20. Những Bài Về Đức Mẹ

BỠ NGỠ TRƯỚC ĐIỀU KỲ DIỆU

Gia đình hạnh phúc đơn sơ

Tình yêu chan chứa giấc mơ an bình

Tạ ơn Chúa đoái thương tình

Chữa lành đột quỵ, gia đình có nhau.

                Gia đình nhỏ bé của tôi tuy nghèo, nhưng bù lại…, tôi có được người chồng rất tốt tính và luôn hết lòng yêu thương vợ con, do đó tôi cảm nhận được hạnh phúc trong mái ấm hôn nhân gia đình Công Giáo của mình, thế rồi giữa năm 2022 vừa qua, Chúa đã gửi đến gia đình tôi một biến cố rất lớn, tôi thiết tưởng Ngài thử thách lòng tin của tôi…, như một cơn ác mộng và cho tới giờ tôi mới hoàn hồn …ghi lại trang nhật ký thật kỳ diệu sau đây:

                 * Vào ngày 12/05/2022, sau khi chồng tôi đi làm về, tầm hơn 19h, anh tắm rửa vệ sinh cho các con xong, anh nói với tôi rằng anh bị nhức đầu, sáng giờ cứ đau âm ỉ như vậy, sau đó thì ói rất nhiều, tôi lấy thuốc panadol cho anh uống như mọi khi. Nhưng anh nói mệt, không uống và nằm vật ra giường, mắt nhắm nghiền, mồ hôi vã ra như tắm, tôi lo lắng và hoảng loạn, với tay lấy chai nước Thánh đổ vào miệng anh bằng muỗng cà phê, hi vọng Chúa chữa lành cho anh. Tôi bảo anh nằm nghỉ, tôi đi mua phở cho anh ăn vì vừa ói hết cả rồi. Khi tôi về, lay anh dậy, anh đã nằm bất động. Tôi đưa anh vào bệnh viện quận 7 cho gần nhà và anh được chuyển đi bằng xe cấp cứu lên BV 115 . Vào đây đã hơn 22h, các bác sĩ tiến hành chụp CT-MRI các kiểu và kết quả, do anh bị tăng huyết áp nên vỡ mạch máu, xuất huyết loang khắp não, hôn mê sâu và các bác sĩ kết luận tử vong, tạm thời anh được các bác sĩ gắn máy trợ thở và báo với tôi ra làm thủ tục đưa anh về nhà lo hậu sự . Tôi như người mất hồn, chân không đứng vững, suy sụp hoàn toàn. Tôi gọi điện thoại báo tin cho gia đình bên anh gồm ba, em trai và cô chú dì của anh, ngỏ ý với họ xin được đưa xác anh về nhà của ông bà bên quận 4 (nơi anh sinh ra và lớn lên, gắn bó hơn 30 năm ở đây). Anh là tân tòng, kết hôn và theo Đạo Công Giáo của tôi, sau khi nghe tôi kể về bệnh tình của anh như vậy thì gia đình thống nhất ngày 15/05/2022 sẽ đưa xác anh về, lí do là ngày mai Thứ Sáu ngày 13 (ngày xấu), ngày mốt lại rơi vào ngày 14 Âm lịch (kiêng kỵ), nên mới có trường hợp để anh nằm viện thêm 2 ngày. Tôi vâng theo, vì tôi không còn cách nào khác, chúng tôi không có nhà riêng, vợ chồng và 2 con tôi đang ở thuê tận Nhà Bè. Đêm đó, tôi ở lại phòng cấp cứu với anh cùng các bệnh nhân khác, trong phòng hồi sức cấp cứu này có 3 giường, mà cứ nửa tiếng lại có 1 ca được đẩy vào, bệnh nhân đã chết lâm sàng, được đẩy vào đây chỉ để gắn máy thở, đợi người thân hoàn tất thủ tục xong thì đưa về nhà thôi. Tôi là người nhát gan và sợ ma lắm, nhưng vì chồng nằm trong đó, tôi không nỡ lòng nào bỏ anh lại một mình, suốt đêm tôi cứ nắm tay anh và đọc thầm thỉ : “vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giê su Ki tô , xin Cha thương xót và cứu chữa cho chồng con” ….

Đêm đó tôi nhắn tin báo cho những người bạn của chúng tôi biết bệnh tình của anh, xin mọi người thêm lời cầu nguyện cho anh được tai qua nạn khỏi… Tôi vẫn hi vọng có một phép màu cho anh được tỉnh lại. Tôi miên man tưởng tượng như trong chuyện cổ tích…

Hay tin anh bệnh các bạn gửi lời chia buồn, an ủi, động viên tôi, khuyên tôi cố gắng mạnh mẽ để còn lo cho 2 đứa con thơ dại…

Tôi chờ đợi, hi vọng rồi tim đau thắt khi nghe nhiều bác sĩ chẩn đoán rằng bệnh nhân không qua khỏi, vì não của anh đã tổn thương nhiều, nếu mổ thì 50-50, còn nếu thành công cũng chỉ sống đời thực vật mà thôi. Ngày thứ 2 trong phòng hồi sức cấp cứu, tôi bỏ anh nằm đó một mình và chạy về nhà em gái tôi, nơi tôi gửi trông giúp 2 con lúc tôi trong bệnh viện, tôi chở 2 con lên nhà thờ Huyện Sỹ quận 1, nơi có đền Đức Mẹ Mễ Du, tôi nghe mọi người đồn Đức Mẹ ở đây linh lắm, tôi và 2 con nhỏ quỳ sụp dưới chân Đức Mẹ khóc và cầu nguyện với Mẹ rằng: “ Mẹ ơi, anh ấy là trụ cột trong gia đình, một đời anh ấy đã thương yêu mẹ con con, anh ấy đã hết lòng vì gia đình này, xin mẹ thương cứu chữa cho anh ấy được tỉnh lại, gặp đúng thầy đúng thuốc, cho anh ấy sống với mẹ con con, con chỉ xin cho anh được sống lại, anh ấy có thành người thực vật, con cũng nguyện chăm sóc anh ấy đến cùng, xin mẹ thương gia đình nhỏ của chúng con”. 

Ngày thứ 3, tôi không còn hi vọng gì nữa, trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi chợt nghe bên ngoài đọc tên chồng tôi, anh ấy được chuyển qua phòng hồi sức chống độc, trong khi chồng tôi vẫn hôn mê sâu và thở bằng máy, não của anh chết dần. Tôi tìm gặp và hỏi bác sĩ thì được biết anh sẽ được mổ vào đêm nay, nhưng chưa biết chính xác giờ nào, và nghe đâu có người gửi gắm anh cho bác sĩ giỏi trên khoa thần kinh ngoại. Vâng, chính xác là chồng tôi được lên bàn mổ lúc 1h sáng ngày 15/05/2022, là ngày như dự tính ban đầu anh sẽ được đưa về nhà lo hậu sự. Gia đình chồng gọi điện thúc giục tôi đưa anh về nhà càng sớm càng tốt để được “giờ tốt”, tôi nói với họ anh đã được lên bàn mổ dẫn lưu não thất trái, vì áp lực nội sọ chèn ép lên vỏ não (não bị phù).

Những ngày tiếp theo là những ngày trông ngóng tin anh, vì phòng hậu phẫu vô trùng tuyệt đối, không cho thân nhân ra vào, mọi việc đều được các điều dưỡng chăm sóc, vào 9h sáng mỗi ngày, tình trạng của bệnh nhân được thông báo trên giấy A4 dán trước cửa phòng, mổ hơn 3 tuần rồi mà anh vẫn còn hôn mê, thở máy, số điểm glassgrow chỉ đạt 3 điểm …Thở máy lâu ngày anh bị viêm phổi, suy hô hấp, không thể thở được nữa, bác sĩ tư vấn cho tôi tiếp tục phẫu thuật mở nội khí quản, tiểu phẫu gắn dụng cụ ở cổ cho anh thở dễ dàng hơn. 

Mỗi ngày tôi vẫn chăm chỉ từ bệnh viện về nhà chở 2 con lên nhà thờ Huyện Sỹ cầu nguyện Đức Mẹ, các bạn ở khắp nơi cũng luôn cầu nguyện cho anh, có cô bạn vừa nghe tin liền hứa ngày mai 13/05/2022 là ngày kỉ niệm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, sẽ đi xin lễ và cầu nguyện cho chồng tôi, cứ yên tâm. 

Ngày 07/06/2022, bác sĩ báo anh đã mở mắt nhưng chưa tiếp xúc được, tạ ơn Chúa, tôi mừng vui khôn siết, anh được chuyển lên phòng cấp cứu của Khoa mạch máu não, tôi được trực tiếp chăm sóc anh sau 22 ngày nằm phòng hồi sức tích cực, băng ca được đẩy từ phòng hậu phẫu đẩy ra, tôi tiến đến và hỏi anh có nhớ tôi không? Anh gật đầu. Vậy anh có bị mất trí nhớ không? Anh có trở thành người thực vật không? Những câu hỏi liên tục lóe lên trong đầu tôi. 

Lên phòng cấp cứu Khoa mạch máu não này, tôi không quên đặt lên ngực anh khăn Thánh Giêrado, tượng Lòng Chúa thương xót nho nhỏ tôi luôn mang theo bên mình. Một ngày anh mở mắt tầm 4-5 lần, mỗi lần chỉ vài phút và không nói chuyện, tôi vẫn nắm tay và đọc với anh câu kinh này: ““vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giê su Ki tô, xin Cha thương xót và cứu chữa cho chồng con”. Cùng phòng có một Soeur đang chăm sóc cho bố, tôi ngỏ ý xin Soeur giúp việc trao Mình Thánh Chúa cho anh và Soeur đã chấp nhận. 

Mỗi ngày, các y bác sĩ đến thăm khám đều lắc đầu và nói với tôi hãy chuẩn bị tinh thần, anh không còn sống được bao lâu, anh có thể ra đi bất cứ lúc nào, nguyên nhân nằm điều trị lâu bệnh nhân bị suy thận, suy hô hấp, nhiễm trùng vết mổ, nhiễm trùng máu…(người ta gọi là nhiễm trùng chéo) và bây giờ là viêm phổi đa kháng thuốc…

Ai nói gì tôi vẫn tin tưởng và phó thác tất cả vào lòng thương xót của Chúa, tôi tin Ngài đã nhận lời tôi kêu xin, vì nếu không, chồng tôi đã hóa ra thành đống tro từ ngày ấy rồi.

           Kính thưa quý vị, ngày hôm nay chồng tôi đã trải qua cơn bạo bệnh hơn tám tháng rồi, thời gian nằm viện hai tháng, theo lời kết luận của các y bác sĩ thì chồng tôi đã bị liệt, sống đời thực vật và phải thở qua nội khí quản suốt đời, thế nhưng hôm nay, tôi làm chứng về điều này, Chúa đã nghe lời của con cái Ngài kêu xin qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, chồng tôi đã hoàn toàn bình phục, sinh hoạt bình thường, tự vệ sinh cá nhân, đầu óc tỉnh táo (dạy học cho con), được rút nội khí quản, thở bình thường, giờ anh đã tự một mình đi lại quanh nhà, do không cử động quá lâu nên các cơ còn bị yếu, đi đứng chưa được nhanh nhẹn mà thôi, hi vọng một ngày không xa, anh được mạnh khỏe như trước , để làm nhân chứng sống động cho Chúa ngay giữa cuộc đời này.

 

Tình yêu mạnh hơn sự chết

Đức tin người vợ tha thiết thẳm sâu

Cậy trông ơn Chúa nhiệm mầu

Phúc lành đón nhận, khấu đầu tạ ơn.

BCT

( Viết theo tâm sự của người vợ trẻ)

Nguồn: www.daobinh.com

GIƯỜNG BỆNH SỐ 3

Anh đi lao động xa nơi xứ lạ lúc tuổi còn thanh niên, ngày anh ra đi chỉ có chiếc ba lô nhỏ xíu đựng vài bộ đồ cùng vật liệu cá nhân cần thiết, đặc biệt nơi ngón tay kế út có đeo nhẫn trắng bạc là mười hạt mân côi nhỏ xíu nổi lên Thánh giá ngay giữa chiếc nhẫn vừa khít gốc ngón tay.

Một năm, hai năm, ba năm…, và rồi không ai trong gia đình còn nhớ anh đã đi được bao lâu nữa, bởi khi ba mẹ mất thì các anh chị em trong gia đình mỗi người một ngả đi tự lập cho cuộc sống riêng của mình, ba mẹ họ thuộc gốc Sài Gòn, đạo đời lẫn lộn cùng chung sống trong môi trường đa tôn giáo, hơn nữa dân quận tư đa số nổi tiếng “ tứ chiến giang hồ”từ trước tới bây giờ, cũng vẫn còn một tiểu số quân lẩn quẩn loanh quanh đâu đó…

Bỗng ngày kia đột ngột có người quen báo tin anh đang nằm trong bệnh viện nhiệt đới, khoa nội . Cậu em trai kế anh hiện là giáo viên nghe được liền về nhà rủ vợ mình tới đó , tìm gặp anh sau bao năm xa cách không biết số phôn để liên lạc. Đến nơi hỏi thăm phòng trực và kiếm bảng tên của các bệnh nhân trong khoa nội, tất cả đều không thấy tên anh. Cậu em đành bấm điện thoại cho người quen đã báo tin ấy để hỏi coi sao…, người quen trả lời: “ Bạn cứ vào phòng đặc biệt, bệnh nhân giường số 3 rồi sẽ rõ Ok!”. Hai vợ chồng nghe thế liền hỏi thăm cô điều dưỡng đang làm việc gần đó rồi được cô chỉ dẫn đến đúng “ Giường bệnh số 3”.

Thoạt nhìn thấy bệnh nhân, cậu em lắc đầu: “ Không phải là anh T., vợ ơi không phải rồi!”. Cô vợ im lặng tiến lại gần, đứng cạnh giường quan sát kỹ gương mặt hốc hác gầy gò, cô nhìn những dây nhợ ống truyền thuốc, nước biển…rồi cô chú ý nhìn từng ngón tay của anh. Cô bất chợt giật mình kêu lên: “ Chúa ơi! Đúng là anh T. nè ông xã ơi! Chiếc nhẫn Thánh giá hạt mân côi bằng bạc ngày xưa vợ chồng mình tặng anh đeo vào ngày Lễ Bổn Mạng của anh ấy vẫn còn đeo nơi ngón tay áp út nè!!”. Tiếng nói của cô làm bệnh nhân đang nhắm mắt ngủ liền he hé mở ra, anh có vẻ run rẩy rồi thốt lên khe khẽ:

  • Em trai của anh đến rồi ư!?

Cậu em liền bước tới xờ tay anh, xúc động không nói nên lời, người vợ đã thay chồng thăm hỏi anh T., nói anh có cần xin Linh mục đến ban các Bí Tích và sức dầu bệnh nhân? Anh T. yếu ớt chớp mắt gật đầu, giây lát anh lại thì thào nói :

  • Em ơi đọc Lời Chúa hôm nay cho anh nghe .

Người vợ nhanh nhẹn lấy trong túi xách tay ra quyển Tân Ước nhỏ, rồi mở đọc rõ ràng gần tai anh : “ Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Ngài cho anh em.” ( Lc 12,32)

Anh nghe xong nét mặt tươi lên như mỉm cười…, rồi lại nhắm nghiền mắt lại vì đuối sức, cơ thể quá suy kiệt rồi. Nghe đâu bác sĩ nói anh sẽ không qua khỏi…

Vợ chồng cậu em trai mau lẹ ngay xế chiều hôm ấy đi mời đón một Vị Linh Mục đến, giúp ban các Bí Tích sau cùng cho anh mình. Tạ ơn Chúa, Đức Mẹ , Cha Thánh Cả Giuse Bổn Mạng của anh T. Tối gần giữa đêm ấy anh đã từ trần trong an bình thư thái , một giấc ngủ ngàn thu trong tình yêu Thiên Chúa.

BCT

Nguồn: Ơn Lạ Mẹ Ban  www.daobinh.com 

https://www.daobinh.com/me-maria/on-la-me-ban/giuong-benh-so-3.htm

 

NGÀY SINH CỦA MẸ MARIA LÀ SỨ ĐIỆP VUI MỪNG VÀ HY VỌNG CHO THẾ GIỚI

Các tác giả Tin Mừng không cho chúng ta biết nơi Mẹ Maria sinh ra. Chúng ta chỉ biết rằng Mẹ có họ hàng với bà Elizabeth sống ở miền Giuđêa. Do đó, không phải là không thể nghĩ rằng bản thân Mẹ là người gốc Giêrusalem, theo một truyền thống cổ xưa, có thể được tìm thấy trong Tiền Phúc Âm theo Thánh Giacôbê, cho chúng ta biết về cha mẹ của Đức Trinh nữ, là thánh Gioakim và thánh Anna. Và ở Giêrusalem, có một ngôi nhà rất cổ xưa được gọi là “Nhà của Thánh Anna.” Gần ngôi nhà này người ta đã dựng lên một nhà thờ mà lễ cung hiến diễn ra vào ngày 8 tháng 9. Lễ kỷ niệm việc cung hiến này được cử hành hằng năm. Ngày lễ này lan rộng đến Constantinôpôli vào thế kỷ thứ năm và sau đó đến phương Tây. Sau đó, ngày lễ Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đã được thêm vào 9 tháng trước đó, đó là ngày 8 tháng 12. Lễ Sinh Nhật Đức Maria là một trong những lễ lớn của năm phụng vụ Byzantine vì lễ đó khai mạc kế hoạch cứu độ và thực hiện Lời Chúa trong lịch sử con người.

Kể từ thế kỷ thứ 6, chúng tôi kính nhớ nơi Đức Trinh Nữ Maria được sinh ra, ở Giêrusalem, gần giếng Thánh Tẩy Bézatha, nơi đã chứng kiến sự ra đời của Mẹ Chúa Kitô, là “khởi đầu ơn cứu độ”. Chính tại Vương cung thánh đường Sinh Nhật của Mẹ Maria, Thánh Gioan Damascenô đã tuyên bố kỷ niệm ngày này một cách hân hoan.” [1]

Lễ Sinh Nhật của Đức Trinh Nữ Maria ngày 8 tháng 9 diễn ra đúng chín tháng sau lễ trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày 8 tháng 12. Chính vì sự thánh thiện của Đức Trinh Nữ Maria khi còn trong lòng mẹ mà Giáo Hội tổ chức Lễ Sinh Nhật của Mẹ theo phụng vụ của Giáo Hội. Chỉ một Lễ Sinh Nhật khác của một vị thánh được cử hành theo nghi lễ Giáo Hội là Lễ Sinh Nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả, là người đã được thánh hiến ngay khi còn trong bụng mẹ khi ngài nhảy mừng trước sự hiện diện của hài nhi Giêsu trong cung lòng Mẹ Maria.

Đức Trinh Nữ Maria đã được gìn giữ khỏi Tội Nguyên Tổ ngay từ khi được tượng thai và vững bền trong suốt cuộc đời mà không phạm tội riêng nào. Dù mãi đến năm 1854 thì Đức Giáo hoàng Pius IX mới chính thức tuyên bố đây là một tín điều của Giáo hội, nhưng tín điều đó đã được cử hành từ thời Giáo Hội sơ khai.

Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê

Nếu Đức Maria đã thực sự thoát khỏi tội lỗi từ lúc tượng thai trong cung lòng mẹ của Ngài là thánh Anna và trong suốt cuộc đời của Mẹ, như những người Công giáo tin tưởng, thì chắc chắn Mẹ đã có một thời thơ ấu thánh thiện và trong trắng đặc biệt. Tài liệu đầu tiên cố gắng thuật lại thời thơ ấu của Mẹ Maria được viết vào nửa sau thế kỷ thứ hai. Mặc dù bị loại khỏi Kinh thánh quy điển, Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê vẫn khá phổ biến trong Giáo hội sơ khai, vì hơn 130 bản sao chép cổ xưa đã được phát hiện. Một số câu chuyện trong đó vẫn tồn tại trong truyền thống Công giáo.

Ngoài việc thuật lại những câu chuyện từ các Tin Mừng quy điển và các đoạn văn  trong Cựu ước, tài liệu này có thể còn lưu giữ một số câu chuyện được truyền khẩu trong Giáo hội sơ khai. Các Giáo phụ của Giáo hội dù không tán thành chính bản văn này, nhưng lại minh chứng rằng một số khái niệm cốt lõi về Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội và trọn đời đồng trinh được quyển Phúc Âm này củng cố thêm.

Bản thân tài liệu, còn được gọi là Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê hoặc Phúc âm về Thời Thơ Ấu theo Giacôbê, không phải là quy điển đối với người Công giáo. Một số câu chuyện của Tiền Phúc Âm này có vẻ kỳ quặc và Đức Thánh Giáo Hoàng Gelasius I vào cuối thế kỷ thứ năm đã liệt kê Tiền Phúc Âm này vào số những văn bản bị người Công giáo khước từ. Các học giả hiện đại nói chung không đặt nhiều tin cậy vào tính lịch sử của nó, lại càng ít tin tưởng hơn rằng tác giả của nó là Thánh Giacôbê.

Những thị kiến của Chân Phước Catherine Emmerich

Nhưng những thị kiến chi tiết hơn của Chân phước Catherine Emmerich – sinh ngày 8 tháng 9 năm 1774 và mất năm 1824 – kể về một chuỗi sự kiện thời gian đầu đời của Mẹ Maria rất giống với những sự kiện trong Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê. Những mặc khải tư này sau đó được viết ra bởi Clemens Brentano, là người ngồi bên giường của Vị Nữ Chân Phước, và dù Giáo hội không thấy nơi những mặc khải tư này điều gì trái với Đức tin, nhưng Giáo hội cũng không chính thức xác nhận chúng. Người ta cũng không biết Brentano, vốn cũng biết Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, đáng tin cậy như thế nào khi viết những lời đúng thực của Chân phước Catherine Emmerich.

Điểm chính của những câu chuyện lần đầu tiên được nêu ra trong Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê nhằm cho thấy rằng Mẹ Maria không chỉ là một trinh nữ khi thụ thai Chúa Giêsu mà vẫn mãi là một trinh nữ, và hơn nữa, hoàn toàn trinh trong trước mặt Thiên Chúa. Người ta nhấn mạnh rằng không điều gì không tinh khiết mà lại được phép thấm nhập vào Mẹ và Mẹ đã được ban cho những tác động trinh trong nhất ngay khi còn là một em bé. Trinh khiết được cho là một phần căn tính của Mẹ Maria, và thánh Giuse, người sau này được chọn làm bạn trăm năm của Mẹ, cũng tôn trọng sự khiết trinh của Mẹ như vậy.

Một số điểm nổi bật của các câu chuyện như sau. Cha mẹ của Mẹ Maria, lần đầu tiên có tên trong văn bản này là Gioakim và Anna, là những người công chính nhưng không có con khi về già. Ông Gioakim giàu có và khi ông lên Đền thờ dâng cúng hào phóng cho Thiên Chúa, ông đã bị từ chối chỉ với lý do ông không có người nối dòng dù là người công chính trong Israel. Vì vậy, trong than khóc, ông đi ra sa mạc ăn chay cầu nguyện xin cho mình và vợ mình được sinh con. Tương tự như vậy, bà Anna, vợ của ông cảm thấy ô nhục về sự son sẻ của mình và bà than thở về tình trạng đau buồn của bà với Thiên Chúa — giống như Hannah, người mẹ hiếm muộn của tiên tri Samuel trong Cựu Ước (1 Samuel 1). Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của ông Gioakim và bà Anna và đã gửi các thiên sứ đến cả ông và bà để thông báo về sự ra đời của một đứa trẻ “sẽ được tất cả trần thế nói đến” và người “sẽ phụng sự Thiên Chúa trong những việc thánh suốt mọi ngày của đời nó. ” [2]

So sánh hai văn bản

Thánh Anna  khấn hứa sẽ dâng đứa trẻ phục vụ Thiên Chúa. Bà sinh ra một cô con gái, tên là Maria. Trong khi Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê trình thuật việc sinh ra đời thực sự của Mẹ Maria khá ngắn gọn, thì Chân phước Catherine Emmerich lại thoáng nhìn thấy ý nghĩa thánh thiêng của việc sinh hạ đó:

Trong khoảnh khắc đứa trẻ sơ sinh nằm trong vòng tay của người mẹ thánh Anna, đồng thời tôi thấy đứa trẻ được hiện diện trên thiên đàng trước Ba Ngôi Chí Thánh, và được tất cả thần thánh trên trời chào đón với niềm vui khôn tả. Sau đó tôi hiểu ra rằng em bé được biết đến, bằng một cách siêu nhiên nào đó, cùng với toàn bộ tương lai của em với tất cả những niềm vui và nỗi buồn của em. Maria đã được chỉ dạy về những mầu nhiệm vô hạn, dù vẫn là một đứa trẻ. Chúng ta không thể hiểu được sự hiểu biết này của em, bởi vì sự hiểu biết của chúng ta mọc trên cây thiện và ác. Còn em biết mọi thứ giống như một đứa trẻ biết vú của mẹ mình và biết rằng phải bú từ bầu sữa của mẹ mình.”

Cuộc đời của Đức Trinh Nữ Maria

Theo Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, khi bé Maria được sáu tháng tuổi, thánh Anna đã đặt bé xuống để xem bé có thể đứng được hay không. Khi bé Maria bước được bảy bước, thánh Anna bế bé lên và kêu lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa hằng sống của tôi, tôi sẽ không bước đi trên trái đất này cho đến khi tôi dâng con tôi vào đền thờ Chúa.” [3]

Bé Maria được coi là thánh thiện, và thánh Anna  đã làm một nơi tôn nghiêm trong buồng ngủ của bé khi cô bé mới được sáu tháng tuổi và không để bất cứ thứ gì uế tạp thấm nhập vào bé. Bé được các tư tế và người dân công nhận là dành riêng cho Thiên Chúa và được định sẵn để được đưa vào Đền thờ. Lần đầu tiên khi cha mẹ bé cân nhắc việc cho bé vào phục vụ Đền thờ năm lên hai tuổi, giống như tiên tri Samuel trong Cựu ước, họ quyết định đợi cho đến khi bé lên ba.

Vào thời điểm đó, cha mẹ đã giao bé Maria cho Đền thờ nuôi dưỡng như họ đã thề hứa:

Hãy mời những cô con gái Hipri trinh trắng, mỗi em hãy cầm lấy một ngọn đèn, và để các em đứng đó cầm ngọn đèn đang cháy, hầu cho em nhỏ không quay lại, và để tâm hồn em nhỏ được đền thờ của Thiên Chúa chiếm giữ. Và các thiếu nữ đã làm như vậy cho đến khi họ đi vào đền thờ của Thiên Chúa. Thầy tư tế đón bé gái Maria, hôn em và chúc phúc cho em, rằng: Thiên Chúa đã làm rạng danh em muôn thế hệ. Nơi em, vào những ngày cuối cùng, Thiên Chúa sẽ bày tỏ ơn cứu độ của Ngài cho dân Israel. Ông đặt em xuống bậc ba của bàn thờ, và Chúa là Thiên Chúa ban ân sủng cho em; và em nhẩy múa trên đội chân mình, và cả nhà Israel đều yêu mến em.” [4]

Một Trinh nữ của Đền thờ

Bé Maria, được đặt trên bậc thềm của Đền thờ, đã không quay chạy lại với cha mẹ như một đứa trẻ bình thường, vì vậy cha mẹ cô đã lấy làm lạ về điều này như một dấu hiệu cho thấy sự thánh thiện đặc biệt của cô. Chúng ta được kể rằng bé Maria đã cư ngụ trong Đền thờ cho đến khi được mười hai tuổi, và đã được nuôi dưỡng bởi bàn tay của một thiên thần.

Theo Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, khi Mẹ Maria được mười hai tuổi, các tư tế của Đền thờ quyết định rằng Mẹ nên được kết giao trong hôn nhân. Họ tập hợp những người đàn ông góa vợ thuộc dòng dõi Đavít và đưa cho mỗi người một cây gậy rút thăm. Một con chim bồ câu bay ra khỏi cây gậy của Giuse và đậu trên người ông, cho thấy Thiên Chúa lựa chọn Giuse làm chồng cho Đức Maria trọn đời đồng trinh. Giuse lớn hơn Mẹ Maria nhiều tuổi và có lòng kính sợ Thiên Chúa khi nhận bảo vệ “trinh nữ của Thiên Chúa”, nhưng các tư tế xác nhận rằng ông thực sự đã được chọn, và phải thực hiện trách nhiệm của mình cách nghiêm cẩn.

Trong khi đó, bảy trinh nữ của nhà Đavít, bao gồm cả Mẹ Maria, được chọn để bốc thăm để xem người nào sẽ đan các phần nào của bức màn trướng trong Đền thờ. Rất nhiều sợi chỉ màu tím và đỏ tươi rơi xuống chỗ Mẹ Maria đan, và trong khi Mẹ đang thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng này, Mẹ đã được thiên thần Gabriel đến thông báo với Mẹ rằng Mẹ sẽ là Mẹ của Chúa Giêsu. 

Những minh chứng hỗ trợ của lịch sử

Hầu hết các học giả ngày nay đều chỉ ra rằng thiếu bằng chứng lịch sử về việc các trinh nữ phục vụ nghi lễ trong Đền thờ Giêrusalem. Nhưng có một vài dấu hiệu trong ghi chép lịch sử có thể chỉ ra những gì được mô tả về Mẹ Maria và những người bạn đồng hành của Mẹ trong Tiền Phúc Âm theo Thánh Giacôbê. Sách Xuất Hành cho chúng ta biết những người phụ nữ lành nghề của Israel đan màn trướng cho Đền thờ: “Mọi phụ nữ khéo tay đã tự mình dệt, rồi đem những gì đã dệt đến: vải đỏ tía và vải điều, vải đỏ thẫm và vải gai mịn. Mọi phụ nữ có nhiệt tâm và khéo tay thì lấy lông dê mà kéo sợi” (Xuất Hành 35: 25-26). Mishnah, bộ sưu tập lớn đầu tiên các văn bản về các truyền thống truyền khẩu của người Do Thái, lúc đó chỉ ra rằng vai trò này được trao cho các trinh nữ và cũng ngụ ý rằng các trinh nữ này có một vai trò trong Đền thờ.

Ngoài ra, sách Dân số chương 6 đã thiết lập lời thề Nadia: “Thiên Chúa phán với ông Môsê rằng: “Ngươi hãy nói với con cái Israel và bảo chúng: Bất cứ ai, đàn ông hay đàn bà, đã khấn nadia, tức là khấn đặc biệt kiêng cữ để kính Thiên Chúa, thì nó phải kiêng rượu và men nồng: không được uống giấm chua từ chất rượu cũng như giấm chua từ chất men, không được uống mọi thứ nước nho, không được ăn nho tươi cũng như nho khô. Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn đó, thì bất cứ thứ gì chiết xuất tự cây nho, từ hột nho cho đến vỏ nho, nó cũng không được ăn. Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn, dao cạo không được đụng đến đầu nó; bao lâu chưa mãn thời kỳ khấn đặc biệt để kính Thiên Chúa, thì nó sẽ là người được thánh hiến: nó phải để cho tóc trên đầu mọc tự nhiên. Suốt thời kỳ khấn đặc biệt để kính Thiên Chúa, nó không được tới gần xác chết. Dù là cha mẹ hay anh chị em nó chết, nó cũng không được để cho mình nhiễm uế, bởi vì nó mang trên đầu lời khấn nadia kính Thiên Chúa. Suốt thời kỳ khấn đặc biệt, nó sẽ là người được thánh hiến cho Thiên Chúa”.  Lời khấn hứa này đòi hỏi một lối sống thánh thiện dành cho trẻ nhỏ Maria như đã được mô tả trong Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê. Điều này cũng có thể được thực hiện bởi phụ nữ, và phổ biến trong thời kỳ Đền thờ thứ hai. [5].

Thêm chi tiết về thời thơ ấu của Mẹ Maria

Những thị kiến của Chân phước Catherine Emmerich được ghi lại trong Cuộc đời của Đức Trinh Nữ Maria cho chúng ta một bức chân dung sâu sắc về cuộc sống của một thiếu nữ không hề phạm tội thì như thế nào trong Đền thờ:

Tôi đã nhìn thấy Đức Trinh Nữ Maria trong Đền thờ, luôn luôn thăng tiến trong học tập, cầu nguyện và làm việc. Đôi khi tôi thấy Mẹ  ở trong phòng phụ nữ ở với những thiếu nữ khác, đôi khi một mình trong căn phòng nhỏ của Mẹ. Mẹ làm việc, dệt và đan những dải vải hẹp trên những thanh dài để phục vụ Đền thờ. Mẹ giặt giũ và lau xoong nồi. Tôi thường thấy Mẹ trong cầu nguyện và suy niệm. Tôi chưa bao giờ thấy Mẹ trừng phạt hay hành hạ cơ thể của mình – Mẹ không cần điều đó. Giống như tất cả những người rất thánh thiện, Mẹ chỉ ăn để sống, và không dùng thức ăn nào khác ngoại trừ những thứ mà Mẹ đã thề hứa. Bên cạnh những lời cầu nguyện được quy định trong Đền thờ, lòng sùng mộ của Đức Maria còn là một khao khát không ngừng được cứu độ, một tinh thần cầu nguyện luôn mãi trong nội tâm, được thực hiện cách lặng lẽ và dấu ẩn. Trong sự tĩnh lặng của đêm khuya, Mẹ trỗi dậy ra khỏi giường và cầu nguyện với Thiên Chúa. Tôi thường thấy Mẹ khóc trước những lời cầu nguyện của mình và được ánh hào quang bao phủ. Khi Mẹ lớn lên, tôi luôn thấy Mẹ mặc một chiếc váy màu xanh lam lấp lánh. Mẹ che kín mặt khi cầu nguyện, và cũng lấy mạng che mặt khi nói chuyện với các tư tế hoặc đi xuống một căn phòng bên Đền thờ để nhận việc hoặc giao lại những gì Mẹ đã làm. Có những căn phòng như thế này ở ba mặt của Đền thờ; đối với tôi, các phòng này luôn như những phòng thánh. Tất cả mọi thứ đều được cất giữ ở đó mà nhiệm vụ của các thiếu nữ trong Đền thờ là phải trông nom, sửa chữa và thay thế.”

Những câu chuyện này cho thấy cuộc đời của Mẹ Maria là rất thánh thiện và phẩm giá của Mẹ là rất đặc biệt, chúng cũng cho chúng ta thấy được nhân tính của Mẹ. Mặc dù vô nhiễm nguyên tội, Mẹ Maria đã và vẫn đang hoàn toàn là con người và chỉ là con người. Mẹ tỏ ra cho chúng ta thấy rằng vì kinh nghiệm chung của chúng ta về bản tính sa ngã của con người nên chúng ta mới nói rằng: “phạm tội chỉ là chuyện thường tình của con người.” Trong kế hoạch của Thiên Chúa, Mẹ Maria là mẫu mực cho những gì Thánh Irênê thành Lyon đã dạy:

“Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống tràn đầy.” [6]

 

Vài suy niệm

Mẹ Maria trả lại cho chúng ta hình ảnh của một con người hoàn hảo trong việc Mẹ được tượng thai vô nhiễm nguyên tội.

Ngày lễ này khiến chúng ta nghĩ về sự ra đời của Mẹ Maria trong trần thế như bình minh đi trước ánh sáng cứu độ, là Chúa Giêsu Kitô; giống như hoa nở trên trái đất, vốn tất cả đều bị bao phủ bởi vũng lầy tội lỗi, là bông hoa đẹp nhất từng được nhìn thấy trong vườn hoa bị tàn phá của nhân loại.

Ngày lễ này khiến chúng ta nghĩ đến sự ra đời của thụ tạo thanh khiết nhất, vô tội nhất, hoàn hảo nhất của nhân loại, xứng đáng nhất với ý định mà Thiên Chúa đã ban cho con người khi tạo ra con người theo hình ảnh của Thiên Chúa, giống với Thiên Chúa, là vẻ đẹp tối thượng, sâu thẳm, là vẻ đẹp tuyệt mỹ, vẻ đẹp lý tưởng trong bản tính và nơi hình hài của mình, chân thực trong biểu hiện sống động của thụ tạo đó, đến nỗi người ta có thể thoáng thấy rằng thụ tạo chưa từng có này, một mặt, được tiền định làm nữ hoàng trần thế, và mặt khác, là đối tượng của cuộc đối thoại và của tình yêu của Đấng Sáng Tạo ra mình bằng một sự đáp trả hoàn toàn buông bỏ chính mình, một sự đáp trả thi vị và tràn đầy niềm vui, như trong Kinh Magnificat của Mẹ Maria. 

Bằng một kế hoạch thương xót vô hạn, Thiên Chúa đã làm sống lại nơi Mẹ Maria những gì đã bị mất nơi bà Evà: “Chúa Cha rất nhân từ đã muốn sự ưng thuận của

Đấng đã được tiền định làm Mẹ phải có trước khi Chúa Con nhập thể, để như một người nữ đã hợp tác cho sự chết, thì cũng một người nữ hợp tác cho sự sống (Lumen Gentium 56. x. 61)” [7]. 

Chúa Thánh Thần đã chuẩn bị Mẹ để Mẹ xứng đáng là cung lòng xứng đáng cho Con Mẹ. Và hôm nay, trong ngày dành riêng để tôn kính ân huệ này, tôn kính kiệt tác này của Thiên Chúa, chúng ta vui mừng nói: Mẹ Maria đã sinh ra, Mẹ là Mẹ của chúng ta, Mẹ khôi phục lại nơi chúng ta hình ảnh của nhân loại hoàn hảo trong việc tượng thai vô nhiễm nguyên tội của Mẹ, đáp ứng một cách đáng ngưỡng mộ ý định của Thiên Chúa muốn có cuộc tượng thai nhiệm mầu của một thụ tạo sẽ là Nữ Hoàng của trần thế: “Suốt dọc chiều dài lịch sử, Hội Thánh đã nhận thức rằng Mẹ Maria, vì được Thiên Chúa ban cho “đầy ơn phúc” (Lc 1,28), nên được cứu chuộc ngay từ lúc tượng thai. Đó là nội dung tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội do Đức Piô IX công bố năm l854. Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Maria, đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay từ lúc tượng thai, do ân sủng và tình thương đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ loài người (DS 2803)” [8].

Thánh Augustinô đã mô tả sự ra đời của Đức Trinh Nữ Maria là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử và vũ trụ, và là khúc dạo đầu thích hợp cho sự ra đời của Chúa Giêsu Kitô. Ngài nói: “Mẹ là bông hoa trong cánh đồng, từ đó đã nở ra một hoa huệ thung lũng quý giá”. 

Vị giám mục của thế kỷ thứ tư đó, mà thần học của ngài đã định hình một cách sâu sắc sự hiểu biết của Giáo hội phương Tây về tội lỗi và bản tính con người, khẳng định rằng “nhờ sự ra đời của Mẹ, bản tính nhân loại mà chúng ta thừa hưởng từ cặp cha mẹ đầu tiên đã được thay đổi”.

Thánh Gioan Đamátsô đã dâng lời ca tụng: “Hết thảy mọi người hãy đến, chúng ta hân hoan mừng ngày sinh ra niềm vui sướng của cả thế giới! Hôm nay đây, từ một bản tính thế trần, một thiên đàng đã thành hình dưới thế. Hôm nay đây, việc cứu rỗi đã bắt đầu cho thế giới!” 

Trong ngày Đức Maria chào đời, Giáo Hội reo lên: “Ôi lạy Mẹ! Ngày sinh của Mẹ đã đem lại cho thế giới sứ điệp vui mừng và hy vọng. Vì Chúa Kitô Chúa chúng con là Mặt trời soi đường ngay nẻo chính đã từ cung lòng Mẹ sinh ra, Ngài là Đấng huỷ bỏ lời chúc dữ, đem lại muôn phúc lành, Đấng tiêu diệt thần chết và ban phúc trường sinh”. 

Vào chính Lễ Kính Sinh Nhật Đức Mẹ 8/9/2004, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã suy niệm về Mẹ như sau: “Phụng vụ hôm nay nhắc lại Sinh Nhật của Đức Trinh Nữ Maria. Lễ này, một lễ rất được dân chúng sùng mộ, khiến chúng ta phải ca ngợi ánh bình minh sáng ngời nhất của Ơn Cứu Độ nơi con trẻ Maria này. Chúng ta chiêm ngưỡng một con trẻ giống như tất cả mọi con trẻ khác, nhưng đồng thời lại độc nhất vô nhị, đó là “một người nữ có phúc hơn mọi người nữ” (Luca 1:42). Mẹ Maria là “nữ tử Sion” vô nhiễm được tiền định làm Mẹ Đấng Thiên Sai.

Và Mẹ Maria, vì niềm hân hoan và niềm vui của tâm hồn chúng ta, Mẹ không bao giờ ngăn cản ánh mắt của chúng ta hướng nhìn về Mẹ trừ khi để khích lệ chúng ta nhìn cao hơn, hướng tới nhiệm mầu của ánh sáng, của sự thánh thiện và sự sống mà Mẹ đã loan báo khi mới chào đời và Mẹ sẽ ban cho chúng ta: đó là Chúa Kitô, Chúa chúng ta, là Con của Mẹ, và là Con Thiên Chúa, mà chính Mẹ đã nhận được mọi sự từ Ngài. “Đó là mầu nhiệm ân sủng mà chúng ta gọi là Mầu Nhiệm Nhập thể và ngày nay, làm cho chúng ta thấy trước nơi Đức Maria ngọn đèn mang ánh sáng Thiên Chúa, thấy trước cánh cửa qua đó trời cao sẽ hướng về đất thấp, thấy trước Người Mẹ, Đấng sẽ ban sự sống con người cho Ngôi Lời của Thiên Chúa, thấy trước việc chúng ta đạt tới ơn cứu độ.” [9] 

Lạy Đức Nữ Vương, xin thương xót chúng con là kẻ có tội và xin đến cứu giúp chúng con. Việc ra đời hiển vinh của Mẹ trong dòng dõi Ábraham, chi tộc Giuđa, hoàng tộc Đavít, không đem lại niềm vui cho cả thế trần đó sao? Xin Mẹ làm cho niềm vui của chúng con được tràn đầy và cũng xin làm cho chúng con sạch mọi tội lỗi. Amen. [10]

 

Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ và biên tập.

 Chú thích:

[1] nominis.cef.fr. Tài liệu của giáo phận Tarbes và Lộ Đức, Pháp.

[2] Tiền Phúc Âm theo Thánh Giacôbê, chương 4.

[3] Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, chương 6.

[4] Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê, chương 7.

[5] Megan Nutzman, “Mẹ Maria trong Tiền Phúc Âm theo Thánh Giacôbê.”

[6] media.ascensionpress.com.

[7] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 488.

[8] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 491.

[9] ĐGH Phaolô VI, Bài giảng ngày 8 tháng 9 năm 1964.

[10] Lời cầu nguyện khuyết danh thời Trung cổ.

 

SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MARIA

Chúng ta không biết chắc ngày sinh của Mẹ Thiên Chúa, nhưng trải dài suốt 15 thế kỷ và cho đến nay, Giáo Hội Công Giáo vẫn tiếp tục mừng ngày này vào ngày 8 tháng Chín hằng năm gọi là Lễ Sinh Nhật Trinh Nữ Maria Rất Thánh. Theo truyền thống, việc cử hành mừng ngày sinh nhật của Trinh Nữ Maria Rất Thánh vào ngày 8 tháng Chín, vì ngày 8 tháng Mười Hai là ngày kính Mẹ Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội.   

Ngay từ thế kỷ thứ sáu, Giáo Hội đã bắt đầu cử hành mừng Sinh Nhật Đức Mẹ. Mặc dù Thánh Kinh không nói gì về ngày này, tuy nhiên, Ngụy Kinh của Thánh Giacôbê (Protoevangelium of James) đã cho chúng ta những tin tức về ngày đặc biệt ấy. Mặc dù đây là cuốn sách không mang giá trị lịch sử, nhưng nó phản ảnh lòng sùng kính của các Kitô hữu ban đầu. Theo đó, Anna (Anne) và Gioankim (Joachim) là những người son sẻ. Họ nhận được lời hứa về một người con, mà người con ấy sẽ có mặt trong dự án cứu độ của Thiên Chúa đối với thế giới. Câu truyện này cũng giống những câu truyện Thánh Kinh, nhấn mạnh đến sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa trong đời sống của Đức Maria từ những ngày đầu.    

Thánh Augustine đã liên kết ngày sinh nhật của Đức Maria với công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu, và cho rằng thế giới hãy vui mừng và hân hoan về ngày này: “Mẹ là bông hoa tuyệt vời trong vườn huệ ngát hương. Qua sinh nhật của Mẹ, di sản nhân loại thừa hưởng từ tổ tông được tẩy rửa.” Lời nguyện đầu lễ nói về ngày giáng trần của Con Mẹ như bình minh ơn cứu độ của chúng ta, và trong thánh lễ này, Giáo Hội cầu xin ơn bình an: “Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Ðức Giêsu Con Một Chúa, Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay ngày sinh nhật của Thánh Mẫu Người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc, và cho chúng con hưởng bình an.” 

Những gì về tuổi thơ của Đức Trinh Nữ Maria tuy không được trực tiếp ghi lại trong Thánh Kinh, nhưng ngay từ những thế kỷ đầu của Giáo Hội, một số tài liệu dựa theo truyền thống về những gì liên quan đến ngày sinh nhật này cũng đã được tìm thấy trong các tác phẩm Kitô giáo thời bấy giờ. Theo Ngụy Kinh của Thánh Giacôbê có từ đầu thế kỷ thứ hai, thân phụ của Đức Maria là một người giầu có thuộc một trong Mười Hai chi tộc Israel. Ông rất chia sẻ nỗi buồn không có con cùng với vợ là bà Anna. Ông hy vọng cũng như Abraham, ngày về già được Thiên Chúa ban cho một người con như Isaac. Chính vì thế cả hai đã sốt sắng tận hiến và nhiệt thành trong lời cầu nguyện. Và kết quả là Chúa đã chúc phúc cho hai ông bà một cách dồi dào còn hơn cho Abraham và Sarah. Một thiên thần đã hiện ra với bà Anna và nói: “Chúa đã nghe lời bà cầu. Bà sẽ mang thai và sinh con, và con bà sẽ được ca tụng trên khắp hoàn cầu.” Lời tiên tri phản ảnh lời chào của Isave sau này khi Đức Maria tới thăm viếng bà: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?” (Luca 1:42-43)   

Sau khi hạ sinh Maria, cũng theo Ngụy Kinh ghi lại, bà Anna đã gọi căn phòng của Maria là “phòng thánh”, và không cho phép để bất cứ đồ vật gì dơ bẩn hoặc tầm thường ở trong đó vì sự thánh thiện của con mình. Những ghi chú tương tự cũng kể rằng khi lên một tuổi, cha của Maria “đã tổ chức một buổi lễ rất lớn, mời các tư tế, kinh sư, và kỳ lão cùng nhiều người trong dân Israel tham dự.” 

Lúc ấy, ông Gioankim đã mang con trẻ đến cho các tư tế, để các vị chúc lành cho em bằng những lời: “Lạy Thiên Chúa, là cha của chúng con, xin chúc lành cho trẻ này, và ban cho em một tên gọi muôn đời được ca tụng trên mọi dòng dõi”. Tiếp tới mang em đến những vị thượng tế, và các vị này cũng đã chúc lành cho em: “Lạy Thiên Chúa tối cao, xin nhìn đến trẻ này, chúc lành cho em với muôn phúc lành, đến muôn đời.” 

Sau đó, cha mẹ của Maria cùng với các tư tế đền thờ đã dâng con trẻ và thánh hiến sự đồng trinh trọn đời của em lên Gia Vê Thiên Chúa.   

Các Tín Hữu Công Giáo từ thế kỷ thứ hai, rất tôn trọng những gì được Ngụy Kinh của Thánh Giacôbê ghi lại. Nhờ tài liệu này mà chúng ta đã biết nhiều chi tiết về đời thơ ấu của Đức Maria, những điều quí giá về Thánh Truyền, không đi ngược lại với Thánh Kinh.   

Thánh Augustine coi sinh nhật của Đức Nữ Trinh Maria Rất Thánh như một biến cố của đất trời, một dấu chỉ của lịch sử, và là dấu hiệu gắn liền với sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô. Vị giám mục thế kỷ thứ tư của Giáo Hội Đông Phương, người mà quan điểm thần học được định hình cho việc hiểu biết về tội, về bản tính con người tự nhiên, đã khẳng định rằng, “nhờ ngày sinh nhật của Mẹ, di sản của tổ tông được tẩy rửa.”  

Trong những thế kỷ đầu, Sinh Nhật Đức Maria được cử hành một cách hết sức trọng thể. Dần dần lễ này bị rơi vào quên lãng, hoặc xem thường, mặc dù nó được coi như “Biến cố quan trọng của lịch sử Cứu Độ”. Cũng giống như Mẹ Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, Sinh Nhật Đức Mẹ là một ngày quan trọng trong lịch sử cứu độ của chúng ta. Chúa Kitô cần một người mẹ, và Mẹ được sinh ra. Vì thế những biến cố này nếu không có sự giáng trần của Chúa Cứu Thế sẽ không thể nào xảy ra. 

Theo truyền thống và niềm tin Kitô giáo, Giáo Hội Công Giáo mừng sinh nhật chỉ có ba trường hợp: Sinh nhật Đức Maria, sinh nhật Gioan Tẩy Giả, và sinh nhật Chúa Giêsu. Cả ba Đấng đều được sinh ra không vướng tội Tổ Tông (born without Original Sin.)

Còn lại, lễ kính hoặc mừng các thánh đều là ngày các ngài qua đời hoặc được phúc tử đạo. Theo Thánh Phanxicô Assisi, thì “chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời.” Đó mới là lúc chúng ta thực sự bước vào quê hương vĩnh cửu, và được sinh ra trong nước trời.

Sinh Nhật Đức Mẹ được cử hành vào ngày 8 tháng Chín, và được mừng kính trên toàn Giáo Hội. Thánh lễ được ghi trong lịch phụng vụ của Roma và phần lớn các Giáo Hội Anh Giáo. Lễ này cũng được cử hành theo lịch Tridentine, và theo Nghi Lễ Chính Thống Giáo Đông Phương. Giáo Hội Tông Đồ Miền Armenian cũng mừng kính vào ngày 8 tháng Chín. Tuy nhiên theo Giáo Hội Chính Thống Coptic và Chính Thống Ethiopia, tín hữu mừng lễ này vào ngày 9 tháng Năm  (1 Bashans, EC 1 Ginbot).

Để giúp các tín hữu hưởng nhờ nhiều ơn phúc qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Đức Giáo Hoàng Innocent IV đã thiết lập Tuần Bát Nhật, sau này đã được Đức Piô XII đổi mới.

“Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ là người có phúc và rất đáng mọi lời ca tụng, vì Mẹ đã sinh ra Mặt trời Công Chính là Ðức Kitô, Chúa chúng con. – Alleluia.”

 

  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt

NỮ VƯƠNG - NỮ TỲ

Lễ Đức Maria Nữ Vương

“Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!”.

Nữ hoàng Mary, Scotland, thường đi thăm dân chúng một mình. Chiều kia, trời đổ mưa, bà ghé một ngôi nhà, “Cô có thể cho tôi mượn chiếc ô, ngày mai tôi sẽ trả?”. Cô chủ trao cho người lạ chiếc ô định vứt đi. Hôm sau, có tiếng gõ cửa; một cận vệ hoàng gia xuất hiện, “Nữ hoàng nhờ tôi cảm ơn cô đã cho bà mượn cái này”. Cô chủ sững sờ; sau đó, bật khóc, “Ôi, tôi đã bỏ lỡ một cơ hội - không trao cho nữ hoàng cái tốt nhất!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Không ít lần chúng ta bỏ lỡ cơ hội “không trao cho Nữ Hoàng cái tốt nhất”, Nữ Hoàng ở đây chính là Mẹ Maria. Trong vinh quang hồn xác lên trời, Mẹ là ‘thành quả tối hậu’ của công trình cứu độ. Với triều thiên vinh hiển Chúa ban, Mẹ là ‘Nữ Vương’ thiên đàng nhưng cũng là ‘nữ tỳ’, là môn đệ và là ‘Ái Nữ’ của Đấng mà “Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!”.

Thánh Kinh trình bày Chúa Kitô như một vị Vua, nên mẹ Ngài là Hoàng Thái Hậu. Chúa Kitô là Vua với tư cách Thiên Chúa, nên Mẹ Ngài là ‘Nữ Vương’ bởi “huyết thống thần linh” trong tư cách Mẹ Đức Chúa Trời. Mẹ là ‘Nữ Vương’ bởi sự lựa chọn duy nhất của Chúa Cha. Nếu một người bình thường có thể trở thành vua hoặc nữ hoàng nhờ sự lựa chọn của dân chúng, thì sự lựa chọn của chính Chúa Cha còn vĩ đại hơn biết bao! “Phẩm giá vương giả của Maria phát xuất từ sự gắn bó độc nhất với Chúa Kitô, Con của Mẹ, Vị Vua thần linh!” - Bênêđictô XVI. Vương vị của Mẹ phát sinh từ vương vị của Con.

Đức Phanxicô trích dẫn Thánh Kinh ba lần để chứng tỏ Vương Quyền của Mẹ. Lời các ngôn sứ về Đấng Cứu Thế xem ra đều nói về một vị Vua, chẳng hạn, “Người sẽ mở rộng quyền bính, lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít” - bài đọc một. Trong cuộc Truyền Tin, dù chỉ là một ‘nữ tỳ’, Mẹ được sứ thần báo trước về ngai vàng của Đấng Mẹ cưu mang, “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người!”. Sau cùng, vương vị của Mẹ được tìm thấy trong Khải Huyền, “Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”; miêu tả Mẹ là ‘Nữ Vương mới’ chia sẻ quyền quản cai vũ trụ với Chúa Con. “Maria là Nữ Vương vì Mẹ là Mẹ của Vua các vua!” - Piô XII.

Anh Chị em,

“Triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận!”. Là Mẹ của Đấng vô cùng vô tận, nhưng Đức Maria cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. “Mẹ là người đầu tiên lãnh nhận trọn vẹn ân sủng, và là người luôn chuyển cầu cho chúng ta bằng trái tim của một người Mẹ!” - Lêô XIV.  “Hãy gõ cửa nhà Mẹ! Chúng ta không được tưởng tượng Đức Maria ‘như một bức tượng sáp bất động’, nhưng nơi Mẹ, chúng ta có thể nhìn thấy một ‘người chị’ với đôi dép mòn cùng biết bao mệt nhọc!” - Phanxicô. Riêng Fulton Sheen thì hài hước, “Chúa sẽ chào đón một người trên thiên đàng bằng những lời này: ‘Mẹ tôi nói rất tốt về bạn!’”. Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội “không trao cho Nữ Hoàng cái tốt nhất!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ Maria, ‘Nữ Vương’ uy phép nhưng cũng là ‘Nữ Tỳ’ khiêm hạ, đừng để con vất vưởng như con mồ côi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)