3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Nét cao đẹp của lòng biết ơn

Một lần, tôi được một cô giáo tâm sự: Dân gian hay ví von, người làm nghề dạy học giống như người lái đò. Càng ngẫm nghĩ, càng thấy đúng. Trong đời mình, chắc ông lái đò không nhớ hết bao nhiêu người được ông đưa sang sông. Nhưng có lẽ ông sẽ không sót tên ai trong những người quay lại cám ơn. Bởi những người sang sông thì nhiều, người trở lại cám ơn chẳng bao nhiêu…

Sống trong cuộc đời, cám ơn người đã làm ơn cho mình là chuyện hết sức bình thường. Nhưng quên ơn người khác, đáng ra phải là chuyện bất thường, lại cũng trở nên bình thường. Điều bình thường và bất thường ấy, có lẽ không ai trong chúng ta không mắc phải. Xét cho kỹ, chúng ta nhận ra, nhiều lần bản thân đã bỏ quên hoặc đã cố tình quên ơn, hoặc chí ít là hai tiếng cám ơn cũng bị đánh mất.

Lòng biết ơn đối với nhau đã là một nét đẹp. Lòng biết ơn đối với Thiên Chúa chẳng những là một nét đẹp thánh thiện, một tình yêu xuất phát từ đức tin cao cả, nhưng còn là ân huệ Thiên Chúa tặng ban. Bởi lòng biết ơn của ta chẳng thêm gì cho Chúa, trái lại lòng biết ơn ấy lại mang ơn cứu độ ngược về cho ta.

Tin Mừng hôm nay, nuối tiếc cách cư xử vô ơn của những người bệnh phong được chữa lành khi thốt lên: “Không phải cả mười người được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”, cách nào đó, Chúa Giêsu đề cao đức tin và lòng biết ơn của người phong xứ Samari.

Đó chỉ là người “ngoại bang” nhưng lòng biết ơn của anh lớn hơn tất cả chín người Dothái giáo. Đó là bài học cần thiết cho ta. Vì có khi quá quen với mọi ơn lành Chúa ban, ta không còn nhận ra đó là điều quý giá lớn lao của tình thương Thiên Chúa dành cho mình. Nếu nhìn ở góc độ này, ta không bằng nhiều anh chị em lương giáo. Bởi nếu một ngày nào đến thăm những trung tâm hành hương (Trung tâm Đức Mẹ La Vang chẳng hạn), ta sẽ bắt găp rất nhiều người đến để cầu xin. Trong đó có rất nhiều người ngoài đạo đến cảm tạ Thiên Chúa. Họ đã có lòng tin, dẫu chỉ là một lòng tin sơ khởi, trước khi nhận biết tỏ tường về Thiên Chúa.

Biết ơn phải là thái độ tất nhiên của người nhận ơn, không đợi đến lúc có ai mong chờ hoặc nhắc bảo. Lòng biết ơn Thiên Chúa phải là trách nhiệm trước tiên của con người. Vì thế mặc dù Chúa Giêsu lên tiếng phàn nàn: “Còn chín người kia đâu?”, tôi không nghĩ Chúa cố ý làm phép lạ để đòi cho bằng được lòng biết ơn của người ta. Tôi nhận ra điều Chúa muốn trong lời của Người là: Chúa mong những người kia trở lại để gặp họ, và trao cho họ chính bản thân Người. Điều này quý giá hơn cả ơn được chữa bệnh, càng lớn gấp bội lần hai tiếng cám ơn. Ơn lành bệnh và sau đó là lòng biết ơn chỉ là nhịp cầu, để ta gặp gỡ Đấng ban ơn, nhờ đó, lớn lên trong lòng tin, sự trông cậy và yêu mến của mình mà thôi.

Chín người phong được lành bệnh nhưng không có lòng biết ơn trong Tin Mừng, biết đâu lại là hình ảnh của bạn và tôi hôm nay. Do nếp nghĩ, thái độ sống, cách thức thể hiện việc sống đạo, từ lời ăn, tiếng nói, hành động, cử chỉ đến não trạng, cả đến tội lỗi của mình, ta trở thành kẻ vô ơn với Thiên Chúa. Nguy hiểm hơn, thái độ vô ơn này kéo dài hết ngày này sang ngày khác trong suốt cuộc đời của mình, đến mức chai cứng lương tâm, không còn nhận ra tấm lòng của Chúa, vì thế cũng chẳng bao giờ có một hành động, hay chỉ là một lời cám ơn Người. Đúng là nguy hiểm! Vì nếu vô ơn đến nỗi không còn một mảy may của lòng biết ơn, ta sẽ trở thành kẻ sống dửng dưng, sống nguội lạnh không ai bằng.

Một câu chuyện rất thật, liên quan đến lòng biết ơn Thiên Chúa. Bạn cùng tôi hãy đọc và hãy ngẫm nghĩ để áp dụng thành bài học cần thiết cho bản thân mình. Đó là câu chuyện do Đức Cha Fulton Sheen, nhà văn, nhà hùng biện lừng danh nước Mỹ và là Tổng Giám mục giáo phận New York kể.

Tháng 10.1962, trên chiếc phi cơ đưa các Đức Giám mục Mỹ đi họp Công Đồng Vatican II, có một cô tiếp viên hàng không thật kiều diễm, nhan sắc tuyệt vời. Đức cha Fulton Sheen đã lưu ý đến sắc đẹp của cô tiếp viên này. Khi phi cơ hạ cánh, đang lúc bước xuống cầu thang máy bay, Đức Cha ghé miệng vào tai cô gái xinh đẹp và nói nhỏ câu gì đó không ai nghe được…

Bốn tháng sau, khi khóa I của Công đồng kết thúc, các Giám mục về nhà nghỉ. Một hôm, cô tiếp viên xinh đẹp kia tìm đến nhà xin gặp Đức Cha: “Thưa Đức Cha, Đức Cha có nhớ con là ai không?”. “Cha nhớ chứ – Đức Cha đáp – Con là tiếp viên trên chiếc máy bay của hãng hàng không Panam đưa chúng tôi đến Rôma”. “Nhưng Đức Cha còn nhớ, Đức Cha đã nói gì với con không?”. “Cha đã nói, có khi nào con tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho con sắc đẹp tuyệt vời chưa?” – “Thưa Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà hôm nay con đến hầu chuyện với Đức Cha. Vậy Đức Cha nghĩ con phải làm gì để tạ ơn Chúa?”.

Hơi bất ngờ, Đức Cha Fulton Sheen im lặng một chút như để cầu nguyện. Sau đó Đức Cha nói: “Cha vừa được tin từ Việt Nam: Đức Cha Jean Cassaigne, một người Pháp, đang làm Giám mục Sài Gòn, xin từ chức để phục vụ trại cùi ở miền núi Di Linh – Lâm Đồng. Những người phong ở đó khốn khổ lắm con ạ! Vậy theo Cha, cách tạ ơn đẹp lòng Chúa và có ý nghĩa hơn cả là con hãy hy sinh một thời gian, đem nụ cười xinh tươi, đem tiếng nói dịu dàng, đem duyên sắc mặn mà của con để an ủi họ, may ra họ vơi đi phần nào nỗi buồn tủi”. Mặt cô tiếp viên tái dần đi. Cô đứng lặng yên trong vài phút. Bỗng cô cúi đầu tạm biệt, không nói một lời…

Bẵng đi một thời gian. Đầu năm 1963, người ta nghe báo chí ở Sài Gòn loan tin: “Một cô tiếp viên rất đẹp của hãng hàng không Panam tình nguyện đến Di Linh – Lâm Đồng để sống bên những người bệnh phong trong sáu tháng”.

Hiểu được lòng biết ơn Thiên Chúa là điều cần thiết, bạn và tôi hãy để tâm tình biết ơn trở thành tâm tình chủ yếu chi phối lời cầu nguyện và toàn bộ cuộc sống mình. Vì chưa cần nói tới những gì Thiên Chúa đã ban trong từng giai đoạn, trong mỗi hoàn cảnh sống, chỉ nguyên toàn bộ cuộc đời chúng ta đã là một hồng ân, một quà tặng vô biên. Vì thế ta hãy biến đời mình như một lời tạ ơn không ngừng. Chỉ khi có tâm tình tạ ơn sâu lắng như thế, ta mới mãn nguyện những gì đã lãnh nhận, bằng lòng những gì mình đang có hôm nay. Với tâm tình ấy, ta thấy mình được bao bọc bởi tình yêu, bằng tình yêu và trong tình yêu của Chúa.

Chỉ khi biết ơn Thiên Chúa, ta mới dám dấn thân trọn vẹn, dấn thân mạnh mẽ, dấn thân không tính toán, không sợ mất mát để làm mọi sự nhằm đáp trả tình yêu. Đức Cha Jean Cassaigne trở nên người cùi, sống và chết giữa những anh chị em phong cùi, đã hoàn tất của lễ toàn thiêu hiến dâng Thiên Chúa thật quý giá để muôn đời sau noi gương bắt chước. Và cô gái tiếp viên hàng không trong câu chuyện bên trên đã dám bước vào đời sống của những anh chị em phong cùi cũng là một tấm gương không nhỏ để mọi người chúng ta soi rọi về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa của chính bản thân mình.

Lm. Vũ Xuân Hạnh

ƠN CHỮA LÀNH BỞI ĐỨC TIN TUÂN THEO LỜI CHÚA

Cuộc đời Kitô hữu là những lần gặp gỡ và cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, một hành trình được ghi dấu bằng ơn chữa lành, phần hồn và phần xác, có cả những thử thách của đức tin nhưng vẫn được kêu gọi hãy kiên trì trung tín.

  1. Ơn Chúa đến khi chúng ta tin tưởng vâng theo Lời Ngài

Theo Luật Do Thái, khi người Israel phát hiện phát ban hoặc các triệu chứng da khác, họ phải đến gặp thầy tế lễ để khám. Thầy tế lễ có trách nhiệm xác định xem đó có phải là bệnh phong cùi truyền nhiễm hay không. Nếu chẩn đoán là phong cùi, người đó sẽ bị tuyên bố là ô uế về mặt nghi lễ (Lêvi 13:1, 9-11). Luật cấm người bệnh giao tiếp với cộng đồng; họ bị cô lập hoàn toàn. Người bệnh phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!”. Họ bắt buộc phải sống bên ngoài trại (Lêvi 13:45-46). Sự cô lập này có mục đích ngăn chặn dịch bệnh lây lan, tuy nhiên, đối với người bệnh, nó đồng nghĩa với một bản án chung thân, buộc họ phải sống như những người bị ruồng bỏ và khai trừ khỏi xã hội. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Hãy tưởng tượng những người phong cùi phải chịu đựng biết bao đau khổ và tủi hổ: về thể xác, xã hội, tâm lý và tinh thần! Họ không chỉ là nạn nhân của bệnh tật, mà còn cảm thấy tội lỗi, bị trừng phạt vì tội lỗi của mình! Họ đang sống trong sự chết” [1].

Chúa Giêsu đã chữa lành nhiều người phong cùi (Lc 5:12-14; Mc 1:40-42). Hôm nay, mười người phong cùi đứng từ xa, cùng nhau kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17:12-13). Họ đứng tại biên giới giữa miền Samaria và miền Galilêa, nhưng “Họ dừng lại đằng xa” (Lc 17: 12), tuân theo lề luật, một kiểu cô lập.

Điều đáng chú ý là Chúa Giêsu không chữa lành ngay lập tức, mà ra lệnh: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17:14). Mệnh lệnh này đòi hỏi đức tin thể hiện qua sự vâng lời tức thì. Khi đó, họ vẫn còn bệnh phong cùi, chưa có sự thay đổi thể chất. Tuy nhiên, trong đức tin, họ đã vâng lời và bắt đầu hành trình. Chính hành động này là bằng chứng họ tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. “Đang khi đi thì họ được sạch” (Lc 17:14). Phép lạ chữa lành không tức khắc mà được hoàn thành trong lúc họ tuân phục Lời Chúa. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi người được chữa lành phải thể hiện đức tin của họ. Đức tin ấy được thử thách bằng sự tuân phục vô điều kiện. Tôi có tin vào Chúa Giêsu bằng cách tuân theo Lời Ngài một cách không do dự không?

  1. Ơn Chúa đến khi chúng ta khiêm nhường tin tưởng

Câu chuyện của Naaman, quan lãnh binh Syria, cho thấy ơn chữa lành còn đòi hỏi sự khiêm tốn nữa. Naaman, một quý tộc triều đình, đã giận dữ khi được tiên tri Êlisa truyền lệnh “hãy đi tắm bảy lần trong sông Giođan” (2V 5:10). Ông muốn một nghi thức hoành tráng tương xứng với địa vị của mình, chứ không phải một dòng sông tầm thường của Israel. Sự kiêu ngạo ấy đã suýt khiến ông không nhận được ơn chữa lành. Chỉ khi được đầy tớ khuyên nhủ, Naaman mới chịu nhún mình: “Ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Giođan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ” (2V5:14).

Đức tin đích thực đòi hỏi từ bỏ niềm kiêu hãnh cá nhân, đòi hỏi khiêm nhường tuân theo lời Thiên Chúa ngay khi chúng ta đang ngờ vực. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Thật không dễ hiểu được sự khiêm nhường là gì…Chẳng hạn, trường hợp của Naaman người Syria…Naaman đã hiểu ra một chân lý nền tảng: chúng ta không thể dành cả đời để ẩn mình sau lớp áo giáp, một vai trò chúng ta đang đóng, hay sự công nhận của xã hội; cuối cùng, điều đó sẽ làm chúng ta tổn thương. Sẽ đến lúc trong cuộc đời mỗi cá nhân, người ta muốn gạt bỏ hào quang của vinh quang thế gian này để hướng đến một cuộc sống trọn hảo, đích thực, không cần đến áo giáp hay mặt nạ nữa… Mang trong mình bạc vàng, Naaman lên đường và đến gặp tiên tri Êlisa, người đã đặt ra cho ông, như điều kiện duy nhất để được chữa lành, một cử chỉ đơn giản là cởi áo và tắm bảy lần dưới sông Giođan. Không liên quan gì đến sự nổi tiếng, danh giá, vàng bạc! Ân sủng cứu độ là cho không; ân sủng không thể bị quy giản thành giá trị của cải trần gian…Đây quả là một bài học lớn! Sự khiêm nhường tuân theo lời Chúa, phơi bày bản tính phàm nhân của mình, đã mang lại sự chữa lành cho Naaman” [2].

Ơn chữa lành thể lý chưa bao giờ là điều cuối cùng mà Chúa Giêsu nhắm tới. Bài học lớn nhất nằm ở sự chấp nhận của người được chữa lành: đó là tin tưởng và vâng theo Đấng chữa lành. Cuối cùng, mọi hành động vâng lời đều phải được neo chặt vào một thực tại không thay đổi: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17: 19). 

  1. Ơn cứu độ dành cho ai biết tạ ơn

Thánh sử Luca đặc biệt đề cập đến việc: “Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari” (Luca 17: 15-16). Tin Mừng không ghi lại họ đã đi được bao xa trước khi được chữa lành. Tuy nhiên, chỉ có một người quay lại cảm ơn Chúa Giêsu vì đã chữa lành anh ta. Chúa Giêsu bày tỏ sự thất vọng khi chín người kia không nghĩ đến việc ngợi khen Thiên Chúa đã chữa lành họ: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17: 17-18).

Chúng ta học được rằng Thiên Chúa mong muốn chúng ta bày tỏ lòng biết ơn Ngài về tất cả những gì Ngài đã làm trong cuộc đời chúng ta. Chín người Do Thái kia đã nhận được ơn chữa lành, nhưng lại thiếu lòng tri ân, và vì thế, họ mất đi sự cứu rỗi trọn vẹn. Lời cuối cùng Chúa Giêsu dành cho người Samaria là: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17: 19). Sự khác biệt nằm ở chỗ: chín người Do thái được lành sạch thể xác nhưng chỉ để quay lại với luật Môsê, còn người Samaria được cứu chữa để hiệp thông với Chúa Kitô.

Thánh Augustinô cảnh báo: “Chúng ta vẫn còn vô ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đã thanh tẩy chúng ta khỏi bệnh phong hủi tâm linh. Lòng kiêu hãnh và sự tự phụ của chúng ta, ngăn cản chúng ta khiêm nhường nhận ra những ân huệ của Đấng Tạo Hóa, chính là nguyên nhân dẫn đến sự vô ơn của chúng ta. Chúng ta giống như những người đã biết Thiên Chúa và được giải thoát khỏi bệnh phong hủi của sự lầm lạc, nhưng vẫn còn mang trong mình lòng vô ơn đối với Đấng Tạo Hóa, Đấng đã soi sáng cho họ. Họ đã đánh mất vương quốc thiên đàng…Còn một người phung đã trở lại, lớn tiếng tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa…Ông được Chúa Giêsu ca ngợi, trở nên như người trung thành giữ gìn của cải được giao phó, bảo tồn vương quốc này bằng sự khiêm nhường và lòng biết ơn của mình” [3].

Sau khi được chữa lành, Naaman trở lại gặp tiên tri Êlisa, tuyên bố đức tin mạnh mẽ: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel” (2V 5: 15). Ông bày tỏ tri ân bằng cách cố gắng dâng lễ vật. Sự chữa lành đã dẫn đến hoán cải tuyệt đối về đức tin. Naaman xin mang đất về: “Vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Chúa” (2V 5: 17). Hành động mang đất này là biểu tượng của lòng trung thành không lay chuyển, thể hiện mong muốn thờ phượng Thiên Chúa ngay tại quê hương ngoại giáo. Lòng tri ân đích thực đòi hỏi sự công nhận Thiên Chúa là Đấng duy nhất và dấn thân sống theo niềm tin đó.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở về tầm quan trọng của thái độ biết ơn này: “Có thể nói, câu chuyện này chia thế giới thành hai nửa: những người không tạ ơn và những người tạ ơn; những người đón nhận mọi sự như thể mình có quyền, và những người đón nhận mọi sự như một món quà, như ân sủng. Tạ ơn luôn bắt đầu từ sự nhận biết rằng ân sủng đi trước chúng ta. Chúng ta đã được yêu thương trước khi học cách yêu thương…Nếu chúng ta nhìn cuộc sống theo cách này, thì lời “tạ ơn” sẽ trở thành động lực cho mỗi ngày của chúng ta… Lời “tạ ơn” mà chúng ta phải nói liên tục, lời cảm ơn mà người Kitô hữu chia sẻ với mọi người, lớn lên trong cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu” (Buổi tiếp kiến chung, 30/12/2020).

  1. Trung tín trong gian khổ

Lòng tri ân và trung thành không chỉ được thể hiện trong niềm vui, mà còn phải được duy trì trong gian khổ. Đây là giáo huấn của Thánh Phaolô gửi cho Timôthê: “Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2Tm 2: 9). Thánh Phaolô “cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Chúa Kitô Giêsu, và được hưởng vinh quang muôn đời” (2Tm2: 10). Sứ điệp an ủi nằm trong nghịch lý của Kitô giáo: sự giam cầm thân xác của Phaolô lại là phương tiện loan báo Lời Chúa: “Lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích!” (2Tm 2: 9), nhưng “là lời đáng tin cậy” (2Tm 2: 11-12).

Chịu đựng đau khổ không phải là hành động tự tôn mà là tình yêu hy sinh. Thánh Thánh Isaac thành Ninivê (+ 613), giám mục Syriac, dạy rằng: “Con cái của Thiên Chúa phân biệt mình với những người khác ở chỗ họ sống trong đau khổ, trong khi thế gian tự hào về sự xa hoa và yên bình. Thiên Chúa không hạ mình để những người yêu dấu của Ngài sống trong thứ yên ổn xác thịt, nhưng Ngài muốn họ phải lưu trú trong nỗi buồn, áp bức, trong lao động, nghèo đói, trần truồng, thiếu thốn, nhục nhã, bị sỉ nhục trong thân thể nặng nề và những suy nghĩ buồn bã… Sau mọi đau khổ vì Chúa, sự giải thoát sẽ đến. Một tâm hồn yêu mến Chúa sẽ tìm thấy niềm an ủi nơi Chúa và chỉ nơi Ngài mà thôi” [4].

Thánh Phaolô củng cố niềm hy vọng: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Ngài” (2Tm 2: 11-12). Sự Sống lại là lời bảo đảm rằng mọi đau khổ đều có ý nghĩa. Những lời này là lời mời gọi sống triệt để sự hiệp thông với Chúa Kitô, chấp nhận thập giá để nhận được vinh quang. Tuy nhiên, lời an ủi lớn lao nhất nằm ở sự bảo đảm cuối cùng về bản chất Thiên Chúa: “Nếu ta không trung tín, Ngài vẫn một lòng trung tín, vì Ngài không thể nào chối bỏ chính mình” (2 Tm2:13).

Lòng trung thành của Thiên Chúa là bất di bất dịch. Dù ta yếu đuối, vô ơn, Thiên Chúa vẫn trung tín với lời hứa và bản chất yêu thương của Ngài. Chúng ta cần cầu xin Chúa Giêsu với lòng tin tưởng, kiên trì và đầy đức tin. Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, sẽ ban ơn. Sách Giáo Lý khẳng định: “Những lời Thiên Chúa hứa luôn luôn được thực hiện. Thiên Chúa là chính Chân Lý, những lời của Ngài không thể là sai lầm. Vì vậy, một cách hoàn toàn tin tưởng, người ta có thể phó mình cho sự thật và sự trung tín của lời Ngài trong mọi sự” (số 215). Lòng trung thành này là nền tảng đức tin, giúp ta luôn hy vọng và kiên trì trong lòng tri ân.

 

Phêrô Phạm Văn Trung

[1] https://www.vatican.va/content/francesco/en/homilies/2015/documents/papa francesco_20150215_omelia-nuovi-cardinali.html

[2] https://www.vaticannews.va/en/word-of-the-day/2023/03/13.html

[3] https://thedivinelamp.wordpress.com/2012/08/20/st-augustines-homily-on-luke-1711-19/

[4] https://evangelistarion.wordpress.com/2014/12/02/writings-of-scripture-and-church-fathers-on-suffering-and-afflictions/

 

QUẤY RẦY

Thứ Năm Tuần 27 Thường Niên C

“Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần!”.

“Hãy cứ gõ cửa, ngay cả khi trời dường như im lặng - đôi khi, im lặng là cách Thiên Chúa mở cửa từ bên trong. Đức tin dám quấy rầy Thiên Chúa là đức tin làm Ngài vui lòng nhất!” - F.B. Meyer.

Kính thưa Anh Chị em,

Như vậy, Thiên Chúa là Đấng thích được quấy rầy? Đúng thế, dụ ngôn Tin Mừng hôm nay chứng thực điều đó: người bạn bị ‘quấy rầy’ giữa đêm khuya chính là Ngài!

Sau khi dạy các môn đệ kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu tiếp tục nhấn mạnh đến niềm tin và sự kiên trì. Dụ ngôn nói lên mức độ gắn bó thân tình mà người cầu nguyện cần có đối với Thiên Chúa - vừa là Cha, vừa là Bạn. Trừ khi đó là một người bạn rất thân, chúng ta mới dám gõ cửa giữa khuya để xin một ít bánh; và dù thân đến đâu, chúng ta vẫn ngần ngại vì sợ làm phiền. Nhưng trong câu chuyện này, điều tuyệt vời là Thiên Chúa lại vui vì sự ‘quấy rầy’ ấy! “Thiên Chúa yêu thích lời cầu nguyện không chịu buông!” - E.M. Bounds.

Thiên Chúa muốn chúng ta nài xin không ngơi nghỉ, vì đó là dấu chỉ của một tình yêu tin tưởng. Kiên trì cầu nguyện và không bao giờ nghi ngờ lòng quảng đại của Ngài, chúng ta sẽ nhận được mọi điều tốt lành từ Ngài. Dĩ nhiên, nếu cầu xin vì ích kỷ hay trái với ý muốn của Chúa, thì mọi lời khẩn nguyện trên thế gian cộng lại cũng trở nên vô hiệu. “Những lời đáp của Thiên Chúa luôn khôn ngoan hơn những lời cầu của chúng ta!” - Oswald Chambers. Thế nhưng, khi cầu nguyện trong tinh thần của Kinh Lạy Cha - nghĩa là hướng lòng về Danh Chúa, Nước Chúa và Ý Chúa - chúng ta có thể tin chắc, mọi lời cầu ấy đều sinh hoa trái, mang lại những quà tặng tốt lành nhất. “Phúc thay người đặt tin tưởng nơi Chúa!” - Thánh Vịnh đáp ca. Malakia khẳng định, “Đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh!” - bài đọc một.

Anh Chị em,

Cầu nguyện không chỉ là lời nói, nhưng là hành vi của lòng tin. Ai dám ‘quấy rầy’ Thiên Chúa, người ấy tin rằng Ngài luôn lắng nghe, dù trời có vẻ im lặng. Trong thinh lặng đó, Thiên Chúa không khước từ, nhưng đang chuẩn bị - mở từ bên trong - để ban điều tốt hơn. Mỗi lần chúng ta gõ cửa, Ngài mở thêm một chút - không chỉ cánh cửa ân sủng, mà còn cánh cửa lòng của mỗi người, để chúng ta học biết tin, biết chờ, và biết yêu. Hãy cứ gõ, vì chính khi gõ, bạn và tôi được biến đổi! Chớ gì chúng ta dám đến ‘làm cho Ngài vui’ với những tréo ngoe, khổ đau trong cuộc sống từ gia đình, con cái, cộng đoàn… đến sức khoẻ, công việc, và cả những đam mê, tính hư nết xấu; thậm chí cả những tội lỗi! “Thiên Chúa không bao giờ mệt vì bị nài xin - Ngài chỉ buồn khi bị lãng quên!” - Carlo Carretto.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dù trời có vẻ im lặng, con vẫn gõ. Vì con tin, trong thinh lặng ấy, Ngài đang mở từ bên trong và con sẽ được biến đổi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

TRUNG LẬP

Thứ Sáu Tuần 27 Thường Niên C

“Ai không đi với tôi, là chống lại tôi!”.

Thời nào cũng thế, luôn có những con người không kiên định trong lập trường, không rõ ràng trong chính kiến, và không dứt khoát trong lựa chọn! Họ tự hào cho mình là ôn hoà, khôn ngoan, trung dung và tự nhận là trung lập. Vậy mà, “Nơi nóng nhất trong hoả ngục thuộc về những người trung lập!” - Dante Alighieri.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tuyên bố, “Ai không đi với tôi, là chống lại tôi!”. Ngài không muốn các môn đệ của Ngài ‘trung lập’, Ngài muốn họ vượt trên ‘trung lập!’.

Với tuyên bố này, Chúa Giêsu cho biết Ngài không chấp nhận một hạng môn đệ lập lờ! Đây là một thông điệp quan trọng cho những ai sẽ theo Ngài thuộc mọi thời! Vì sẽ đến ngày, “Chúa xét xử thế giới theo lẽ công minh!” - Thánh Vịnh đáp ca - và mọi người sẽ phải trả lẽ trước mặt Ngài, “Ôi, ngày đáng sợ thay!” - bài đọc một.

Ngày nay, thế giới và Giáo Hội đang bị tác động bởi “chủ nghĩa tương đối”, xu hướng thế tục đang gia tăng trong mọi lĩnh vực. Nhiều người nói, tôi chấp nhận bất kỳ tôn giáo nào, lối sống nào, lựa chọn nào. Và dù họ tự cho mình sẵn sàng yêu thương, trân trọng, đón nhận, đối xử với mọi người đúng phẩm giá; nhưng sẽ thật sai lầm khi họ chọn một kiểu sống ‘trung lập’ với những lựa chọn hoàn toàn thế gian. “Giữ trung lập giữa đúng và sai là phục vụ cho điều sai!” - Theodore Roosevelt. ‘Trung lập’ trong lãnh vực đạo đức không phải là khôn ngoan, mà là phản bội chân lý!

“Ai không đi với tôi, là chống lại tôi” cho thấy không ai có thể thờ ơ với giáo huấn của Chúa Kitô mà vẫn sống trong ân sủng Ngài. Ngược lại mới đúng! Không đi với Chúa Kitô là không chấp nhận những gì Ngài dạy - trên thực tế - là chống lại Ngài. ‘Trung lập’ về các vấn đề đức tin và đạo đức thực ra là không ‘trung lập’ chút nào, đó là tách rời chính mình khỏi Chúa Kitô. Ví dụ, ai đó nói, “Tôi tin Chúa Kitô, nhưng không tin Bí tích Thánh Thể!”; thực tế, họ đã chối nhận Ngài và đi ngược đức tin. “Chúa Kitô không thể bị chia cắt; ai chỉ chọn một phần nơi Ngài, là đánh mất toàn thể Ngài!” - Augustinô.

Anh Chị em,

“Ai không đi với tôi, là chống lại tôi!”. Thế giới hôm nay ca ngợi ‘trung lập’ như một đức tính. Vậy mà giữa Chúa Kitô và thế gian không có vùng xám; giữa ánh sáng và bóng tối không có lằn ranh. ‘Trung lập’, thực chất, chỉ là một hình thức trốn tránh; nó khoác chiếc áo khiêm tốn nhưng giấu trong đó nỗi sợ hãi. Vậy mà đức tin không thể sống bằng sự thoả hiệp, và tình yêu không thể tồn tại trong hững hờ. Một Kitô hữu cố đứng giữa Tin Mừng và thế gian, sẽ không giữ được cả hai, mà đánh mất cả hai. “Sự nửa vời là kẻ thù của thánh thiện!” - Phanxicô Salêsiô. Lời Chúa mời gọi chúng ta chọn Chúa Kitô hay từ chối Ngài từ mỗi quyết định lớn nhỏ - trong lời nói, trong hành vi, trong mỗi chọn lựa. Vì tất cả đều là bước về phía ánh sáng hoặc về phía bóng tối!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cứu con khỏi sự lập lờ - thứ bình an giả tạo - của kẻ hai lòng. Đốt cháy con bằng lửa tình yêu, trước khi con bị thiêu trong lửa dửng dưng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Đức Tin

Maurice là một người nghiện rượu. Khi một linh mục đến thăm anh thì anh sống trong tầng hầm với con chó trong khi vợ anh sống trên căn gác. Về pháp lý, họ đã ly dị và chờ bán xong căn nhà để rồi chia tay.

Anh ta đã có một cuộc sống gian khổ. Hầu hết những rối loạn của anh bắt nguồn từ việc uống rượu mạnh. Anh nói hiện giờ anh uống chừng mực – nhưng nhiều người nghiện rượu vẫn nói thế. Có lần trong một cơn tuyệt vọng, anh đặt đầu súng vào miệng mình, nhưng khi nhìn thấy trên ngón tay mình chiếc nhẫn Mân Côi mà em gái anh cho anh, anh không thể bóp cò.

“Con vẫn còn tin Thiên Chúa” anh nói. Rồi nước mắt chảy trên khuôn mặt, anh nói tiếp “Nhưng con ao ước có được đức tin mà con đã có khi còn trẻ”.

“Điều gì làm cho đức tin ấy đẹp đến thế?”linh mục hỏi.

“Khi con còn trẻ, con đã tin tưởng mọi việc – rất nhiều việc. Con đã chắc chắn về mọi sự. Nhưng thứ đức tin ấy không kéo dài. Giờ đây, con không tin chắc điều con phải tin. Con tra hỏi mọi việc. “ Anh ngừng lại sau đó buồn bã nói tiếp: “Có thể vợ con và con sẽ sống chung trở lại. Nhưng con đã làm mất tình cảm mà con đã có với cô ấy”.

“Anh đã đau khổ nhiều phải không Maurice?” linh mục nói.

“Cha khỏi phải nói điều đó”, anh đáp.

“Anh có cảm thấy Thiên Chúa ở với anh trong suốt những năm anh say sưa?” linh mục hỏi.

“Con cảm thấy điều đó, có lẽ trừ lúc con định tự tử. Con đã cảm thấy bị bỏ rơi đến tận cùng”.

Ở đây, người ta có thể cảm nhận phần nào nỗi cô đơn và đau buồn xé ruột nằm sâu trong mỗi con người mà đức tin đã mất. Tuy nhiên, đức tin của Maurice không hoàn toàn mất. Một vài sự vật bên ngoài đã bị cắt xén. Nhưng vẫn còn cái lời bên trong, đó là niềm xác tín rằng Thiên Chúa hiện hữu và chăm sóc anh ta.

Vì thế, anh bám chặt lấy đức tin thời niên thiếu. Bấy giờ, mọi vật đơn giản, rõ ràng và chắc chắn. Anh không nhận thấy rằng những thay đổi lớn lao đã xảy ra trong anh. Một vực thẳm đã ngăn cách anh với tuổi thơ của anh ngày trước.

Chúng ta không thể không cảm thấy có thiện cảm với anh. Nhiều người bám chặt lấy đức tin có khi còn thơ ấu. Và cũng đúng thôi – nó là cái gì đẹp. Nhà thơ Emily Dickinson nói:

Chúng ta bắt đầu hiểu rằng chúng ta đã tin có một lần và trọn vẹn.

Niềm tin không hợp lắm khi thường hay biến đổi.

Chúng ta thẹn đỏ mặt, nếu chúng ta thực hiện được thiên đàng, một biến cố khôn tả.

Chúng ta hẳn đã tránh xa, thậm chí xấu hổ và nhận được phép lạ.

Chúng ta cứ mãi nắm lại ý nghĩa tôn giáo của thế giới thơ ấu đã qua của chúng ta. Nhưng tất cả chúng ta phải để lại tuổi thơ đàng sau mình và cùng với nó một thế giới của những điều chắc chắn. Đức tin tuổi thơ đi qua hoặc ít nhất đã đổi thay. Tuy nhiên, không phải Thiên Chúa đổi thay mà chính chúng ta thay đổi. Tuy nhiên, cảm thấy như Maurice cảm thấy không có nghĩa là chúng ta đã mất đức tin. Tất cả điều ấy có nghĩa là chúng ta đang chiến đấu với đức tin.

Đức tin thơ mộng của tuổi thơ không thể bám giữ mãi được. Đức Giêsu nói chúng ta phải vào Nước Trời như một trẻ nhỏ, nhưng Người không nói chúng ta phải có đức tin của đứa trẻ. Đức tin của chúng ta phải là một đức tin trưởng thành, một đức tin đã vượt qua những sự phức tạp và mơ hồ của đời sống.

Mọi người chúng ta có thể lấy lại lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lạy Chúa, xin tăng thêm đức tin cho chúng con”, bởi vì giữ gìn đức tin chưa đủ; chúng ta phải trưởng thành trong đức tin. Đức tin trưởng thành khi nó thực hành. Đức tin cũng trưởng thành nhờ được nuôi dưỡng đều đặn. Chúng ta nuôi dưỡng đức tin như thế nào? Bằng việc cầu nguyện và tiếp xúc với cộng đoàn đức tin.

McCarthy

Subcategories