3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

YÊU THƯƠNG VÀ HIỆP THÔNG TRONG KHIÊM NHƯỜNG

Trong bối cảnh bận rộn của đời sống hiện đại, đôi khi chúng ta dễ dàng bị cuốn vào những mối bận tâm về địa vị, danh vọng và sự công nhận của xã hội. Nhưng các bài đọc Kinh thánh hôm nay mời gọi chúng ta chiêm nghiệm một con đường khác, một con đường dẫn đến sự khiêm nhường, lòng quảng đại và tình yêu thương vô vị lợi, giống như cách mà chính Chúa Giêsu đã sống và giảng dạy.

  1. Tình yêu chữa lành

Bài Tin Mừng đưa chúng ta đến bữa tiệc ngày sabát, nơi Chúa Giêsu đối diện với những người Pharisêu. Trước mặt Ngài là một người mắc bệnh phù thũng, căn bệnh tượng trưng cho gánh nặng tội lỗi. Thay vì tuân thủ luật lệ cứng nhắc, Chúa Giêsu đã hành động theo luật yêu thương: “Có được phép chữa bệnh ngày sabát hay không?” (Lc 14: 3). Câu hỏi ấy mời gọi các nhà thông luật nhìn lại ý nghĩa thực sự của lề luật.

Chúa Giêsu chữa lành chỉ vì tình yêu và lòng trắc ẩn. Ngài cho thấy lòng thương xót vượt trên mọi luật lệ, và con người là trung tâm. Sabát vốn là dấu chỉ của tình thương và giải phóng, chứ không phải gông xiềng trói buộc. Chính Ngài khẳng định: “Ngài đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về...” (Lc 14: 4-6). Lề luật được lập nên vì con người, không phải ngược lại.

Thánh Augustinô nhắc nhở rằng: “Tình yêu chiếm một chỗ thật cao cả và trải rộng trong từng trang Kinh thánh. Vậy nếu bạn không có thì giờ đào sâu tất cả các trang Kinh thánh, hãy yêu đi … bạn sẽ đạt được những điều bạn đã học trong Kinh thánh và thậm chí, đạt được cả những điều còn ẩn giấu trong Lời Chúa” (Bài giảng 350, 2-3).

Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nói: “Những người Pharisêu quá bám víu vào lề luật đến nỗi họ quên mất công lý; quá bám víu vào lề luật đến nỗi họ quên mất tình yêu… họ bám víu vào lời lẽ, vào từng chữ của lề luật…Họ bám víu vào lề luật, đã khiến họ xa rời tình yêu và công lý…Họ là những người khép kín…luôn đóng chặt cánh cửa hy vọng, tình yêu, sự cứu rỗi…Họ là những người chỉ biết cách đóng cửa” (Bài giảng tại nhà nguyện Thánh Mátta, thứ sáu, ngày 31 tháng 10 năm 2014).

Qua phép lạ chữa lành, Chúa Giêsu xóa tan ranh giới giữa lề luật và tình yêu, cho thấy tình yêu chính là lề luật duy nhất và là ưu tiên hàng đầu trong đời sống Kitô hữu.

  1. Chỗ cuối, chỗ của khiêm nhường

Trong đoạn Tin Mừng tiếp theo, Chúa Giêsu kể dụ ngôn về việc chọn chỗ trong bữa tiệc. Ngài quan sát thấy những vị khách “cứ chọn cỗ nhất mà ngồi” (Lc 14: 7), và Ngài đã dạy họ một bài học về sự khiêm nhường. Thay vì tìm kiếm danh dự và địa vị, Chúa Giêsu khuyên chúng ta nên “hãy vào ngồi chỗ cuối” (Lc 14: 10). Bài học này không chỉ áp dụng trong một bữa tiệc, mà còn trong mọi khía cạnh của cuộc sống.

Trong một thế giới đề cao sự nổi bật và thành công, lời khuyên của Chúa Giêsu dường như đi ngược lại với lẽ thường. Nhưng thực tế, khiêm nhường chính là nền tảng của mọi đức tính tốt. Thánh Augustine đã nói: “Sự khiêm nhường là nền tảng của mọi đức tính khác, do đó, trong tâm hồn không có đức tính này thì không thể có đức tính nào khác ngoại trừ vẻ bề ngoài… Chính lòng kiêu hãnh đã biến thiên thần thành ác quỷ; chính sự khiêm nhường đã biến con người thành thiên thần.” [1]

Khi chúng ta hạ mình xuống, chúng ta mở lòng mình để đón nhận ân sủng của Thiên Chúa. Sự khiêm nhường không làm chúng ta mất đi giá trị, mà ngược lại, nó làm cho chúng ta trở nên vĩ đại trong mắt Thiên Chúa và mọi người chung quanh.

Trong xã hội luôn chạy theo địa vị, vinh quang cá nhân, đây là một thông điệp ngược dòng. Khiêm nhường không phải là tự ti, mà là không tự đề cao mình, nhưng tôn vinh Thiên Chúa. Khiêm hạ là chân thành sấp mình trước mặt Thiên Chúa để Ngài có thể sửa dạy, uốn nắn và ban ơn giúp chúng ta ngày thêm hoàn thiện, cách ta không ngờ.

Sách Châm ngôn dạy: “Trước long nhan, đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: Xin mời ông lên trên! còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng” (Cn 25: 6-7). Tác giả sách Huấn Ca cũng nhắc lại tầm quan trọng của sự khiêm nhường: “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Chúa. Vì quyền năng Chúa thì lớn lao: Ngài được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Đừng tìm những điều khó quá đối với con, những điều vượt sức con, con đừng xét tới” (Hc 3: 18-21).

Thánh Gioan Kim Ngôn (Chrysostom) từng dạy rằng “Ngay cả khi bạn nói đến sự tiết độ, sự trinh tiết, sự khinh miệt tiền bạc, bất cứ điều gì, nếu không có sự khiêm nhường trong tâm hồn, tất cả đều ô uế, đáng nguyền rủa và ghê tởm” (Bài giảng thứ năm, chống lại những người theo Ariô) [2]  

  1. Tình yêu vô vị lợi

Cuối cùng, Chúa Giêsu nói với người chủ nhà: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (Lc 14: 12-13). Lời khuyên này là một sự thách thức đối với cách suy nghĩ của xã hội lúc bấy giờ, và cả ngày nay. Mời những người giàu có để họ mời lại là một cách làm thông thường để giữ gìn mối quan hệ và địa vị xã hội. Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu không mong đợi sự đền đáp.

Dụ ngôn này không chỉ là một bài học về lòng quảng đại, mà còn là một lời mời gọi mở rộng vòng tay cho những người bị lãng quên trong xã hội. Khi giúp đỡ những người nghèo khó, tàn tật, chúng ta không chỉ làm một việc thiện, mà còn trở nên giống với Chúa Kitô, Đấng đã hạ mình xuống để phục vụ nhân loại. Tình yêu vô vị lợi chính là tình yêu mà chúng ta được kêu gọi sống. Và phần thưởng của tình yêu đó không phải là sự đền đáp của con người, mà là “được đáp lễ…trong ngày các kẻ lành sống lại” (Lc 14: 14).

Những sinh hoạt trong cộng đoàn nhiều khi dựa trên trao đổi lợi ích, nhưng Tin Mừng dạy nhìn xa hơn, vì phúc thật nằm ở việc cho đi mà không đòi hỏi đáp lại. Khi mời những người xa lạ, người Kitô hữu thực sự sống chứng tá Tin Mừng của lòng thương yêu.

Tại một giáo xứ thuộc Giáo phận Sài Gòn, cha xứ đã có một sáng kiến rất đặc biệt vào dịp Tết Nguyên Đán năm 2022. Thay vì tổ chức tiệc tất niên linh đình cho ban hành giáo hay những ân nhân lớn của nhà thờ, cha đã mời hơn 200 người nghèo, người bán vé số, lao động xa quê và cả những cụ già neo đơn trong khu vực đến dùng bữa chung ngay trong khuôn viên giáo xứ. Các bàn ăn được chuẩn bị chu đáo, trang hoàng như một ngày hội. Chính các giáo dân khá giả trong xứ đã tình nguyện nấu nướng, bưng bê và phục vụ tận tình.

Một cụ bà bán vé số xúc động nói: “Lâu lắm rồi tôi mới được ngồi ăn như thế này, thấy mình được tôn trọng, được là người trong gia đình.”

Sự kiện ấy được nhiều người nhắc đến như một dấu chứng sống động cho lời Chúa Giêsu: “hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ” (Lc 14:13-14). Việc đó cho thấy Tin Mừng có thể trở nên cụ thể và gần gũi, khi cộng đoàn dám mở rộng vòng tay đón nhận những anh chị em bé mọn. Hành động này không phải để tìm kiếm sự đền đáp, mà là minh chứng sống động cho lời Chúa Giêsu: mời những người không có khả năng mời lại, để chính tình yêu vô vị lợi trở thành dấu chỉ của Nước Trời. Điều đó cho thấy Tin Mừng không chỉ là lời giảng dạy, mà còn là một lối sống cụ thể giữa đời thường. 

  1. Khiêm hạ và hiệp thông tiến đến núi Sion

Trong hành trình đức tin, con người không đơn thuần tiến bước bằng kiến thức hay nỗ lực cá nhân, mà bằng lòng tin cậy và thái độ khiêm hạ trước Thiên Chúa. Ngọn núi Sion, biểu tượng của sự hiện diện sống động và vĩnh hằng của Thiên Chúa, không dành cho những ai cậy dựa vào sức riêng, mà là nơi quy tụ của những tâm hồn biết lắng nghe, biết sống hiệp thông và biết cúi mình trước quyền năng thánh thiện. Trích đoạn thư gửi tín hữu Do Thái mời gọi chúng ta nhìn xa hơn những hình ảnh đáng sợ của núi cũ, để hướng tới Giêrusalem trên trời, nơi đầy ánh sáng, vinh quang và sự hiệp nhất với muôn vàn thiên thần cùng cộng đoàn các thánh: “Anh em đã tới núi Xion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời” (Hípri 12: 18-23).

Đồng thời, lời dạy trong sách Huấn Ca nhấn mạnh rằng càng được trao quyền, càng phải sống khiêm nhường, vì chính nơi sự nhỏ bé tự nguyện, con người mới được gặp Thiên Chúa thật sự: “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Chúa. Vì quyền năng Chúa thì lớn lao: Ngài được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường” (Hc 3: 18-20).

Hành trình tiến về núi Sion chính là lời mời gọi ta bước đi trong khiêm hạ và hiệp thông, để nhận ra rằng sự thánh thiện không nằm ở nỗ lực tự mãn của con người, mà ở sự tựa nương vào Thiên Chúa và mở lòng với anh chị em. Khi ta biết sống hiền hòa, lắng nghe và chia sẻ, ta đã góp phần xây dựng Giêrusalem mới ngay giữa đời thường. Trên con đường ấy, mọi thành công hay thử thách đều trở thành cơ hội để ta học bài học khiêm nhường, để không ngừng quy hướng về Đấng là nguồn mạch sự sống. Núi Sion vì thế không xa vời, mà khởi đầu từ chính cõi lòng ta hôm nay, khi ta biết cúi xuống để yêu thương, để hiệp thông, và để cùng nhau tiến về Núi Thánh của Thiên Chúa.

Phêrô Phạm Văn Trung

[1] https://rightwords.eu/quotes/humility

[2]  https://www.newadvent.org/fathers/1907.htm

Vào khung cửa hẹp

Trong mùa thi vào đại học vừa qua, có nhiều bạn học sinh đã bị chứng suy dinh dưỡng, mất ngủ, thậm chí bị tâm thần. Lý do là các bạn phải học rất nhiều, phải phấn đấu để được vào đại học. Đại học hiện tại là một khung cửa hẹp. Trường lớp có ít mà số lượng sinh viên mỗi năm mỗi tăng. Thế nên các học sinh phải hết sức phấn đấu mới được vào.

Cảnh các thí sinh chen chúc trước các cổng trường đại học làm tôi nhớ đến bài Tin Mừng hôm nay. Ai muốn vào Nước Trời cũng phải đi qua khung cửa hẹp.

Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.

Trước hết phải phấn đấu hạ mình xuống. Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên. Người ở địa vị thấp phấn đấu để được địa vị cao. Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng. Người phải phục vụ phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Nhưng trong Nước Trời thì ngược lại. Phải phấn đấu để đi xuống. Phải phấn đấu để tìm chỗ thấp hèn nhất. Phải phấn đấu để phục vụ anh em. Như lời Chúa dậy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Lc 14,11). “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối”(Lc 14,10). “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ”(Lc 22,26). “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”(Mc 10,15).

Sau đó phải phấn đấu để bé nhỏ lại. Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra. Ai có nhà nhỏ phấn đấu để có nhà lớn hơn. Ai có ruộng vườn nhỏ cũng phấn đấu để vườn ruộng lớn rộng thêm. Ai cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều bằng cấp hơn, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn. Trái lại, người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ. Phải phấn đấu để trở nên nghèo. Phải phấn đấu để bỏ bớt của cải đi. “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”(Mt 19, 21). “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”(Mt 5,3).

Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của Chúa Giêsu.

Cửa này thấp vì Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao, Người đã tự nguyện xuống nơi đất thấp. Là Thày, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phục vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã để bị đối xử như một đại tội phạm. Người đã bị vùi dập xuống tận bùn đen.

Cửa này bé vì Chúa Giêsu đã trở nên bé nhỏ. Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Người đã bị bóc lột hết, không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.

Chúa Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Người phấn đấu hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết “từ bỏ mình, vác thập giá mình”mà theo Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Cửa Nước Trời rất hẹp. Bạn có thấy mình còn cồng kềnh không?

2) Bạn thấy mình cần phải từ bỏ những gì để có thể gọn nhẹ tiến qua cửa hẹp?

3) Tuần này bạn sẽ phấn đấu làm gì để từ bỏ mình?

4) Chúa Giêsu đã làm thế nào để đi vào khung cửa hẹp?

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Hy sinh mười ngàn đô

Anh Hướng đã chia sẻ kinh nghiệm anh sống liên quan tới "cửa hẹp" (c.24) trong bài Tin Mừng hôm nay như sau.

Đã 32 năm nay anh vẫn làm cho một công ty. Trong những năm ấy, 5 lần anh được đề cử thăng chức. Nếu nhận, anh sẽ không có đủ thời giờ cho vợ và 4 con trai của anh vì anh sẽ phải làm các ngày cuối tuần nữa. Bù vào đó lương anh sẽ được tăng thêm mười ngàn đô. Nhưng anh Hướng đã khước từ vì tin rằng "tình yêu" mà anh dành cho vợ con quí giá hơn nhiều.

Cách đây hai năm ban điều hành của công ty một lần nữa, đề cử để anh được thăng chức. Lần này anh nhận, lý do vì các con anh đã khôn lớn mà vợ anh lại không thể đi làm được. Không may cho anh là vào đúng thời gian ấy, người chị ruột của anh qua đời khiến anh không chú tâm học hành được nên về cuối khóa anh đã thi rớt. Trở về công ty anh bị ông giám đốc quăng hồ sơ lên bàn rồi giận dữ nói: "Đáng lý tôi không cho anh đi học. Đáng lý ra tôi không nghe lời ai hết. Anh đánh mất cơ hội cuối cùng này của anh rồi, biết chưa!"

Thật là ê chề nhục nhã cho anh Hướng. Anh chia sẻ nguyên văn như sau: "Lòng tôi tan nát. Điều đáng buồn là tôi đã để cho lời lẽ ông giám đốc hủy diệt tôi. Mọi sự đều trở nên vô nghĩa. Ý chí quyết tâm phụng sự Chúa bấy lâu nay bỗng trở nên vô dụng. Tôi thấy tôi không thể nào bước theo Chúa trong tình trạng này. Tôi tự hỏi "Tại sao lại xảy ra việc này?" Có vẻ như tôi không còn có thể yêu thương được nữa. Tệ hơn nữa là tôi cảm thấy như Chúa đã bỏ rơi tôi. Cái chết của người chị làm tôi đau khổ nay lại đưa đến việc ông chủ hạ nhục tôi."

"Mọi sự như sụp đổ quanh tôi. Tôi thấy tôi không còn đối diện được với việc làm ở sở cũng như với gia đình và cuộc sống. Tôi ngại ra khỏi giường mỗi sáng và chỉ muốn thu mình để tránh né thế giới bên ngoài. Mỗi khi gặp mặt ông giám đốc, tôi càng thấy thêm phẫn uất tức giận. Tôi trở nên cay đắng thù hằn. Suốt đời tôi chưa bao giờ cảm thấy như thế đối với ai cả. Tôi thấy tôi có bổn phận yêu thương nhưng vẫn bướng bỉnh cãi lại."

Chọn theo một con người bị bỏ rơi

"Ngày kia tôi phải thú thực với vợ tôi: Anh không thể sống nổi mãi thế này. Vợ tôi chú ý lắng nghe và đề nghị cùng nhau cầu nguyện để xin Chúa giúp sức. Chúng tôi cùng nhau cầu nguyện và khi ấy tôi biết mình phải chọn theo Chúa Giêsu, chịu đóng đinh và bị bỏ rơi. Tôi cảm thấy được bình an và mạnh mẽ hơn."

"Ngày kia khi rời khỏi văn phòng ông giám đốc, tôi cảm thấy có sức thôi thúc tôi quay lại nói với ông: "Tôi xin thưa là không phải tôi muốn lên án ai hoặc xin xỏ điều gì. Sau khóa huấn luyện khi ông nói chuyện với tôi, tôi bị mất tinh thần đối với công ty. Tôi trở nên oán hờn và nhiều lần tôi đã có những thái độ không tốt đối với ông."

"Ông giám đốc ngắt lời anh Hướng khi nói: "Tôi chẳng bao giờ cố y làm cho anh buồn. Anh biết tôi giận thì la lối rồi sau lại quên ngay." Khi anh Hướng xin ông giám đốc tha cho anh về cách anh đối xử với ông ta thì người đàn ông thường có vẻ lạnh nhạt ấy đã ứa đầy nước mắt. Ông thinh lặng một lúc rồi cất tiếng: "Tôi xin lỗi ông, tôi thật không ngờ việc tôi làm khiến ông phải buồn phiền." Rồi ông bắt đầu thăm hỏi về tôi và gia đình tôi một cách thân mật. Tôi thấy chúng tôi đã nối lại được nhịp cầu đã đứt đoạn."

Điều bất ngờ xảy ra là khi ông giám đốc về hưu, một người đàn ông trẻ hơn nhiều, đứng đầu công ty. Anh chỉ mới có 32 tuồi. Vì thiếu kinh nghiệm, anh gặp khó khăn. Anh đã xin gặp riêng tất cả các nhân viên trong công ty, mỗi lần bốn người. Chỉ có anh Hướng một mình được ông giám đốc mới mời riêng tới văn phòng để gặp. Kết quả là anh đã được gởi đi học một khóa huấn luyện rồi được thăng chức một cách ngon lành.

Câu chuyện kể trên gợi ý để ta suy nghĩ về cửa hẹp trong bài Tin Mừng. Chúa Giêsu khuyến cáo ta "Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào" (c.24). Nhưng lời dạy đó được nêu trong bối cảnh nào? Làm thế nào hiểu và áp dụng lời khuyên đó một cách chính xác? Nhất là ta được Chúa Giêsu khuyến cáo phải chiến đấu để qua cửa hẹp nhằm đạt tới điều gì đáng kể?

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy đây là lần thứ hai tác giả Luca nhắc nhớ ta về cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm tới đích điểm là Giêrusalem (c.27).

Luca cho thấy khó khăn và thử thách

Lần thứ nhất Luca gắn liền Giêrusalem dưới đất với Giêrusalem trên trời, dĩ nhiên ngang qua sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Đó là lúc Luca trịnh trọng loan báo: "Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem" (9,51). Ngay ở lần loan báo đầu tiên về cuộc hành trình đi Giêrusalem, Luca đã cho thấy khó khăn và thử thách. Thoạt tiên Đức Giêsu và các môn đệ bị một làng Samari từ khước (cc. 53-54). Kế đến chính Đức Giêsu muốn thách đố những ai muốn bước theo Người. Người thứ nhất xin theo liền được cho biết rằng "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." Người thứ hai xin về chôn táng cha già trước đã, thì đã không được phép vì "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa." Người thứ ba cũng được yêu cầu phải có thái độ dứt khoát vì "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa." (cc. 57-62).

Bây giờ là lần thứ hai, Luca cho biết Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem (c. 22). Vấn đề được nêu trầm trọng hơn lần thứ nhất nhiều với câu hỏi "Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?" (c.23). Bởi lẽ ơn cứu thoát nói đây là chính sự sống còn của con người, tức là ơn cứu độ, chứ không phải chỉ là vấn đề từ bỏ mọi sự hoặc phải từ bỏ ngay như nói ở trên (Lc 9,56-62).

Chính Đức Giêsu là cửa hẹp

Và để trả lời, Đức Giêsu đòi hỏi một sự chính xác. Người muốn người ta nhắm thẳng bản thân Người theo bề sâu, tức là biết Người. Không có gì có thể thay thế được cái biết nội tâm đó. Cho nên cả những kẻ sống sát bên Người, "ăn uống trước mặt Người, và Người cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố" của họ (c.26), họ cũng vẫn bị loại ra ngoài nếu họ thực sự không biết Người.

Như vậy, chính Đức Giêsu là cửa như Người tuyên bố trong Tin Mừng của Gioan: "Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu." (Ga 10,9). Cửa hẹp trong Luca còn có ý nói về chính bản thân Đức Giêsu chứ không thể là ai khác. Điều này Tin Mừng của Gioan cũng nói rõ với lời tuyên bố của Đức Giêsu là "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Đức Giêsu còn là cửa hẹp theo nghĩa Tân Ước như lời tông đồ Phêrô lớn tiếng công bố trong ngày lễ Ngũ Tuần rằng: "Toàn thể nhà Israen phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô" (Cv 2,36) và "Dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ danh đó mà được cứu độ." (4,16).

Biết Đức Giêsu nơi con tim

Nhưng như vậy thì phải cắt nghĩa thế nào về Tin Mừng của Matthêu về cuộc phán xét chung? Nếu biết Đức Giêsu là điều kiện tiên quyết để vào hưởng Nước Thiên Chúa, theo bài Tin Mừng hôm nay, thì phải hiểu như thế nào về tình trạng hết sức sửng sốt của những người công chính chưa hề nhận biết Chúa khi họ thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, v.v… (Mt 25,37tt)? Thưa, những người công chính ấy đã được biết Đức Giêsu tận gốc do họ được đánh động bởi chính Thần Trí của Đức Giêsu phục sinh là Thần Trí luôn được ban cho họ để giúp họ làm việc lành. Họ không chỉ biết Đức Giêsu theo cái biết hời hợt nông cạn theo ý nghĩ mà thôi, nhưng còn biết Người thâm sâu nơi con tim mình.

Quả thật, cũng chính cái biết nội tâm ấy đã giúp anh Hướng sống tinh thần chiến đấu để vào cửa hẹp. Anh và vợ anh đã cùng nhau cầu nguyện xin Chúa giúp sức để lướt thắng cơn khủng hoảng. Nhờ vậy anh nhận ra mình phải chọn theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi. Đó là lúc anh được bình an và có sức mạnh để giải quyết trực diện vấn đề khó khăn với ông giám đốc nơi sở làm việc của anh.

Một số câu hỏi gợi ý

1. Trong câu chuyện anh Hướng chia sẻ, anh đã chọn dành thì giờ mỗi cuối tuần cho vợ con thay vì nhận làm việc thêm cuối tuần để lương được thêm 10 ngàn đô. Bạn nghĩ chọn lựa như anh Hướng, theo cái nhìn của bạn, có lợi hay có hại? Theo cái nhìn của những người cùng xóm ngõ của bạn thì chọn lựa ấy đúng hay sai?

2. Dưới ánh sáng của bài Tin Mừng hôm nay, bạn thấy anh Hướng đã phấn đấu để sống tinh thần "cửa hẹp" như thế nào?

Lm Augustine S.J
VietCatholic Network

Cửa hẹp đưa đến hạnh phúc

Khi có người hỏi: "Thưa Ngài, có ít người được cứu thoát thôi, phải không" Chúa Giê-su không trả lời có nhiều hay ít. Nhiều hay ít là tuỳ vào sự định đoạt của mỗi người. Và nhân cơ hội nầy, Chúa Giê-su chỉ dạy một lối đi giúp cho con người đạt được ơn cứu độ: Đó là đi vào cửa hẹp. Ngài nói: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”

Thế là, muốn vào Nước Trời, muốn nhận được ơn cứu độ, phải theo cửa hẹp, đường hẹp mà vào.

Nhưng tại sao phải đi vào cửa hẹp?

Thiên Chúa đã dựng nên trái đất và Ngài quy định cho nó phải quay quanh mặt trời theo một quỹ đạo nhất định và không bao giờ được đi trệch ra ngoài. Thế là trái đất phải quay theo đúng quỹ đạo Chúa vạch ra cho mình không hề sai lệch.

Bao lâu trái đất còn đi theo đúng quỹ đạo, tức con đường hẹp mà Thiên Chúa ấn định cho nó, thì mọi sự sẽ diễn tiến tốt đẹp, cuộc sống sẽ ổn định, hài hoà. Nhưng giả sử trái đất không đi theo quỹ đạo gò bó, chật hẹp nầy, mà đi trệch ra ngoài cho thong dong thoải mái, thì đó là ngày tận cùng của thế giới!

Trong lĩnh vực giao thông đường sắt, nhà thiết kế đã tạo ra hai đường ray chật hẹp cho con tàu chạy trên đó. Bao lâu con tàu nương theo hai đường sắt chật hẹp ấy mà tiến tới, thì nó sẽ về ga cuối an toàn. Nhưng nếu đầu tàu muốn thoát ra khỏi hai đường sắt gò bó, để được tự do trên những con đường thênh thang, để băng mình qua những cánh đồng bát ngát, thì nó sẽ gây ra thảm họa đau thương!

Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa cũng vạch ra cho họ một “quỹ đạo”, đó là quy luật yêu thương. Đây cũng là con đường hẹp, vì muốn sống yêu thương thì phải từ bỏ lòng tham lam ích kỷ, phải quên mình để phục vụ tha nhân. Nhưng nếu con người đi trật ra ngoài “quỹ đạo yêu thương”, họ phải nhận lấy hậu quả vô cùng tai hại.

Đường hẹp đưa đến vinh quang

Con đường hẹp của học sinh, sinh viên, của nhà nghiên cứu là gác bỏ những thú vui và nếp sống an nhàn… để miệt mài nghiên cứu học tập, nhờ đó, họ đạt được những thành quả lớn lao.

Nói chung, bất kỳ một thành tích hay một kết quả lớn lao trong bất cứ lĩnh vực nào cũng chỉ được gặt hái bằng những hy sinh phấn đấu, bằng những nỗ lực kiên trì, tức là phải thông qua đường hẹp mới đạt được chúng.

Không theo đường hẹp là tự rước hoạ cho mình

Nếu mỗi người chúng ta không đi theo đường hẹp Chúa Giê-su đề nghị mà cứ sống buông thả theo đam mê dục vọng hư hèn của mình, thì số phận chúng ta cũng như con tàu đi trật đường ray; chúng ta sẽ gánh lấy thảm họa. Mai đây, chúng ta có nài van với Chúa rằng:  “Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!”, thì Chúa sẽ bảo: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” và “bấy giờ chúng ta sẽ khóc lóc nghiến răng...” (Lc 13, 28)

Lạy Chúa Giê-su,

Mặc dù là Thiên Chúa cao cả và quyền năng, thế mà Chúa cũng đã chọn con đường hẹp, là tự xóa bỏ mình đi, trở thành tôi tớ trung thành của Thiên Chúa Cha, vâng lời Chúa Cha trong mọi sự cho đến chết. (Philip 2: 6-11)

Xin cho đoàn con biết vâng theo lời Chúa dạy, noi theo việc Chúa làm để đi theo con đường hẹp mà Chúa mời gọi, là sống theo luật yêu thương bác ái, nhờ đó, chúng con  sẽ được an bình hạnh phúc đến muôn đời.

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

CỬA VÀO NƯỚC TRỜI LÀ CỬA HẸP

Hôm nay thánh Luca kể lại, trong hành trình Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem: “Có kẻ hỏi Ngài: Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (Lc 13:23). Đây là một câu hỏi không chỉ của người Do Thái thời Chúa Giêsu, mà cũng là của chúng ta hôm nay. Ai sẽ được cứu? Nhiều hay ít người được vào Nước Trời?

Câu trả lời của Chúa Giêsu không nói gì đến số lượng, nhưng hướng đến thái độ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13:24). Như thế, vấn đề không phải là “nhiều hay ít”, mà là mỗi người có can đảm bước đi con đường hẹp, con đường đức tin, từ bỏ, trung thành, để được tham dự vào bàn tiệc Nước Trời hay không. Lời Chúa mở ra một viễn tượng phong phú: ơn cứu độ là phổ quát cho muôn dân, nhưng để được tham dự, con người phải chiến đấu để qua được cửa hẹp và chấp nhận sự sửa dạy yêu thương của Thiên Chúa.

  1. “Cửa hẹp” là một thái độ sống đức tin thật sự

Khi hỏi Chúa Giêsu “Bao nhiêu người sẽ được cứu?”, người hỏi cho rằng sự cứu rỗi của dân Israel hầu như được đảm bảo, miễn là họ tuân giữ Lề Luật Môsê. Nói cách khác, Vương quốc của Chúa chỉ dành riêng cho người Do Thái, và dân ngoại sẽ bị loại trừ. Sách giáo lý Do Thái, Mishnah, dạy rằng: “Tất cả người Israel đều có phần trong thế giới mai sau.” Do đó, câu trả lời của Chúa Giêsu hẳn đã gây sốc. Chúa Giêsu khẳng định rằng Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được hưởng sự sống đời đời, và Ngài nhấn mạnh đến sự cần thiết phải trung thành và cảnh giác liên tục trong suốt cuộc đời chúng ta. Chúa Giêsu nhắc nhở rằng, mặc dù Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta được cứu, nhưng tất cả chúng ta cần phải nỗ lực vì điều đó. Chúa Giêsu nói rõ: “Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (Lc 13:24). Đây là một lời cảnh tỉnh. Không phải nghe giảng, “gần gũi Chúa” theo kiểu lễ nghi bên ngoài là đủ: “Bấy giờ anh em mới nói: Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”  (Lc 13:26). Nhưng Ngài sẽ đáp: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13:26–27).

Việc vào Nước Trời không phải được ban cho cách đương nhiên, chỉ dựa trên danh xưng tôn giáo, chủng tộc  hay quốc tịch. Người ta không thể ỷ lại vào lòng thương xót của Thiên Chúa mà không làm gì để đáp lại lời mời gọi của Ngài. Chúa Giêsu tuyên bố rằng không ai có thể tự cho rằng mình đã được “thị thực cứu rỗi”. Ai sẽ được cứu rỗi là một quyết định thuộc về Thiên Chúa, tùy thuộc vào Công Lý và Lòng Thương Xót của Ngài.

Đức tin không phải là hình thức bên ngoài, một vé máy bay mua trước hay một thứ “thẻ căn cước” tôn giáo giữ sẵn cho chúng một chỗ trên thiên đàng. Đức tin là hành trình bước theo Chúa Kitô, bước qua một cánh cửa hẹp. Nói cách khác, “cửa hẹp” chính là quyết tâm liên lỉ từ bỏ chính mình hằng ngày để sống trung tín, yêu mến Thiên Chúa và những người chung quanh.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nói: “Đừng sợ: Chúa Giêsu đang chờ đợi bạn. Hãy can đảm, hãy can đảm bước qua cánh cửa của Ngài. Mọi người đều được mời gọi bước qua ngưỡng cửa này, bước qua ngưỡng cửa đức tin, bước vào cuộc đời Ngài và để Ngài bước vào cuộc đời chúng ta, để Ngài biến đổi, đổi mới và ban cho nó niềm vui trọn vẹn và lâu dài…Chúng ta đừng sợ bước qua ngưỡng cửa đức tin vào Chúa Giêsu, để Ngài ngày càng bước vào cuộc đời chúng ta, và chúng ta bước ra khỏi sự ích kỷ, khép kín, thờ ơ với tha nhân để Chúa Giêsu soi sáng cuộc đời chúng ta bằng một ánh sáng không bao giờ tắt” (Kinh Truyền Tin, Chủ Nhật, 25 tháng 8 năm 2013).

  1. Ơn cứu độ dành cho muôn dân – viễn tượng Isaia

Thông điệp Tin Mừng của Chúa Giêsu là không một người nào, không một dân tộc, quốc gia, chủng tộc hay giai cấp nào, bị loại trừ khỏi tình yêu và ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng. Chính trong thời Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã mở ra viễn tượng rộng lớn đó: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ… Chúng sẽ rao giảng cho các dân biết vinh quang của Ta” (Is 66:18–19).

Thiên Chúa không chỉ muốn cứu một số người, nhưng là tất cả. Đây là tầm nhìn phổ quát của Kinh Thánh. Ngôn sứ Isaia đã tiên báo về các dân ngoại được dẫn về Giêrusalem, thậm chí được chọn làm tư tế và thầy Lêvi (Is 66: 21). Đối với người Do Thái, đây hẳn là một chướng kỳ. Nhưng đó chính là sự đảo ngược mà Chúa Giêsu cũng nhắc đến: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13: 29).Thánh Phaolô cũng nói: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2: 4).

Thánh Irênê, giám mục Lyon, trong chuyên luận “Chống lạc giáo”, được viết vào năm 185, đã thốt lên những lời đáng kinh ngạc này: “Gloria Dei vivens homo - Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống” (Chống lạc giáo IV, 20,7). Ơn cứu độ chính là sự sống chan chứa mà Thiên Chúa muốn trao cho nhân loại.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nhắc lại điều này: “Sự cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện và Hội Thánh vui mừng loan báo là ơn được dành cho hết mọi người. Thiên Chúa đã tìm ra một cách để kết hợp với mọi con người trong mọi thời đại. Ngài đã quyết định kêu gọi họ trong tư cách một dân tộc chứ không phải từng cá nhân riêng lẻ…Đức Giêsu không bảo các môn đệ hợp thành một nhóm ưu tú và độc quyền. Ngài nói: “Không có chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, ... vì tất cả anh em chỉ là một trong Ðức Kitô” (Gl 3: 28). Với những ai cảm thấy xa cách Thiên Chúa và Hội Thánh, với tất cả những ai sợ hãi hay dửng dưng, tôi muốn nói thế này: với đầy lòng tôn trọng và yêu thương, Chúa cũng đang kêu gọi anh chị em trở thành dân của Ngài!” (Tông huấn Evangelii Gaudium, số 113).

Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người, nhưng con đường cứu độ đó không phải chuyện dễ dãi. Thánh Phaolô giải thích: “Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Ngài mới cho roi cho vọt” (Hípri 12: 6). Ngài khích lệ: “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính.” (Hípri 12: 11). Vì thế, ta được mời gọi kiên trì, nâng đỡ nhau: “Bởi vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ” (Hípri 12: 12). 

Cửa hẹp chính là sự thanh luyện trong thử thách và đau khổ. Nhưng thử thách không phải là dấu hiệu Chúa bỏ rơi, mà là bằng chứng của tình yêu. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dạy: “Trong chương trình cứu thế của Chúa Kitô, đồng thời cũng là chương trình của Vương quốc Thiên Chúa, đau khổ hiện diện trên thế giới để giải phóng tình yêu, để khai sinh những công trình yêu thương đối với tha nhân, để biến đổi toàn bộ nền văn minh nhân loại thành một "nền văn minh tình yêu". Trong tình yêu này, ý nghĩa cứu độ của đau khổ được hoàn thành trọn vẹn và đạt đến chiều kích quyết định của nó” (Tông thư Salvifici Doloris, số 30). Ơn gọi của các Kitô hữu là loan báo cho mọi người Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian, và làm chứng cho Tin Mừng này qua đời sống yêu thương, chia sẻ và phục vụ.

  1. Đảo ngược giá trị: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết”

Một trong những câu gây sốc là: “Có những kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và những kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Lc 13: 30). Đây là sự đảo ngược mọi tiêu chuẩn thế gian: địa vị, dòng dõi, quyền thế không bảo đảm được gì.

Điều này khớp với viễn tượng Isaia: dân ngoại, vốn bị coi là “sau hết”, nay được chọn để bước vào vai trò thánh thiêng. Và điều này vẫn đúng cho Giáo hội hôm nay: ai tưởng mình “trước hết” dễ sa vào tự mãn, còn ai khiêm nhường sẽ được Thiên Chúa nâng lên.

Ngôn sứ Isaia kết thúc bằng một viễn tượng hy vọng: “Vì trời mới đất mới do chính Ta làm ra tồn tại trước mặt Ta thế nào, sấm ngôn của Chúa, thì dòng dõi và tên tuổi các ngươi cũng sẽ tồn tại như vậy” (Is 66: 22). Đó chính là lời hứa vĩnh cửu. Ơn cứu độ không dành cho một nhóm nhỏ, nhưng mở ra cho tất cả những ai can đảm bước qua cửa hẹp, kiên trì trong tình yêu, và đón nhận sự sửa dạy của Thiên Chúa.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh: “Trong Nước Trời, không có người thất nghiệp, mọi người đều được kêu gọi đóng góp phần của mình; và cuối cùng, tất cả mọi người sẽ được đền bù bởi sự công bằng của Thiên Chúa, không phải công bằng của con người, thật may mắn cho chúng ta! Đó là ơn cứu độ mà Chúa Giêsu Kitô đã mang lại cho chúng ta qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Một ơn cứu độ không phải do xứng đáng, nhưng được ban tặng, ơn cứu độ là miễn phí, “những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Kinh Truyền Tin, 24.09.2017).

Một lần kia, tại một giáo xứ nhỏ vùng quê, cha xứ tổ chức Thánh lễ tạ ơn để ghi nhận công lao của những người âm thầm phục vụ giáo xứ. Nhiều người trong cộng đoàn nghĩ rằng những người được xướng tên đầu tiên chắc chắn sẽ là các ân nhân giàu có, hoặc những người có uy tín và chức quyền.

Nhưng thật bất ngờ, cha xứ lại mời lên trước cộng đoàn một cụ bà nghèo, quanh năm ngày tháng chỉ lặng lẽ quét sân nhà thờ, dọn dẹp ghế bàn. Bà cụ ngỡ ngàng, lúng túng, cúi mặt vì không bao giờ nghĩ rằng mình đáng được gọi tên. Cha xứ mỉm cười nhỏ nhẹ nói: “Trong mắt người đời, bà chỉ làm những việc nhỏ bé và âm thầm. Nhưng trong mắt Thiên Chúa, bà lại là người đã trung tín và khiêm nhường nhất. Dĩ nhiên còn nhiều người khác cũng được Chúa cùng cộng đoàn ghi nhận và cám ơn, nhưng chính những người như bà mới là những người thật sự sẽ lên hàng đầu.”

Xin Chúa cho chúng con biết bước đi trên con đường hẹp mỗi ngày, nhưng đầy hy vọng vào lời Chúa hứa, để cùng với mọi người và muôn dân tộc, được ngồi chung nơi bàn tiệc Nước Trời, nơi “có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu” (Lc 13: 30).

 

Phêrô Phạm Văn Trung 

 

Subcategories