là Ngày Hòa Bình Thế Giới. 

LỄ KÍNH 

Lễ Mẹ Thiên Chúa được cử hành long trọng trên toàn thể Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ, và một số các giáo hội khác. 

1 tháng Giêng bởi Giáo Hội Công Giáo. 

16 tháng Giêng bởi Giáo Hội Chính Thống Coptic và Giáo Hội Chính Thống Nguyên Thủy (Oriental Orthodox). 

15 tháng Tám bởi Cộng Đồng Anh Giáo. 

26 tháng Mười Hai bởi Giáo Hội Byzantine, nghi lễ Tây Syriac cũng gọi là Nghi Lễ Syro-Antiochian, Đông theo nghi lễ Syriac cũng còn gọi là Nghi Lễ Edessan, Assyrian, Persian, Chaldean, và Nestorian…Mỗi nghi lễ đại diện cho một ngành Tín Hữu Đông Phương với lịch sử mở mang và thực hành của nó. 

Kính chào Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, kho tàng quý giá của toàn thể vũ trụ, ngọn đèn không bao giờ tắt, vương miện của sự đồng trinh, nâng đỡ đức tin chân thật, đền thờ không thể phá hủy, nơi ngự trị của đấng các tầng trời không thể chứa nổi. Ôi Mẹ và Đấng Đồng Trinh! Qua Mẹ tất cả mọi Phúc Âm đều tôn vinh Đấng đã đến nhân danh Thiên Chúa.

 

Lễ Mẹ Thiên Chúa

1 Jan. 2025 

Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt

TIẾP TỤC CHUỖI KINH MÂN CÔI MỖI NGÀY

Kinh Mân Côi là sự tương tác bền vững, liên tục với Thiên Chúa và Mẹ Maria.

Mọi Kitô hữu đều được mời gọi trở thành người cầu nguyện. Trận chiến cầu nguyện là có thật, đặc biệt là trong thời đại thế tục vốn gạt bỏ sự siêu việt, siêu nhiên và những điều vượt quá những gì chúng ta có thể kiểm soát và thao túng. Tuy nhiên, người tín hữu phải vượt qua những rào cản văn hóa như vậy và nỗ lực cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa.

 Khi cầu nguyện, chúng ta được hướng dẫn vào cuộc trò chuyện tích cực với Thiên Chúa. Cầu nguyện là khi chúng ta nói chuyện với Chúa một cách cởi mở từ trái tim mình và là khi chúng ta sống chậm lại và cố gắng nghe Ngài nói với chúng ta. Chúa nói với con cái Ngài. Thiên Chúa mong muốn được giao tiếp với chúng ta. Những lời Ngài thốt ra đều có sức mạnh. Những lời ấy được liên kết với niềm hy vọng, lòng biết ơn, tình yêu, sự hòa giải và sự bình an.

Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi trò chuyện với Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi cầu nguyện.

Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo dạy chúng ta: “Cầu nguyện Kitô giáo là một tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và con người trong Chúa Kitô. Đó là hành động của Thiên Chúa và hành động của con người. Lời cầu nguyện xuất phát từ Chúa Thánh Thần và từ chúng ta, hoàn toàn hướng về Chúa Cha, trong sự kết hợp với ý chí nhân loại của Con Thiên Chúa làm người” (GLHTCG, số 2564).

Giáo hội đồng hành với chúng ta và muốn hỗ trợ chúng ta khi chúng ta cố gắng cầu nguyện. Trong số rất nhiều nguồn lực và sự giúp đỡ của Giáo hội là nhiều phương pháp cầu nguyện khác nhau. Những phương pháp cầu nguyện như vậy bao gồm lectio divina: đọc lời chúa trong tư thế cầu nguyện, sắp xếp địa điểm, poustinia: vào sa mạc để gặp Chúa Kitô trong sự im lặng, cô tịch và cầu nguyện, phương pháp thánh nhân, xét mình, phụng vụ và lần hạt Mân Côi.

Lần hạt Mân Côi được phân biệt với các phương pháp cầu nguyện khác bởi vị trí đáng quý của Kinh Mân Côi trong lòng nhiều tín hữu. Chuỗi Mân Côi sử dụng các phần của phương pháp bố cục địa điểm, nhưng cũng có các khía cạnh của phương pháp thánh nhân. Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện bằng tâm trí và bằng lời đọc. Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện cùng với Mẹ Maria. Theo cách này, Kinh Mân Côi giống với các phần của phương pháp thánh nhân, mặc dù có những khác biệt.

Sự khác biệt chính yếu giữa phương pháp lần hạt Mân Côi và phương pháp thánh nhân là việc lần hạt Mân Côi sử dụng lời cầu nguyện bằng miệng và sự tương tác mang tính suy ngẫm của nó với Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong khi phương pháp thánh nhân tập trung chủ yếu vào vị thánh và sau đó là cuộc trò chuyện với Thiên Chúa hằng sống, thì chuỗi Mân Côi là một sự tương tác bền vững và liên tục với Thiên Chúa và Đức Mẹ.

Kinh Mân Côi là việc bước đi với Mẹ Maria, nhìn thấy cuộc đời của Mẹ và Con thần linh của Mẹ, đồng thời tìm cách đến gần hơn và làm sâu sắc hơn tình yêu của chúng ta dành cho các Ngài.

Lần hạt Mân Côi là một phương pháp tuyệt vời cho những người mới cầu nguyện. Vì chuỗi Mân Côi có tính tương tác cao nhất với tất cả các giác quan của chúng ta – bao gồm cả việc chạm vào khi chúng ta lần bấm các hạt của chuỗi Mân Côi – chuỗi Mân Côi thu hút những người bất an và có thể giúp ích rất nhiều cho những tâm hồn mệt mỏi rã rời hoặc mất tập trung.

Không nên đánh giá thấp việc lần chuỗi Mân Côi. Đã có những người coi việc lần hạt Mân Côi như một hình thức cầu nguyện kém cỏi. Người ta tranh cãi điều này một phần vì cho rằng chuỗi Mân Côi liên quan đến các giác quan và câu nệ hình thức. Trong lịch sử, một số người thậm chí còn gọi kinh Mân Côi là “lời cầu nguyện của nông dân” và chế nhạo sự đơn giản của nó. Những nhà cải cách như vậy lập luận rằng những Kitô hữu vốn đã được rửa tội cần phải học hỏi và thực hành những hình thức cầu nguyện cao hơn. Nhưng những lời kêu gọi được cho là trưởng thành hơn như vậy chỉ dẫn đến việc từ bỏ việc cầu nguyện và khiến cho đời sống thiêng liêng của Giáo hội trở thành vùng đất hoang vu.

Kinh Mân Côi có một vị trí được tôn kính trong di sản thiêng liêng của Giáo Hội. Đó là sự “tiến tới” của vô số những người thuộc mọi ơn gọi và mọi mức độ trưởng thành tâm linh. Người ta không bao giờ được bỏ Kinh Mân Côi hoặc trình bày Kinh Mân Côi một cách thấp kém như vậy. Đó là vương miện của Mẹ Maria và là một phương pháp thực tế, thiết thực đã giúp các Kitô hữu gặp gỡ Thiên Chúa, cầu nguyện và nên thánh.

Khi nhấn mạnh những điểm trên đây, chúng ta cũng cần phải quân bình lại lời đả kích và đưa ra quan điểm ngược lại nhưng cũng có giá trị không kém, đó là, tuy kinh Mân Côi được coi trọng và là một phương pháp cầu nguyện mạnh mẽ trong Giáo hội, nhưng đó không phải là phương pháp cầu nguyện duy nhất của Giáo hội. Có những lúc một ai đó – vốn không có ác ý gì với chuỗi Mân Côi – được dẫn đưa đến những phương pháp cầu nguyện khác. Linh hồn nào muốn cầu nguyện thì phải đi đến nơi nào Chúa Thánh Thần dẫn dắt. Chúa Thánh Thần sẽ luôn mang chúng ta đến gần Đức Trinh Nữ Maria, bất kể chúng ta đang sử dụng phương pháp cầu nguyện nào. Chúa Thánh Thần, qua tất cả các phương pháp cầu nguyện, tìm cách dẫn chúng ta đến những chiều sâu và chiều kích lớn lao hơn của đời sống thiêng liêng. Chúng ta phải luôn sẵn sàng đáp ứng và đi đến nơi chúng ta được dẫn dắt.

Trong đời sống thiêng liêng không bao giờ được quên kinh Mân Côi. Khi chúng ta đến gần Mẹ Maria trong đời sống người môn đệ của mình, thì chúng ta cũng được kéo đến gần Kinh Mân Côi trong đời sống thiêng liêng của mình.

 

LM Jeffrey F. Kirby.

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung

Từ https://cruxnow.com

 

ĐẶC ÂN VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI – SINH RA CÁC MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ

SUY NIỆM TIN MỪNG LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI 2024 – LỄ TRỌNG - LỄ HỌ - LỄ CẦU CHO GIÁO DÂN, năm  C ( Lc 1, 26- 38)

Khởi đi từ sách Sáng Thế ( St 3, 9-15 ;20), Thiên Chúa tuyên phạt A-đam, E-va và con rắn. ( A-đam : Bởi bụi đất). E- va , là tên được A-đam đặt cho người nữ sau khi phạm tội. Con rắn là satan, tức kẻ phản nghịch, thiên thần phản nghịch. E-va là mẹ của chúng sinh loài người. Như vậy, A-đam là loài người được tạo thành bởi bụi đất có Thần Khí. Theo đó,Thần Khí là Linh Thiêng, là sự sống bởi Thiên Chúa.

Như vậy, loài người mắc phải án phạt phải chết, là bị tách biệt ra khỏi Thiên Chúa là sự sống đời đời. Vì thế, sự sống của kiếp nhân sinh mong manh và yếu đuối, mỏng giòn là vậy. Như, bình sành dễ vỡ là thế.

Theo đó, tội lỗi đầu tiên của loài người, đó là “tội nguyên tổ”. Từ đó, chúng ta biết Đức Maria là loài người, nhưng, vâng phục Thiên Chúa, đến độ được Sứ Thần loan báo là “Đấng đẹp lòng “ Thiên Chúa, là “Đấng đầy ân sủng”.

Rõ ràng, từ khi A-đam, E-va phạm tội, bị đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng (mặt đất khởi nguyên còn hạnh phúc viên mãn). Như vậy, loài người đầu tiên chưa phản nghịch, nhưng, satan , một thiên thần phản nghịch dụ dỗ. như vậy, sự tiếp cận bởi Thiên Chúa là KHIÊM NHƯỜNG, nhưng sự tiếp cận của satan là : CẠM BẪY.

Rõ ràng, án phạt loài người là do satan dụ dỗ người nữ, người nữ lại quyến dụ đàn ông trở nên bất nghĩa, bất trung với Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng loài người.

Theo đó, đến thời, đến buổi, Đức Trinh Nữ Maria được đẹp lòng Thiên Chúa, trước khi Mẹ cất lời “XIN VÂNG”. Vì, Mẹ được Thiên Sứ Truyền Tin sau khi Mẹ được đẹp lòng Thiên Chúa và đầy tràn ân sủng. Mẹ ưng thuận vâng lời để chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa. Và, Mẹ giữ trọn sự vâng lời ấy cách trung tín, mến yêu và phó thác chân thành. Rõ ràng, câu Mẹ đáp lời “XIN VÂNG” ở tại câu 38. (Lc 3, 38)

Đoạn Tin Mừng ( Lc 3, 26 -38) hôm nay, rất quen thuộc, được gọi là Đọan Tin Mừng “Truyền Tin cho Đức Maria “. Theo đó, nhờ Mầu Nhiệm Truyền Tin, tức truyền LỜI của Thiên Chúa, mà Tân E-va, đấng đẹp lòng Thiên Chúa đã “CỨU “ được chúng sinh.

Đức Trinh Nữ Maria “cứu“ được loài người nhờ “ Lời Xin Vâng ” của Mẹ. Mẹ không thể cứu độ loài người, nhưng, Mẹ cộng tác vời Thiên Ân để sinh ra “ƠN CỨU ĐỘ”, nhờ bởi Con của Mẹ là Chúa GIÊ-SU. Đấng Cứu Thế GIÊ-SU –KI-TÔ đến thế gian chỉ với một chữ “CỨU “ thôi. GIÊ-SU là GIẢI THOÁT, KI-TÔ là Đấng được xức dầu tấn phong làm Vua.

Vị VUA đến để Giải Thoát loài người, đó là VUA GIÊ-SU – KI-TÔ. Theo đó, “ĐẶC ÂN VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” Thiên Chúa ban cho Đức TRINH NỮ MARIA chính là: Không Mắc Tội Tổ Tông Truyền, mới “ SINH RA MỘT DÒNG DÕI MỚI, DÒNG DÕI TÂN ƯỚC “, được CỨU ĐỘ bởi Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng tự nguyện hạ mình, từ Trời xuống thế bởi phép Chúa Thánh Thần.

Theo đó, Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội được ban cho Đức Mẹ, rõ ràng là cao cả ”hơn” tất cả các Mầu Nhiệm khác. Vì, nếu không thì không thể thực thi ƠN CỨU ĐỘ cách thuận lý, hợp lẽ được. Vì sao vậy ? Thưa vì, “tội” không thể “sinh ra phúc”, chỉ có “tội sinh ra tội”, và ”phúc sinh ra phúc “ mà thôi.

Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội là Đặc Ân, mà Thiên Chúa khấng ban vô điều kiện cho một thụ tạo đặc biệt duy nhất là ĐỨC TRINH NỮ MARIA mà thôi. Bởi vì, sau khi tuyên phạt A-đam, E-va , con rắn là satan xưa, thì Thiên Chúa HỨA ban ƠN CỨU ĐỘ, tức ƠN THA THỨ cho loài người qua ĐẤNG CỨU THẾ. ƠN CỨU ĐỘ ấy phải được thay thế bởi một HY TẾ CỨU CHUỘC, bởi một NGƯỜI CON vừa là Ngôi Vị Thiên Chúa vừa là NGƯỜI. Nghĩa là Đấng Cứu Thế mang Hai Bản Tính là Thần Tính và Nhân Tính.

Theo đó, lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đi trước Lễ Chúa Giáng Sinh là mang chiều kích đó.

Vì thế, “ĐẤNG THÁNH SẮP SINH RA SẼ ĐƯỢC GỌI LÀ CON THIÊN CHÚA “. (Lc 1, 35 c)

Thiên Chúa dùng LỜI để tạo dựng, tuyên phạt sự phản nghịch và tha thứ cho kẻ sám hối, ban ơn cho những kẻ tín trung là như vậy, vì,  Ngài là THIÊN CHÚA.

Nếu LỜI Chúa là Mầu Nhiệm như thế, thì cũng LỜI Chúa ban ơn cho kẻ tín trung là thụ tạo đặc biệt, đặc ân duy nhất là: ĐỨC TRINH NỮ MARIA đặc ân VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI – TRỌN ĐỜI ĐỒNG TRINH là như vậy.

Theo đó, Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 2024, đánh dấu 170 năm ngày Đức PIO thứ IX Giáo Hoàng, vì ngày 08/12/1854 đến ngày 08/12/1954 là đúng 100 năm, ngày tuyên tín Tín Điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Và , sau đó 04 năm 1858, chính Đức Mẹ tỏ hiện TRINH NHAN của Mẹ cho thánh nữ Bernadeth, tại Lourde , Lộ - đức – Nước Pháp. Đức Mẹ xác chuẩn la 2:”TA LÀ ĐẤNG VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘ I”.Theo đó, Giáo Phận Bùi Chu nhận Tước Hiệu “ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI “ làm Bổn Mạng Giáo Phận được 100 năm, thì xảy ra BIẾN CỐ 1954. Năm 2024, đánh dấu biến cố 70 năm đối với Giáo Phận Bùi Chu nói riêng và Giáo dân Miền Bắc nói chung. Bảy mươi năm cho một chằng đường di cư, bảy mươi năm cho một đời người, và bảy mươi năm cho một chặng đường ân sủng bởi sự che chở, cầu bàu cho giáo hữu Bùi Chu, Bắc Việt nhờ ơn MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI. dù , cho 21 năm sau đó, toàn thể người Công Giáo Việt Nam phải chịu ly tán tứ phương, nhưng, dù vượt hải ngoại, hay còn quốc nội, Ơn Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vẫn bền vững và trung tín với con cái loài người, vì , Mẹ luôn trung tín với Thiên Chúa.

Sóng gió nào cũng sẽ lặng yên, bão táp nào cũng phải dừng thôi, vì, có Chúa GIÊ-SU – KI-TÔ, Đấng Cứu Chuộc và Mẹ Người, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Thiên Chúa đã dùng “ROI SẮT” để cai trị muôn dân là như vậy. Chiếc “ROI SẮT “ấy đã và đang được dùng, nhưng sắp hết thời hiệu.

Rõ ràng, theo lịch phụng vụ thì, có bốn lễ trọng theo Bốn Tín Điều về Đức Mẹ, thì có 02 Lễ Trọng – Lễ Họ - Lễ cầu cho giáo dân là:

  • Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội 08/12.
  • Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời 15/08.

02 Tín Điều còn lại là:

  • Lễ Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa là Lễ Trọng 01/01, nhưng không phải Lễ Họ - Lễ cầu cho giáo dân.
  • Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh – Lễ Truyền Tin 25/03. Lễ Trọng.

Như vậy, Lễ TRUYỀN TIN và Lễ Đức Mẹ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI là một đặc tính , như 02 Tín Điều riêng.

  • Lễ Đức Maria Trinh NỮ VƯƠNG 22/08. Lễ kính. (không phải Tín Điều).

Theo Bài Đọc II, Thánh Thư Epheso, thánh Phaolo cho chúng ta biết ĐỨC GIÊ-SU –KI-TÔ là MẦU NHIỆM từ Thiên Chúa là Cha, và HỘI THÁNH của Người là một MẦU NHIỆM. Vì vậy, Ơn Cứu Độ được thiết lập qua Bảy Phép Bí Tích mà Chúa Giê-su đã dùng chính Hy Tế Cứu Độ của Người để thiết lập. Như vậy, theo Thần học hiện nay, thì Hội Thánh có 09 Phép Bí Tích, Hội Thánh Công Giáo là mình Mầu Nhiệm Đức Chúa Giê-su, Con Đức Mẹ.

Theo đó, Lễ Đức Mẹ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI là Lễ Trọng đứng đầu, Vì :  SINH RA TẤT CẢ CÁC MẦU NHIỆM , vì : SINH RA MẦU NHIỆM CON THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI. Theo đó, tính chất ĐẶC ÂN VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI nơi Đức Mẹ thật cao trong biết bao!

Lạy Thiên Chúa là Cha Toàn Năng Hằng Hữu, xin cảm tạ Cha muôn đời, vì muôn vàn hồng phúc Cha đã ban cho loài người qua Đức Giê-su – Ki-tô , Con Một của Cha, và nhờ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội Cha đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria Trọn Đời Đồng Trinh. Xin nhờ lời cầu thay, nguyện giúp của Đức Maria mà ban cho chúng con biết vâng phục Thánh ý Cha trọn đời. chúng con cầu xin, nhờ Đức Giê-su –Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con, Người Hằng Sống và hiển trị cùng Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần muôn đời./. Amen

08/12/2024

Phê- rô  An-tôn Trần Đình Phan Tiến

 

ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐÍCTÔ XVI VÀ KINH MÂN CÔI

 

Lễ Đức Mẹ Mân Côi được Thánh Giáo Hoàng Piô V thiết lập vào ngày kỷ niệm chiến thắng của hạm đội Kitô giáo tại vịnh Lêpantô, ngày 7 tháng 10 năm 1571. Chiến thắng này được cho là nhờ sự cứu giúp của Mẹ Thánh của Thiên Chúa. Sự trợ giúp ấy là nhờ vào lời khẩn xin của Kinh Mân Côi.

Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI liên tục kêu gọi chú ý đến hiệu quả của Kinh Mân Côi.

 1. Trong bài huấn từ tại Vương cung thánh đường lịch sử Đức Bà Cả của Rôma, thứ Bảy, ngày 3 tháng 5 năm 2008, [1] ngài đã nhắc nhở các tín hữu rằng lời cầu nguyện này không phải là “một thực hành đạo đức bị đẩy lùi vào quá khứ, giống như những lời cầu nguyện của những thời đại khác mà người ta luyến tiếc khi nghĩ đến. Thay vào đó, Kinh Mân Côi đang có một Mùa xuân mới.”

Chắc chắn khi nhắc nhở các tín hữu như vậy, Đức Giáo Hoàng muốn xóa đi cách nghĩ không đúng rằng việc lần hạt Mân Côi là “lỗi thời” và là việc sùng kính của một số ông bà già “lẩm cẩm và cố chấp”.

Đức Giáo Hoàng tiếp tục nói rằng trong thế giới hiện tại, vốn rất phân tán, “lời cầu nguyện này giúp đặt Chúa Kitô vào trung tâm, giống như Đức Trinh Nữ đã làm, đã suy ngẫm về tất cả những điều được nói về Con của mình, cũng như những gì Ngài đã làm và nói.”

Khi chúng ta đọc kinh Mân Côi, chúng ta sống lại những khoảnh khắc quan trọng và có ý nghĩa trong lịch sử cứu độ của chính mình. “Những bước khác nhau trong sứ mệnh của Chúa Kitô được dõi theo. Cùng với Mẹ Maria, cõi lòng chúng ta hướng về mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Chúa Kitô được đặt vào trung tâm của cuộc sống chúng ta, của thời đại chúng ta, của thành phố chúng ta, thông qua việc chiêm ngưỡng và suy ngẫm về những mầu nhiệm thánh thiện của Ngài về niềm vui, ánh sáng, nỗi buồn và vinh quang.”

Ngài khuyến khích chúng ta đón nhận trong chính mình “ân sủng phát ra từ những mầu nhiệm này, để qua chúng ta có thể tưới mát cho xã hội, bắt đầu bằng các mối tương quan hàng ngày, và thanh lọc chúng khỏi nhiều thế lực tiêu cực, do đó mở chúng ra với sự mới mẻ của Thiên Chúa”.

Kinh Mân Côi, khi được cầu nguyện một cách chân thành, không máy móc và hời hợt nhưng sâu sắc, thực sự mang lại hòa bình và hòa giải. Kinh Mân Côi chứa đựng trong chính mình sức mạnh chữa lành của Danh Thánh Chúa Giêsu, được cầu khẩn với đức tin và tình yêu ở trung tâm của mỗi Kinh Kính Mừng”.

 2. Chỉ hơn năm tháng sau đó, trong chuyến viếng thăm mục vụ tới Đền Thánh Pompeii vào Chúa Nhật 09 tháng 10 năm 2008 [2], trước khi đọc kinh Mân Côi, Đức Giáo Hoàng đã dành sự chú ý đến vị tông đồ vĩ đại của kinh Mân Côi, Chân phước Bartolo Longo, là người đã lấy hết năng lực và sự kiên trì của mình từ kinh Mân Côi, và kêu gọi các tín hữu noi gương thánh nhân.

Tuy nhiên, để trở thành tông đồ của Kinh Mân Côi, cần phải đích thân trải nghiệm vẻ đẹp và chiều sâu của lời cầu nguyện đơn giản và dễ hiểu này đối với mọi người.”

Đức Giáo Hoàng muốn nói rằng mặc dù là lời cầu nguyện có vẻ nhiều lời, lặp đi lặp lại, quá đơn giản và có thể khiến nhàm chán, nhưng cũng giống như chúng ta không bao giờ mệt mỏi khi nói với ai đó rằng chúng ta yêu họ, thì “Kinh Mân Côi là trường học của sự chiêm nghiệm và thinh lặng. Thoạt nhìn, có vẻ như đây là một lời cầu nguyện tích tụ các từ ngữ, do đó khó có thể hòa giải với sự thinh lặng được khuyến khích đúng đắn cho việc suy ngẫm và chiêm nghiệm. Trên thực tế, sự lặp lại nhịp nhàng này của Kinh Kính Mừng không làm xáo trộn sự thinh lặng bên trong mà thực sự đòi hỏi và nuôi dưỡng sự thinh lặng đó.

Đức Giáo Hoàng nói “sự thinh lặng xuất hiện qua các từ ngữ và câu văn, không phải là sự trống rỗng, mà đúng hơn là sự hiện diện của một ý nghĩa tối thượng vượt qua chính các từ ngữ và thông qua chúng nói với trái tim. Vì vậy, khi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta phải cẩn thận để giọng nói của mình không “che khuất” tiếng nói của Chúa, Đấng luôn nói qua sự thinh lặng như “tiếng nói nhỏ nhẹ” của một làn gió nhẹ (1V 19: 12)”.

Đức Giáo Hoàng khẳng định đọc Kinh Mân Côi là việc chiêm niệm phát xuất từ cõi lòng thinh lặng: “Vậy thì việc nuôi dưỡng sự thinh lặng tràn đầy Thiên Chúa này quan trọng biết bao, cả trong việc đọc kinh cá nhân và trong việc đọc kinh cùng với cộng đoàn! Ngay cả khi Kinh Mân Côi được đọc lên với tâm tình cầu nguyện, như ngày hôm nay, bởi các cộng đoàn đông đảo, và như anh chị em thực hiện trong Đền thánh này mỗi ngày, thì Kinh Mân Côi phải được coi là một lời cầu nguyện chiêm niệm. Và điều này không thể xảy ra nếu không có bầu không khí tĩnh lặng nội tâm”.

Đức Giáo Hoàng trích dẫn Chân phước Bartolo Longo, vị tông đồ của Kinh Mân Côi, giải thích Kinh Mân Côi là cách trò chuyện thân mật với Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria bằng cách suy ngẫm các mầu nhiệm thánh thiện của các Ngài: “Tôi muốn trích dẫn một suy nghĩ tuyệt đẹp của Chân phước Bartolo Longo: “Giống như hai người bạn thường xuyên ở bên nhau, có xu hướng phát triển những thói quen tương tự, cũng vậy, bằng cách trò chuyện thân mật với Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria, bằng cách suy ngẫm về các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi và bằng cách sống cùng một cuộc sống trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta có thể trở nên giống như Chúa Giêsu và Mẹ Maria, trong phạm vi sự khiêm nhường của mình và có thể học từ những tấm gương tối cao này một cuộc sống khiêm nhường, nghèo khó, ẩn dật, kiên nhẫn và hoàn thiện

 3. Trong bài huấn từ trước khi đọc Kinh Truyền Tin vào Chúa Nhật 03 tháng 10 năm 2010, khi đi thăm mục vụ Palermo [3] chỉ vài ngày trước lễ Mân Côi, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã khuyên các tín hữu cầu nguyện bằng kinh Mân Côi hằng ngày và dùng kinh này để suy ngẫm về những mầu nhiệm của Chúa Kitô “Vào thời điểm hiệp thông sâu sắc này với Chúa Kitô, hiện diện và sống động giữa chúng ta và trong chúng ta, như một gia đình giáo hội, thật tuyệt vời khi hướng về lời cầu nguyện với Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ của Ngài và của chúng ta.

Trong bài huấn từ này, Đức Thánh Cha đã giao phó toàn thể dân Chúa cho Mẹ chăm sóc và khẩn cầu: “Xin Mẹ nâng đỡ các gia đình, trong tình yêu thương của họ và trong sự đoan hứa dậy dỗ con cái của họ; xin Mẹ làm trổ sinh hoa trái những hạt giống ơn gọi mà Thiên Chúa đã gieo vãi dồi dào nơi những con trẻ; xin Mẹ truyền sự can đảm trong thử thách, hy vọng trong khó khăn, và nhiệt huyết mới trong việc làm điều thiện. Xin Đức Mẹ an ủi những người bệnh tật và tất cả những người đau khổ, và giúp đỡ các cộng đồng Kitô giáo để không ai trong số họ bị gạt ra ngoài lề hoặc bị thiếu thốn, nhưng mỗi người, đặc biệt là những người nhỏ bé và yếu đuối, đều cảm thấy được chào đón và trân trọng.”

Đức Thánh Cha đã gọi Đức Maria là: “Mẫu gương của đời sống Kitô hữu” và cầu xin Mẹ trước hết “giúp tất cả anh chị em bước đi trên con đường thánh thiện, nhanh nhẹn và vui tươi, theo những bước chân của rất nhiều chứng nhân sáng ngời của Chúa Kitô.

Đức Thánh Cha kết thúc bằng lời mong ước: “Xin cho việc suy niệm hằng ngày về các mầu nhiệm của Chúa Kitô kết hợp với Đức Maria, Đức Trinh Nữ cầu nguyện, củng cố tất cả chúng ta trong đức tin, đức cậy và đức mến”.

Phêrô Phạm Văn Trung

 

[1] https://www.vatican.va/content/benedict-xvi/en/speeches/2008/may/documents/hf_ben-xvi_spe_20080503_rosary.html

[2] https://www.vatican.va/content/benedict-xvi/en/speeches/2008/october/documents/hf_benxvi_spe_20081019_pompei.html

[3] https://www.vatican.va/content/benedict-xvi/en/angelus/2010/documents/hf_ben-xvi_ang_20101003_palermo.html