2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

LÀM SAO ĐỂ VIỆC SUY NIỆM LỜI CHÚA TRỞ NÊN THÚ VỊ?

Mỗi khi gặp đoạn Tin Mừng về “cái rác, cái xà” (Mt 7,1-5), thì ngay lập tức, ta nghĩ ngay đến việc “xét đoán”: nhìn vậy, mà không phải vậy, như câu chuyện của Khổng Tử về “nồi cơm Nhan Hồi”, rồi, ta rút ra những bài học về nhân bản, về luân lý của việc xét đoán.

Lời Chúa là lời mặc khải, là ánh sáng soi đường, để giúp ta sống đức tin, đức cậy, đức mến cách triển nở, để rồi, giữa bao sóng gió cuộc đời, ta vẫn cứ kiên trì giữ vững lòng tin vào Chúa, hầu, đạt được ơn cứu độ Chúa đã hứa ban, vì thế, Lời Chúa phải vượt lên trên những giá trị nhân bản thông thường, và những đòi hỏi luân lý tự nhiên, để vươn tới những giá trị siêu nhiên, hầu, giúp ta nên đồng hình đồng dạng với Đấng đã yêu thương và thí mạng vì ta.

Đoạn Tin Mừng “cái rác, cái xà” (Mt 7,1-5), được đặt trong bối cảnh Phụng Vụ của Thứ Hai Thường Niên Tuần XII, Năm Lẻ, mang một sắc thái hoàn toàn khác với những gì chúng ta thường gán ghép cho nó. Nếu các Nhà Phụng Vụ muốn ta suy niệm theo chủ đề “xét đoán”, thì tại sao họ không in nghiêng câu “Đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán”, nhưng, họ lại chọn câu: “Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã”, như vậy, ý của các Nhà Phụng Vụ là: khi lấy “cái xà” ra khỏi mắt mình, ta sẽ thấy được cái gì đó, mà nếu, không lấy “cái xà” ra, thì ta không thể nhìn được cái đó. Vậy “cái đó” là cái gì? Tất cả các bản văn phụng vụ và những yếu tố phụng vụ kèm theo của ngày lễ hôm đó, sẽ cho ta biết “cái đó” là cái gì.

Chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt mình, để nhìn thấy rõ: mình là ai, mang danh xưng gì, hầu, ta sống xứng đáng với danh hiệu đó, cho dù, có phải trả giá, ta vẫn cứ tin rằng: Nếu ta không rời xa Danh Thánh, thì, Chúa cũng sẽ chẳng rời bỏ chúng ta, như trong Lời Tổng Nguyện, các Nhà Phụng Vụ muốn chúng ta xin cho mình: hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, thì Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ. Trong Giờ Kinh Sách: Bài đọc 1: trích sách Samuen Quyển I nói: ông Đavít đã chiến đấu vì Danh Đức Chúa, nên ông đã chiến thắng Goliát. Bài đọc 2thánh Ghêgôriô Nítxê nhắc nhở chúng ta sống đúng danh xưng là Kitô hữu của mình.

Chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt mình, để nhìn thấy rõ: Chúa là gia nghiệp của chúng ta, và chúng ta cũng chính là gia nghiệp của Chúa, như Ca Nhập Lễ: Trên gia nghiệp này, Chúa thi ân giáng phúc và dẫn dắt nâng niu đến muôn đời. Chúa là sức mạnh, là thành trì bảo vệ gia nghiệp của Chúa, phần chúng ta là: lấy cái xà ra khỏi mắt mình, để, như Ca Hiệp Lễ: ngước mắt trông lên Chúa, đợi chờ Người đến bữa cho ăn. Chúng ta là gia nghiệp của Chúa, được Chúa chọn, như Người đã chọn Ápraham trong Bài đọc 1, trích sách Sáng Thế: ông Ápraham đã rời bỏ quê hương xứ sở của mình, từ bỏ danh xưng là công dân của xứ sở mình, để nhận lấy danh xưng của một công dân mới, trong miền đất mà Chúa hứa sẽ ban cho ông. Chúng ta thuộc về Chúa, mang Danh Chúa, và một khi đã lựa chọn như thế, ta phải chấp nhận trả giá, bởi vì, những ai thuộc về Chúa, thì không thuộc về thế gian, và sẽ bị thế gian bách hại; Thế gian sẽ vui cười, còn ta sẽ khóc lóc, nhưng đừng lo, ưu sầu của ta sẽ biến thành niềm vui, vì Chúa hằng để mắt trông nom gia nghiệp của Người, vì Chúa hằng bảo vệ những ai mến yêu Danh Thánh, nhờ được nghe Danh Người, ta sẽ phấn khởi mừng vui, như Đáp Ca: Tv 32: Hạnh phúc thay dân nào, Chúa chọn làm gia nghiệp. Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, hầu, cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn.

Chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt mình, để nhìn thấy rõ: ta mang một danh hiệu cao quý nhất, linh thiêng nhất, trọng đại nhất, vượt trên mọi danh hiệu, vì được vinh dự mang chính Danh của Đức Kitô, khi được gọi là “Kitô hữu”. Ước gì đời sống của chúng ta luôn minh chứng cho danh hiệu “Kitô hữu” cao quý của mình. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.

BỐN CẠM BẪY KHI CẦU NGUYỆN

Cầu nguyện Kitô giáo không nhằm tìm kiếm cảm giác an lạc thư thái, nhưng là, tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Bất cứ phương pháp cầu nguyện nào không quy hướng về Đức Kitô, và không nhằm giúp xây dựng tương quan cá vị với Đức Kitô, thì, đó không phải là cách cầu nguyện của Kitô giáo. Hiểu đúng về cầu nguyện là một chuyện, nhưng, thực hành đúng lại là một chuyện khác. Nhiều người đã bỏ cầu nguyện, vì thấy không hiệu quả; Số khác thì bị lún sâu vào ảo tưởng do chính tâm trí mình tạo ra. Vì thế, trước khi thực hành cầu nguyện, chúng ta cần phải hiểu về những cạm bẫy, mà việc cầu nguyện có thể mang lại.

Như đã nói, cầu nguyện Kitô là nhằm tìm ý Chúa, mà, thánh ý Chúa lại rất nhiệm mầu, vì thế, chúng ta cần phải có người đồng hành tốt, để giúp chúng ta khách quan hóa chính mình, và tránh được những cạm bẫy do chính mình hay Satan bày ra. Ở cấp độ thấpngười đồng hành tốt sẽ hướng dẫn, chỉnh sửa, và vạch trần những cạm bẫy, để giúp ta đi đúng hướng; Ở cấp độ cao, người đồng hành tốt sẽ là người chứng kiến một cuộc tình, là khán giả ngồi coi “phim ngôn tình”, mà diễn viên chính là Chúa Thánh Thần và người đang thực hành cầu nguyện, họ chỉ hiện diện ở đó, bao lâu, Chúa thấy là cần thiết, để giúp ta khỏi chủ quan.

Cạm bẫy thứ nhất: muốn dừng suy nghĩ. Thiên Chúa tạo dựng bộ não của chúng ta với những dòng suy nghĩ liên tục, kể cả khi ta ngủ, vì thế, khi cầu nguyện, ta thường hay lo ra chia trí là vì lý do này. Nếu ta dừng nó cách cưỡng ép, nó sẽ phải phản kháng. Cầu nguyện không phải là một cuộc chiến chống lại suy nghĩ, nhưng là, cứ để cho những suy nghĩ vận hành cách tự nhiên, và nhiệm vụ của ta là khơi dòng để chúng chảy xuôi về phía Chúa.

Cạm bẫy thứ hai: muốn tìm một cảm giác đặc biệt. Nhiều người khi cầu nguyện mong muốn đạt được một cảm giác nhẹ nhàng, an lạc thư thái, hay một sự chuyển hóa nội tâm nào đó. Cầu nguyện không phải là đi tìm một trạng thái đặc biệt, mà là, rèn luyện khả năng sống trong sự hiện diện của Chúa. Cầu nguyện không phải là làm cho bầu trời quang đãng, mà là nhận ra rằng: dù có bất kỳ cơn bão nào đi qua, thì bầu trời vẫn luôn ở đó, vẫn luôn rộng mở, Chúa vẫn luôn hiện diện ở đó, trong những nghịch cảnh đau thương của chúng ta.

Cạm bẫy thứ ba: muốn trốn chạy cuộc sống. Nhiều người chỉ cảm thấy bình an, thư thái khi cầu nguyện, nhưng, khi bước ra khỏi trạng thái cầu nguyện, họ lại bị cuốn vào những lo âu, căng thẳng và những thói quen cũ. Cầu nguyện đúng cách là xây dựng được mối tương quan cá vị với Đức Kitô, và có khả năng mang Đức Kitô vào trong mọi hoạt động của chúng ta: khi ta ăn, khi ta làm việc, khi ta giao tiếp với người khác, nếu ta làm và hành xử như chính Đức Kitô đang thực hiện, thì, ngay cả khi, ta không đang ngồi cầu nguyện, thì đó cũng chính là cầu nguyện rồi.

Cạm bẫy thứ tư: muốn kết quả ngay lập tức. Nhiều người khi cầu nguyện mong đợi rằng: sau một thời gian ngắn, họ sẽ có thể thấy một sự thay đổi rõ rệt, tâm trí có thể trở nên sáng suốt hơn, cảm xúc trở nên ổn định hơn, cuộc sống trở nên nhẹ nhàng hơn, nhưng, thực tế là, cầu nguyện không mang lại kết quả ngay lập tức, nó là một tiến trình dài, đòi hỏi sự kiên trì: có những ngày, ta thấy cầu nguyện thật dễ dàng, nhưng, cũng có những ngày ta cảm thấy cực kỳ khó khăn; có những lúc ta sẽ cảm thấy bình an, nhưng, có những lúc ta thấy đầy những xung đột nội tâm. Điều quan trọng là không bám víu vào bất kỳ trạng thái nào, mà chỉ đơn giản là, tiếp tục thực hành, giống như một dòng sông, tâm hồn ta có lúc sẽ an bình, có lúc sẽ cuộn sóng, và nhiệm vụ của ta không phải là thay đổi dòng sông đó, mà là học cách quan sát nó, sống với nó, và điều hướng nó theo đúng ý Chúa.

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

TUỔI LỤC TUẦN

Sáu mươi chưa hẳn đã già

Sáu mươi còn thích vui ca hát hò

Sáu mươi lại giỏi nhiều trò

Về hưu cống hiến giúp cho xứ nhà 

       Xứ đạo của anh chị thuộc Giáo Phận Xuân Lộc, Hạt Phước Lý. Nơi mà chỉ cách Sài Gòn có vài chục cây số khi đi lối đường qua phà Cát Lái, ở đây có trên dưới khoảng mười ngôi nhà thờ là mười giáo xứ, đặc biệt trong xứ đạo hầu như nhà nào cũng có ít là một người tham gia vào Hội đoàn , đa số là những vị trung niên và người cao tuổi có thời gian đi lễ đọc kinh sớm tối hằng ngày.

Anh Hùng vui tính nói:

  • Tui ngày xưa lăn lộn làm ăn giữa đất Sài Gòn nuôi các con ăn học hổng có thời gian vào hội đoàn nào hết, nay tuổi đã lục tuần nghỉ hưu, khi con cái trưởng thành rồi tui có thời gian nên theo bà xã gia nhập một hội ở nhà thờ để tới lui sinh hoạt cho vui.

Nhóm bạn của vợ chồng anh chị ghé nhà chơi cười nói rôm rả, ai cũng khen gia đình anh chị Hùng thật hạnh phúc ấm êm. Anh Hùng vừa nâng ly trà nóng uống một ngụm rồi đặt ly xuống bàn cười nói tiếp:

  • Các cậu còn nhớ biệt danh của tui ngày đó chứ ! “ Hùng cọp hổ” bởi tính tui nóng dữ như loài cọp hổ nên bị ghép vào tên đó, mà thiệt mấy năm trước tui vẫn hung dữ vậy…, chỉ tới khi nghỉ hưu về nhà tham gia hội trong xứ đạo này thì tui mới biết bình tâm hoán cải…
  • Anh kể tiếp lý do thú vị vì sao đi anh ! ( Chị vợ cười vui vẻ nhẹ nhàng nhắc chồng)

Anh Hùng hả to miệng cười hắng giọng :

  • Kỳ đó lâu không đi lễ nơi xứ nhà nên tui hổng biết mặt mũi ông cha xứ mới . Khi tui đi bộ ra cánh đồng hóng gió, đụng mặt một cậu nhỏ tuổi hơn mình nên tui liền hỏi theo thói quen : “Ê mày tên gì? Cũng thích ra ngoài đồng ruộng hóng gió mát như tao hả !? kakaka …”. Mọi người biết sao không! Cậu này mỉm cười nhìn tui trong im lặng, vừa lúc ấy có một chú nhóc cầm con diều đi thả gió ngang qua chỗ chúng tôi, nó liền cúi đầu rồi nói to:
  • Con kính chào Cha, xíu diều con thả bay lên Cha coi đẹp không nha, diều hình máy bay đó Cha.

Tui khi ấy giật mình liền nhìn người đối diện: “ Trời! tui hổng biết cậu là Cha xứ đó nghe, thấy nhỏ tuổi hơn nên kêu là cậu, ai dè…”.

  • Không sao đâu chú, con cũng mới ngoài bốn mươi như em út chú đó mà, ủa nhưng sao con chưa gặp chú lần nào ở khu vực nhà thờ xứ mình.
  • Tui mới làm ở Sài Gòn về tuần nay chưa ra đó được, mà nghe nói bà nhà tui có sinh hoạt hội gì đó ở nhà thờ Cha xứ ơi….

Sau buổi chuyện trò vui vẻ thân tình với ông Cha xứ trẻ dễ mến ấy. Anh Hùng về nhà hỏi thăm bà xã các sinh hoạt ngoài giáo xứ, rồi từ từ anh cũng hội nhập. Trước tiên bà xã nói anh phải đến nhà thờ xin Cha cho được lãnh “ Bí tích hòa giải” là đi xưng tội, vì đã lâu ngày anh lo làm ăn xa nhà nên quên hoặc lười biếng giữ đạo cho hẳn hoi. Anh Hùng nói với vợ:

  • Tui nhiều tội lắm hổng nhớ hết…, mà để tui đi xứ khác xưng tội, chứ ông Cha trẻ ở đây nhỏ tuổi hơn tui, chắc gì ông hiểu tâm lý tui bằng các Cha già… .

Thế rồi cũng thuận tiện đang là mùa chay Thánh, nên anh Hùng hỏi thăm và tìm đến Cha xứ khác để được lãnh nhận Bí Tích Hòa giải, trong tâm tình chân thành trở về làm con chiên ngoan đạo của Chúa và Giáo hội, sau đó anh xin vào  một hội đoàn của giáo xứ và đi sinh hoạt thật chăm chỉ tốt lành.

Sáu mươi tuổi mới trở về

Làm chiên ngoan đạo giữ nề nếp xưa

Không còn lăn lộn nắng mưa

Lục tuần hưu trí sớm trưa yên bình.

BCT 

 

BA CẤP ĐỘ NHẬN BIẾT CHÚA

Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô (Ga 17,3). Chúa mặc khải những mầu nhiệm cao cả cho những kẻ bé mọn. Không phải xác thịt hay máu huyết, nhưng là, chính Chúa mới mặc khải cho ta biết về Chúa. Vì thế, nếu chúng ta cậy vào sức mình, để rồi tự mãn với những hiểu biết của mình về Chúa, thì chúng ta đang tự ru ngủ mình trong những sai lầm giả dối. 

Cấp độ 1 – nhận biết từ ngoài: Ta vay mượn từ những gì người khác đã nói, đã viết, đã dạy về Chúa. Những hiểu biết này không đến từ kinh nghiệm sống của ta, mà chỉ đến từ việc ghi nhớ, sao chép và lặp lại. Ta biết rất nhiều điều về Giáo Lý, Thánh Kinh, nhưng chưa từng sống. Ta luôn có nhu cầu chứng minh mình đúng, bằng cách bám vào các thần học gia có danh tiếng và những trích dẫn từ những cuốn sách thần học nổi tiếng. Ta nói được những điều sâu sắc, được người khác ngưỡng mộ, nên, ta cứ tưởng: mình đã đạt đến một trình độ thiêng liêng, thần bí nào đó, nhưng thật ra, ta chỉ đang lạc lối trong mê cung của ngôn ngữ, của kiến thức mà thôi. Nếu ta chỉ dừng lại ở sự vay mượn này, thì những hiểu biết đó sẽ trở thành nhà tù: giam hãm ta trong thói đạo đức giả, vì tưởng mình đã thánh thiện.

Cấp độ 2 – nhận biết từ trong: Ta không còn tích lũy kiến thức từ bên ngoài, mà là từ nơi nội tâm của mình, ở đây, ta không còn dễ dãi với chính mình, ta bắt đầu xét lại những động cơ ẩn sau hành động. Đây là ánh sáng đầu tiên, dù còn yếu ớt, nhưng, đã bắt đầu chiếu dọi vào trong những gốc khuất của tâm hồn ta, khơi dậy trong ta một loại trung thực nội tâm, và chính sự trung thực này là cái mầm đầu tiên của tự do: những điều ta từng nghe, từng đọc, giờ đây, đã được chứng nghiệm bằng chính trải nghiệm sâu sắc của đời sống thực. Ta không còn vội vã chia sẻ điều mình biết, không phải vì ích kỷ, nhưng, vì ta đã hiểu: có những thứ không thể diễn đạt bằng lời nói. Nhận biết Chúa từ nơi bản thân hèn yếu mỏng dòn của mình là ngọn lửa âm ỉ cháy từ bên trong, đủ sức thiêu rụi mớ giả tạo còn sót lại trong ta, đây là lúc mà, lời nói và đời sống của ta bắt đầu hòa thành một, nơi không còn khoảng cách giữa điều ta biết và điều ta sống, và chính điều này khiến ta trở nên đáng tin, dù ta chẳng cần cố gắng để thuyết phục ai.

Cấp độ 3 – nhận biết từ Chúa: Ta không còn coi bản thân là trung tâm, ta có thể im lặng nghe một cuộc tranh luận thần học mà không cần chen vào, không phải vì ta không có gì để nói, mà vì ta đã thấy rõ điều gì đang vận hành bên dưới. Ta không còn nhu cầu phô diễn những hiểu biết của mình. Ta không thuyết phục ai, nhưng, sự hiện diện của ta đã soi sáng một cách không lời. Ta không còn bắt người khác phải nghe mình, nếu có nói, lời của ta sẽ mang một sự chính xác nhẹ nhàng, không phải kiểu nói hay, mà là nói đúng vào cốt lõi đang bị che lấp. Chính tại nơi đây, mọi khái niệm đều tan rã, mọi nỗ lực diễn giải, mô tả hay phân tích đều trở nên thừa thãi, bởi vì, Thiên Chúa không cần được đặt tên mới hiện hữu. Nhận biết từ Chúa giống như ánh sáng mặt trời, nó không lựa chọn chiếu vào đâu, không cần được ai công nhận là đang chiếu sáng, nó chỉ đơn giản có mặt và chính sự có mặt ấy là ánh sáng.

Khao khát học hỏi, tìm hiểu, để ngày càng nhận biết Chúa hơn, đó là một việc làm tốt, rất đáng hoan nghênh. Mỗi cấp độ nhận biết đều có lý do để tồn tại, vấn đề là, chúng ta phải ý thức rằng: tự sức mình, chúng ta không thể nhận biết Thiên Chúa, tất cả đều do bởi tình yêu và ân sủng Chúa, việc của chúng ta là khiêm nhường: dám buông bỏ những hiểu biết từng làm chỗ dựa cho ta, và can đảm từ bỏ tham vọng trở nên thông thái để thống trị người khác. Những hiểu biết về Chúa không phải để phô diễn, không phải để tranh luận hơn thua. Ước gì ta thật sự nhận biết Chúa, để ta sống đơn giản hơn, chân thật hơn, ít lý luận hơn, và ta sẽ sống trong sự hiện diện của Chúa nhiều hơn, rời xa khỏi những ồn ào của những hơn thua về kiến thức, mà bước vào sự tĩnh lặng của sự nhận biết chiêm niệm sâu xa. Ước gì được như thế!

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

TẠI SAO LẠI LÀ NGƯỜI LÀM VƯỜN?

Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: Thưa ông, nếu ông đã đem Ngài đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Ngài ở đâu, tôi sẽ đem Ngài về” (Ga 20:15)

Trong tường thuật của thánh Máccô về sự phục sinh của Chúa Giêsu, Maria Mađalêna và những người phụ nữ khác đi cùng bà đã “sợ hãi” và “run lẩy bẩy, hết hồn hết vía” khi nghe thông báo từ vị khách từ thiên đàng bên trong ngôi mộ trống rỗng của Chúa Giêsu (Mc 16:8). Trong tường thuật của thánh Mátthêu, Maria và những người phụ nữ “tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng” (Mt 28:8); trong tường thuật của thánh Luca, họ chỉ đơn giản là “sợ hãi, cúi gằm mặt xuống đất” (Lc 24:5). Không có bản Tin Mừng nào trong ba sách Tin Mừng nhất lãm đề cập đến việc Maria Mađalêna nhầm lẫn một thiên thần - chưa nói đến chính Chúa Giêsu - với người làm vườn. Vì vậy, thật thú vị khi thánh Gioan đưa vào chi tiết có vẻ không cần thiết và không quan trọng này về một “người làm vườn”, một chi tiết dường như không tương ứng với các trình thuật được ghi lại bởi những tác giả sách Tin Mừng khác. Chúng ta cần hiểu điều này như thế nào?

Vâng, trước tiên chúng ta hãy nhận ra rằng liên quan đến các trình thuật khác nhau được ghi lại về sự phục sinh của Chúa Giêsu, có một số lượng “vay mượn” nhất định từ nhau mà cần thiết phải có, vì thực tế không ai tận mắt chứng kiến ​​Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Một ngày nọ, Ngài được chôn cất, một hòn đá lăn ra che trước mộ Ngài, những người lính canh gác lối vào để tránh bất cứ trò lừa bịp hoặc thuyết âm mưu nào hình thành. Và rồi ba ngày sau... Chúa Giêsu đã ra khỏi mồ. Bây giờ cả bốn tường thuật đều đồng ý rằng chính Maria Mađalêna và những người phụ nữ đi cùng bà là những người đầu tiên biết về ngôi mộ trống của Chúa Giêsu và sau đó bà là người đã thông báo tin tức đáng kinh ngạc này cho Mười Một Tông Đồ; vì điều này, Maria đã giành được danh hiệu “Tông đồ của các Tông đồ”. Nhưng điều gì giải thích cho phiên bản của thánh Gioan về cách Maria Mađalêna đến và khám phá ra Chúa Giêsu phục sinh lại khác biệt đến vậy so với ba tường thuật kia?

Câu trả lời hiển nhiên nhất chỉ đơn giản là: quan điểm của người ta về một sự kiện sẽ ảnh hưởng đến cách người ta truyền đạt sự kiện đó đến người khác. Nếu tôi viết ra những kỷ niệm về ngày cưới của mình, tôi có thể đặt tên cho câu chuyện của mình là “Ngày tuyệt vời nhất trong cuộc đời tôi”. Nhưng một vị khách đến dự đám cưới của tôi, nếu người ấy không quen biết ai tham dự ngoài cô dâu và chú rể, có thể đặt tên cho câu chuyện của mình là “Ngày buồn tẻ nhất trong cuộc đời tôi”. Tất cả đều liên quan đến quan điểm.

Nhưng có một góc nhìn khác ngoài góc nhìn giải thích cho việc thánh Gioan đưa chi tiết về người làm vườn vào. Đó là một chi tiết mà ông đã được biết, nhưng không ai trong ba tác giả Tin Mừng kia biết đến. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu lý do tại sao lại như vậy. Hãy nhớ rằng, Gioan đã đưa Mẹ Maria “về nhà mình” (Ga 19:27). Gioan không chỉ có quan điểm riêng để tham khảo mà còn được hưởng lợi khi được nghe Mẹ Maria trực tiếp kể lại. Điều này liên quan gì đến Maria Mađalêna? Thực ra là liên quan rất nhiều. Theo truyền thống phương Đông, “Maria Mađalêna tiếp tục sứ mệnh của mình như một nhà truyền giáo, nhà chiêm nghiệm và nhà thần bí trong lòng Giáo hội… bà đã đến Êphêsô cùng với Đức Trinh Nữ Maria và qua đời tại đó” (“Kinh cầu Thánh nữ Maria Mađalêna” The Catholic Company). Nói cách khác, Maria Mađalêna đã sống cùng thị trấn với Mẹ Maria, và rất có thể là cùng cộng đoàn tín hữu ở đó; do đó, theo bối cảnh, bà sống trong cộng đoàn của Thánh Gioan Tông đồ. Không giống như những tác giả Tin Mừng khác, Thánh Gioan có thể biết chi tiết về người làm vườn vì có thể chính Maria Mađalêna đã kể cho ông nghe.

Điều này chỉ còn lại một câu hỏi. Tại sao Maria Mađalêna lại nhầm Chúa Giêsu với một người làm vườn ngay từ đầu? Chắc chắn, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu, trong trạng thái vinh quang của Ngài, sẽ không thể nhận ra được đối với những tâm hồn buồn bã vì yêu mến và nhớ nhung Ngài đến vậy. Sẽ cần một tia sáng ân sủng để mở mắt trái tim của họ ra với sự thật về người mà họ nhìn thấy trước mắt mình. Nhưng… tại sao lại là một người làm vườn? Liệu lời giải thích có thực sự đơn giản rằng một người làm vườn là người duy nhất mà Maria thấy hợp lý khi đi lại giữa các ngôi mộ vào sáng sớm như vậy không? Có lẽ vậy. Nhưng… Liệu Kinh thánh có bao giờ để lại cho chúng ta những chi tiết không cần thiết mà chỉ để mô tả chính xác về mặt lịch sử không? Không có khả năng như vậy. Mỗi lời đến từ Chúa đều có mục đích dẫn chúng ta suy ngẫm. Từ góc độ này, chúng ta thấy gì khi nhìn vào “người làm vườn” mà Maria Mađalêna chăm chú nhìn?

Đấng Đáng Kinh Fulton Sheen viết: “ … người làm vườn cắt những chồi xanh từ gốc bụi cây, không phải để giết chết hoa hồng, mà để làm cho hoa nở đẹp hơn” (Đấng Đáng kính Fulton Sheen, tr. 185, cookiecrumbstoliveby.wordpress.com).

Chúa Giêsu, “Người Làm Vườn,” đã gieo Lời Ngài vào lòng Maria Mađalêna, tỉa và cắt những chồi non không khỏe mạnh khỏi cuộc đời bà và nhổ tận gốc những gì ngăn cản bà tăng trưởng… để bà có thể nở hoa và lớn lên! Chính Chúa Giêsu - Người Chăn Chiên Nhân Lành, Chiên Thiên Chúa, Đấng Mêsia, nhưng cũng là Người Làm Vườn  - đã cứu mạng Maria khỏi sự hủy diệt. Người Chăn Chiên Nhân Lành sẽ để chín mươi chín con chiên đi tìm một linh hồn, cõng con chiên ấy trên lưng về nhà nếu cần. Nhưng chính Người Làm Vườn mới là người xới đất trong lòng chúng ta, nhẹ nhàng nâng đầu chúng ta lên và hướng dẫn chúng ta đối mặt với những điểm yếu, lỗi lầm, khuyết điểm và nỗi đau của mình, không phải để hủy hoại chúng ta mà để giúp chúng ta lớn lên. Việc vun trồng của người làm vườn vừa đau đớn vừa thống khổ, nhưng thành quả từ công trình của người làm vườn thì mãi mãi ngọt ngào.

Đang tuần tiễu trong thành, bọn lính gác gặp tôi. Tôi hỏi họ: Các anh có thấy chăng người lòng tôi yêu dấu?Vừa rời họ mà đi, tôi đã gặp người lòng tôi yêu dấu” (Diễm ca 3:3-4)

 

Tác giả: Mc Holbrook

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.

https://catholicexchange.com