8. Đời Sống Tâm Linh

Trên đường về

Trên đường về với Chúa, tôi đã bao lần cất cánh bay lên, nhưng có mưa phùn làm đôi cánh lạnh giá.

Ðã bao lần tôi muốn đi tới, nhưng lối về có gai góc cản ngăn.

Ðã bao lần muốn giang tay ra, cho đi nhiều hơn, nhưng có nuối tiếc bảo đừng.

Vì thế, trong mơ ước có gian nan. Và, trên đường về với Chúa vẫn là khúc đường xa xăm.

* * *

Trong cuộc sống, những giấc mơ chưa trọn vẹn là những giấc mơ buồn. Vì không trọn vẹn nên mới buồn. Nhưng đặc tính của những giấc mơ buồn lại thường là những giấc mơ lớn. Vì lớn nên mới khó trọn vẹn. Bởi đó, cái buồn của giấc mơ không trọn vẹn dường như vẫn là cái buồn giá trị, giá trị vì nó mang một hoài bão rất cao.

Cái không trọn vẹn đó thúc bách, mời gọi đi tới. Con đường tình yêu không bao giờ có giới hạn thì giấc mơ tình yêu không bao giờ cùng. Do đấy, sự chưa được trọn vẹn trong ước mơ đi về với Chúa là sự chưa trọn vẹn dễ hiểu trong thân phận làm người của tôi nơi trần thế này. Ðường tình yêu càng dài thì giấc mơ tình yêu càng sâu. Tình yêu càng sâu thì trên đường ấy, tôi cần miệt mài đi mãi.

Trên đường về với Chúa, tôi chỉ hỏi lòng tôi là tôi đã đi xa tới đâu, đã bay cao thế nào. Chứ không thể có câu hỏi tôi đã yêu Chúa trọn vẹn chưa. Từ ngàn xưa, Ngài đã biết hồn tôi là dang dở, những lời thề của tôi là những lời đoan hứa dập gẫy. Bởi đấy, tôi không thể yêu Ngài trọn vẹn nhưng Ngài đòi tôi đi về trọn vẹn.

Trọn vẹn là một mơ ước. Dang dở vì chưa trọn vẹn có chiều sâu của nó là nó làm cho mơ ước tiếp tục còn là ước mơ. Tôi có thể cầu Chúa cho tôi đạt được mọi mơ ước không? Khi đạt được mọi mơ ước rồi thì tôi không còn mơ ước nữa. Không còn mơ ước thì còn gì để mà đi tới, còn gì để mà bay lên. Trong ý nghĩ ấy, đường về với Chúa nếu còn dang dở chỉ là lời gọi tôi đi tới. Mỗi lần sa ngã chỉ là bảo tôi nhìn lên cao. Tôi không thất vọng vì chưa đạt được mơ ước.

Mơ ước đã được rồi là hạnh phúc đã được đóng khung trong một bến bờ. Tôi muốn thứ hạnh phúc vô cùng. Tôi muốn hoài hoài mơ ước. Tôi muốn vào một không gian hạnh phúc mà càng bay cao thì càng bắt gặp trời thênh thang tự do. Càng bắt gặp thì càng si mê, càng si mê thì càng nuôi mộng đi tới nữa. Tôi tin rằng hạnh phúc ấy có thật. Ðó là chính Chúa. Bởi tôi biết, tôi không bao giờ uống cạn được ân sủng của trời cao. Vì thế, tôi không xin cho tôi đạt được điều tôi mơ ước mà chỉ xin cho tôi được mãi mãi, hoài hoài đi về Ngài, sống trung thành với mơ ước đó thôi.

Và vì thế, linh hồn tôi có vì bất toàn mà lầm lỗi, thì đấy chẳng thể là lý do làm tôi thất vọng, xuôi lòng. Trên đường về nhà Cha, nếu vì yếu đuối mà dừng nghỉ. Thì, đường về nhà Cha có xa xăm thật. Xa xăm ấy vẫn là xa xăm có Chúa. Nếu vì sa ngã mà làm cho giấc mơ gian nan. Thì, đường về nhà Cha có gian nan thật, gian nan ấy vẫn là gian nan ấm lòng.

* * *

Lạy Cha,

Cha cầu xin cho con không thuộc về thế gian, nhưng Cha đã chẳng đem con ra khỏi thế gian. Ngày nào con còn trong thế gian thì con còn nghe thấy tiếng dỗ dành của những rung cảm đam mê. Từ trong bào thai của mẹ, con đã là lỗi phạm. Con có thể vấp ngã vì bóng đêm, nhưng con có thể không thuộc về đêm tối. Con không thất vọng vì những đám mưa phùn làm con ướt cánh. Con không ủ dột vì bờ đá chênh vênh giữ chân con đi tới. Vì con biết, khi Cha dìu con, thì tình trời sẽ sưởi ấm chiều mưa lạnh ảm đạm, và ân sủng sẽ gieo trên gai nhọn. Khi Cha dìu con thì ước mơ sẽ nên tha thiết, và dù có vất vả cánh ong vẫn bay về được với mật ngọt của hoa. Khi Cha dìu con thì con có thể trung thành. Khi Cha dìu con thì thánh giá sẽ là sức sống.

Lạy Cha,

Ðấy là mơ ước và cũng là lời cầu nguyện của con trên đường về.

Có giấc mơ nào đẹp mà không phải trả giá bằng thương đau? Có giấc mơ nào lớn mà không phải trả giá bằng thử thách? Có thập giá nào lên đồi Golgotha mà không quỵ ngã? Có chiều nào trong vườn Giệtsimani mà không lo âu rướm máu. Những áng mây trời chỉ bay trên đỉnh đồi. Gió lộng chỉ ở ngoài biển khơi. Tôi phải đi lên. Tôi phải miệt mài bước tới. Và Ngài đã nói với tôi: “Cha ở cùng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28: 20).

Tiếng gọi của trời cao là bảo tôi trung thành với ước mơ. Cho dù lầm lỗi có làm tôi đau khổ vì mất giá trị nhưng chẳng vì thế mà Người chê trái tim tôi nghèo nàn xấu xí. Ðôi cánh con chim sẻ sẽ chẳng bay cao được như con phượng hoàng. Nhưng một ly nước nhỏ mà đầy thì ý nghĩa hơn một ly nước lớn mà vơi.

Dù có yếu đuối cản đường. Dù có lầm lẫn che lối. Dù ngày tôi chết, tôi vẫn chưa leo được tới nửa đồi của thập giá, nhưng nếu tim tôi vẫn hồng lửa ước mơ, hồn tôi vẫn vất vả đi tìm cõi vô biên thì đấy là đường mở lối vào vườn hạnh phúc rồi.

Cha trên trời sẽ chạnh lòng khi thấy một con chiên què mà cứ xiêu vẹo trèo lên. Cha trên trời sẽ chạnh lòng khi thấy một đôi cánh đang lầm than vì gió lạnh, mưa ướt, mang thương tích vì gai rậm mà cứ nhất quyết tìm đường về. Và vì đó, dù trong yếu đuối của tôi, tôi vẫn thấy biển rộng, trong dòng xót thương của Cha, tôi tới đồi cao.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

Thời Gian

Thiên Chúa là Alpha và Omega. Ngài là khởi nguyên và tận cùng (Kn. 22: 13). Ðiều ấy có thể diễn tả cách khác, Thiên Chúa là thời gian. Nhưng Thiên Chúa là thời gian trong ý nghĩa Thiên Chúa làm chủ thời gian chứ không phải thời gian là Thiên Chúa. Thời gian chỉ hiện hữu trong sự hiện hữu của Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa hiện hữu trong thời gian. Hiểu như vậy, thì ai sống trong Thiên Chúa mới thật sự sống trong thời gian. Còn sống trong thời gian chưa phải là sống trong Thiên Chúa.

* * *

Thiên Chúa là Alpha và Omega. Thánh Yoan còn định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Jn. 4: 16). Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình yêu. Như thế, thời gian và tình yêu song hành là một. Tôi sống trong Thiên Chúa là sống để yêu. Và sống trong thời gian là yêu để sống. Thời gian không có tình yêu sẽ thành lạnh lùng nghĩa trang, là củi mục buồn nản. Tình yêu ý nghĩa hóa và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó, kẻ đang yêu là người sống trong thời gian với đắp đầy niềm vui êm ả. Kẻ biết yêu là người biết nhìn thời gian như dòng ngọc bạc. Và kẻ sống trong Thiên Chúa là người phải biết quý thời gian.

* * *

Chúa dựng nên tôi bằng thời gian. Chúa cứu rỗi tôi bằng thời gian. Tôi sẽ gặp Chúa bằng thời gian. Thời gian là tất cả, bởi đó tôi nên dành cho thời gian một suy tư của tôi về cuộc sống.

Nói về thời gian thì sách Giảng Viên trong Kinh Thánh viết như sau:

Có thời để sinh – có thời để chết
Có thời để trồng – có thời để nhổ
Có thời để giết chết – có thời để chữa lành
Có thời để phá – có thời để xây
Có thời để khóc – có thời để cười
Có thời để than van – có thời để múa nhảy
Có thời để quăng – có thời để lượm
Có thời để ôm – có thời để xa nhau
Có thời để tìm kiếm – có thời để thất lạc
Có thời để gìn giữ – có thời để vất đi
Có thời để xé – có thời để khâu
Có thời để nín thinh – có thời để lên tiếng
Có thời để yêu – có thời để ghét
Có thời giặc giã – có thời bình an
(Giảng viên 3: 2-8)

Có thời quăng đi, có thời lượm lại. Có thời than van, có thời nhảy múa. Ðó là những lời hứa, thế nhưng khi nào được lượm lại, khi nào được nhảy múa. Thực tế trong cuộc sống có quá nhiều chịu đựng gian nan. Có những cơn bệnh kéo dài của thân xác, có những nặng nề năm tháng của tâm hồn. Nó là những đường hầm dài hun hút khổ đau. Tiếng thở dài của con người vẫn là: Khi nào tôi mới qua khỏi tháng ngày bất hạnh này.

Những lời nói về thời gian của sách Giảng Viên trong Cựu Ước có lẽ đã được Chúa Yêsu cắt nghĩa trong bài giảng trên núi. Tin Mừng thánh Luca ghi như sau: “Phúc cho các ngươi, khi thiên hạ oán ghét các ngươi, khi họ loại các ngươi đi cùng sỉ mạ, khi họ khử trừ tên các ngươi như đồ xấu xa vì cớ Con Người. Hãy vui sướng trong ngày ấy, hãy nhảy mừng, vì này: phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lao” (Lc. 6: 20-26).

Nếu tôi phải quăng đi vì đức tin, sẽ có ngày tôi được Ngài đưa về với triều thiên. Nếu có thời tôi bị xé rách vì đức tin, sẽ có thời tôi được Ngài khâu lành bằng ơn sủng. Nếu có ngày tôi bị khóc than vì đức tin, sẽ có ngày Ngài đưa tôi vào dự tiệc Nước Trời.

Nếu lấy thời gian để xây đắp cho riêng tôi, sẽ có thời gian tôi bị vứt sạch khi Nước Trời đến. Nếu lấy thời gian để kiếm tìm cho riêng tôi, sẽ có thời gian tôi bị lạc lõng khi Nước Trời đến. Nếu lấy thời gian để ôm ấp cho riêng tôi, sẽ có thời gian tôi phải xa nhau khi Nước Trời đến.

Mầu nhiệm của thời gian và biến cố trong cuộc sống
Ðêm Giáng Sinh nối kết với đêm tử nạn trong mộ đá sâu. Ðể rồi một thời trong mộ đá sâu dẫn tới một thời Phục Sinh bừng sống. Có ngày than van vì đức tin thì hãy trông ở đằng trước, sẽ có ngày ủi an. Và cũng để nhắc nhở, nếu có thời chỉ yêu riêng đời mình thì hãy thận trọng vì có ngày chua cay. Ðau thương của tháng ngày bị xé rách ẩn trong tháng ngày được khâu lành. Ðó là huyền nhiệm của thời gian.

Con người không làm chủ được thời gian. Tôi chẳng thể biết những gì sắp xẩy ra ở tương lai. Ðiều này ảnh hưởng đến niềm tin của tôi. Vì không nắm chắc nên có lo âu, nghi ngờ. Nhưng làm sao tôi hiểu được ý định của Thiên Chúa từ alpha đến omega, từ khi chưa có mặt trời đến vô cùng mờ mịt hư vô. Phải chăng vì thế, thánh Yoan đã củng cố niềm tin của tôi khi Ngài bảo tôi rằng hãy nhớ từ nguyên thuỷ đến tận cùng Thiên Chúa mãi mãi là yêu thương (1 Yn. 4: 16).

Tôi không biết được thời gian. Ðời là những biến cố. Có những biến cố hôm nay mới trả lời cho biến cố mà tôi đã chẳng hiểu trong quá khứ. Ðiều ấy cũng hàm ý, biến cố hôm nay có thể chỉ trọn nghĩa khi tôi chờ sống trọn biến cố ngày mai. Nếu biết được thời gian, tôi chẳng còn niềm tin nữa. Ðã biết rồi, còn gì để tin. Tâm sự của một người thao thức lo âu về tương lai, có lẽ cũng là tâm sự của một cây hồng.

Câu chuyện bắt đầu thế này:

Có một cây hồng được trồng trong thửa vườn, tôi tạm gọi đó là khu vườn cuộc đời. Ngày ngày người làm vườn vun sới. Ông nhổ cỏ, chăm sóc từng cánh lá. Cây hồng dần dần vươn lên trong dáng thèm muốn của khóm cúc, buồn tủi của đám lau sậy.

Chẳng bao lâu, cây hồng trổ bông. Hôm nay, mảnh vườn rực sắc vì cái thẫm đỏ của một loại hồng quý. Khách qua đường ai cũng trầm trồ khen ngợi. Cây hồng hãnh diện làm sao.

Năm tháng đong đưa chảy theo đời. Rồi đến một ngày, ngày mà lời Kinh Thánh nói: Có thời để khoe sắc, cũng có thời để tang thương. Người làm vườn đã từ lâu lắm rồi suy nghĩ. Ông biết nhân gian sẽ tiếc mầu thẫm đỏ. Ông biết nhân gian sẽ nhớ những giọt sương sáng long lanh trên cánh hồng. Nhưng ông đã quyết định chặt gốc hồng!

Sau cùng, những nhát dao định mệnh đã bổ xuống. Chỉ ngày hôm sau thôi, khách qua đường không còn thấy dập dờn trong gió một loài hồng qúy nữa. Một con nắng mùa hạ trôi qua. Những cánh hồng, hôm qua rực rỡ, hôm nay còn đâu. Nhân gian thương tiếc dáng hồng thủa xưa, và có lời than trách: Hỡi người làm vườn kia ơi, sao lại chặt một loài hồng quý?

Riêng người làm vườn hiểu rằng có một thời để xanh, thì cũng có một thời để khô héo. Có một thời để giết chết, cũng có thời để chữa lành.

Trước nhát dìu, cây hồng chẳng hiểu được đời mình.

Ông làm vườn đoan hứa rằng tất cả vì quý mến mà ông ta săn sóc cây hồng, tại sao ông lại chặt nó? Cây hồng nằm khô như những khúc củi khác. Giống như cái vinh quang rực rỡ của Chúa Kitô trong ngày biến hình trên núi đã hết rồi. Bây giờ là cây khổ giá buồn hiu. Và kẻ qua đường không muốn ngó nhìn.

Người làm vườn đem khúc gỗ hồng về treo trên gác bếp. Từ đó, khúc gỗ nằm lặng lẽ lãng quên trong gác bếp tối tăm. Bụi khói bám vào làm nghẹt thở đời nó. Nhớ về mảnh đời đã qua, còn đâu những buổi sáng long lanh. Khúc gỗ hồng lặng im thương nhớ đời mình.

Không biết bao lâu trong cái lặng lẽ ấy. Vẫn cái huyền nhiệm của thời gian là thế. Rồi đến một ngày. Lửa nóng đã làm hong khô, người nghệ sĩ đem khúc gỗ hồng khô ra đẽo gọt. Khúc gỗ đau đớn oán than. Ðã chết rồi thân xác cũng chẳng được nghỉ yên.

Có lẽ đau đớn hơn cả là khi người làm vườn hì hục nung đỏ mũi khoan rồi dùi thủng từng chiếc lỗ trên thân khúc gỗ. Mỗi lần mũi khoan đỏ cắm vào sớ thịt, khói xẹt bay lên cay mắt. Ðúng như có ngày bình yên thì cũng có ngày tan tác.

Rồi cũng đến một ngày. Vẫn cái huyền nhiệm của thời gian là thế. Những lát dao đã xong, khúc gỗ khô biến hình dần dần thành cây sáo trong tay người nghệ sĩ.

Và rồi cũng lại đến một ngày, lại một ngày nữa huyền nhiệm trong đời. Một ngày vô cùng trang trọng của người nghệ sĩ. Ngày đó, người nghệ sĩ đứng giữa trời đất bao la, nâng cây sáo hồng lên môi hôn. Cây sáo run lên xúc cảm, nó thấy đôi môi bát ngát của người nghệ sĩ đưa nó vào một thế giới vô cùng mênh mông. Với cả hồn người nghệ sĩ, một hơi ấm từ đôi môi người nghệ sĩ ấy kề bên khúc sáo hồng, để rồi một bài ca huyền diệu nhè nhẹ đẩy gió vươn vào thinh không.

Bấy giờ cây hồng mới hiểu vì sao nó đã bị chặt gẫy. Nó mất đi cái dáng hoa tuy có lời khen của khách qua đường nhưng sớm nở tối tàn. Giờ đây nó luôn luôn trong bàn tay người nghệ sĩ đi khắp vũ trụ. Từ nó, hôm qua, hôm nay, rồi mãi mãi ngàn sau, cứ đẩy gió đi vào thinh không để ru đời bằng ngàn bài ca vô tận.

* * *

Lạy Chúa,

Không thể coi thường thời gian thì con phải có thái độ nào đối với thời gian?

Thái độ đúng nhất là hãy yêu thời gian. Không có thời gian con không hiện hữu. Bởi đó, tất cả mục đích mà thời gian ban tặng là gọi con đi tới, là hãy sống, hãy quý trọn vẹn từng mẩu thời gian.

Ðặc tính của thời gian là không bao giờ chết. Thời gian vĩnh cửu. Bởi thế, con không giết được thời gian nhưng là thời gian giết con. Khi người ta “giết thời giờ” là lúc thời giờ đang giết họ. Nếu bản tính của thời gian đối với con là sự sống thì bất cứ hành vi nào làm phí phạm thời gian là hành vi xúc phạm đến sự sống, một tặng phẩm cao quý mà Chúa đã ban tặng con.

Cánh hoa làm cho cây hồng đẹp đấy, nhưng sớm nở tối tàn. Nó chỉ lẩn quẩn trong góc vườn chật hẹp. Nó có ngờ đâu khi rũ sắc đó để người nghệ sĩ biến mình thành cây sáo tre, nó đã thênh thang vũ trụ và ru đời.

Con chẳng nhìn rõ được tương lai. Xin cho con hiểu những quãng thời gian huyền nhiệm là sự khôn ngoan và quan phòng của Chúa săn sóc cho con. Mọi biến cố xẩy đến trong cuộc sống của con đều đến từ định nghĩa: Chúa là Tình Thương (1 Jn. 4:16) từ khởi nguyên cho đến tận cùng (Kn. 22: 13).

Lm. Nguyễn Tầm Thường

Nguồn: Đạo Binh Đức Mẹ www.daobinh.com

 

KHIÊM NHƯỜNG: NỀN TẢNG CỦA SỰ THÁNH THIỆN

Để chúng ta thực sự lớn lên trong sự thánh thiện, nhân đức quan trọng nhất là bác ái - một tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Nhưng bên cạnh nhân đức bác ái đối thần là nhân đức khiêm nhường. Theo một nghĩa nào đó, chúng là hai trụ cột hay hai viên đá nền tảng cho những người thực sự theo đuổi một đời sống thánh thiện đích thực.

Đối với vị thánh nữ vĩ đại Tiến sĩ Hội thánh, Tiến sĩ Cầu nguyện, Thánh Têrêsa Avila, khiêm nhường đơn giản là Sự Thật. Đó là nhận thức được chúng ta thực sự là ai từ quan điểm thiêng liêng, từ con mắt của Thiên Chúa, Tác giả của mọi sự thật. Trên thực tế, phẩm giá của chúng ta cao cả - được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa và qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được biến đổi thành biểu tượng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Định mệnh của chúng ta không thể diễn tả bằng lời - được hiệp nhất với các thiên thần và các thánh trên thiên đàng để ngợi khen Chúa Ba Ngôi đến muôn đời. Tuy nhiên, vì bị sinh ra trong tội nguyên tổ, có dục vọng và là tội nhân nên con người mang bản chất thực sự sa ngã.

Thật vậy, một người thực sự khiêm nhường nhận ra hết sức rõ ràng rằng tất cả những điều tốt lành mà họ đã làm và có khả năng làm là kết quả của quyền năng Chúa, của ân sủng và lòng tốt lành của Chúa trong cuộc sống của họ. Mặt khác, người khiêm nhường thừa nhận rằng tất cả những thất bại của họ, đặc biệt là trong lĩnh vực đạo lý, tội lỗi là do họ lạm dụng các khả năng mà Chúa đã ban cho họ.

Do đó, chính vì sự khiêm nhường là điều tối quan trọng, chúng ta hãy cố gắng theo đuổi nhân đức này trong cuộc sống của mình; chúng ta hãy cố gắng đạt được nhân đức đó và để cho nhân đức ấy cắm rễ sâu vào chính trung tâm cõi lòng của chúng ta. Cầu mong cho lời nói, hành động, việc làm và ý định của chúng ta luôn được hấp thụ và thấm nhuần tinh thần khiêm nhường thực sự.

Tất nhiên, Chúa Giêsu và Mẹ Maria là mẫu mực của chúng ta. Thật vậy, cả Chúa Giêsu và Mẹ Maria đều là những người thánh thiện nhất từng sống trên trần thế, nhưng cũng là những người khiêm hạ nhất. Chỉ một lần Chúa Giêsu mô tả các phẩm tính của Thánh Tâm Ngài - Trái Tim Ngài vừa hiền lành vừa khiêm nhường. Ước gì lời cầu nguyện vang vọng trong sâu thẳm trái tim chúng ta là lời cầu nguyện về sự khiêm hạ vĩ đại của Trái Tim Chúa Giêsu: LẠY CHÚA GIÊSU HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG TRONG LÒNG, XIN UỐN LÒNG CHÚNG CON NÊN GIỐNG TRÁI TIM CHÚA.

Phần sau đây là những bước đi nhất định mà chúng ta có thể thực hiện để đạt được nhân đức cao cả nhất này, nhân đức khiêm nhường.

CÁC BƯỚC CHIẾN LƯỢC ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC NHÂN ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG CAO CẢ

  1. Hãy trân trọng giá trị của nhân đức khiêm nhường. Chúng ta sẽ không bao giờ có thể đạt được bất cứ điều tốt đẹp nào trong cuộc sống của mình nếu chúng ta không thấy giá trị và sự đáng giá của nhân đức khiêm nhường. Những kẻ keo kiệt theo đuổi vàng bạc; những kẻ hão huyền theo đuổi những hư danh trong lòng, và những kẻ nhục dục theo đuổi khoái lạc xác thịt. Tại sao? Bởi vì họ coi những thứ này là có giá trị - mặc dù chúng là ngẫu tượng và là giá trị giả. Chúng ta phải xem và đánh giá cao sự khiêm nhường có tầm quan trọng lớn nhất trong tòa nhà thánh thiện và là nền tảng cho sự thánh thiện. Nếu không, việc theo đuổi sự thánh thiện trong đời của chúng ta sẽ bị xây dựng trên cát và sụp đổ nhanh chóng!
  1. Những kẻ ăn xin trước mặt Thiên Chúa. Thánh Augustinô, được trích dẫn trong Giáo lý của Giáo hội Công giáo, khẳng định rằng tất cả chúng ta đều là những người ăn xin trước mặt Chúa. Chúng ta rất cần Chúa trong mọi sự; chúng ta phụ thuộc vào Ngài trong mọi việc. Đặc biệt nhất là chúng ta cần có Chúa để sống cuộc đời nhân đức và từ bỏ tính kiêu căng - trái ngược với đức khiêm nhường - trong mọi mức độ và hình thức. Chúa Giêsu truyền lệnh cho chúng ta: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7:7) Còn lời cầu nguyện của chúng ta là gì? Lạy Chúa, xin ban cho con hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
  1. Ngoan ngùy khi được hướng dẫn tâm linh. Tất cả chúng ta đều có những điểm mù trong cuộc sống và đặc biệt là trong đời sống tâm linh. Một vị linh hướng được đào tạo tốt lành sẽ giúp chúng ta rất nhiều trên Con Đường Lên Thiên Đàng.
  1. Vâng lời khi được hướng dẫn. Điều đó có nghĩa cụ thể là trong khi được hướng dẫn chúng ta phải đủ khiêm tốn để vâng lời Vị hướng dẫn, là kênh đem lại Sự thật và Ân sủng của Thiên Chúa. Không còn nghi ngờ gì nữa, một trong những dấu hiệu cho thấy sự thánh thiện đích thực của Thánh Faustina Kowalska là sự ngoan ngoãn và vâng phục của chị khi được hướng dẫn tâm linh. Nếu không có sự vâng lời, thì thực sự không có sự phát triển trong sự khiêm nhường và sự thánh thiện bị ngăn chặn và cản trở.
  1. Chấp nhận sự sửa dạy của anh em. Điều này thực sự nhức buốt, nhưng cần thiết cho sự trưởng thành tâm linh và sự trưởng thành của chúng ta trong sự khiêm nhường: chấp nhận sự sửa dạy của anh em. Thông thường, do lòng kiêu hãnh bẩm sinh của chúng ta, khi ai đó chỉ ra điều gì đó trong cuộc sống của chúng ta cần phải sửa chữa, chúng ta nổi giận, lùi lại trước sự sửa dạy đó, và đôi khi chúng ta quay cổ lại tấn công trực diện để phòng thủ. Chúng ta chỉ đơn giản là chống lại việc những thiếu sót của chúng ta bị chỉ ra - điều này là do sự tự hãnh thái quá. Thánh Đaminh Savio đã làm bạn với một cậu bé khác trong Nguyện Đường Thánh Gioan Bosco. Saviô nhất quyết yêu cầu bạn mình phải thẳng thắn chỉ ra cho mình những thất bại của mình để Saviô có thể thăng tiến trong sự thánh thiện. Trước khi lên 15 tuổi, Saviô đã đạt được nhân đức anh hùng và sự thánh thiện.
  1. Chấp nhận sự sỉ nhục. Có lẽ còn khó hơn cả việc chấp nhận sự sửa dạy của anh em là sẵn sàng chấp nhận những sỉ nhục giáng xuống chúng ta. Dù muốn hay không chúng ta cũng sẽ nhận lấy những sỉ nhục. Cơ hội ngàn vàng của chúng ta chính là lúc Chúa cho phép chúng ta bị hạ nhục. Khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là trả đũa. Còn phản ứng của các thánh khi lãnh nhận một nhục hình là im lặng, cầu nguyện cho kẻ xúc phạm và hiệp nhất sự nhục nhã của mình với những nhục nhã của Chúa Giêsu mà Ngài đã trải qua trong cuộc Khổ nạn cay đắng, tàn nhẫn và ô nhục. Nếu không có ân sủng của Thiên Chúa thì điều này là không thể, nhưng với Thiên Chúa thì tất cả đều có thể!
  1. Bác ái và phục vụ. Đây là một bước ngoặt thú vị: bác ái và phục vụ như những cánh cổng dẫn đến sự khiêm nhường. Thật vậy, mỗi khi chúng ta đặt mình phục vụ người khác, thực hành bác ái và yêu thương người khác, thì đồng thời chúng ta cũng lớn lên trong sự khiêm nhường. Thật ra, khi chúng ta thực hành lòng bác ái - tình yêu thương siêu nhiên dành cho Thiên Chúa và người lân cận - thì chúng ta phát triển tất cả các nhân đức khác, và điều đó bao gồm cả nhân đức khiêm nhường. 
  1. Hãy suy niệm ba chiều kích trong cuộc đời Chúa Giêsu: biểu lộ sự khiêm hạ lớn lao của Ngài:
  1. Sự nhập thể của Ngài. Việc Chúa Giêsu, Ngôi Hai của Thiên Chúa Ba Ngôi, thực sự mặc lấy xác phàm và làm người là một bước nhảy vĩ đại của sự hạ mình và khiêm nhường. Thiên Chúa làm người để chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa.
  2. Cuộc khổ nạn của Ngài. Tất cả các yếu tố và chi tiết về cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô và Đấng Cứu Độ chúng ta đều biểu lộ một sự khiêm hạ đáng kinh ngạc và đáng chú ý. Tuy nhiên, bạn có thể chỉ suy niệm về mão gai của Chúa Giêsu - Mầu Nhiệm Thứ Ba mùa Thương của Chuỗi Mân Côi. Những lời nhạo báng, mỉa mai và lăng mạ, bị bịt mắt, bị đấm và bị đánh vào mặt, bị giật râu, khạc nhổ vào mặt Ngài, và quan trọng nhất: bị đội mão gai sắc nhọn. Trong tất cả những điều này, theo lời của Tiên Tri Isaia, Ngài giống như một con cừu hiền lành, im lặng bị dẫn đến lò sát sinh. Bằng cách suy gẫm về Cuộc Thương Khó của Chúa Kitô, lòng kiêu hãnh của chúng ta sẽ chìm xuống vực sâu.
  3. Chúa Giêsu trong Thánh lễ và hiện diện trong Thánh Thể. Nhiều người Công giáo bỏ dự Thánh lễ Chúa nhật. Nhiều người lại coi Thánh lễ là điều đương nhiên. Nhưng vẫn còn những người khác đón rước Chúa Giêsu trong tình trạng tội trọng, vì thế đóng đinh Ngài một lần nữa. Tựu chung, Chúa Giêsu, hiện diện trong Nhà Tạm, bị lãng quên, bị bỏ rơi và bị bỏ quên trên khắp thế giới. Tất cả những điều trên là nguồn sỉ nhục đâm thủng và xuyên thấu Chúa Giêsu, Chúa của các chúa, Vua của các vua, Người yêu vĩ đại nhất trong mọi Người yêu.
  1. Nhận thức về tội lỗi quá khứ và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Khi chúng ta bị cám dỗ tự cao tự đại, điều đó có thể rất thuận lợi và có ích cho sự tăng trưởng tâm linh của chúng ta trong sự thánh thiện và khiêm nhường để nhớ lại rằng nhiều lần chúng ta đã không làm theo Chúa Giêsu và bị xấu hổ sau những hành động này. Thật vậy, nói một cách nhẹ nhàng thì điều này có thể giữ cho chúng ta khiêm nhường, rất khiêm nhường!

 

  1. Mẹ Maria: gương mẫu thánh thiện và khiêm nhường. Trong số tất cả các thụ tạo của Chúa cho đến nay, Mẹ Maria là người vĩ đại nhất. Nhưng Mẹ cũng là người khiêm tốn nhất trong tất cả phụ nữ. Những lời nói của Mẹ thể hiện sự khiêm nhường tuyệt vời của Mẹ: “Tôi là nữ tỳ của Chúa… Linh hồn tôi vui mừng trong Chúa, Đấng Cứu Độ của tôi, vì Ngài đã đoái thương phận hèn tôi tớ Ngài… Vâng, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói…” Vài lời mà chúng ta có về Mẹ Maria trong Kinh Thánh làm nổi bật đặc biệt sự thánh thiện cao vời của Mẹ Maria, nhưng nhất là sự khiêm hạ của Mẹ.

Một lời cuối cùng để tăng trưởng trong sự khiêm nhường. Một trong những phương thế hữu hiệu nhất mà nhờ đó chúng ta có thể lớn lên trong sự khiêm nhường là đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể khi Rước Lễ với sự chuẩn bị tốt nhất. Khi rước Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta nên nài xin Ngài ban Trái Tim Ngài cho chúng ta và nói một cách sốt sắng và tin tưởng: “Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin làm cho trái tim con nên giống Trái Tim Chúa.” Đây thực sự là con đường tắt dẫn đến cả sự thánh thiện lẫn sự khiêm hạ sâu xa của cõi lòng.

Lạy Chúa, chúng con thường biến cõi lòng mình thành ngôi nhà của sự kiêu ngạo, tự hãnh và tham lam hơn là ngôi nhà của tình yêu và lòng tốt, nơi Chúa có thể cảm thấy là nhà của Chúa. Xin hãy phá hủy đền thờ tội lỗi trong chúng con, xua đuổi mọi điều ác ra khỏi tâm hồn chúng con và làm cho chúng con trở thành những viên đá sống động của một cộng đoàn nơi đó Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, có thể sống và trị vì mãi mãi. Amen

 

Tác giả: LM Ed Broom, OMV.

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.

https://catholicexchange.com/humility-the-cornerstone-of-holiness/?mc_cid=28c629c026&mc_eid=f6dbaa40f3

Tha nợ

Một hôm các môn đệ đến phân bì với Chúa là Yoan dậy môn đệ của ông ta cầu nguyện, còn Thày, xin Thày cũng dạy chúng con cầu nguyện đi. Từ ngày đó kinh Lạy Cha đã ra đời. Ðó là kinh mà chính Chúa đã dạy các môn đệ (Lc. 11:1-3). Chẳng biết lúc đó các môn đệ có hiểu lời kinh ấy không mà chẳng thấy các môn đệ thắc mắc gì cả. Rồi từ đó dọc theo lịch sử hai nghìn năm, người ta cứ đọc kinh ấy mãi cho đến hôm nay. Vì tính cách quan trọng nên kinh ấy được đưa vào thánh lễ. Mỗi lần dâng lễ, tôi lại trịnh trọng giang tay nói với toàn thể cộng đồng: “Theo lời Người dạy chúng ta hãy nguyện rằng.” Rồi cả nhà thờ vang lên lời kinh đó. Trong lời kinh có một câu thế này: “Xin Cha tha nợ cho chúng con cũng như chúng con tha kẻ có nợ chúng con” (Mt. 6: 12).

Thế là chết tôi rồi! Tôi ký với Chúa một giao kèo hay sao. Tại sao tôi không xin Chúa tha cho tôi theo lòng thương xót của Chúa chứ đừng giống như sự hẹp hòi của tôi. Rõ ràng tôi bảo Chúa cứ tha cho tôi giống như là tôi tha cho người khác. Chúa cứ việc nhìn vào tôi như mẫu mực mà thi hành.

* * *

Ðâu là mẫu mực của tôi? Thánh Matthêu kể:

Nước Trời giống như một vua kia tính sổ với bầy tôi. Nhà vua vừa khởi sự tính sổ thì người ta điệu đến một người nợ một ngàn nén vàng. Y không có gì để trả nợ nên nhà vua ra chỉ thị bán y và vợ con sản nghiệp thay thảy để trả nợ. Vậy người bầy tôi phục xuống bái lạy mà rằng: “Xin Ngài nán lại cho tôi với, thần sẽ trả hết.” Nhưng tôn chủ của bầy tôi ấy chạnh lòng thương, đã thả y về và tha bổng cả món nợ. Ði ra, người bầy tôi ấy gặp một người bạn đồng nghiệp mắc nợ y một trăm đồng bạc. Y liền bóp cổ chận họng mà rằng: “Nợ đâu, trả đây.” Người bạn đồng nghiệp phục xuống nài van y rằng: “Xin ông nán lại cho tôi với, tôi sẽ trả!” Nhưng y không chịu, lại đi bỏ tù, cho đến khi nào nó trả nợ xong. Vậy các bạn đồng nghiệp thấy sự xảy ra thì rất đỗi buồn phiền mà đi phân trần đầu đuôi mọi sự xảy ra với tôn chủ họ. Bấy giờ, tôn chủ cho điệu y đến bảo rằng: “Tôi tớ bất lương, ta đã tha bổng cho người tất cả món nợ ấy, chỉ vì ngươi đã nài xin ta! Há ngươi không phải thương xót bạn đồng nghiệp ngươi sao, như chính ta đã thương xót ngươi?” Thịnh nộ, tôn chủ của y đã trao y cho lý hình cho đến khi nào y trả xong tất cả những gì mắc nợ với ông. Cha Ta, Ðấng ngự trên trời, sẽ xử với các ngươi như thế, nếu các ngươi mỗi người không thật lòng tha cho anh em mình” (Mt. 18: 23-35).

Nếu mẫu mực của tôi như thế thì chết tôi rồi. Tôi chỉ xin Chúa tha cho tôi giống như tôi tha cho người khác.

* * *

Sau kinh Lạy Cha. Phúc Âm Matthêu kết luận như sau: “Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ sai lỗi, thì Cha các ngươi, Ðấng ở trên trời, cũng sẽ tha cho các ngươi; nhược bằng các ngươi không tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha thứ điều các ngươi sai lỗi” (Mt. 6: 14-15).

Như vậy là rõ lắm, Chúa tha thứ cho tôi theo mức độ tôi tha thứ cho người khác. Như thế lời kinh Lạy Cha có thể là lời tôi kết án cho tôi. Tôi xin với Chúa rằng chỉ tha cho tôi giống như tôi tha cho người ta thôi. Hằng ngày tôi đọc kinh ấy, đã mấy mươi năm trong đời rồi. Ðã bao nhiêu ngàn lần tôi khắc sâu vào tâm trí Chúa để Chúa nhớ là: Xin tha nợ cho tôi giống như tôi tha nợ kẻ khác, đừng tha nhiều hơn! Nếu tôi không tha cho người khác được là tôi xin Chúa cũng đừng tha cho tôi. Ôi! lời kinh nguy hiểm biết bao nhiêu!

* * *

Ở đây, giữa tôi và Chúa có phải là ký với nhau một giao kèo không? Nếu là giao kèo thì hợp lý trong lối lý luận, nhưng thiếu tự do trong thái độ tha thứ. Bấy giờ, tha thứ trở nên như một mặc cả đôi bên. Có khi tôi không muốn tha cho người ta, nhưng để Chúa tha cho mình thì thôi cũng đành cố tha cho người khác vậy. Còn phía của Chúa thì lấy sự tha thứ cho tôi như một áp lực để tôi phải tha cho người khác. Tôi thấy có điều không ổn theo lối đặt điều kiện như thế này. Tha thứ đến từ những điều kiện là trả nợ theo luật pháp chứ không phải là rung động bằng con tim. Tha thứ áp lực là tiếc nuối của một đổi chác. Chúa không thể hành xử như thế. Vậy tôi phải hiểu tha thứ như thế nào?

* * *

Trong thân thể Ðức Kitô mà tôi là chi thể thì dòng máu luân hoán chỉ có một màu đỏ, nghĩa là tôi đến với Chúa rồi qua tha nhân, hay qua tha nhân rồi đến với Chúa, ngả nào cũng là một thái độ. Tôi không thể có hai thái độ, đến với Chúa là dòng máu đỏ, ngả qua tha nhân là dòng máu đen. Bánh xe luân chuyển tương quan giữa ba chủ thể; Tôi – Tha nhân – Chúa là thông cảm của một thứ tình. Bởi đó khi một bánh xe bị gẫy sẽ làm con đường nối kết ba chủ thể ấy gián đoạn. Tôi và tha nhân bị cách đoạn thì tôi và Chúa cũng không thể nối kết. Không nối kết với tha nhân thì nối kết với Chúa là ảo tưởng, lúc đó Chúa chỉ là ngẫu tượng: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ, và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ trước bàn thờ, rồi đi làm hoà với anh em ngươi đã, rồi hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi” (Mt. 5: 23-24).

* * *

Tha thứ không phải là tri thức để hiểu mà là cảm nghiệm rung động. Khi tôi không tha thứ được cho người là lúc con tim tôi đã khô cứng. Nếu sự khô cứng làm tôi không rung cảm trước xót thương của người khác thì cũng chính sự khô cứng ấy làm tôi không cảm nghiệm được sự tha thứ của Chúa cho tôi. Sự tha thứ của Chúa luôn luôn vô điều kiện, nhưng điều kiện cảm nghiệm được sự tha thứ ấy lại hệ tại khả năng mềm mại nơi trái tim tôi để tôi có thể rung động mà tha thứ cho người. Chỉ khi trái tim mềm mại tha thứ thì khả năng mềm mại của nó mới có thể lãnh nhận được thứ tha của Chúa.

Có cảm nghiệm được Chúa tha thứ thì mới có thể thứ tha cho người. Bởi đó, khi tôi không tha thứ là vì có thể tôi chưa cảm nghiệm được sự tha thứ của Chúa. Như thế, khi tôi khó tha thứ cho người đấy là dấu chỉ cho tôi biết tôi chưa thực sự xin Chúa thứ tha cho tôi.

Lm. Nguyễn Tầm Thường

Tặng vật cho cuộc đi tìm

Có người Biệt phái kia mời Ngài tới dùng bữa với mình. Ngài vào nhà người Biệt phái và lên giường ăn. Và này: Một phụ nữ, một người tội lỗi trong châu thành. Biết Ngài dùng bữa tại nhà người Biệt phái, người phụ nữ ấy xách theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Ðứng phía đằng sau chân Ngài, khóc nức nở, sa nước mắt đẫm ướt chân Ngài. Xõa tóc trên đầu, cố lau sạch. Và tha thiết hôn chân Ngài và xức dầu thơm (Lc. 7: 36-38).

Mai Ðệ Liên đã tìm gặp Chúa. Tìm là giai đoạn sôi bỏng nhất của tình yêu. Gặp mặt nhau nhưng chưa chắc biết tên nhau. Biết là một chuyện nhưng có để ý nhau không lại là một chuyện khác. Cho dù có để ý nhau nhưng chưa chắc đã tìm nhau. Bởi đó, những chuyện tình đi tìm nhau bao giờ cũng là những chuyện tình không quên. Tìm nhau là giai đoạn đồng cảm nhất trong tiến trình của yêu thương. Nói đến phải đi tìm là nói đến vất vả, nên những chuyện tình tìm nhau thường là những chuyện tình gian nan.

Tặng vật là niềm tin

Ðến với Ðức Kitô, người đàn bà này đã mang theo ba tặng vật: Niềm tin, mái tóc và bình dầu quý. Tìm là xác định một điều có trong khi chưa có. Tin là có để rồi miệt mài theo đuổi điều chưa có là một thứ gian nan không dễ. Niềm xác định có càng nhiều thì mới càng có nỗ lực. Những đêm bâng khuâng gọi hồn, tiếng con tim ngập ngừng đếm từng khoảnh khắc. Và bữa tiệc chiều nay, đôi khi nghe cõi lòng chùng xuống khi hình dung ra những cái nhìn soi mói, nhưng người đàn bà này vẫn chuẩn bị cho một cuộc đi tìm rất nhiệm mầu trong linh hồn. Bà cần gặp Ðức Kitô.

Xét theo khung cảnh thì đây không phải là bữa ăn thường mà là bữa tiệc. Tôi không nghĩ rằng người phụ nữ này được mời, vì Biệt phái kết án “gái điếm và thu thuế”. Người phụ nữ này đã nổi tiếng tội lỗi trong châu thành vì ai cũng biết. Nếu vậy, càng không thể là khách mời của Biệt phái. Khách được mời sẽ được lấy nước rửa chân, xức dầu và hôn chào. Vậy làm sao người phụ nữ tội lỗi này lọt được vào? Ðối với một kẻ tội lỗi bị xã hội kết án thì đi tới đâu cũng phải đương đầu với những con mắt tò mò. Có thể người phụ nữ này phải giả dạng để vào được phòng khách. Có thể cô ta lẩn đi vào ngõ sau. Có thể cô ta bất chấp mọi ngịch cảnh xông đại vào. Trong bao nhiêu giả thuyết, ta không biết cách nào là đúng. Hoặc cho dù có được vào tự do, thì điều ta biết chắc là người phụ nữ này đã phải chấp nhận những lời kết án cho một lần gặp gỡ.

Chợt đọc qua đoạn Tin Mừng, tôi thấy hình ảnh người phụ nữ ngồi khóc bên chân Chúa là một hình ảnh êm đềm. Thoáng qua, tôi thấy người phụ nữ có thể gặp Chúa một cách nhẹ nhàng. Nhưng nhìn kỹ lại, tôi thấy gặp gỡ với Chúa, cô ta phải lên đường vô cùng quyết liệt. Mình không phải là khách. Người ta dòm ngó xầm xì. Bao nhiêu người chỉ trỏ. Có khi phải bẽ mặt vì bị đuổi đi.

Trong quá khứ, không biết có khi nào tôi liều thân đi gặp Chúa như thế chưa. Những kỷ niệm tìm nhau trong gian nan là những kỷ niệm khó quên. Nếu tôi không nhớ có khi nào tôi vất vả đi tìm Chúa như thế chưa, điều đó có nghĩa là tôi chưa có những “chuyện tình gian nan”, dù có đôi ba lần liều thân tìm gặp Chúa, sự liều thân ấy cũng chắc là nhạt nhẽo lắm.

Dầu thơm của khổ đau

Cho cuộc đi tìm này người phụ nữ đã mua một bình bạch ngọc, tìm loại dầu thơm quý. Tặng nhau một cành hồng, gởi nhau một lọ nước hoa là chuyện thường. Nhưng dầu thơm ở đây là hương thơm có thể bay ngược chiều gió. Bởi, nó là hương thơm của trắc ẩn, là đóa hoa lòng. Chắc hẳn tiền mua bình bạch ngọc đến từ những đêm nhục nhằn câm nín, từ nước mắt dàn dụa trên những đồng bạc bất hạnh nằm rơi vãi trên giường. Ðời là hoang vu. Cúi mặt đi trong phố vắng khi đèn chiều cứ ảm đạm. Người khách ra về, cánh cửa sập lại, cúi nhặt những đồng bạc trong cơn mệt mỏi chán chường. Người gái điếm ấy gom số tiền đã chắt chiu từ những tháng ngày cùng cực. Xuống phố, không tiếc lòng, mua một bình ngọc quý, một cân dầu thơm. Rồi, từ từ, đổ hết cho phí đi cân dầu hảo hạng, cho phí đi những đồng tiền khổ đau.

Trọn vẹn mái tóc xám hối

Tặng vật thứ ba là mái tóc của cô ta. Người con gái nào không thương mái tóc. Ở Mai Ðệ Liên chắc hẳn cũng có những ngày mới lớn như những nàng thiếu nữ Jêrusalem. Cô cũng cũng có những áng mây hồng của tuổi bâng khuâng, có cánh bướm nhỏ trong giấc mơ về đậu trên bờ tóc. Tóc mai cũng đã thương những sợi vắn sợi dài. Hôm nay, thương yêu có thể là muộn màng. Thương nhớ có khi đã mất mát. Bây giờ, thương đau là gương soi. Những sợi tóc ấy, giờ đây thả xuống cho xuôi dòng. Những sợi tóc đó nếu có một thủa mây bay tà đạo, thì hôm nay ngoan ngoãn theo lời xin xám hối. Cài vào những sợi tóc ấy là niềm tin để chải xuống một dòng đời lỗi lầm.

* * *

Lạy Chúa,
Người phụ nữ ấy đã lấy tất cả thương đau đời mình để mua cân dầu rồi đổ đi, đổ cho cạn đến giọt sau cùng. Con chỉ nhìn vào hình ảnh Chúa tha thứ tội lỗi một cách nhẹ nhàng, mà ít nhìn vào thái độ ao ước tận cùng của niềm tin, của sự quyết liệt trọn vẹn trong trái tim người phụ nữ.

Ở trong con, nhiều lần cũng tìm gặp Chúa, nhưng không bao giờ đổ tất cả cho một cuộc gặp gỡ. Bởi đó, gặp gỡ nào giữa con với Chúa cũng cứ là những gặp gỡ dang dở.

Lm. Nguyễn Tầm Thường