3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

LỜI CHÚA VÀ SUY NIỆM LỄ CÁC THÁNH

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 5,1-12a): Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. – Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. – Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. – Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. – Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. – Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. – Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. – Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. “Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời…” Ðó là Lời Chúa

- Tin Mừng Matthêu 5, 1-12a là bài giảng của Chúa Giêsu về Tám Mối Phúc Thật, là những phẩm tính, lối sống để trở nên thánh thiện và hưởng Nước Trời. Suy niệm bài này giúp ta hiểu rằng sự thánh thiện không chỉ dành cho những người đặc biệt, mà là con đường cho mọi người, những ai sống nghèo khó trong tâm hồn, hiền lành, sầu khổ, khao khát sự công chính, hay thương xót, có lòng trong sạch, mang lại hòa bình và sẵn sàng chịu bách hại vì Chúa.

  1. Nội dung Tám Mối Phúc Thật.
  • Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ: Nhấn mạnh sự từ bỏ, khiêm nhường, phó thác hoàn toàn vào Chúa, không bám víu vào tiền bạc và danh vọng.
  • Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp: Người hiền lành là người không dùng sức mạnh, bạo lực để đạt được điều mình muốn, mà sống thuận theo ý Chúa.
  • Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an: Không phải là buồn sầu vì những chuyện trần tục, mà là nỗi buồn chân thành của người biết nhận ra tội lỗi và thương xót những khổ đau của người khác.
  • Phúc thay ai khao khát và đói khát sự công chính, vì họ sẽ được no thỏa: Khao khát và làm mọi cách để sống công chính theo ý Chúa và giúp đỡ người khác cũng được sống công chính.
  • Phúc thay ai hay thương xót, vì họ sẽ được xót thương: Sống tình thương và lòng trắc ẩn với mọi người, nhất là những người gặp khó khăn.
  • Phúc thay ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa: Sống trong sạch trong tư tưởng, lời nói và hành động, tâm hồn không vướng bận điều gì ngoài Chúa.
  • Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa: Sống và làm mọi cách để mang lại hòa bình và hòa giải cho mọi người.
  • Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ: Chấp nhận hy sinh, đau khổ vì giữ vững niềm tin và sống ngay lành.
  1. Suy Niệm cho ngày Lễ Các Thánh. Sự thánh thiện là lời mời gọi cho mọi người: Lễ Các Thánh Nam Nữ (1/11) là dịp tôn vinh tất cả những người đã hoàn thành cuộc sống theo Chúa, thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, không chỉ riêng các thánh đã được Giáo Hội công nhận. Mối Phúc Thật là con đường nên thánh: Chúng ta được mời gọi sống theo những giá trị của Mối Phúc Thật, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, để dần trở nên thánh thiện, giống như Chúa. Sống thánh thiện là trở về bản chất được tạo dựng: Chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, nên thánh thiện là sống đúng với bản chất cao quý này. Thánh thiện là hy vọng và sự chắc chắn: Khi đặt hy vọng nơi Chúa và sống thánh thiện, chúng ta tự thánh hóa mình để trở nên giống như Người.
  2. Suy Niệm Thêm. Lễ Các Thánh đến, ta lại nhớ tới câu nói của thánh Augustino: “Ông này bà nọ hay anh ấy chị kia làm thánh được thì tôi cũng làm thánh được”.

- Các thánh không là ai xa lạ, mà là tất cả những ai minh nhiên hay mặc nhiên đón nhận ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô, đã giặt sạch áo mình trong Máu Con Chiên là thông dự vào Mầu Nhiệm Thập Giá và Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô.

- Bắt đầu từ Thánh Mẫu Maria đến hàng hàng lớp thánh nhân thuộc đủ mọi tầng lớp trong xã hội, thuộc mọi màu da và mọi ngôn ngữ mà thánh Thánh Gioan trong sách Khải Huyền được nhìn thấy trong thị kiến, với con số tượng trưng một trăm bốn mươi bốn ngàn người (x. Kh 7,9).

- Các thánh đã từng sống kiếp người như chúng ta trong từng thân phận, hoàn cảnh, địa vị. Từ vua quan đến nô lệ, từ hoàng tước đến bần cố nông, từ ông chủ xí nghiệp đến công nhân thợ thuyền; từ giáo hoàng đến tín hữu, từ tu sĩ đến bậc sống gia đình, từ đồng trinh đến goá phụ, vân vân, tất cả đã nên thánh ngay trong chính kiếp người và bậc sống của mình, biến những sự bình thường thành phi thường, thánh hoá đời sống thường nhật thành cuộc sống thiên thần, qua các mối phúc, được gọi là

 “Hiến Chương Nước Trời mà Chúa Giêsu dạy qua bài Tin Mừng hôm nay.

Những mối phúc này xem ra không hợp với những quan niệm của cuộc sống thông thường. Nhưng đó lại là một nghịch lý mà không vô lý. Nghĩa là trong khi thế gian chạy theo mọi thứ có giá trị tạm thời, thì người theo Chúa dám đi ngược dòng, là tìm những giá trị vĩnh cửu ngay trong những thứ trần thế.

+/ Trong lịch sử Hội Thánh, từ thế kỷ thứ 4, các thánh tử đạo đã được Hội Thánh tôn vinh. Đến thế kỷ thứ 7, đức giáo hoàng Bonifaciô 4 đã cho thu lượm những hài cốt các thánh và chôn cất lại bên trong ngôi đền Pantheon. Từ ngày đó đền thờ này đã được thánh hiến trở thành đền thờ kính các Thánh Nam Nữ của đạo Công Giáo.

- số lượng các thánh giáo hội công giáo đã tôn phong hiển thánh? Các ước tính khác nhau đã được đưa ra. Một nguồn tin ước tính số lượng các thánh đã được chính thức phong thánh tăng lên đến hơn 20.000 nếu tính cả các vị chân phước và các vị thánh được tôn kính tại địa phương.

- bao gồm 81 vị Giáo hoàng, hàng trăm vị tử đạo tại Trung Hoa và Việt Nam, và nhiều vị thánh khác. Việc phong thánh là một quá trình lâu dài, với các quy trình xét duyệt và phê duyệt phức tạp tại Vatican.

- Các nhóm thánh được tôn phong. Giáo hoàng: 81 trong số 266 vị Giáo hoàng đã qua đời được công nhận là thánh, bao gồm 35 vị đầu tiên (trong đó có 31 vị tử đạo). Tử đạo Việt Nam: 117 vị tử đạo Việt Nam được phong thánh vào năm 1988. Tử đạo Trung Hoa: 120 vị tử đạo tại Trung Hoa đã được phong thánh từ năm 1633 đến 1930. Ngoài ra, có rất nhiều vị thánh khác được phong thánh trong các giai đoạn khác nhau, bao gồm 10 vị thánh mới được phong thánh vào tháng 10 năm 2024.

- Theo Giáo hội Công giáo, tiến trình chính thức phong thánh của Tòa thánh chỉ được thiết lập từ thế kỷ 10. Cần ghi nhớ là tất cả các linh hồn trên Thiên đàng đều là thánh, Giáo hội tin rằng tất cả những ai đã về với Chúa đều là các thánh. Việc tôn phong hiển thánh chỉ là sự công nhận chính thức của Giáo hội rằng một người đã sống một đời sống thánh thiện anh hùng và xứng đáng được toàn thể Giáo hội kính nhớ và noi gương.

- Các vụ phong thánh gần đây: Giáo hoàng Phanxicô: Trong những năm đầu triều đại giáo hoàng của ngài, đã có những vụ phong thánh với số lượng lớn, bao gồm 800 vị tử đạo ở Otranto, Ý, trong một lần phong thánh năm 2013. Một số giáo hoàng gần đây: Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong 482 vị thánh, Giáo hoàng Biển Đức XVI phong 45 vị và Giáo hoàng Phanxicô đã phong 893 vị (tính đến giữa năm 2019).

- Nên thánh là bổn phận của người tín hữu, như lời thánh Phêrô nói với chúng ta trong 1 Pr 1, 15-16: Bởi vì Đấng kêu gọi anh em là Đấng Thánh, anh em cũng vậy, anh em hãy nên thánh trong mọi hành động của anh em, như đã được viết: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh.

- Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã viết: Đã có rất nhiều vị thánh, bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh.

+/ Sau hết, để kết thúc, ta hãy nghe những lời bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ về các thánh như sau: Các thánh không cần chúng ta tôn vinh và lòng tôn kính của chúng ta cũng chẳng thêm gì cho các ngài…nhưng khơi lên hoặc thôi thúc mãnh liệt hơn trong ta niềm khát vọng đầu tiên này: đó là mong được họp đoàn với các ngài, được xứng đáng làm người đồng hương và làm bạn hữu với các thánh, được liên kết với chư vị tổ phụ, với hàng ngôn sứ, với bậc tông đồ, với hàng hàng lớp lớp các vị tử đạo, với cộng đoàn các vị tuyên xưng đức tin, với đoàn trinh nữ. Amen

Linh Mục G.B Nguyễn Ngọc Nga

KHÔNG AI BỊ THIÊN CHÚA LOẠI RA TRỪ KHI HỌ MUỐN THẾ

Niềm hy vọng Kitô giáo không phải là một sự mong chờ mơ hồ hay một ước muốn viển vông, mà là một sự đảm bảo chắc chắn, được neo bám vào tình yêu thương vững bền của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tình yêu thương này được biểu lộ qua kế hoạch cứu độ hoàn hảo của Ngài, trong đó, mỗi tín hữu được mời gọi sống trọn vẹn sự công chính và bền đỗ trong hy vọng, ngay cả khi phải bước qua “thung lũng tối tăm” của đời sống.

  1. Ý muốn tối thượng của Chúa Cha

Trong lời tuyên bố mang tính căn cốt về bản chất sứ vụ của Chúa Giêsu và ý muốn tối thượng của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu khẳng định: “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài…tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6: 37-39).

Lời Chúa Giêsu “ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài” là nền tảng của ơn cứu độ. Lời đó khẳng định tính phổ quát và không giới hạn của ơn gọi làm con cái Thiên Chúa. Đó là sự đảm bảo tuyệt đối về lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngay cả những người tội lỗi nhất, nếu họ thực lòng ăn năn và đến với Chúa Kitô, đều được Ngài đón nhận và bảo đảm sự sống đời đời. Ý muốn của Chúa Cha đạt đến đỉnh cao nơi lời hứa về sự sống lại: “Cho họ sống lại trong ngày sau hết” và “được sống muôn đời” (Ga 6, 39-40). Lời hứa này là trung tâm của niềm hy vọng Kitô giáo. Sức mạnh phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô trở nên sự bảo đảm vững chắc cho sự phục sinh và niềm hy vọng Kitô giáo của những người tin vào Ngài.

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nhấn mạnh rằng: “Thánh ý Chúa Cha là nâng loài người lên, cho họ được dự phần vào sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa thực hiện điều này bằng cách quy tụ người ta quanh Con của Ngài, là Chúa Giêsu Kitô. Cộng đồng được quy tụ này, chính là Hội Thánh, là hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Thiên Chúa trên trần gian” (GLHTCG, số 541).

Chúa Kitô, Đấng không giới hạn lòng thương xót, sẽ mở rộng vòng tay ôm ấp những người đã sa ngã trong đời sống trần thế, nhưng đã biết thực lòng ăn năn và hướng về Chúa, ban cho họ sự sống đời đời và sự bảo đảm mà chỉ Ngài mới có thể ban.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, trong Thông điệp Spe Salvi - Hy Vọng Cứu Độ - đã tập trung vào sự sống vĩnh cửu này. Ngài giải thích rằng: “Đức tin và niềm hy vọng trong Tân Ước và trong thời kỳ Kitô Giáo tiên khởi…không chỉ quá khứ mà thôi, nó cũng liên quan đến chúng ta nơi đây và hiện nay…Đức tin là chất liệu của hy vọng” (số 10). Đức Thánh Cha chỉ ra một nghịch lý trong tâm khảm của mỗi người: “Chúng ta không biết điều chúng ta thực sự muốn; chúng ta không biết “sự sống” thật này; nhưng chúng ta biết rằng chắc chắn có một điều chúng ta không biết mà chúng ta vẫn cảm thấy bị lôi cuốn về đó” (số 11). Ngài giải thích rõ ràng: “Chúng ta muốn chính sự sống, sự sống thật, không bị động chạm đến ngay cả bởi cái chết… giống như là nhào vào đại dương của tình yêu vô hạn, một thời khắc trong đó thời gian - trước và sau - không còn hiện hữu nữa. Chúng ta chỉ có thể nghĩ một thời khắc như vậy là một cuộc sống đầy đủ ý nghĩa, một sự nhận chìm mới mẻ chưa từng có vào trong cõi bao la của nhân sinh, trong đó chúng ta ngập tràn niềm vui như Chúa Giêsu đã diễn tả trong Tin Mừng theo Thánh Gioan 16: 22: “Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Spe Salvi, số 10-12).

Giáo hội Việt Nam thể hiện niềm hy vọng cứu độ mạnh mẽ qua các hoạt động bác ái xã hội, đặc biệt là chăm sóc và giúp đỡ người nhiễm HIV/AIDS hoặc người nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng. Nhiều cộng đoàn tu sĩ, linh mục đã mở các mái ấm để đón nhận những người bị kỳ thị, ruồng bỏ. Tại đây, những người này được chăm sóc y tế, yêu thương, và phục hồi phẩm giá, giúp họ tìm lại niềm tin và mục đích sống. Những hành động này cụ thể hóa ý muốn của Chúa Cha: “Tôi sẽ không để mất một ai” (Ga 6: 39).

  1. Tình yêu vô điều kiện và giao hòa

Để đảm bảo không mất một ai, Thiên Chúa đã chọn một con đường cứu độ không ai nghĩ ra được: Con Ngài đã chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là thù nghịch. Thánh Phaolô đã diễn tả mầu nhiệm này một cách mạnh mẽ phi thường: “Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5: 8). Tình yêu của Thiên Chúa không phải là đền đáp sự thánh thiện của chúng ta, mà là một sáng kiến đi trước của Ngài, được “tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần” (Rm 5: 5). Tình yêu này là tình yêu agape, tình yêu hoàn toàn vô vị lợi, tự hiến và chết cho người khác ngay cả khi người ấy chống nghịch Ngài.

Thánh Augustinô đã dạy rất sâu sắc rằng ngay cả hành động muốn đến với Chúa Kitô (Ga 6: 37) cũng là do ân sủng tác động trước - gratia praeveniens - của Chúa Thánh Thần. Sự công chính hóa không đến từ công trạng của con người, mà đến từ cái chết tự hiến của Chúa Kitô, là ơn ban của tình yêu hoàn toàn cho không: “Ân sủng của Chúa không được ban theo công phúc của chúng ta. Sự thật là, chúng ta thấy ân sủng được ban không chỉ khi không có điều tốt lành, mà thậm chí khi có nhiều điều xấu xa đi kèm: và chúng ta thấy ân sủng được ban cho như vậy hàng ngày. Nhưng rõ ràng là khi ân sủng được ban cho, những công việc tốt lành của chúng ta cũng bắt đầu xuất hiện - nhưng chỉ nhờ ân sủng. Vì vậy, ngay khi bắt đầu có công phúc, đừng gán chúng cho chính mình, mà phải qui chúng cho Thiên Chúa, như tác giả Thánh vịnh đã thưa lên rằng: Xin hãy giúp đỡ con, xin đừng bỏ rơi con” (Thánh Augustinô, De gratia et libero arbitrio, chương 13).

Như vậy, cái chết của Chúa Kitô ban cho con người: 1/ Ơn công chính hóa: nhờ máu Chúa Kitô, chúng ta được tẩy sạch tội lỗi, xóa bỏ án phạt và được Thiên Chúa chấp nhận: “Chúng ta đã nên công chính trong máu của Ngài” (Rm 5: 9). 2/ Ơn giao hòa và cứu độ: “Khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô” (Rm 5: 10). Đây là sự đảm bảo tuyệt đối của ơn cứu độ (Rm 5: 10).

Cuộc đời của Donald Calloway khởi đầu đầy bất ổn: từ năm 13 tuổi, sau khi cha mẹ ly hôn, cậu lao vào cuộc sống nổi loạn, nghiện ngập ma túy, rượu, và liên tục bỏ nhà đi. Cậu phạm nhiều tội lỗi, bao gồm ăn cắp, buôn bán ma túy, và bị bắt giữ nhiều lần ở nhiều quốc gia, sống trong bế tắc và không còn niềm tin.

Năm 20 tuổi, sau một đêm hỗn loạn, Calloway tình cờ đọc một quyển sách về Mẹ Fatima. Tình yêu của Mẹ Maria đã mang lại bình an, giúp cậu cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa. Cậu ăn năn, xưng tội sau 10 năm xa cách Bí tích, và thay đổi hoàn toàn cuộc đời, trở thành một Kitô hữu Công giáo nhiệt thành.

Sau đó, Donald Calloway gia nhập Dòng Tu Sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm và được thụ phong linh mục. Hiện nay, Cha Calloway là một tác giả và diễn giả quốc tế, chuyên rao giảng về lòng Thương Xót Chúa và vai trò của Mẹ Maria. (Calloway, Donald H., MIC. No Turning Back: A Witness to Mercy. Marian Press, 2011).

Không có tội nhân nào ngoài tầm với của ơn cứu độ. Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ ba, ngày 19/01/2016, tại nhà nguyện thánh Mátta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ rằng: “Chẳng vị thánh nào không có một quá khứ, cũng chẳng tội nhân nào không có một tương lai. Thiên Chúa không bao giờ dừng lại ở dáng vẻ bề ngoài mà luôn nhìn sâu vào tận tâm tư cõi lòng của con người.”

  1. Thử thách và vinh hiển muôn đời

Sách Khôn Ngoan trong bài đọc thứ nhất lại đưa ra bối cảnh thực tế của hành trình đức tin: đó là sự thử thách: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Đối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. ... vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.”

Đây là một lời an ủi sâu sắc cho những ai chịu đau khổ vì đức tin hoặc vì sự công chính. Đau khổ và cái chết chỉ là vẻ bề ngoài của sự thất bại “hình như các ngài đã chết”, nhưng thực tế, các ngài “sống trong bình an” và “lòng cậy trông của các ngài cũng không chết.”

Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường xuyên nhắc nhở rằng Giáo hội luôn đồng hành với những người đang đau khổ, đặc biệt là những người “bị loại ra” khỏi xã hội: “Thiên Chúa đã có sáng kiến, Ngài đã yêu chúng ta trước (xem Ga 4:19), và vì thế chúng ta có thể dấn bước, mạnh dạn có sáng kiến, đến với người khác, tìm kiếm những người sa ngã, đứng ở các ngả đường để đón mời những người bị gạt ra bên lề” (Evangelii Gaudium, 2013, số 24). Ngài mời gọi các Kitô hữu nhìn vào đau khổ với ánh mắt của Khôn Ngoan: “Là người rao giảng Tin Mừng tuyệt hảo và là hiện thân của Tin Mừng, Chúa Giêsu đặc biệt tự đồng hoá mình với những người hèn mọn (Mt 25:40). Sự kiện này nhắc nhớ người Kitô hữu chúng ta rằng chúng ta được kêu gọi chăm sóc những người dễ bị tổn thương trên thế giới này…Điều cơ bản là phải tiếp cận các hình thức mới của tình trạng nghèo khó và dễ tổn thương mà chúng ta được kêu gọi đi vào để nhận ra Chúa Kitô chịu đau khổ, cả khi việc này có vẻ như không mang lại cho chúng ta lợi ích cụ thể và tức thời nào” (số 209-210).

Đó là một cuộc thử thách để thanh luyện, để “sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa”. Sự bền đỗ của người công chính là kết quả của tình yêu đã được tuôn đổ: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5: 5). Chính sức mạnh của Thánh Thần giúp chúng ta trung thành với Chúa trong tình yêu. Vinh dự cuối cùng của người công chính là được tham dự vào vương quyền của Thiên Chúa: “Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời.”

Đó cũng là vinh dự của mọi tín hữu đã ly trần, vốn đã “thấy Người Con và tin vào Người Con”, cũng sẽ “được sống muôn đời…và sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6: 40) trong ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa Ba Ngôi và trong niềm vui bình an vĩnh cửu.

 

Phêrô Phạm Văn Trung

KHI TÌNH YÊU KHÓC

Thứ Sáu Tuần 30 Thường Niên C

“Lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi!”.

Về hưu, cựu Tổng thống Thomas Jefferson lập Đại học Virginia, tin rằng sinh viên sẽ học hành nghiêm túc. Nào ngờ, một vụ bạo động đổ máu xảy ra, các giáo sư bị tấn công! Hôm sau, trong cuộc họp có mặt Jefferson, ông nghẹn ngào nói, “Đây là sự kiện đau đớn nhất đời tôi!”, rồi bật khóc. Các sinh viên nổi loạn bước lên nhận lỗi. Sau này, một người nói, “Không phải lời ông, mà là nước mắt của ông ấy đã cảm hoá chúng tôi!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Jefferson chạm phải một nỗi đau; và ‘khi tình yêu khóc’, nó đã chạm đến điều sâu thẳm nhất! Lời Chúa hôm nay cho thấy một nỗi đau còn lớn hơn - nỗi đau của Phaolô, của Chúa Giêsu. Trước sự cứng lòng của đồng bào mình, Phaolô thở than, “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi!”; Chúa Giêsu cũng đau một nỗi đau tương tự.

Một lý do khiến Phaolô vô cùng đau đớn là việc những người anh em của ông từ chối Chúa Kitô. Ở nhiều nơi, họ còn chống lại các Kitô hữu mà họ coi là bội giáo. Thế nhưng, ‘khi tình yêu khóc’, nó không oán trách, nhưng dâng chính mình làm của lễ. Phaolô sẵn sàng chịu tách khỏi Chúa Kitô, nếu điều ấy giúp anh em ông nhận biết Ngài. Đó là một tình yêu có dáng dấp thập giá. “Đau khổ và tình yêu là đôi cánh nâng linh hồn lên cùng Chúa!” - Fulton Sheen.

Tin Mừng hôm nay cho thấy một nỗi đau tương tự nơi Chúa Giêsu. Một biệt phái mời Ngài dùng bữa vào một ngày Sabbat; họ dò xét Ngài. Một người phù thũng xuất hiện - có thể là một cái bẫy! Ngài thừa biết ý định của họ; nhưng với Chúa Giêsu, chỉ có xót thương, và ‘khi tình yêu khóc’, nó vẫn chọn xót thương. Ngài hỏi, “Có được phép chữa bệnh ngày Sabbat hay không?”. Họ im lặng! Ngài “đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về”. Chính sự im lặng của họ làm trái tim Ngài tan vỡ - một trái tim yêu không mỏi mệt.

Trong một thế giới khước từ Thiên Chúa, trái tim người môn đệ Chúa Giêsu không thể dửng dưng. Những tranh luận về sự sống, di dân, nạn buôn người; tranh luận về phẩm giá, tội lỗi và tự do... đang khiến Giáo Hội rướm máu. Chính trong những vết thương ấy, Thiên Chúa vẫn đang khóc qua chúng ta, và tiếp tục cứu độ bằng nước mắt của tình yêu. “Yêu là chịu khổ; yêu sâu là chịu khổ sâu!” - Victor Hugo.

Anh Chị em,

“Lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi!” - đó là tiếng khóc của Phaolô, của Chúa Giêsu, và cũng phải là của chúng ta. Trước sự cứng cỏi của những con người chúng ta yêu thương, khi họ từ chối niềm tin hay đang đắm chìm trong một nghiện ngập, một tội lỗi nào đó; thiết thực hơn, những người bỏ nhà thờ, bỏ Chúa, chúng ta có nhức nhối không? Chỉ ‘khi tình yêu khóc’, nó mới biết mình còn sống; và chính trong nước mắt ấy, Thiên Chúa tiếp tục cứu độ thế gian - không bằng quyền năng, nhưng bằng xót thương; cụ thể bằng những đầu gối đêm ngày cầu nguyện, những việc làm của đôi tay. “Những giọt lệ rơi vì người khác là hình thức cầu nguyện tinh tuyền nhất!” - Kahlil Gibran.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, có những đêm, con không còn lời để cầu nguyện, chỉ còn nước mắt - và con tin, Chúa hiểu thứ ngôn ngữ ấy hơn mọi lời kinh!”, Amen.

Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)

CHÚA HẰNG MƠ

“Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài!”.

“Cha hy vọng - trong số các bạn đang nghe - sẽ có một số vị thánh tương lai của thế kỷ 21. Điều Chúa muốn trên hết đối với chúng ta là nên thánh! Ngài yêu chúng con hơn những gì chúng con có thể tưởng tượng, Ngài muốn điều tốt nhất cho chúng con - lớn lên trong sự thánh thiện - Hãy là một vị thánh hơn là một người nổi tiếng!” - Bênêđictô XVI.

Kính thưa Anh Chị em,

“Hãy là một vị thánh!” - vì ‘Chúa hằng mơ’ chúng ta nên thánh, không cần nổi tiếng! Đó cũng là lời mời gọi của ngày Lễ Các Thánh, những người đã “tìm kiếm thánh nhan Ngài” - Thánh Vịnh đáp ca.

Hôm nay Giáo Hội tưởng nhớ tất cả những tâm hồn thánh thiện gồm đàn ông, phụ nữ, trẻ em, các vị tử đạo, mục tử… những ai tuyên xưng đức tin và những con người vô danh đã rửa tội hoặc chưa rửa tội; trong đó, có cả những người thân yêu của chúng ta. Đó là “Một đoàn người thật đông”; đã “Giặt áo mình trong Máu Con Chiên” - bài đọc một - theo những cách thức khác nhau để phản ánh một nhân đức về chân dung người môn đệ được Chúa Giêsu phác hoạ. “Thánh thiện đích thực không làm bạn bớt người, nhưng khiến bạn nên ‘người’ trọn vẹn hơn!” - Gioan Phaolô II.

Và nếu các mối phúc là chân dung hoàn hảo của chính Chúa Giêsu, thì từng mối phúc là chân dung của từng vị thánh; mỗi vị mỗi vẻ làm nên triều thần thiên quốc. “Họ chính là bản chú giải sống động của các mối phúc!” - Von Balthasar. Họ không để mình “rơi vào tinh thần thế tục của thời đại”, nhưng “vượt lên thời đại”; một số, thậm chí đã “thay đổi thời đại!”. Giữa sai trái, họ cuốn hút bao người tìm về Chân Lý, Đấng họ phụng thờ. Không cần người đời biết đến, họ chỉ mong trở nên con người ‘Chúa hằng mơ’ họ trở thành.

Các thánh còn là những con người đang cầu nguyện cho bạn và tôi. Họ nói, sự thánh thiện có thể có ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào; chúng ta sẽ nên giống Chúa; nhưng ‘lúc này và ở đây’, “Chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” - bài đọc hai - chia sẻ sự sống thần linh nhờ phép Rửa - nền tảng sự thánh thiện của mỗi người!

Anh Chị em,

“Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài!”. “Tìm kiếm thánh nhan Ngài” không là làm điều phi thường, nhưng để Chúa làm điều phi thường trong chúng ta. Như Carlo Acutis, người trẻ của thời kỹ thuật số; như đôi phu thê Louis và Zélie Martin, nên thánh giữa bổn phận hằng ngày và tình yêu gia đình; như Henry Newman, trí thức can đảm tìm kiếm Chân Lý. Tất cả họ cho thấy, nên thánh không phải là trốn đời, nhưng là để Chúa Kitô sống trọn trong đời. “Như các vì sao tạo nên chòm sao - một ngôi sao đơn lẻ, chỉ có một điểm sáng, nhưng nhiều ngôi sao hợp lại, sẽ thành một chòm sao soi sáng cả bầu trời. Mỗi người là một vì sao của Thiên Chúa. Đừng chỉ ngước nhìn sao băng với ước mơ mong manh, nhưng hãy hướng lên Chúa Kitô, Mặt Trời Công Chính!” - Lêô XIV.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con là sao băng vụt tắt, nhưng là vì sao trong chòm sao các thánh; không ‘rơi vào tinh thần thế tục của thời đại’, nhưng ‘vượt lên thời đại’; và sẽ ‘thay đổi thời đại!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

NGƯỜI KHIÊM NHƯỜNG SẼ ĐƯỢC QUÝ MẾN, YÊU THƯƠNG

(Suy niệm Tin mừng Luca (Lc 18, 9-14) trích đọc vào Chúa nhật 30 thường niên)

Người khiêm nhường thật diễm phúc vì vừa được Thiên Chúa yêu mến vừa được mọi người quý chuộng. Vì thế, Chúa Giê-su thường dạy chúng ta phải sống khiêm nhường. Ngài nói: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.”

Để minh họa cho bài học của mình, Chúa Giê-su dùng dụ ngôn “Chọn chỗ cuối.” Ngài nói: Khi được mời dự tiệc cưới, khách mời đừng tự ý ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật tầm cỡ đến sau, bấy giờ chủ nhà sẽ mời người ấy nhường chỗ cho vị khách đến sau thì thật là mất mặt. Tốt hơn, khách mời nên chọn chỗ cuối và khi được chủ nhà mời lên trên thì sẽ được vinh dự trước mặt những người đồng bàn (Lc 14, 7- 11).

Ngoài ra, qua dụ ngôn “Người biệt phái và người thu thuế”, Chúa Giê-su cũng dạy ta sống khiêm nhường. Ngài đề cập đến một người biệt phái tự phụ, vênh vang, phô trương công đức của mình, tự cho mình thánh thiện, đạo đức và khinh thường người khác. Ông nói: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”

Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”

Quả là ông có nhiều thành tích tốt lành ít ai bì kịp. Thế nhưng ông không nhận được ơn lành của Thiên Chúa vì ông ta như chiếc bình đầy tràn, đầy kiêu căng tự phụ, nên chẳng còn chỗ cho Chúa rót ân sủng vào.

Trong khi đó, người thu thuế vốn biết thân phận tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”

Anh nầy đến với Chúa như một chiếc bình trống rỗng, nghĩa là với lòng khiêm nhường, thống hối và khao khát được Chúa tuôn đổ ơn tha thứ… nên đã được Thiên Chúa rót đầy tình yêu thương và sự thứ tha.

Với dụ ngôn nầy, Chúa Giê-su ghi sâu bài học đáng nhớ nầy vào tâm khảm chúng ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14).

Chúa hạ bệ người kiêu căng

Lời Mẹ Maria thốt lên khi viếng thăm bà Ê-li-da-bét cho ta biết rằng Thiên Chúa sẽ hạ bệ những người kiêu căng. Mẹ nói:

“Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.”

Ngoài ra, người tự cao cũng bị người đời ghét bỏ.

Trong giao tế hằng ngày, người có tính tự cao, tự phụ, tỏ ra trỗi vượt người khác trong lối sống lẫn trong ứng xử, nói năng… chắc chắn sẽ bị mọi người xa lánh, chê bai…

Chúa nâng cao những kẻ khiêm nhường

Trái lại, Chúa tỏ lòng yêu mến kẻ khiêm nhường. Điều nầy được Mẹ Maria khẳng định:

“Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường…”

Và qua dụ ngôn “Người biệt phái và người thu thuế”, Chúa Giê-su cũng cho chúng ta biết mặc dù người thu thuế mang đầy tội lỗi, đáng bị lên án, nhưng nhờ có thái độ khiêm tốn và hoán cải, nên được Chúa thương xót và tha thứ.

Ngoài ra, trong đời sống thường ngày, những người biết hạ mình, khiêm nhường trong lời ăn tiếng nói, trong cách ứng xử… thì luôn được mọi người tôn trọng, quý mến.

Như thế, quả đúng như lời Chúa Giê-su dạy: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai tự hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”

Lạy Chúa Giê-su

Qua sứ điệp Tin mừng hôm nay, Chúa trao cho chúng con bí quyết để được Thiên Chúa và mọi người yêu mến, đó là không tôn mình lên, không bao giờ tự cao tự đại nhưng biết sống khiêm tốn với mọi người.

Xin cho chúng con biết vận dụng bài học quý báu nầy vào cuộc sống để luôn được hạnh phúc an vui. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin mừng Luca 18, 9-14

9 Đức Giê-su còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác:10 "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế.11 Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.12 Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.13 Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.14 Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."

 

Subcategories