3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

HỘI TỤ VÀ XUẤT PHÁT

Thứ Năm Tuần 4 Thường Niên C

“Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một”.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay cho thấy sức mạnh đích thực của công cuộc truyền giáo xuất phát từ đâu? Từ Chúa Giêsu! Ngài là trung tâm quy chiếu - ‘hội tụ’ - hàng đầu và cũng là điểm ‘xuất phát’ cho sứ vụ loan báo Tin Mừng!

Marcô ý tứ kể ra một loạt động từ có chung một chủ ngữ, “Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại”, “Sai đi từng hai người một”, “Ban cho các ông quyền trên các thần ô uế”, “Chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy”. Công việc của nhóm toả ra từ một trung tâm; đúng hơn, một con người - chính Ngài. Và điều này tái khẳng định sự hiện diện và hành động của Chúa Giêsu trên mọi hoạt động truyền giáo lớn nhỏ của các tông đồ ‘thuộc mọi thời’. Sự thật này chứng tỏ các tông đồ không có gì riêng để tuyên bố, không có một khả năng nào biểu lộ từ tài trí của mình; họ chỉ nói và hành động như ‘những đặc phái viên’ được sai đi nói Lời của Ngài, Đấng vừa là điểm ‘hội tụ’ vừa là điểm ‘xuất phát’.

Chúa Giêsu đã “gọi” các ông đến với Ngài; đó là một cuộc gặp riêng tư giữa Ngài với từng người. Chính Ngài lôi kéo họ đến “cùng vị Trung Gian giao ước mới” - bài đọc một. Trong hành động này, các tông đồ đã đích thân gặp gỡ một Thiên Chúa làm người, nhận được ân sủng và quyền năng Ngài; để từ đó, biết mình được xót thương. Chính họ sẽ thốt lên, “Lạy Thiên Chúa, chúng con đón nhận tình Chúa yêu thương!” - Thánh Vịnh đáp ca.

“Sai đi từng hai người một”, điều này cũng đáng kể! Chúa Giêsu biết yếu đuối của mỗi người, một người chiến đấu sẽ dễ thất bại; với sự hỗ trợ của một đồng đội, môn đệ sẽ được củng cố rất nhiều. Sứ vụ rao giảng không là việc của cá nhân ai, nhưng là một sứ vụ ‘cộng đồng’; mỗi người là một mảnh trong toàn cảnh. Để hoàn thành sứ vụ đó, chúng ta cần được yêu thương và sự hỗ trợ của người khác. Xông vào chiến trận thì ‘hai’ luôn tốt hơn ‘một’; cũng thế, hai cái đầu - sự thường - sẽ tốt hơn.

Trong nội chiến Hoa Kỳ, ngày kia, một tiểu đội buộc phải vượt sông trên lưng ngựa. Cạnh bờ nước chảy xiết, một thương binh không thuộc nhóm đứng một bên quan sát. Nhiều người lao xuống, sang bờ bên kia. Người lính kia tự hỏi liệu ai có thể giúp anh? Sau đó, một người đồng ý, không do dự. Người lính lên ngựa và cả hai vượt sông. Một kỵ sĩ đến hỏi, “Tại sao anh chọn Thomas Jefferson?”. Người ấy sốc, thừa nhận không biết tổng thống đã giúp anh. Anh nói, “Tất cả những gì tôi biết là trên khuôn mặt của phần lớn các bạn viết ‘Không’; và trên khuôn mặt một số khác viết ‘Có’. Khuôn mặt của ông ấy viết ‘Có!’”.

Anh Chị em,

Hơn cả Jefferson, khuôn mặt Chúa Giêsu luôn tỏ ra ‘Có’. Ngài không chỉ giúp chúng ta vượt sông nhưng còn xuống ngựa, chăm sóc vết thương và ẳm chúng ta lên cùng Ngài. Trên hành trình chiến đấu ‘vượt sông’ chốn dương gian của mỗi người, cũng như lúc mỗi người lìa xa cõi tạm này, Chúa Giêsu luôn tỏ ra ‘Có’; Ngài luôn đồng hành với mỗi người. “Trong Ngài, chúng ta sống, cử động và hiện hữu!”. Chỉ ngần ấy cũng đủ cho bạn và tôi sống trong niềm vui. Hãy đến với Ngài, múc lấy sức mạnh; và từ Ngài ra đi!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trong mọi đấng bậc, cho con biết, con được chính Chúa gọi - điểm ‘hội tụ’ cũng là điểm ‘xuất phát’ - nơi con ‘ra đi’ và nhất là nơi con ‘trở về’ mỗi ngày!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

GẶP GỠ CHÚA KITÔ

Chúa Nhật 4 Thường Niên C

Tin Mừng Luca hôm nay kể về “bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa theo luật Môsê” (Lc 3: 22). Chúng ta học được gì từ câu chuyện này để chính mình ngày càng trở nên Kitô hữu đích thực hơn? Chúng ta cần học cách kiên nhẫn mong chờ và khát khao tìm gặp “Thiên Chúa cứu độ” như cụ già Simêon và bà Anna nơi Đền thánh của Ngài (Lc 3:38). Chính Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu Kitô, đến tìm gặp con người chúng ta. Chúa Giêsu Kitô cũng là vị Thượng tế bước lên thập giá trên đồi Canvê, như tiến vào Đền thánh, để dâng lễ hy sinh, là chính Thân Mình Ngài, để cứu chuộc và đem lại cho chúng ta niềm vui chan chứa: “Như vậy, nhờ cái chết của Ngài, Ngài đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ…trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân” (Hípri 2: 14,17).

  1. Cuộc gặp gỡ của Israel với Chúa Kitô

Trong trình thuật Tin Mừng họm nay, thánh sử Luca cho chúng ta thấy hai vị cao niên, kính sợ Chúa, đã chờ đợi Đấng Mêsia đến: “Hồi ấy ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel” (Lc 2:25). Đó là ông Simêon. “Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna…Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa... mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem” (Lc 2: 36-38).

Cả ông Simêon và bà Anna đều đã già. Bà Anna đã 84 tuổi, bà đã chờ Thiên Chúa đáp lại lời cầu nguyện của mình không phải một vài tháng, nhưng hơn một ngàn tháng! Thế mà các ngài vẫn chờ đợi trong tin tưởng vững vàng. Sự kiên trì chờ đợi ấy cuối cùng đã được đền đáp bằng niềm vui thỏa nguyện.

Đây là khoảnh khắc đầu tiên Israel gặp gỡ Chúa Kitô. Cụ già Simêon và nữ ngôn sứ Anna, đại diện cho Israel, đã được nhìn thấy cháu bé này, ngẫu nhiên được đưa đến trước mặt họ trong đền thờ sau khi Israel, dân Chúa, đã chờ đợi hàng trăm năm. Lời ngôn sứ Isaia tiên báo đã ứng nghiệm: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta” (Is 9: 5). Trẻ thơ này cũng là Vua công chính của Israel: “Ngài gánh vác quyền bính trên vai…Ngài sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít. Ngài sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9:5-6). Vị vua này đem lại niềm vui lớn lao cho Israel: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm” (Is 9: 2).

Không có gì có thể so sánh được với việc sống trong mối tương giao mật thiết với Chúa Giêsu, vị vua chính trực công minh, và biết rằng những khát khao trong đời của chúng ta được Ngài đáp ứng. Đôi khi, chúng ta không thấy Chúa đáp lại lời cầu xin của chúng ta trong một thời gian nào đó, chúng ta bắt đầu nghi ngờ liệu Chúa có nghe lời cầu nguyện của chúng ta hay không. Chúng ta đều biết rằng chờ đợi Thiên Chúa nhận lời cầu xin của chúng ta, như cụ già Simêon và nữ ngôn sứ Anna, thì khó khăn như thế nào. Nhưng thật sự Chúa Giêsu luôn hiện diện với chúng ta và đến với chúng ta trong từng khoảnh khắc mỗi ngày. Liệu chúng ta có bền lòng mong chờ, để rồi nhận ra Ngài trong mọi hoàn cảnh cuộc sống không? Có Chúa Giêsu, chúng ta có hy vọng ngay trong hiện tại và trong tương lai. 

  1. Cuộc gặp gỡ của cụ già Simêon với Chúa Kitô

Thiên Chúa đã hứa ban cho cụ già công chính, đạo hạnh Simêon ân huệ được thấy ơn cứu độ: được nhìn thấy Thiên Chúa bằng chính đôi mắt của ông. Đây là sự hưởng kiến ​​hạnh phúc mà, nếu Chúa muốn, tất cả chúng ta sẽ trải nghiệm khi được diện kiến ​​Thiên Chúa vinh quang rực rỡ trên Thiên đàng. Cụ già Simêon muốn tận mắt nhìn thấy ánh sáng này chiếu rọi trên mọi quốc gia. Ông mong mỏi Chúa đến, mang lòng thương xót, công lý và chân lý của Ngài đến với thế gian tan vỡ. Giống như ông Gióp, cụ già Simêon mong mỏi được nhìn thấy Đấng Kitô của Thiên Chúa trên trần gian: “Tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Ngài, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (Gióp 19:26-27). Cụ già Simêon đã nhận được phúc lành khi được “ẵm lấy Hài Nhi trên tay” (Lc 2:28). Nhờ ân huệ thị kiến Thiên Chúa, ông đã công bố sứ mệnh thực sự của Chúa Giêsu trên thập giá: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra” (Lc 2: 34-35). Cụ Simêon cũng đã gặp Mẹ Maria, đem đến cho Mẹ một loại Truyền tin “thứ hai”. Mẹ Maria sẽ dự phần riêng của mình trong nỗi đau khổ của thập giá: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2: 35). Là môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta chắc chắn cũng sẽ chia sẻ nỗi đau khổ cứu chuộc của Ngài, bằng nhiều cách, nhưng cuối cùng sẽ là niềm hân hoan như cụ già Simêon lên tiếng chúc tụng Thiên Chúa: “Chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân” (Lc 2: 30).

  1. Cuộc gặp gỡ của bà Anna với Chúa Kitô

Bà Anna, dù là một phụ nữ, lại già cả, nhưng bà là một phụ nữ đạo hạnh và can đảm. Bà có khả năng đem lại niềm hứng khởi cho những người khác. Bà được biết đến như một nữ ngôn sứ, nghĩa là bà cũng được phúc thị kiến Thiên Chúa, như trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Malakhi đã từng báo trước: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Ngài. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến” (Ml 3: 1). Thánh Luca đã nói về bà như một nhân vật có gia thế rõ ràng trong lịch sự hình thành dân tộc Israel: “Con ông Pơnuên, thuộc chi tộc Ase” (Lc 2:36). Bà đã kết hôn và góa chồng, sau đó dành cả cuộc đời để phục vụ Chúa trong đền thờ, liên tục thờ phượng, cầu nguyện, ăn chay và trông đợi Đấng Mêsia. Khi nhìn thấy Chúa Giêsu, bà biết rằng đó là thời điểm Thiên Chúa viếng thăm, không giống như nhiều người Israel “đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (Luca 19:44). Khi gặp Chúa Giêsu, bà ngay lập tức thể hiện vai trò ngôn sứ của mình: “Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem” (Luca 2:38).

Chúng ta có tin tưởng và mong chờ Thiên Chúa không? Làm thế nào để chúng ta gặp được Chúa Kitô trong lời cầu nguyện và các bí tích và sau đó giúp cho người khác gặp Chúa Kitô qua chúng ta? 

  1. Cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Kitô

Cụ già Simêon đã cầu nguyện với Chúa: “Chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài” (Lc 2: 30-32). Sau này Chúa Giêsu xác nhận điều đó: “Ta là ánh sáng của thế gian” (Ga 8:12). Chúa Giêsu là ánh sáng của thế gian và của cuộc đời chúng ta. Ngài muốn chiếu sáng vào mọi góc tối tăm trong cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng nên tươi sáng. Chúa Giêsu muốn mang lại cho chúng ta niềm vui, sự bình an và một tương lai đáng hy vọng bằng cách sẵn lòng chịu chết trên thập tự giá vì chúng ta. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Trên Thập giá, Chúa Giêsu sẽ được xác nhận một cách dứt khoát như một dấu chỉ của sự mâu thuẫn, và chính tại đó, trái tim của Mẹ Ngài sẽ bị đâm thủng bởi lưỡi gươm đau thương. Chúng ta được kể tất cả mọi điều ngay từ đầu, vào ngày lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ, vào ngày thứ 40 sau khi Chúa Giêsu sinh ra...” (Bài giảng, Chúa Nhật, ngày 2 tháng 2 năm 1997).

Đây cũng là khoảnh khắc Thiên Chúa mặc khải Chúa Kitô, là Thầy thượng tế đích thực cho chính đền thờ: “Chúa Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai” (Hípri 9:11). Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Đấng đã được mong đợi trong nhiều thế kỷ đã bước vào đền thờ Giêrusalem, Đấng thực hiện lời hứa của Giao ước Cũ: Đấng Mêsia đã được báo trước… Người Con mới sinh của Mẹ Maria đến Giêrusalem là một biến cố quyết định trong lịch sử cứu độ…Đền thờ đang chờ đợi, một cách đặc biệt nhất, Đấng đã được hứa. Do đó, sự xuất hiện của Ngài có ý nghĩa tư tế: “Ecce sacerdos magnus”; kìa, Thượng tế đích thực và vĩnh cửu bước vào đền thờ” (đã dẫn trên).

Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5:14). Chúng ta cần chia sẻ ánh sáng đó với người khác. Đó là món quà chúng ta dành ban tặng cho người khác.

Dù ở nhà, ở nhà máy, ở nơi làm việc hay nơi khu xóm, đường phố, mỗi chúng ta đều được Chúa Giêsu chọn để tỏa sáng như ánh sáng của Ngài, để phản chiếu tình yêu của Thiên Chúa cho người khác. Do vậy, bất cứ nơi nào có thể, vì là người theo Chúa Giêsu, chúng ta cần phải chiếu sáng bằng tình yêu thương, bằng lời nói tử tế, bằng sự tha thứ và bằng thái độ dịu dàng, bằng cử chỉ thân tình đối với người khác để chiếu tỏa tình yêu của Thiên Chúa cho họ. Chúng ta hãy là ánh sáng và đem lại niềm hứng khởi cho cuộc sống của những người khác.

Ngay cả các bậc cao niên cũng có vai trò riêng trong việc phản chiếu tình yêu thương của Thiên Chúa. Các bậc lớn tuổi nên tin tưởng rằng có nhiều sứ vụ cần làm trong Hội Thánh và công việc Chúa Giêsu giao cho chúng ta có thể chỉ mới bắt đầu. Những người trẻ cần trân trọng các bậc cao niên, đừng quên vai trò của các ngài trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ. Các ngài có rất nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống gia đình, xã hội và tâm linh, để cống hiến và tất cả chúng ta đều có thể học hỏi rất nhiều điều từ các ngài.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con kinh ngạc khi Chúa đến với chúng con trong lịch sử, như trong trình thuật Tin Mừng hôm nay. Chúng con kinh ngạc khi Chúa đến với chúng con trong Bí tích Thánh Thể nhiệm mầu và trong Lời Chúa. Chúng con sẽ còn kinh ngạc hơn nữa khi Chúa lại đến trong uy nghi, khi “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Luca 3:6). Xin Thánh Thần Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng con gặp được Chúa, như cụ già Simêon và cụ bà Anna, để chúng con xây dựng Nước Chúa, chuẩn bị cho Chúa lại đến. Amen.

 

Phêrô Phạm Văn Trung

 

CHẬT ĐẤT

Mồng Ba Tết Ất Tỵ Thánh Hóa Công Ăn Việc Làm

“Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để cày cấy và canh giữ đất đai”.

“Sống không mục đích, bạn như con tàu không bánh lái; một vật trôi dật dờ vô dụng. Sống như thế chỉ thêm chật đất. Hãy sống có mục đích! Dốc hết sức lực của trí óc và cơ bắp vào điều Chúa muốn. Đừng quên, bạn được gọi cho một mục đích!” - T. Carlyle.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa ngày Thánh Hoá Công Ăn Việc Làm tiết lộ nhân vật chính của một câu chuyện lớn. Ngài là ai, làm gì, muốn gì? Nhân vật ấy chính là Thiên Chúa, Đấng tạo nên trời đất biển khơi và muôn loài trong đó. Ngài muốn con người tiếp tục công trình tạo dựng vì nó sẽ sống cho một mục đích - không làm ‘chật đất’ - để “cày cấy và canh giữ đất đai”.

Khởi đầu của vũ trụ không là một ‘tai nạn’ ngẫu nhiên, nhưng là kết quả từ ý muốn yêu thương ngàn đời của Thiên Chúa. Bài đọc Sáng Thế - không cần hiểu theo nghĩa đen - tóm tắt tài tình Giáo Lý Tạo Dựng. Sau năm ngày làm nên mọi sự, từ bụi đất, Thiên Chúa tạo nên con người, đặt nó giữa vườn. Không có gì “ngoạn mục” với chất liệu Ngài dùng! Bụi đất tượng trưng cho thấp kém, không giá trị và hèn mọn. Nhưng Thiên Chúa đã thở vào mũi nó; với hơi thở sự sống thần thánh này, con người không chỉ trở thành một thực thể sống nhưng còn mang hình ảnh Ngài. Có Thần Khí Chúa, con người được phúc chia sẻ với Ngài quyền thống trị vạn vật. Rõ ràng, nó được gọi cho một mục đích!

Mục đích thật rõ: “Để cày cấy và canh giữ đất đai trong vườn”. “Vườn” là “ngôi nhà chung” mà tất cả chúng ta có bổn phận chăm sóc; chăm sóc môi trường, chăm sóc lẫn nhau. Phaolô, người được gọi cho một mục đích đã nêu gương, “Những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp” - bài đọc hai.

Với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu cho thấy sự can đảm của hai hạng người đầu tiên, họ đã mạo hiểm nhân đôi những yến bạc đã nhận. Họ được khen vì đã chu tất những cam kết đối với Ông Chủ và Vương Quốc Ngài. Họ nhìn những ân ban trong sự ngạc nhiên. Cuộc sống, sức khoẻ, đức tin, tài năng và ‘những con người’ được ban đã làm nên cuộc đời họ. Họ không ngừng tạ ơn Thiên Chúa; chính việc tạ ơn giúp họ phát triển mối quan hệ đáng yêu này ngày một thắm thiết hơn. Đầy tớ thứ ba đã đánh mất những gì anh có. Một khi quà tặng không được sử dụng, sự tốt lành của Thiên Chúa lập tức bị nghi ngờ. Anh quên rằng, anh được gọi cho một mục đích! Sự hiện diện của anh chỉ thêm ‘chật đất!’.

Anh Chị em,

“Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn”. Bạn và tôi được “đặt vào vườn” cho một mục đích. Hạnh phúc thay khi được chia sẻ quyền làm chủ vạn vật với Chúa; như thế, lao động chính là cộng tác với Ngài. Vì vậy, hãy “dốc hết sức lực của trí óc và cơ bắp” trong Năm Mới này với tâm thức của một nhà đầu tư, khai phá; đừng làm gì với tâm thức của một tù nhân! Mục đích chỉ đạt được khi chúng ta biết để Thiên Chúa cùng làm, cùng suy tư, cùng học hỏi với “Chúa muôn trùng cao cả” - Thánh Vịnh đáp ca. Hãy dành cho Ngài một chỗ - từ khởi sự cho đến hoàn thành - trong mọi công việc; biến lao nhọc thành niềm vui và hạnh phúc đời sau bằng sự mạo hiểm can đảm hôm nay!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con sống lây lất vốn chỉ thêm ‘chật đất’. Cho con dám chấp nhận rủi ro để nhân đôi, nhân nhiều lần ‘ngân sách’ đã nhận!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

LỄ DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THỜ

Chúa Nhật 4 Thường Niên C

Mal 3:1-4. Heb. 2:14-18. Lk 2: 22-40. 

Hôm nay, Giáo Hội mừng kính Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh. Sau khi sinh hạ Chúa Hài Nhi bốn mươi ngày, Đức Maria lên Đền Thờ tham dự các lễ nghi để được thanh tẩy theo luật. Gia đình Thánh Gia cùng đi lên Đền Thờ. Đền thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện ở trần gian với con dân của Ngài. Con Thiên Chúa lần đầu đến Nhà Cha của Ngài. Giây phút Thánh Gia có mặt ở Đền thờ là giây phút Chúa Thánh Thần mặc khải cho hai vị ngôn sứ là Simeon và Anna. Hai vị đã vui mừng gặp được Đấng mà các ngôn sứ đã loan báo. Họ nhận ra Chúa Hài Nhi là vinh quang cho đân Israel.

Khi dâng Đức Giêsu trong đền thờ, Đức Maria nhận ra sứ mệnh đặc biệt của Hài Nhi Giêsu. Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa, Đức Maria và Thánh Giuse được trao quyền chăm sóc và dưỡng nuôi. Hai Ngài là người ấp ủ và chở che cho Hài Nhi từ lúc sơ sinh cho đến tuổi trưởng thành. Thánh Gia đã chu toàn lề luật và cầu Chúa chúc phúc cho Con Trẻ. Đức Maria đã mang theo lễ vật cần thiết cho việc thanh tẩy chính mình và dâng con cho Thiên Chúa, đó là hai con bồ câu non. Hơn thế nữa, Giuse và Maria muốn dâng lên Thiên Chúa quà tặng tuyệt vời là chính Đức Giêsu.

Cụ Simeon và Anna đã nhận biết Hài Nhi là ánh sáng và là Đấng Cứu Độ đã đến trong trần gian. Simeon cũng tiên báo về bóng tối sẽ phủ bóng trên Đức Maria, khi một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Mẹ. Những lời tiên báo được ứng nghiệm nơi Mẹ Maria, khi chính Đức Giêsu bị người ta tẩy chay, chối từ, phỉ báng, bắt bớ, đánh đòn, chịu đau khổ và chết trên thập giá. Mọi sự đã ứng nghiệm trọn vẹn những lời tiên báo của các ngôn sứ (Lc 2, 34-35). Mẹ Sầu Bi đứng dưới chân Thánh Giá chứng kiến mọi khổ đau của Con mình.

Lễ Đức Mẹ Dâng Con cũng còn được gọi là Lễ Nến (nến được làm phép trong Thánh Lễ). Nến tượng trưng cho ánh sáng, Chúa Giêsu là ánh sáng đến trong trần gian. Theo truyền thống của nhiều Văn Hóa khác biệt, có nhiều nơi tới Lễ hôm nay, mới tháo dỡ Hang Đá, kết thúc Mùa Giáng Sinh. Cộng Đồng người Nam Mỹ, có truyền thống mang tượng Chúa Hài Nhi đến nhà thờ trong dịp Lễ Dâng Con để được làm phép. Thêm nữa, nơi nhiều Giáo Xứ đã mời gọi các cha mẹ đem con trẻ đến tham dự thánh lễ để dâng con và được các linh mục đặt tay cầu nguyện chúc lành. Giáo Hội luôn rộng mở cửa để đón nhận luồng gió mới của Chúa Thánh Thần. Đời sống của Giáo Hội luôn thích ứng với mọi hoàn cảnh sống và sinh hoạt của các Kitô hữu và các nền văn hóa. Hãy mở cửa, đón Chúa Kitô.

Lạy Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng soi trần gian, xin chiếu giãi ân sủng vào tâm hồn mỗi người chúng con, đặc biệt là các em nhỏ được nhóm lên ánh sáng của đức tin và các nhân đức. Lạy Mẹ Maria, xin giúp đỡ các bà mẹ luôn can đảm bảo vệ và giữ gìn ánh sáng đã nhận được trong ngày chịu Phép Rửa Tội. Nhờ đó, mỗi người chúng con sẽ sẵn sàng cầm đền cháy sáng ra đón Chúa Kitô ngày sau cùng.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

VĨ NHÂN CỦA CÁC VĨ NHÂN

Mồng Hai Tết Ất Tỵ Cầu Cho Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ

“Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên, chúng ta nhớ tục “bỏ mả” của một số dân tộc vùng cao. Sau khi chôn người chết, hàng ngày, con cháu mang cơm nước ra mộ; khoảng một năm sau, họ làm lễ bỏ mả. Nghi lễ này được tổ chức linh đình. Sau đó, họ san phẳng mộ; từ đó, không ai nhớ đến nó nữa. “Bỏ mả”, “bãi mả” gần như bắt buộc trong nếp du canh, du cư.

Người Công Giáo không bỏ mả, không quên ông bà tổ tiên; nhưng kính nhớ các ngài. Huấn Ca coi các ngài như những vĩ nhân, “Các ngài là những vị đạo hạnh, công đức các ngài không chìm vào quên lãng!” - bài đọc một. Sinh ra các vĩ nhân và thánh nhân, các ngài xứng với danh hiệu ‘vĩ nhân của các vĩ nhân!’. Các ngài được kính nhớ trọn tháng Các Đẳng; ngày đầu năm; trong mỗi thánh lễ; và ba lần mỗi ngày, sau kinh Nhật Một.

Trước hết là công ơn sinh thành dưỡng dục của các ngài. “Sinh” là xé ruột, rứt ruột, rút ruột… máu chảy lênh láng; “Dưỡng” là cho ăn, cho mặc; “Dục” là giáo dục, dạy cho nên người, nên thánh. Không được “dục”, nhất định không thành người. Một em bé được thả vào rừng - vì sinh tồn - có lẽ sẽ kiếm được cái ăn, cái uống, nhưng đó không phải là một con người toàn diện mà chỉ là một con vật ‘hao hao người’. Vì thế, ngoài sinh, dưỡng, còn phải “dục”, “Bé chẳng vin, cả gãy cành!”. Bên cạnh đó, một điều khác còn khó hơn bội phần - gương sáng! Trên đời này, không nghề nào khó hơn làm gương sáng. Như thế, công đức của các đấng sinh thành dành cho chúng ta thật bao la trời bể. Mẹ Hội Thánh dạy chúng ta tôn kính các ngài - ‘vĩ nhân của các vĩ nhân’ - và không ‘bỏ mả’ là phải lẽ.

Lần kia, đang điểm tâm với một đôi vợ chồng Pháp trên một phố cổ, tôi thấy từ trên xe bước xuống một nhóm cỡ chừng sáu bảy người. Điều đáng nói là trong nhóm, có một cụ bà trạc ngoài 80. Một người đàn ông, khoảng lục tuần, dìu bà xuống xe; đúng hơn, ông ta nâng niu, dắt bà vào tiệm. Khi ăn, ông gắp và đút cho bà từng cọng bún một với chiếc khăn trên tay. Nhìn từng cử chỉ ấy, tôi lặng người! Những người bạn Pháp hỏi tôi làm sao thế; tôi nói với họ, tôi thèm, tôi ghen với ông ấy. Mắt tôi bỗng cay cay! Giờ đây, tôi ước được cầm tay dắt ba mẹ mình, ít là một lần, nhưng không thể; ‘nửa lần’ cũng không.

Tiếp đến, bạn đối xử làm sao với cha mẹ, con cái sẽ đối xử với bạn như thế! Không cần đợi 30, 40 năm sau, nhưng nhãn tiền. Bạn hiếu thảo với cha mẹ bây giờ, con cái sẽ thảo hiếu với bạn mai ngày! Chúng ta không nhớ cầu nguyện cho các ngài, con cái sẽ không biết cầu nguyện cho chúng ta; mai kia, bạn nằm ngoài mộ, nào ai nhớ? Không làm gương cho con cái hôm nay, đừng ngạc nhiên khi con cái ‘bỏ mả’ chúng ta mai ngày.

Anh Chị em,

“Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng!”. Công đức các đấng sinh thành góp phần làm nên những gì chúng ta là, chúng ta có! ‘Vĩ nhân của các vĩ nhân’ không chỉ chuyển trao sự sống của Thiên Chúa nhưng còn chuyển trao đức tin cho chúng ta. Vì thế, hãy yêu thương, kính trọng, trân quý các ngài khi các ngài còn sinh tiền và cầu nguyện cho các ngài khi các ngài đã khuất bóng.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ‘bỏ mả’ với các đấng đã khuất; dạy con biết ‘nâng niu’ các bậc chưa khuất!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Subcategories