3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

THÁCH ĐỐ

Thứ Bảy Tuần 24 TN C

“Ai có tai nghe thì nghe!”.

Frank Lloyd Wright - kiến trúc sư vĩ đại người Mỹ - từng đối diện một thách đố: thiết kế Imperial Hotel tại Tokyo, nơi thường xuyên động đất. Ông kiến tạo một nền móng “nổi” trên lớp bùn dày hơn 20m, trải dài hàng vạn mét vuông. Khi hoàn tất, khách sạn đã đứng vững sau một trận động đất khốc liệt, đang khi nhiều toà nhà chung quanh sụp đổ.

Kính thưa Anh Chị em,

Như Frank L. Wright từng đối diện một thách đố, Tin Mừng hôm nay cũng đặt chúng ta trước một ‘thách đố!’: tâm hồn bạn và tôi là loại đất nào cho Lời Chúa sinh hoa kết quả - đất đường, đất sỏi, đất gai hay đất tốt? Và Chúa Giêsu kết thúc, “Ai có tai thì nghe!”.

‘Đất đường’ là đất đã biến chất khi tâm hồn chúng ta hoá cứng. Chúa Thánh Thần luôn soi dẫn làm điều đúng đắn, nhưng chúng ta lờ đi; và rồi, ma quỷ, như chim chóc sà xuống cướp lấy. ‘Đất đá!’ - Vui nhận Lời và bước theo Chúa trong ‘thời bình’, nhưng đến ‘thời chiến’, chúng ta mất kiên nhẫn, chán nản và ngã lòng. ‘Đất gai!’ - Vướng víu và cảm thấy ngột ngạt trong đời sống tâm linh vì quá lo lắng sự đời và bận tâm các thú vui đời, chúng ta quên rằng, Lời ân sủng của Chúa đòi hỏi hy sinh các thú vui thế gian. Ngoài thập giá, không sự thánh thiện nào có thể tăng trưởng! “Tâm hồn như khu vườn - không vun xới, cỏ dại sẽ tràn lan!” - Voltaire.

Sau cùng, ‘Đất tốt!’ - Đó là mảnh đất giàu, màu mỡ, tinh tuyền; một vùng trũng luôn thấm đẫm mưa móc. Ở đó, hạt Lời đâm rễ, mọc lên tươi tốt, “hạt ba mươi, hạt sáu mươi, hạt một trăm”, hứa hẹn ‘một mùa bội thu!’. “Tấm lòng quảng đại tựa đất phì nhiêu - càng cho đi, càng trổ sinh, cho đến khi dư tràn không thể đếm được!” - Leo Tolstoy.

Phaolô nhắc nhở Timôthê, “Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách!” - bài đọc một. Điều răn của Chúa là luật Chúa, Lời Chúa, là soi dẫn của Thánh Thần. ‘Thời chiến’ hay ‘thời bình’, Lời vẫn vươn lên! Được như thế, ngày các thiên thần hô to, “Hãy vào trước thánh nhan Chúa giữa tiếng hò reo!” - Thánh Vịnh đáp ca - chúng ta ắt cũng có thể hoà nhập với “đoàn người sống lại” vang khúc khải hoàn!

Anh Chị em,

“Ai có tai nghe thì nghe!”. Khó khăn lớn nhất không nằm ở việc nghe và đón nhận Lời, nhưng ở sự gìn giữ, vun xới cho hạt mọc lên. Chúng ta đang ở trong ‘thời chiến!’, thời mà đức tin phải đối diện vô vàn thử thách của thuyết tương đối, của ‘trí tuệ nhân tạo’, bao hàm ‘động đất’ và ‘bão tố’ thuộc mọi loại hình. Hãy đi xuống khu vườn bí mật của lòng mình, thiết lập một lớp ‘nệm bùn khiêm tốn’ trong nguyện cầu, sám hối và phân định. “Trong bạn có một miền tĩnh lặng và một thánh điện, nơi bạn có thể trở về bất cứ lúc nào!” - Hermann Hesse. Hãy nhìn lại các mối tương quan của bạn với Chúa, với người và với mình để kịp điều chỉnh. Chính trong sự lặng lẽ đó, Lời sẽ âm thầm đâm rễ, lớn lên và sinh trái. hứa hẹn một ngày mùa hân hoan!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giữa động đất của công nghệ và bão tố của thời đại, xin giữ con kiên vững, trung thành cho đến mùa gặt bội thu!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

VẪN TUYỆT VỜI

Thứ Sáu Tuần 24 TN C

“Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy phụ nữ”.

Một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của Irving Berlin là “Mơ Về Một Giáng Sinh Tuyết Trắng” - “I’m Dreaming of a White Christmas”. Ngày kia, Berlin được hỏi, “Có câu hỏi nào - chưa từng được hỏi - ông muốn ai đó đặt ra?”. Berlin trả lời, “Có chứ!”; đó là, “Bạn nghĩ sao về nhiều ca khúc không là những ‘điểm nhấn’ nổi tiếng?”. “Tôi sẽ trả lời - tôi chỉ nghĩ - chúng vẫn tuyệt vời!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong cái nhìn của Chúa Giêsu, bất cứ ai theo Ngài, dẫu không là những ‘điểm nhấn’, họ ‘vẫn tuyệt vời!’. Tin Mừng hôm nay tiết lộ, trên bước đường rao giảng của Ngài, “Có Nhóm Mười Hai” và “mấy phụ nữ!”.

Đó là những cộng sự viên tuy khác biệt, nhưng có Chúa Giêsu, họ trở nên đặc biệt! Bởi lẽ, khác biệt của từng người lại trở thành điểm mạnh. Việc chọn các môn đệ đầu tiên từ nhiều hoàn cảnh khác nhau cho thấy Chúa Giêsu là một lãnh đạo bậc thầy. Họ sẽ không là bạn của nhau, càng không là những người làm việc với nhau nếu không vì Ngài. Với Ngài, họ hợp tác, trân trọng và đánh giá cao khả năng của nhau. Có Ngài, khác biệt không còn là dị biệt, nhưng là những ưu thế để họ ‘vẫn tuyệt vời’. “Những điều vĩ đại trong công việc không bao giờ được thực hiện bởi một người; chúng được hoàn thành bởi một nhóm người!” - Steve Jobs.

Không chỉ các ông đi theo Chúa Giêsu; nhưng còn có các bà. Các phụ nữ này tuy khác nhau nhưng việc Ngài cứu chữa và biến đổi họ xem ra giống nhau. Và một khi chọn theo Ngài, họ trở thành những điểm mạnh; ít nữa, đã hy sinh của cải và thời giờ cho sứ vụ. “Phụ nữ nâng đỡ một nửa bầu trời!” - Mao Zedong.

Chúa Giêsu có khả năng truyền cảm hứng cho bất cứ ai. Chúng ta được mời gọi xây dựng Vương Quốc ở mọi cấp độ trong vị trí đấng bậc mình. Vấn đề là Ngài có trở nên trung tâm cuộc đời chúng ta không? Chúng ta có thuộc về Ngài không? Hay đi theo Chúa, chúng ta lại tính toán theo thói đời, rán thành những ‘điểm nhấn’, để rồi không biết mình thuộc về ai, làm gì! Phaolô lưu ý, “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” - bài đọc một - Giuđa Iscariôt là một ví dụ. Thánh Vịnh đáp ca thật thâm trầm, “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ!”. Nước Trời ở đây là Chúa Giêsu, trái tim của mọi ơn gọi, để mỗi người tuy ‘không nổi trội’ mà ‘vẫn tuyệt vời!’.

Anh Chị em,

“Có Nhóm Mười Hai và mấy phụ nữ”. Là những môn đệ Giêsu - nam hay nữ - chúng ta đừng bao giờ coi thường một ai, dù người ấy không nổi bật. Lấy Chúa Giêsu làm điểm quy chiếu, chúng ta trở nên những cộng sự viên của Ngài và của nhau; bằng một đời sống yêu thương, chúng ta đón nhận nhau. Với ơn Chúa, chúng ta trở thành môn đệ và anh chị em. ‘Khác biệt’ không làm phân hoá, có Chúa Giêsu, chúng ta trở nên những ‘điểm nhấn’ cho nhau và cho thế giới. Không cần nổi bật, không cần là ‘điểm nhấn’, chỉ cần thuộc trọn về Ngài, chúng ta vẫn có thể tuyệt vời.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cho từng việc nhỏ bé của con thành viên gạch xây Nước Trời - dù viên gạch hơi méo, xin Ngài vẫn vui nhận!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

THÁNH GIÁ: DẤU LẠ TÌNH YÊU CÓ MỘT KHÔNG HAI

Trình thuật Tin Mừng Luca ghi lại sự kiện Chúa Giêsu trừ quỷ câm: “Bấy giờ Chúa Giêsu trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được” (Lc 11: 14).. Phép lạ này lẽ ra phải đem đến sự kinh ngạc và tin tưởng, nhưng một số người lại hoài nghi. Họ buộc tội Ngài dựa vào quyền lực của quỷ vương Bêendêbun và đòi hỏi một dấu lạ từ trời: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bêendêbun mà trừ quỷ. Kẻ khác lại muốn thử Ngài, nên đã đòi Ngài một dấu lạ từ trời” (Lc 11: 15-16). Phản ứng này cho thấy sự đối lập rõ ràng giữa những người tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và những người không tin, những người luôn tìm kiếm một bằng chứng hữu hình choáng ngợp.

  1. Chờ Đợi Một Dấu Lạ Từ Trời

Trong suốt sứ vụ của mình, Chúa Giêsu thu hút nhiều người. Trong số đó, có những người như Nhóm Mười Hai Tông Đồ và Mẹ Maria, các ngài tin tưởng trọn vẹn vào Ngài mà không cần thêm bằng chứng. Tuy nhiên, cũng có những người khác hoài nghi và đòi hỏi một “dấu lạ từ trời”. Đối với họ, những phép lạ chữa lành, xua đuổi ma quỷ hay hóa bánh ra nhiều vẫn chưa đủ. Họ muốn một sự can thiệp trực tiếp và không thể chối cãi từ Thiên Chúa, như một “bộ phim” Hollywood, một kiểu hiển lộ thần linh đầy quyền năng, nhằm thỏa mãn tâm trí đầy nghi kỵ của họ đối với Ngài.

Mong muốn đó, dù có vẻ hợp lý đối với lý trí con người, nhưng lại phơi bày sự cứng cỏi trong tâm hồn và sự thiếu đức tin của họ. Đó là một yêu cầu dựa trên sự thiếu tin tưởng chứ không phải một khao khát chân thành muốn tìm hiểu luôn mãi về Cõi Trời Cao, vốn không bao giờ có điểm dừng. Vì vậy, Chúa Giêsu không thể và sẽ không cho họ dấu lạ mà họ mong muốn. Ngài biết rằng nếu Ngài ban cho họ một dấu hiệu như thế, đức tin của họ sẽ không còn là một sự tự nguyện mà chỉ là kết quả áp đặt của một bằng chứng giới hạn bên ngoài. Tình yêu và lòng tin chân thật không thể ép buộc được, chúng chỉ có thể được trao đi một cách tự nguyện chân thành. Bằng cách từ chối yêu cầu của họ: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna” (Luca 11:29), Chúa Giêsu mời gọi họ tìm kiếm một đức tin ngày càng sâu sắc hơn, không dựa vào những dấu lạ “ngoạn mục” mà dựa vào mối tương quan cá vị với Thiên Chúa. Chỉ trong lòng tin, cậy, mến đối với Chúa Kitô thì con người mới dần hiểu được “Đấng từ trời”, vốn là Thiên Chúa không ai có thể hiếu hết một cách trọn vẹn.

Thay vì ban cho họ một dấu lạ theo ý họ, Chúa Giêsu đã nói rằng dấu lạ duy nhất họ sẽ nhận được là dấu lạ của ông Giôna: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna. Quả thật, ông Giôna đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy” (Luca 11: 29-30). Câu chuyện về Giôna (Gn 1: 1-16) không phải là một phép lạ đẹp đẽ bên ngoài, mà là một dấu chỉ của cái chết và sự phục sinh, của sự bất tuân và ơn cứu độ. Ông sống trong bụng cá ba ngày đêm, một khoảng thời gian cô tịch và ăn năn: “Thiên Chúa khiến một con cá lớn nuốt ông Giôna. Ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Từ trong bụng cá, ông Giôna cầu nguyện cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa của ông” (Gn 2: 1-2). Cuối cùng, “Chúa bảo con cá, nó liền mửa ông Giôna ra trên đất liền” (Gn 2: 11), và từ đó ông bắt đầu sứ mạng của mình. Dấu lạ của Giôna không phải là một màn trình diễn quyền năng, nhưng là một dấu chỉ báo trước một sự kiện còn vĩ đại hơn.

Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng dấu lạ của Ngài sẽ giống như thế: “Quả thật, ông Giôna đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy” (Lc 11: 30). Ngài sẽ phải chịu đựng sự đau khổ tột cùng dưới bàn tay của các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị dân sự. Ngài sẽ bị đóng đinh, bị giết chết và được an táng trong một ngôi mộ lạnh lẽo. Nhưng rồi, ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại. Sự Phục Sinh của Ngài không phải là một sự kiện công khai với những tia sáng chói lòa, những tiếng kèn vang dội để tất cả mọi người trên thế gian này có thể chứng kiến. Thật vậy, những lần hiện ra sau khi Ngài Phục sinh chỉ dành cho những người đã tin theo Ngài, thậm chí đã theo Ngài đến tận cùng. Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu không phải là câu trả lời cho những đầu óc duy lý đầy hoài nghi, hoặc chủ trương bất khả tri, rồi dừng lại nơi những lối sống duy thực dụng, duy vật vô thần… Sự Phục Sinh của Ngài, dấu lạ có một không hai trong lịch sử loài người, càng đòi hỏi có một niềm tin vượt trên lý lẽ hạn hẹp của phàm nhân, và trên hết đòi hỏi một mối tương quan tình yêu cá vị của từng người muốn bước theo và gắn bó với Chúa Kitô.

Thiên Chúa sẽ không bao giờ thuyết phục chúng ta về những vấn đề đức tin qua những biểu lộ công khai, mạnh mẽ. Thay vào đó, “dấu lạ” mà chúng ta được ban là một lời mời gọi mang tính cá nhân: lời mời gọi cùng chết với Chúa Kitô. Đó là lời mời gọi chết đi cho những tội lỗi và những ham muốn ích kỷ của chúng ta, để chúng ta có thể bắt đầu cuộc sống mới của sự Phục Sinh. Ân huệ của đức tin không phải là một sự kiện bên ngoài, mà là một sự biến đổi từ trong tâm hồn. Cái chết của chúng ta đối với tội lỗi là một thái độ nội tâm mang tính cá nhân, một sự lựa chọn của ý chí để từ bỏ con người cũ. Cuộc sống mới mà chúng ta nhận được nhờ sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chỉ có thể được người khác nhìn thấy qua chứng tá trong cuộc sống đã được biến đổi của chúng ta.

Chúng ta cũng có thể bị cám dỗ tìm kiếm những dấu hiệu lớn lao, trong khi những dấu hiệu của Thiên Chúa lại đang có mặt trong những điều nhỏ bé, trong những hành động tử tế, trong những phép lạ hàng ngày của lòng thương xót. Nếu chúng ta là người dường như đang chờ đợi một dấu lạ lớn lao nào đó từ Thiên Chúa, thì đừng chờ đợi nữa. Dấu lạ đã được ban cho chúng ta từ lâu rồi. Khi nhìn lên cây thánh giá, nơi những đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu diễn ra, chúng ta hãy nghĩ đến những đau khổ và cái chết của mỗi người chúng ta. Hãy chiêm ngưỡng sự hy sinh tột cùng đó và chọn theo Ngài. Hãy chọn chết đi mọi tội lỗi và ích kỷ của chính mình. Hãy cùng chết với Ngài, cùng vào mồ với Ngài và để Ngài đưa chúng ta đến với sự đổi mới cõi lòng từng ngày. Chỉ khi chúng ta chấp nhận cái chết cá nhân này, chúng ta mới có thể được biến đổi nhờ dấu chỉ duy nhất này từ Trời cao, một dấu chỉ không cần lời nói, không cần ánh sáng chói lòa, nhưng đủ sức mạnh để biến đổi cõi lòng thẳm sâu của chúng ta.

  1. Tình Yêu Sâu Xa Xua Tan Sợ Hãi

Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Luca 9:22).

Chúa Giêsu biết Ngài sẽ chịu đau khổ nhiều, bị chối bỏ và bị giết. Hầu hết mọi người sẽ tràn ngập nỗi sợ hãi, bị ám ảnh và cố tránh né nó. Nhưng Chúa Giêsu không tránh né như thế. Chúa Giêsu muốn ôm lấy Thánh Giá của Ngài một cách tin tưởng và can đảm không lay chuyển.

Đây chỉ là một trong nhiều lần Chúa Giêsu bắt đầu báo cho các môn đệ về số phận đang chờ đợi của Ngài. Và mỗi lần Ngài nói như vậy, phần lớn các môn đệ giữ im lặng hoặc chối bỏ. Thánh Phêrô đã phản ứng như vậy khi ông đáp lại lời báo trước của Chúa Giêsu về Cuộc Khổ nạn của Ngài bằng cách nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16: 22).

Câu nói của Chúa Giêsu rất rõ ràng và dứt khoát, tỏa ra sức mạnh và quyết tâm của Ngài. Điều thúc đẩy Chúa Giêsu nói ra lời đó một cách kiên quyết và can đảm như thế chính là tình yêu của Ngài.

“Tình yêu” thường được hiểu là một cảm giác mạnh mẽ và tốt đẹp. Tình yêu được coi là một sự hấp dẫn hoặc một sự yêu thích mạnh mẽ đối với điều gì đó. Nhưng đó không phải là tình yêu chân thật nhất, vì đó chỉ là tìm kiếm một cảm giác thỏa mãn ích kỷ. Tình yêu đích thực là một sức mạnh không lay chuyển chỉ tìm kiếm điều tốt đẹp cho người mình yêu, bất kể cái giá phải trả, bất kể khó khăn như thế nào.

Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại là một sức mạnh như thế, không thể lay chuyển, mạnh mẽ đến nỗi thúc đẩy Ngài chấp nhận cái chết đang chờ đợi. Đó không phải là một sự hy sinh miễn cưỡng, mà là một sự lựa chọn chủ ý và kiên quyết. Ngài đã tự nguyện dâng hiến mạng sống mình cho tất cả chúng ta, và không một thế lực nào trên thế gian này có thể ngăn cản Ngài thực hiện sứ mệnh thiêng liêng đó. Sự quyết tâm của Ngài là minh chứng rõ ràng nhất cho tình yêu vô bờ bến mà Ngài dành cho nhân loại.

Trong cuộc sống hiện đại đầy rẫy những toan tính vị kỷ, chúng ta rất dễ đánh mất ý nghĩa thật sự của tình yêu. Chúng ta có thể bị cuốn vào những ham muốn ích kỷ, những lợi ích cá nhân, và nhầm tưởng rằng đó chính là tình yêu đích thực. Những cảm xúc đó, dẫu có mãnh liệt đến đâu, cũng chỉ là những khao khát riêng tư chứ không phải là tình yêu. Tình yêu đích thực luôn đòi hỏi sự hy sinh, sự cho đi và lòng vị tha.

Chúa Kitô yêu thương tất cả chúng ta bằng cách hy sinh, chấp nhận đau khổ cùng cực, trút bỏ và cuối cùng là chết trên Thập giá: “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2: 7-8). Dù phải đối mặt với nỗi đau thể xác và tinh thần khủng khiếp, Ngài vẫn không lùi bước. Không một ai, không một điều gì có thể làm lung lay tình yêu này. Tình yêu của Ngài là một tấm gương sáng ngời, một lời nhắc nhở mạnh mẽ rằng tình yêu đích thực luôn vượt qua mọi thử thách.

Chúng ta cũng phải học cách thể hiện cùng một tình yêu hy sinh như thế. Chúng ta được mời gọi để yêu thương không phải chỉ bằng lời nói, mà bằng những hành động cụ thể, bằng sự sẵn lòng cho đi, chịu đựng và tha thứ cho người khác. Tình yêu này không chỉ là một cảm xúc, mà là một sự lựa chọn hàng ngày, đòi hỏi sự kiên nhẫn, lòng trắc ẩn và sự hy sinh không ngừng nghỉ. Khi sống với tình yêu hy sinh, chúng ta mới thực sự thể hiện được tình yêu của Chúa Kitô trong cuộc đời mình và mang lại cho cuộc sống của chính mình và của những người chung quanh một ý nghĩa sâu xa.

Lạy Chúa Giêsu đáng mến yêu, con cảm tạ Chúa vì Chúa đã quyết hy sinh tất cả cho chúng con, vì tình yêu đích thực sâu thẳm không dò thấu được này của Chúa. Xin ban cho con ơn biết nhìn lên Chúa chịu đóng đinh trên thánh giá và nhận ra hành động yêu thương vĩ đại nhất từng được biết đến, trong cái chết của Chúa, để con cũng biết trút bỏ mọi thứ ích kỷ, chết đi cho cái tôi tội lỗi của mình, và có thể tham dự vào tình yêu hy sinh hoàn hảo nhất của Chúa. Nhờ đó con được biến đổi trong hành trình theo Chúa và thông phần trọn vẹn vào sự sống mới của Chúa Phục Sinh Vinh Quang. Amen.

Phêrô Phạm Văn Trung

phỏng theo https://catholic-daily-reflections.com

LỜI CHÚA VÀ SUY NIỆM CN 24 TN C SUY TÔN THÁNH GIÁ CHÚA

Lời Chúa, Bài đọc Tin Mừng theo thánh Gioan ( Ga 3, 13-17 ): “…Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời. “Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” Đó là Lời Chúa

Suy Niệm Lời Chúa:

+/ Nguyễn Khánh Đăng phóng tác 1 trong 2 câu chuyện: Chết Giữa Hai Người Cộng Sản như sau. Một linh mục nhà thờ lớn Hà Nội bị giam trên trại giam Cổng Trời hơn 10 năm, lúc gần chết, anh trung tá công an trại trưởng hỏi vờ vịt nhân đạo: – Sắp chết rồi, anh có yêu cầu gì không? Và linh mục thều thào rằng: – Tôi chỉ mong được chết mà có bác Hồ với bác Tôn đứng hai bên giường, và cơn hấp hối kéo dài nhiều tháng. Ông khẩn khoản nói đi nói lại niềm mong ước: Tôi chỉ mong được chết mà có bác Hồ với bác Tôn đứng hai bên giường. Chuyện ấy đến tai bác Hồ, nên bác Hồ bảo bác Tôn: – Hay là nó đã được cải tạo. Mình tới thăm xem sao, rồi cho báo chí thấy rằng người cộng sản đã cảm hoá được linh mục. Và cả hai bèn tới đứng hai bên giường ông linh mục. Quả thật ông ta vui sướng vô cùng. Bác Hồ hỏi, này chú, tại sao chú lại muốn chết giữa hai chúng tôi? Vị linh mục trả lời: – Tôi muốn được chết giống Chúa Giêsu, Chúa chết giữa hai tên trộm cướp…

+/ Câu truyện 2/2 có tựa đề: Ngọc Biện Hoà. Đời chiến quốc bên nước Tàu, có người nước Sở tên là Biện Hoà tìm được ở núi Kim Sơn một viên ngọc qúi đem dâng vua Lệ Vương, vua trao cho thợ xem thử, thợ bảo là đá. Biện Hoà bị khép tội Khi Quân và bị chặt một chân. Đời vua sau là Bảo Vương, Hoà cũng đem dâng như trước và lại bị chặt thêm chân nữa. Tới đời Sở Văn Vương, Hòa định đem dâng, nhưng ngặt vì cụt hai chân không đi được. Hòa ngồi khóc ba ngày, có người hỏi, Hòa đáp: – Không phải tôi muốn dâng công mà chỉ vì không có kẻ nhìn ra ngọc qúi. Sở Văn Vương nghe được liền sai người đập đá ra, và quả thật thấy ngọc quý ở trong. Từ đó đặt là ngọc Biện Hòa.

– Lời Bàn: Biện Hòa là người có con mắt tinh anh, biết nhìn ra giá trị của viên đá, bề ngoài xem ra chỉ là hòn đá, nhưng bên trong thực sự đã có sẵn viên ngọc. Biện Hòa bị chặt hai chân chỉ vì không có ai nhìn ra được viên ngọc quý ở trong thôi.

+/ Trong đời sống đạo Công Giáo ta cũng thấy tương tự. Nếu người ta chỉ nhìn thấy cây thập giá Chúa với con mắt vật chất, thì cây thập giá ấy chẳng có nghĩa lý gì, mà có khi còn làm trò cười cho thiên hạ. Với con mắt đức tin, người ta mới tìm ra sự khôn ngoan vô cùng đã chứa sẵn trong cây thập giá, giống như Biện Hòa đã tìm ra ngọc qúi bên trong viên đá tầm thường.

+/ Ca nhập lễ của lễ kính suy tôn thánh giá hôm nay đã mượn lời của thánh Phaolô trong thư Galát để hân hoan hát lên: Niềm vinh dự của chúng ta chính là thập giá đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ người, chúng ta được cứu độ, được sống và được phục sinh, chính người cứu độ và giải thoát chúng ta. Lời kinh tiền tụng thì chú giải: Thật vậy, xưa vì cây trái cấm, loài người chúng con phải tử vong, nay nhờ cây thập giá lại được sống muôn đời, và ma quỷ xưa chiến thắng nhờ cây trái cấm, nay thảm bại nhờ cây thập giá của đức Kitô, Chúa chúng con.

– Để được cứu mạng, dân Israel đã phải nhìn lên con rắn đồng, một cách tương tự, để được cứu độ, người Kitô Hữu phải ngắm nhìn thập giá của  đức Giêsu. Có nghĩa là tin vào người, đồng thời cũng phải từ bỏ nhiều thứ, phải hy sinh nhiều chuyện, khi ta đang sống trong thế giới đương đại.

 Thánh Bonaventura viết: Thánh giá là cây toàn hảo, được thánh hóa bởi máu Chúa Kitô, mang đầy trái thơm ngon. Cây

thánh giá còn được phong phú hóa như là một loài cây quý hiếm và tươi thắm diễm lệ…Cây thánh giá tốt lành rất mực dịu dàng êm mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình. Cội rễ, nhành lá, búp bông, hoa quả. Từ xưa đến nay, cây nào dám ví bằng cây thánh giá, từ cây thánh giá chở mình Chúa cả đóng đinh trên cây thánh giá.

– Theo nhiều nhà nghiên cứu Thánh Kinh, cây thánh giá này bằng gỗ Tùng rất nặng. Cây dọc 4 thước rưỡi, cây ngang 2 thước rưỡi, nặng 100 ký. Nếu vác kéo lê thì giảm sức nặng đi 30 ký. Như vậy, Chúa còn bị sức nặng 70 ký đè trên thân xác yếu ớt vì đòn vọt, và vác tất tưởi trên con đường dài chừng 700 thước.

+/ Cũng nên suy thêm rằng, trong khoa tâm lý học, người ta phân biệt 2 loại đau khổ: Đau khổ về thể lý và đau khổ về tinh thần hay tâm linh. – Đau khổ về mặt thể lý: Bị lý hình đánh đập hành hạ bằng những đòn roi tàn bạo. Bị những vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu. Bị cái đói cái khát dày vò. Bởi vì máu càng ra nhiều bao nhiêu, thì càng khát nước bấy nhiêu. Nhất là bị đóng đinh căng thây trên cây thập giá, tay chân đinh nhọn xuyên qua.

– Đau khổ về mặt tinh thần: Bị dân chúng trở mặt lên án, đòi đóng đinh vào thập giá. Trong số đó, có cả những kẻ mà Chúa đã thi ân giáng phúc. Bị quân lính xỉ nhục lăng mạ. Bị các môn đệ bỏ rơi, đặc biệt là bị chính những người thân tín nhất chối từ, bội phản. Giuđa, kẻ được tín nhiệm trao cho việc quản lý tài chánh, không ngại ngùng dùng chính cái hôn để phản nộp sư phụ của mình. Một Phêrô, người được trọng dụng cất nhắc lên địa vị trưởng tông đồ đoàn, cũng chẳng thẹn thùng chối thầy mình, không những một lần mà đến ba lần.

– Các sử gia La Mã thời đó cho biết những kẻ bị đóng đinh trên thập giá thường la hét và chửi rủa. Do đó có khi phải cắt lưỡi kẻ bị đóng đinh, để y khỏi thốt ra những lời xúc phạm, lăng mạ kinh tởm. Và dưới chân khổ giá Chúa, nhóm luật sĩ và biệt phái chắc cũng chờ đợi: Từ thập giá đức Giêsu sẽ  thốt ra những tiếng kêu la và nguyền rủa. Nhưng không phải thế ở nơi đức Giêsu, vì lời của ngài: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng chẳng hiểu biết việc chúng làm. Ngài còn hướng về kẻ trộm lành, đại diện cho những người có ăn năn tội cách lọn mà rằng: Hôm nay, ngươi sẽ được ở trên Thiên Đàng với ta. 

+/ Vậy, chúng ta đặt câu hỏi: Chúa Giêsu đã đón nhận đau khổ với thái độ nào để chúng ta bắt chước? Thưa rằng, Chúa Giêsu đã đón nhận tất cả những đau khổ với thái độ tự hạ, tự hiến,

nhằm dâng lên Thiên Chúa Cha của lễ hy sinh cứu chuộc nhân loại. Ngài như con chiên hiền lành bị đem đi giết mà không một lời kêu ca. Bị hành hạ, ngài không một lời kêu than. Bị xỉ nhục, ngài không mắng chửi. Bị vác thập giá, ngài không vừa vác vừa càm ràm than trách. Bị ngã lên ngã xuống, ngài không thở dài tuyệt vọng. Bị treo trần trụi trên thập giá, ngài không nguyền rủa.

– Nếu chúng ta biết vui lòng đón nhận và liên kết với đau khổ của Chúa Giêsu thì những khổ giá biến thành thánh giá, những đau khổ mà chúng ta chịu sẽ đem ta lên Thiên Đàng. Thế nhưng, trên thực tế của đạo Công Giáo, nhất là giới trẻ, khi gặp thử thách gian truân, thường hay tiêu cực như: Kêu ca, phản kháng, than vắn thở dài. Gặp thất bại, ta thường nãn lòng oán trách. Gặp những gì trái ý, ta thường bực bội cau có. Chính vì thế, thập giá khổ đau càng thêm nặng, và mất hết nhiều công phúc trước mặt Chúa.

– Suy tôn thánh giá là tôn thờ đấng bị treo trên thập giá. Đức Giêsu đã lấy chuyện con rắn đồng thời Cựu Ước để áp dụng vào cái chết cứu độ trên thập giá của người. Với Đức Tin người Công Giáo, người ta mới tìm ra sự khôn ngoan vô cùng đã chứa sẵn trong cây thập giá Chúa Giê-su.

– Thánh An-rê, giám mục Cơ-rê-ta đã giảng rằng: Ai có thánh giá là có một kho tàng…Nếu không có thánh giá thì sự chết đã không bị quật ngã, hoả ngục cũng đã không bị tước đoạt vũ khí. Vậy thánh giá vừa cao cả, vừa quý báu. Cao cả, vì thánh giá đã sinh ra nhiều ơn ích, bởi lẽ Chúa Ki-tô càng làm nhiều phép lạ và chịu đau khổ bao nhiêu thì Người lại càng chiến thắng lẫy lừng hơn bấy nhiêu. Quý báu, vì thánh giá vừa là sự đau khổ, vừa là chiến tích của Thiên Chúa… A-men

Linh Mục G.B Nguyễn Ngọc Nga

Yêu quý và trân trọng người tội lỗi

Trước mắt người đời thì những người tội lỗi là thành phần xấu trong xã hội nên thường bị chê bài, khinh bỉ và xa lánh.

Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa thì bất cứ người nào, dù nhỏ bé, hèn hạ và tội lỗi đến đâu đi nữa cũng được nhìn nhận là những người con đáng yêu, đáng quý của Ngài.

Hai dụ ngôn Tin mừng hôm nay chứng tỏ điều đó.

Qua dụ ngôn chiên lạc, Chúa Giê-su ví người tội lỗi như con chiên lạc mà người chăn chiên trân trọng và quý mến. Thế nên anh sẵn sàng rời xa 99 con chiên trong đàn để đi tìm cho được con chiên lạc đó. Và một khi đã tìm được rồi, anh không quật cho nó một trận cho hả giận vì nó đã gây ra bao điều cực nhọc cho mình, trái lại, anh vui mừng ôm lấy nó, vác nó lên vai, hăm hở trở về, mời bà con làng xóm đến chia vui.

Qua dụ ngôn tiếp theo, người tội lỗi được ví như một đồng quan bị đánh mất, khiến người phụ nữ mất tiền cảm thấy tiếc nuối, nên dù trong đêm tối, bà cũng vội thắp đèn lên, quét nhà cho kỹ, moi móc mọi ngóc ngách, cố tìm cho bằng được đồng tiền bị mất ngay tức khắc, không đợi đến ngày mai. Và khi đã tìm thấy, bà reo lên vui sướng và chia sẻ niềm hoan lạc này với bạn bè lối xóm.

Từ hai dụ ngôn này, Chúa Giê-su kết luận: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”
Qua hai dụ ngôn này, Chúa Giê-su tỏ cho biết ngay cả người tội lỗi lầm lạc cũng là những người con đáng trân trọng và quý mến đối với Thiên Chúa. 

Thiên Chúa trân trọng và quý mến con người nên Chúa Cha đã sai chính Con Một mình từ trời xuống thế để cứu độ loài người.

Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên khi vừa gặp Gia-kêu, một nhân viên thu thuế cho đế quốc Rô-ma bị người Do-thái kỳ thị, Chúa Giê-su thân mật đón chào và đề nghị ở lại nhà ông: “Gia-kêu, xuống mau đi! Vì hôm nay tôi sẽ lưu lại nhà ông.”

Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên Chúa Giê-su không ngần ngại chọn Lê-vi, một người thu thuế bị liệt vào hạng tội lỗi, làm tông đồ của Ngài và làm tác giả sách Tin mừng thứ nhất.

Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên khi những người biệt phái đưa người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giê-su, thì Ngài cũng không lên án hay luận tội người này. Trái lại, Ngài dùng lời hay lẽ phải giải tán đám đông đang hung hăng với nhiều ác ý, rồi nhẹ nhàng khuyên lơn người phụ nữ: “Tôi không lên án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 2-11).

Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên khi vừa nghe tên tử tội cùng bị treo lên thập tự giá với Chúa Giê-su van xin Ngài: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”, thì Chúa Giê-su liền hứa ban thiên đàng cho anh ta: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng” (Lc 23,42).

Lòng quý mến và trân trọng của Thiên Chúa đối với người tội lỗi lên đến cao điểm khi Chúa Giê-su hiến thân chịu khổ hình. Ngài chịu đòn vọt và đau khổ thay cho muôn người tội lỗi; Ngài chịu chết thay cho muôn người để họ được sống đời đời.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa là Chúa tể trời đất, còn chúng con chỉ như những hạt bụi li ti trong vũ trụ, chẳng đáng là gì, thế mà Chúa lại trân quý từng người trong chúng con, ngay cả những người tội lỗi hư hèn nhất. Vậy thì chúng con là ai mà dám coi thường, khinh dể anh chị em chung quanh mình.

Xin cho chúng con biết học với Chúa để đem lòng yêu quý và trân trọng mọi người như Chúa đã nêu gương.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

 

TIN MỪNG LUCA (Lc 15, 1-10)

1 Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng.2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.”3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:
4 “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.7 Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

8 “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được?9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”

Subcategories