3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

THÁNH GIÁ: DẤU LẠ TÌNH YÊU CÓ MỘT KHÔNG HAI

Trình thuật Tin Mừng Luca ghi lại sự kiện Chúa Giêsu trừ quỷ câm: “Bấy giờ Chúa Giêsu trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được” (Lc 11: 14).. Phép lạ này lẽ ra phải đem đến sự kinh ngạc và tin tưởng, nhưng một số người lại hoài nghi. Họ buộc tội Ngài dựa vào quyền lực của quỷ vương Bêendêbun và đòi hỏi một dấu lạ từ trời: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bêendêbun mà trừ quỷ. Kẻ khác lại muốn thử Ngài, nên đã đòi Ngài một dấu lạ từ trời” (Lc 11: 15-16). Phản ứng này cho thấy sự đối lập rõ ràng giữa những người tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và những người không tin, những người luôn tìm kiếm một bằng chứng hữu hình choáng ngợp.

  1. Chờ Đợi Một Dấu Lạ Từ Trời

Trong suốt sứ vụ của mình, Chúa Giêsu thu hút nhiều người. Trong số đó, có những người như Nhóm Mười Hai Tông Đồ và Mẹ Maria, các ngài tin tưởng trọn vẹn vào Ngài mà không cần thêm bằng chứng. Tuy nhiên, cũng có những người khác hoài nghi và đòi hỏi một “dấu lạ từ trời”. Đối với họ, những phép lạ chữa lành, xua đuổi ma quỷ hay hóa bánh ra nhiều vẫn chưa đủ. Họ muốn một sự can thiệp trực tiếp và không thể chối cãi từ Thiên Chúa, như một “bộ phim” Hollywood, một kiểu hiển lộ thần linh đầy quyền năng, nhằm thỏa mãn tâm trí đầy nghi kỵ của họ đối với Ngài.

Mong muốn đó, dù có vẻ hợp lý đối với lý trí con người, nhưng lại phơi bày sự cứng cỏi trong tâm hồn và sự thiếu đức tin của họ. Đó là một yêu cầu dựa trên sự thiếu tin tưởng chứ không phải một khao khát chân thành muốn tìm hiểu luôn mãi về Cõi Trời Cao, vốn không bao giờ có điểm dừng. Vì vậy, Chúa Giêsu không thể và sẽ không cho họ dấu lạ mà họ mong muốn. Ngài biết rằng nếu Ngài ban cho họ một dấu hiệu như thế, đức tin của họ sẽ không còn là một sự tự nguyện mà chỉ là kết quả áp đặt của một bằng chứng giới hạn bên ngoài. Tình yêu và lòng tin chân thật không thể ép buộc được, chúng chỉ có thể được trao đi một cách tự nguyện chân thành. Bằng cách từ chối yêu cầu của họ: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna” (Luca 11:29), Chúa Giêsu mời gọi họ tìm kiếm một đức tin ngày càng sâu sắc hơn, không dựa vào những dấu lạ “ngoạn mục” mà dựa vào mối tương quan cá vị với Thiên Chúa. Chỉ trong lòng tin, cậy, mến đối với Chúa Kitô thì con người mới dần hiểu được “Đấng từ trời”, vốn là Thiên Chúa không ai có thể hiếu hết một cách trọn vẹn.

Thay vì ban cho họ một dấu lạ theo ý họ, Chúa Giêsu đã nói rằng dấu lạ duy nhất họ sẽ nhận được là dấu lạ của ông Giôna: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna. Quả thật, ông Giôna đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy” (Luca 11: 29-30). Câu chuyện về Giôna (Gn 1: 1-16) không phải là một phép lạ đẹp đẽ bên ngoài, mà là một dấu chỉ của cái chết và sự phục sinh, của sự bất tuân và ơn cứu độ. Ông sống trong bụng cá ba ngày đêm, một khoảng thời gian cô tịch và ăn năn: “Thiên Chúa khiến một con cá lớn nuốt ông Giôna. Ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Từ trong bụng cá, ông Giôna cầu nguyện cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa của ông” (Gn 2: 1-2). Cuối cùng, “Chúa bảo con cá, nó liền mửa ông Giôna ra trên đất liền” (Gn 2: 11), và từ đó ông bắt đầu sứ mạng của mình. Dấu lạ của Giôna không phải là một màn trình diễn quyền năng, nhưng là một dấu chỉ báo trước một sự kiện còn vĩ đại hơn.

Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng dấu lạ của Ngài sẽ giống như thế: “Quả thật, ông Giôna đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy” (Lc 11: 30). Ngài sẽ phải chịu đựng sự đau khổ tột cùng dưới bàn tay của các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị dân sự. Ngài sẽ bị đóng đinh, bị giết chết và được an táng trong một ngôi mộ lạnh lẽo. Nhưng rồi, ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại. Sự Phục Sinh của Ngài không phải là một sự kiện công khai với những tia sáng chói lòa, những tiếng kèn vang dội để tất cả mọi người trên thế gian này có thể chứng kiến. Thật vậy, những lần hiện ra sau khi Ngài Phục sinh chỉ dành cho những người đã tin theo Ngài, thậm chí đã theo Ngài đến tận cùng. Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu không phải là câu trả lời cho những đầu óc duy lý đầy hoài nghi, hoặc chủ trương bất khả tri, rồi dừng lại nơi những lối sống duy thực dụng, duy vật vô thần… Sự Phục Sinh của Ngài, dấu lạ có một không hai trong lịch sử loài người, càng đòi hỏi có một niềm tin vượt trên lý lẽ hạn hẹp của phàm nhân, và trên hết đòi hỏi một mối tương quan tình yêu cá vị của từng người muốn bước theo và gắn bó với Chúa Kitô.

Thiên Chúa sẽ không bao giờ thuyết phục chúng ta về những vấn đề đức tin qua những biểu lộ công khai, mạnh mẽ. Thay vào đó, “dấu lạ” mà chúng ta được ban là một lời mời gọi mang tính cá nhân: lời mời gọi cùng chết với Chúa Kitô. Đó là lời mời gọi chết đi cho những tội lỗi và những ham muốn ích kỷ của chúng ta, để chúng ta có thể bắt đầu cuộc sống mới của sự Phục Sinh. Ân huệ của đức tin không phải là một sự kiện bên ngoài, mà là một sự biến đổi từ trong tâm hồn. Cái chết của chúng ta đối với tội lỗi là một thái độ nội tâm mang tính cá nhân, một sự lựa chọn của ý chí để từ bỏ con người cũ. Cuộc sống mới mà chúng ta nhận được nhờ sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chỉ có thể được người khác nhìn thấy qua chứng tá trong cuộc sống đã được biến đổi của chúng ta.

Chúng ta cũng có thể bị cám dỗ tìm kiếm những dấu hiệu lớn lao, trong khi những dấu hiệu của Thiên Chúa lại đang có mặt trong những điều nhỏ bé, trong những hành động tử tế, trong những phép lạ hàng ngày của lòng thương xót. Nếu chúng ta là người dường như đang chờ đợi một dấu lạ lớn lao nào đó từ Thiên Chúa, thì đừng chờ đợi nữa. Dấu lạ đã được ban cho chúng ta từ lâu rồi. Khi nhìn lên cây thánh giá, nơi những đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu diễn ra, chúng ta hãy nghĩ đến những đau khổ và cái chết của mỗi người chúng ta. Hãy chiêm ngưỡng sự hy sinh tột cùng đó và chọn theo Ngài. Hãy chọn chết đi mọi tội lỗi và ích kỷ của chính mình. Hãy cùng chết với Ngài, cùng vào mồ với Ngài và để Ngài đưa chúng ta đến với sự đổi mới cõi lòng từng ngày. Chỉ khi chúng ta chấp nhận cái chết cá nhân này, chúng ta mới có thể được biến đổi nhờ dấu chỉ duy nhất này từ Trời cao, một dấu chỉ không cần lời nói, không cần ánh sáng chói lòa, nhưng đủ sức mạnh để biến đổi cõi lòng thẳm sâu của chúng ta.

  1. Tình Yêu Sâu Xa Xua Tan Sợ Hãi

Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Luca 9:22).

Chúa Giêsu biết Ngài sẽ chịu đau khổ nhiều, bị chối bỏ và bị giết. Hầu hết mọi người sẽ tràn ngập nỗi sợ hãi, bị ám ảnh và cố tránh né nó. Nhưng Chúa Giêsu không tránh né như thế. Chúa Giêsu muốn ôm lấy Thánh Giá của Ngài một cách tin tưởng và can đảm không lay chuyển.

Đây chỉ là một trong nhiều lần Chúa Giêsu bắt đầu báo cho các môn đệ về số phận đang chờ đợi của Ngài. Và mỗi lần Ngài nói như vậy, phần lớn các môn đệ giữ im lặng hoặc chối bỏ. Thánh Phêrô đã phản ứng như vậy khi ông đáp lại lời báo trước của Chúa Giêsu về Cuộc Khổ nạn của Ngài bằng cách nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16: 22).

Câu nói của Chúa Giêsu rất rõ ràng và dứt khoát, tỏa ra sức mạnh và quyết tâm của Ngài. Điều thúc đẩy Chúa Giêsu nói ra lời đó một cách kiên quyết và can đảm như thế chính là tình yêu của Ngài.

“Tình yêu” thường được hiểu là một cảm giác mạnh mẽ và tốt đẹp. Tình yêu được coi là một sự hấp dẫn hoặc một sự yêu thích mạnh mẽ đối với điều gì đó. Nhưng đó không phải là tình yêu chân thật nhất, vì đó chỉ là tìm kiếm một cảm giác thỏa mãn ích kỷ. Tình yêu đích thực là một sức mạnh không lay chuyển chỉ tìm kiếm điều tốt đẹp cho người mình yêu, bất kể cái giá phải trả, bất kể khó khăn như thế nào.

Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại là một sức mạnh như thế, không thể lay chuyển, mạnh mẽ đến nỗi thúc đẩy Ngài chấp nhận cái chết đang chờ đợi. Đó không phải là một sự hy sinh miễn cưỡng, mà là một sự lựa chọn chủ ý và kiên quyết. Ngài đã tự nguyện dâng hiến mạng sống mình cho tất cả chúng ta, và không một thế lực nào trên thế gian này có thể ngăn cản Ngài thực hiện sứ mệnh thiêng liêng đó. Sự quyết tâm của Ngài là minh chứng rõ ràng nhất cho tình yêu vô bờ bến mà Ngài dành cho nhân loại.

Trong cuộc sống hiện đại đầy rẫy những toan tính vị kỷ, chúng ta rất dễ đánh mất ý nghĩa thật sự của tình yêu. Chúng ta có thể bị cuốn vào những ham muốn ích kỷ, những lợi ích cá nhân, và nhầm tưởng rằng đó chính là tình yêu đích thực. Những cảm xúc đó, dẫu có mãnh liệt đến đâu, cũng chỉ là những khao khát riêng tư chứ không phải là tình yêu. Tình yêu đích thực luôn đòi hỏi sự hy sinh, sự cho đi và lòng vị tha.

Chúa Kitô yêu thương tất cả chúng ta bằng cách hy sinh, chấp nhận đau khổ cùng cực, trút bỏ và cuối cùng là chết trên Thập giá: “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2: 7-8). Dù phải đối mặt với nỗi đau thể xác và tinh thần khủng khiếp, Ngài vẫn không lùi bước. Không một ai, không một điều gì có thể làm lung lay tình yêu này. Tình yêu của Ngài là một tấm gương sáng ngời, một lời nhắc nhở mạnh mẽ rằng tình yêu đích thực luôn vượt qua mọi thử thách.

Chúng ta cũng phải học cách thể hiện cùng một tình yêu hy sinh như thế. Chúng ta được mời gọi để yêu thương không phải chỉ bằng lời nói, mà bằng những hành động cụ thể, bằng sự sẵn lòng cho đi, chịu đựng và tha thứ cho người khác. Tình yêu này không chỉ là một cảm xúc, mà là một sự lựa chọn hàng ngày, đòi hỏi sự kiên nhẫn, lòng trắc ẩn và sự hy sinh không ngừng nghỉ. Khi sống với tình yêu hy sinh, chúng ta mới thực sự thể hiện được tình yêu của Chúa Kitô trong cuộc đời mình và mang lại cho cuộc sống của chính mình và của những người chung quanh một ý nghĩa sâu xa.

Lạy Chúa Giêsu đáng mến yêu, con cảm tạ Chúa vì Chúa đã quyết hy sinh tất cả cho chúng con, vì tình yêu đích thực sâu thẳm không dò thấu được này của Chúa. Xin ban cho con ơn biết nhìn lên Chúa chịu đóng đinh trên thánh giá và nhận ra hành động yêu thương vĩ đại nhất từng được biết đến, trong cái chết của Chúa, để con cũng biết trút bỏ mọi thứ ích kỷ, chết đi cho cái tôi tội lỗi của mình, và có thể tham dự vào tình yêu hy sinh hoàn hảo nhất của Chúa. Nhờ đó con được biến đổi trong hành trình theo Chúa và thông phần trọn vẹn vào sự sống mới của Chúa Phục Sinh Vinh Quang. Amen.

Phêrô Phạm Văn Trung

phỏng theo https://catholic-daily-reflections.com

Yêu quý và trân trọng người tội lỗi

Trước mắt người đời thì những người tội lỗi là thành phần xấu trong xã hội nên thường bị chê bài, khinh bỉ và xa lánh.

Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa thì bất cứ người nào, dù nhỏ bé, hèn hạ và tội lỗi đến đâu đi nữa cũng được nhìn nhận là những người con đáng yêu, đáng quý của Ngài.

Hai dụ ngôn Tin mừng hôm nay chứng tỏ điều đó.

Qua dụ ngôn chiên lạc, Chúa Giê-su ví người tội lỗi như con chiên lạc mà người chăn chiên trân trọng và quý mến. Thế nên anh sẵn sàng rời xa 99 con chiên trong đàn để đi tìm cho được con chiên lạc đó. Và một khi đã tìm được rồi, anh không quật cho nó một trận cho hả giận vì nó đã gây ra bao điều cực nhọc cho mình, trái lại, anh vui mừng ôm lấy nó, vác nó lên vai, hăm hở trở về, mời bà con làng xóm đến chia vui.

Qua dụ ngôn tiếp theo, người tội lỗi được ví như một đồng quan bị đánh mất, khiến người phụ nữ mất tiền cảm thấy tiếc nuối, nên dù trong đêm tối, bà cũng vội thắp đèn lên, quét nhà cho kỹ, moi móc mọi ngóc ngách, cố tìm cho bằng được đồng tiền bị mất ngay tức khắc, không đợi đến ngày mai. Và khi đã tìm thấy, bà reo lên vui sướng và chia sẻ niềm hoan lạc này với bạn bè lối xóm.

Từ hai dụ ngôn này, Chúa Giê-su kết luận: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”
Qua hai dụ ngôn này, Chúa Giê-su tỏ cho biết ngay cả người tội lỗi lầm lạc cũng là những người con đáng trân trọng và quý mến đối với Thiên Chúa. 

Thiên Chúa trân trọng và quý mến con người nên Chúa Cha đã sai chính Con Một mình từ trời xuống thế để cứu độ loài người.

Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên khi vừa gặp Gia-kêu, một nhân viên thu thuế cho đế quốc Rô-ma bị người Do-thái kỳ thị, Chúa Giê-su thân mật đón chào và đề nghị ở lại nhà ông: “Gia-kêu, xuống mau đi! Vì hôm nay tôi sẽ lưu lại nhà ông.”

Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên Chúa Giê-su không ngần ngại chọn Lê-vi, một người thu thuế bị liệt vào hạng tội lỗi, làm tông đồ của Ngài và làm tác giả sách Tin mừng thứ nhất.

Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên khi những người biệt phái đưa người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giê-su, thì Ngài cũng không lên án hay luận tội người này. Trái lại, Ngài dùng lời hay lẽ phải giải tán đám đông đang hung hăng với nhiều ác ý, rồi nhẹ nhàng khuyên lơn người phụ nữ: “Tôi không lên án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 2-11).

Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên khi vừa nghe tên tử tội cùng bị treo lên thập tự giá với Chúa Giê-su van xin Ngài: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”, thì Chúa Giê-su liền hứa ban thiên đàng cho anh ta: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng” (Lc 23,42).

Lòng quý mến và trân trọng của Thiên Chúa đối với người tội lỗi lên đến cao điểm khi Chúa Giê-su hiến thân chịu khổ hình. Ngài chịu đòn vọt và đau khổ thay cho muôn người tội lỗi; Ngài chịu chết thay cho muôn người để họ được sống đời đời.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa là Chúa tể trời đất, còn chúng con chỉ như những hạt bụi li ti trong vũ trụ, chẳng đáng là gì, thế mà Chúa lại trân quý từng người trong chúng con, ngay cả những người tội lỗi hư hèn nhất. Vậy thì chúng con là ai mà dám coi thường, khinh dể anh chị em chung quanh mình.

Xin cho chúng con biết học với Chúa để đem lòng yêu quý và trân trọng mọi người như Chúa đã nêu gương.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

 

TIN MỪNG LUCA (Lc 15, 1-10)

1 Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng.2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.”3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:
4 “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.7 Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

8 “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được?9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”

MÙA ĐƯỢC, MÙA MẤT

Thứ Bảy Tuần 23 TN C

“Chúc tụng Danh Thánh Chúa, tự giờ đây cho đến mãi muôn đời!”.

Trong “The Complete Disciple”, tạm dịch, “Thợ Lành Nghề”, Paul W. Powell mô tả một tình trạng khá buồn: “Nhiều nhà thờ nhắc tôi về một nhóm thợ ngồi xuống đứng lên trong kho nông cụ. Mỗi Chúa Nhật, họ đến nghiên cứu, mài cày, tra dầu vào máy; sau đó, đứng dậy, ra về. Lại Chúa Nhật, họ đến, nghiên cứu, mài cày, tra dầu vào máy; sau đó, đứng dậy, ra về. Tuần này qua tuần khác, năm này qua năm khác, cũng ngần ấy việc. Không ai còn nhớ đến chuyện ra đồng. Vì thế, với họ, một mùa bội thu là những gì thuộc về các giấc mơ!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại ‘cánh đồng’ đời mình. Đúng hơn, nhìn lại những năm tháng, xem đâu là ‘mùa được’ – nghĩa là khi Danh Chúa rạng sáng, “Chúc tụng Danh Thánh Chúa, tự giờ đây cho đến mãi muôn đời!” – Thánh Vịnh đáp ca; và đâu là ‘mùa mất’ khi Danh Ngài bị lãng quên.

Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một phương thức tối đơn giản, “Xem quả thì biết cây!”. Có những quãng thời gian; trong đó, những quyết định, những hoạt động được thực hiện, khi đời sống cầu nguyện của chúng ta trở nên sâu sắc, dẫu đó có thể là những tháng ngày khó khăn nhưng chúng ta đã có một ‘mùa bội thu’. Đang khi có thể có những vụ mùa mà bên ngoài là thành công với sự kiện này, sự kiện khác… nhưng bên trong, chỉ là huyễn danh, vụ lợi, trống rỗng và thực chất là chúng ta ‘mất trắng!’. Đó là những vụ mùa mà danh chúng ta ‘rạng sáng’, đang khi Danh Chúa thì ‘tắt ngủm!’. “Khi con người tôn vinh chính mình, họ làm lu mờ Danh Chúa; khi họ tôn vinh Danh Chúa, tên tuổi họ lại được nâng cao trong chân lý!” – John Calvin.

Phaolô thú nhận, “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi” – bài đọc một. Chạy theo danh vọng và sự công chính của riêng mình, Phaolô đã có một mùa thảm hại; nhưng một khi để Đức Kitô chạm đến – đúng hơn, chiếm hữu – thì ngay trong sự yếu đuối, Phaolô lại có một ‘mùa được’ cho mình và cho những người khác. Từ đó, Phaolô dâng đời mình cho sứ vụ giữa cánh đồng dân ngoại và đã bội thu, “Kính dâng Ngài danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời!”.

Anh Chị em,

“Chúc tụng Danh Thánh Chúa!”. Cuộc đời mỗi người chúng ta có thể có nhiều mùa, nhưng điều quyết định không phải ở chỗ chúng ta ‘được’ hay ‘mất’ theo tiêu chuẩn thế gian, mà ở chỗ Danh Chúa có được hiển sáng hay không. Nhiều lúc, một mùa tưởng là mất, nếu trong đó bạn và tôi bám lấy Chúa, lại trở thành được; đang khi một mùa tưởng là được, nếu chúng ta chỉ tô vẽ cho danh mình, lại hoá mất. Ước gì từng mùa của chúng ta, dẫu vui hay buồn, thịnh hay suy, đều trở thành cơ hội cho muôn dân thốt lên: “Chúc tụng Danh Thánh Chúa, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời!”. Vì lẽ “Khi Thiên Chúa được tôn vinh, ngay cả những mất mát của chúng ta cũng trở thành chiến thắng!” – Charles Spurgeon.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con sống ‘văn hoá nhàn rỗi’, suốt ngày đứng lên ngồi xuống, đi vào đi ra; hoặc mài cày cho bóng, tra dầu cho trơn. Cho con dám ra đồng, để có một ‘mùa bội thu’ thật sự!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Lòng Chúa xót thương

Có ai đó đã nói rằng: “con tim có lý lẽ của con tim”. Hành động của con tim không đo lường bằng toán học, không kiểm chứng bằng khoa học. Hành động của con tim chỉ có thể hiểu được bằng tình yêu. Thế nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu được những việc làm xem ra thiếu tính toán của tình yêu. Đó cũng là cách hành xử mà Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền đánh mất. Cả hai dụ ngôn đều nói lên một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán vụ lợi. Vì không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng vắng để đi tìm con chiên lạc. Và cũng không có ai dại gì bỏ hàng vạn đồng để chiêu đãi bà con lối xóm khi tìm lại 1 đồng bạc bị đánh mất. Thiên Chúa không tính toán thiệt hơn.Thiên Chúa luôn hành động vì yêu thương. Chính tình yêu đã thúc bách Ngài phải lên đường ngay để tìm con chiên lạc. Chính trong sự nhẫn nại của tình yêu đã làm cho Ngài tràn ngập niềm vui sướng khi tìm được đồng tiền đã mất.

Con chiên và đồng tiền đánh mất tựa như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh vọng. Vì chạy theo những đam mê trần gian đã làm cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá cao qúy của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa dùng muôn nghìn cách để tìm lại chúng ta. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại con người chúng ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc dài của lịch sử ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề. Thiên Chúa thì luôn tín trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương ngàn đời.

Tình yêu của Ngài hôm nay vẫn thế. Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người của mình. Phẩm giá con người lớn hơn những giá trị vật chất. Ngài không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho ma qủy lôi kéo vào hố diệt vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay. Điều đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của Đavít, Ngài đã không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Ngài đã cho Đavít cơ hội làm lại cuộc đời. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn. Đavít đã cảm nhận tình thương Chúa dành cho ông quá to lớn đến nỗi mà ông phải thốt lên: “Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được”. Chúa đã không chấp tội Đavít mà “lòng nhân từ của Chúa còn theo đuổi Đavít suốt cuộc đời”.

Vâng, lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ mới cho chúng ta hiểu nổi tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn. Vì “Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”.

Dù có những người mẹ độc ác bỏ con mình, Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy”.

Chúng ta thường nghe hát: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”. Còn lòng Chúa thương chúng ta thì không gì sánh được. Tình mẹ đã khó mà đền đáp cho đủ, còn tình Chúa thì sao? Liệu rằng chúng ta sẽ làm gì để đền đáp ơn Ngài cho cân xứng?

Ước gì mỗi người chúng ta cũng nhận ra lòng Chúa xót thương để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó cho anh em. Amen.

Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Tôi Là Người Thứ Ba


Chủ đề: "Trong cuộc đời, chúng ta phải đặt Thiên Chúa lên trên hết và hằng ngày phải sống điều quyết định đó"

Gale Sayers, là một tuyển thủ của đội banh Chicago Bears hồi thập niên 1960, ông được coi là một cầu thủ nổi tiếng trong lịch sử banh bầu dục. Trên cổ ông đeo một huy chương vàng, trên đó có khắc hàng chữ: Tôi Là Người Thứ Ba.

Hàng chữ này trở thành đầu đề cho cuốn tự truyện bán chạy nhất của ông. Qua cuốn này chúng ta biết tại sao những chữ ấy lại rất có ý nghĩa đối với ông. Đó là khẩu hiệu của huấn luyện viên Bill Easton, người dạy môn chạy đua khi ông Gale còn là sinh viên của Đại Học Kansas.

Huấn luyện viên Easton khắc những chữ ấy trên một tấm thẻ và để trên bàn làm việc. Một ngày kia ông Gale hỏi người huấn luyện về ý nghĩa của những chữ ấy. Ông Easton trả lời, "Trước hết là Thiên Chúa, kế đến là bạn hữu, và tôi là người thứ ba." Từ ngày đó trở đi, ông Gale coi những chữ này như một triết lý sống của cuộc đời.

Trong năm thứ hai là tuyển thủ của đội Bears, ông Gale muốn đeo trên cổ một điều gì đó có ý nghĩa, như ảnh tượng tôn giáo. Bởi thế ông mua một huy chương vàng và khắc trên đó hàng chữ Tôi Là Người Thứ Ba.

Trong tự truyện, ông Gale cho biết, "Tôi cố sống theo những gì viết trên huy chương ấy. Tôi không luôn luôn thành công, nhưng nhờ những chữ ấy đeo trên cổ mà tôi không lầm lạc quá xa."

Câu chuyện của ông Gale Sayers cho thấy điều Chúa Giêsu muốn nói đến trong phần đầu của bài phúc âm hôm nay, khi Người nói:

"Ai đến với tôi đều không thể là môn đệ của tôi trừ phi họ yêu mến tôi hơn yêu mến cha mẹ..."

Nói cách khác, chúng ta phải dâng hiến các ưu tiên hàng đầu của chúng ta cho Chúa Giêsu và Cha trên trời.

Và điều đó đưa chúng ta đến điểm thứ hai mà Chúa Giêsu đã nói trong phần hai của bài phúc âm hôm nay:

"Nếu một trong các người dự định xây cái tháp, trước tiên hắn phải ngồi xuống và suy tính xem tốn phí thế nào và có đủ tiền để hoàn tất công việc hay không."

Nói cách khác, dâng hiến các ưu tiên hàng đầu của chúng ta cho Chúa Giêsu thì chưa đủ. Chúng ta còn phải sống các ưu tiên đó một khi đã quyết định.

Dĩ nhiên, đó là phần khó khăn.

Như ông Gale Sayers đã nói thật rõ ràng: "Đặt Chúa lên hàng đầu là một chuyện. Sống điều đó là một chuyện khác nữa."

Đó là lý do tại sao ông Gale đeo huy chương đó trên cổ: để nhắc nhở ông phải sống điều tiên quyết ấy. Hãy lập lại lời của ông:

"Tôi cố sống theo những gì viết trên huy chương ấy. Tôi không luôn luôn thành công, nhưng nhờ đeo trên cổ những chữ ấy tôi không sai lạc quá xa."

Một thời gian trước đây, trong tờ Los Angeles Times phóng viên Dave Smith có kể một câu chuyện cảm động. Đó là về người Kitô Hữu thời đại, giống như ông Sayers, đã đặt Thiên Chúa lên trên hết, kế đến là tha nhân, và thứ ba mới đến chính mình. Tên ông là Charlie DeLeo.

Ông từng là "một đứa trẻ ngỗ nghịch ở vùng Nữu Ước." Sau khi từ cuộc chiến Việt Nam trở về, ông kiếm được công việc làm là lau chùi bức tượng Nữ Thần Tự Do.

Ông Charlie cho người phóng viên biết một phần của công việc là coi sóc ngọn đuốc trong tay bức tượng và vương miện trên đầu bức tượng.

Ông phải đảm bảo các đèn luôn luôn sáng và 200 cửa kính trên ngọn đuốc và vương miện luôn luôn sạch.

Chỉ tay về ngọn đuốc, ông Charlie hãnh diện nói, "Đó là nguyện đường của tôi và tôi dâng cho Chúa. Khi nghỉ giải lao tôi thường lên đó cầu nguyện."

Nhưng ông Charlie còn thi hành nhiều điều khác nữa cho Chúa.

Ông nhận được lời khen ngợi của cơ quan Hồng Thập Tự khi ông hiến máu lần thứ 65.

Và sau khi nghe biết về công việc của Mẹ Têrêsa ở Ấn, ông đã tặng $12,000 cho Mẹ và những người tương tự.

Ông Charlie nói khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói chuyện ở công viên Battery, cách nơi bức tượng một dặm rưỡi, ông đứng ở vòng đai quanh ngọn đuốc và nghe Đức Thánh Cha nói. Từ vòng đai đó ông đã cầu nguyện cho chuyến tông du Hoa Kỳ của đức giáo hoàng được thành công.

Ông nói với phóng viên tờ Los Angeles Times:

"Tôi không giao du nhiều, không có quần áo đẹp, nhưng tôi vui. Tôi không đủ tiền để lấy vợ. Tôi không để dành đồng nào. Sau khi kiếm được công việc này, tôi bảo trợ sáu em cô nhi qua một tổ chức bác ái."

Ông chấm dứt câu chuyện với người phóng viên rằng, ông tự coi mình là "Người Giữ Ngọn Lửa" của tượng Nữ Thần Tự Do. Sau này một người làm việc trong công viên cho phóng viên biết:

"Ai ai cũng biết ông Charlie thì đặc biệt. Khi ông tự cho mình danh hiệu ấy, họ mỉm cười. Nhưng bây giờ tất cả chúng tôi không coi thường điều ấy. Đối với chúng tôi, ông thật đúng với điều ông nói: 'Người Giữ Ngọn Lửa.'"

Ông Charlie DeLeo khởi sự cuộc đời là một đứa trẻ ngỗ nghịch ở vùng Nữu Ước. Nhưng sau này, giống như ông Gale Sayers, ông quyết định đặt Thiên Chúa lên trên hết, kế đến là tha nhân, và thứ ba mới đến ông.

Quyết định đó đã thay đổi đời ông.

Ông Charlie là một thí dụ sống động về hai điểm mà Chúa Giêsu đã nói trong bài phúc âm hôm nay: quyết định đặt Chúa lên trên hết trong đời, và quyết định sống điều đã lựa chọn.

Ông Charlie còn là một cảm hứng sống động để chúng ta thi hành điều mà ông đã làm: dâng hiến các ưu tiên hàng đầu cho Thiên Chúa và với sự giúp đỡ của Người, chúng ta sống các ưu tiên đó một cách can đảm.

Đây là ý nghĩa của các bài đọc hôm nay. Đây là lời mời gọi của Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta ở bàn tiệc Thánh Thể này.

Hãy kết thúc với lời cầu nguyện mà ông Charlie DeLeo đã viết. Nó tóm lược điều thách đố của các bài đọc hôm nay:

Ôi lạy Chúa, con không dám kỳ vọng một đức tin như của Abraham,
Ôi lạy Chúa, con cũng không dám kỳ vọng tài lãnh đạo của Môsê,

Hoặc sức mạnh của Samson,
hoặc sự gan dạ của Đavít...
hoặc sự khôn ngoan của Sôlômôn...

Nhưng điều con mong đợi, ôi lạy Chúa,
là một ngày nào đó Ngài sẽ gọi con.

Ý Chúa là gì, con sẽ thi hành,
mệnh lệnh của Chúa là gì
đó là niềm vui của con...

Và con sẽ không làm Chúa thất vọng,
vì Ngài là tất cả những gì
con tìm kiếm để phục vụ,"

Cha Mark Link, S.J.

Subcategories