3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

TẦM NHÌN

MỒNG 1 TẾT ẤT TỴ CẦU BÌNH AN NĂM MỚI

“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa!”.

“Tiền thường xen vào giữa Chúa và người. Che mắt bằng hai xu nhỏ, bạn sẽ không thấy những ngọn núi. Cũng không cần một số tiền quá lớn xen vào giữa bạn với Chúa; chỉ cần một xu đặt không đúng vị trí, hậu quả sẽ là mất tầm nhìn, và bạn không bao giờ thấy Ngài. Hãy mở rộng tầm nhìn, đừng che chắn nó!” - Cedric Gowler.

Kính thưa Anh Chị em,

Đầu năm mới, Lời Chúa mời gọi bạn và tôi mở rộng ‘tầm nhìn’, đừng che chắn nó! Chúa Giêsu căn dặn, “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa!”; đừng lo “Ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây?”.

Điều Chúa Giêsu dạy được thánh Ignatiô gọi là ‘dửng dưng’. Rõ ràng, bánh ăn, áo mặc và chỗ ở là cần thiết; nhưng ‘dửng dưng’ không phải là không quan tâm; trái lại, rất quan tâm chúng! Chúng ta quan tâm có nhiều thứ và quan tâm đến việc sử dụng chúng trong chừng mực cần thiết để kính mến Chúa yêu thương người như ý Ngài.

Lo lắng về của ăn vì giờ này tôi đang đói rất khác so với việc liệu tôi sẽ có gì để ăn vào tháng tới hay không; trăn trở về những gì đang xảy ra khi sức khoẻ tôi được chăm sóc tử tế rất khác so với việc tự hỏi sức khoẻ của tôi sẽ giữ được bao lâu; băn khoăn vì không có để trang trải tiền nhà tháng này rất khác so với việc tự hỏi, khi nào tôi giàu?

Cũng thế, bận tâm về tương lai là lãng phí thời gian và năng lượng nhưng bạn và tôi lại ‘nghiện’ chúng! Bởi lẽ, nó không bao giờ cất được nỗi buồn của ngày mai, một chỉ đào huyệt chôn vùi niềm vui của ngày hôm nay. Chúa Giêsu mời chúng ta nhìn chim trời và hoa đồng nội. Chúng không làm gì ngoài việc trở nên chính mình; hồn nhiên bay lượn, đong đưa trước gió. Thanh thoát, ngu ngơ đẹp làm sao! Khi thời gian của chúng đến, chúng qua đi! Đừng quên, Đấng chăm bẵm chúng là Đấng dựng nên trời đất, biển khơi và muôn loài trong đó - bài đọc Sáng Thế.

Vậy mà, chúng ta thường quá bận lòng để hối tiếc quá khứ hoặc trăn trở tương lai. Khá phi lý! Niềm vui và hạnh phúc chỉ có trong hiện tại. Nhìn về phía trước, ngoái lại phía sau, sẽ không bao giờ tìm thấy hạnh phúc; vì hạnh phúc đang ở đây, trong tầm tay vào mọi thời điểm. “Bạn có mọi thứ bạn cần ngay bây giờ để hạnh phúc!” - Anthony de Mello. Cuộc sống sẽ ra sao nếu bạn thực sự tin vào những gì chưa tới hay những gì đã qua! Hạnh phúc hôm qua không còn; hạnh phúc ngày mai chưa tồn tại; nếu bây giờ bạn không hạnh phúc, sẽ không bao giờ!

Anh Chị em,

“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa!”. Ngày đầu năm, Giáo Hội muốn con cái định hướng cụ thể cho những ngày tháng tới. Bạn tìm gì? Hẳn ai cũng tìm điều cao quý nhất. Nhưng tất cả “gì” của thế gian đều ngắn ngủi, phù du so với Nước Chúa. Bởi lẽ tìm kiếm và sở hữu Nước Thiên Chúa là sở hữu chính Chúa; có Chúa, có tất cả, không chỉ đời này nhưng cả đời sau. 365 ngày mở ra, chắc chắn vui có, buồn có, hạnh phúc có, khổ đau có; nhưng nếu biết mở rộng ‘tầm nhìn’ vào Cha trên trời, chúng ta sẽ an tâm vững tiến. “Tìm Nước Thiên Chúa” là một ‘tầm nhìn’ và là một hướng đi đúng đắn nhất. Phaolô thật chí lý, “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại, vui lên anh em!” - bài đọc hai.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để bất cứ điều gì, bất cứ ai chắn che Chúa khỏi con. Cho con ‘mở mắt’ thấy Chúa mỗi ngày, với lòng biết ơn, mở rộng đôi tay để nhận và để trao!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Sống Sứ Vụ Của Chúa

Chúa Nhật 3 TN năm C

Nkm 8, 2-4a.5-6.8-10; 1 Cr 12, 12-30; Lc 1, 1-4; 4,14-21

Giêsu đã đến trong cuộc đời này. Lời Hứa Cứu Độ đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu.

Lời Hứa Cứu Độ ấy được báo trước qua miệng các ngôn sứ.

Các ngôn sứ loan báo hình ảnh của Đấng Cứu Độ. Có lẽ rõ nét nhất là hình ảnh của ngôn sứ Isaia, một ngôn sứ quá đau khổ.

Mở sách ngôn sứ Isaia, ở Is 52, 13-53 chúng ta bắt gặp ngay : “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng.” Đọc những dòn tiếp theo, một mảng tối thật u ám nơi cuộc đời của vị ngôn sứ đau khổ này. Một bản mô tả rất sống động về sự thất thế, đau khổ cũng của người tôi tớ đó. Ông sẽ không còn được nhận ra nữa : “Khi thấy tôi trung của Ta, mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa.” Mọi người ngoảnh mặt đi chẳng dám nhìn người tôi tớ đau khổ. Điều gây sửng sốt nhất là hình phạt này xem ra là do Thiên Chúa gây nên. Xưa nay vẫn giải thích như vậy. Thực thế bản văn có một câu làm tôi lưu ý mãi : “Đức Chúa hài lòng khi thấy người bị nghiền nát trong yếu đuối.” Đức Chúa này là Thiên Chúa nào mà lại hài lòng vì người vô tội bị nghiền nát?

Nhìn hình ảnh người tôi tớ như thế này, độc giả sẽ nghĩ ngay trong lòng“Ông Trời đáng ghét của Cựu ước.” Nhưng nhìn kỹ hơn vào toàn thể bài ca thì đoạn văn này được viết dưới dạng kịch nghệ. Tức có sự thay đổi về người nói. Khởi đầu thì Thiên Chúa nói, sau đó đến các khách bàng quan bàn tán khi quan sát người tôi tớ trong khổ đau. Đối với những người này thì rõ ràng Thiên Chúa đang nghiền nát người tôi tớ vô tội. Chuyện này giống như khi chúng ta kêu ca về những đau đớn của mình:“Chúa thử thách đức tin của tôi quá sức chịu đựng. Thật ngã lòng, chẳng thể còn kiên nhẫn hơn nữa.” Đúng vậy, thượng đế đã đẩy người ta đến bờ vực thẳm của thất vọng ?

Rồi thay đổi vai trò của khách bàng quan: Họ cố gắng tìm hiểu căn do sự đau khổ của người tôi tớ, và khám phá ra rằng chính vì tội lỗi của mình mà người tôi tớ phải chịu cực hình. Thật là điều gây ngỡ ngàng hết cỡ. Ông ta chịu đựng đau khổ để cứu chuộc thiên hạ. Họ đã sai lầm khi lên án ông, coi ông như kẻ có tội. Họ ăn năn hối lỗi, thú nhận sai lầm của mình. Sự thật là người tôi tớ đã gánh lấy tội thiên hạ và chính họ là những kẻ được hưởng sự tha thứ của Thượng đế: “Tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”.

Do đó, ý muốn của Đức Chúa Trời là tội lỗi nhân loại được tẩy sạch nhờ đau khổ và cái chết của người tôi tớ. Đúng là một mầu nhiệm. Đường lối suy nghĩ của chúng ta hoàn toàn sụp đổ, bởi lẽ công việc vĩ đại như gánh tội và xoá tội trần gian lại không theo lối nhìn cũng như cách hiểu của con người. Với Thiên Chúa thì khác, người tôi tớ của Thiên Chúa là người khiêm nhường, nhịn nhục và là người yếu đuối, dễ bị tổn thương, một dấu chỉ của sự chống đối. Cho nên chẳng lạ gì các tác giả Tân ước sử dụng những bài ca này để nói về Chúa Giêsu và lòng nhân từ, thương xót của Đức Chúa Trời. Thí dụ, thánh Phaolô nhiều lần đã chỉ ra cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô khi Ngài bị dân Do thái khước từ, chối bỏ. Chính trong công việc này mà nhân loại được lợi không kể xiết. Tác giả thư Do thái cũng thường khích lệ độc giả của ông không nên hổ thẹn vì thập giá Đức Ki-tô, ngược lại “hãy mạnh dạn tiến lại gần Ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần”. Bởi lẽ Thiên Chúa đã cho phép Đức Giêsu, người tôi tớ, chia sẻ những yếu hèn và đau khổ với nhân loại. Cho nên quan niệm về “ông Trời đáng ghét của Cựu ước” là sai lầm. Chính qua người tôi tớ khiêm nhường mà Thiên Chúa mặc khải gương mặt yêu thương, nhân từ của Ngài.

Người tôi tớ Giavê đứng làm trung gian cho cả Thiên Chúa và loài người. Một sự tổng hợp kỳ lạ giữa thần linh và nhân loại. Ông là đại diện cho thần linh, đứng về phía Thiên Chúa, Ngài gọi ông : “Tôi tớ của Ta”. Trong ông, ý muốn của Đức Chúa hoàn toàn được thành tựu. Ông cũng đại diện cho nhân loại tội lỗi, mặt mày tan nát, chịu khổ đau đến cùng cực, chịu chung số phận với loài người, đồng hoá với anh em mình. Chúng ta nhìn nơi ông hành động của thượng đế trên nhân loại và vì nhân loại. Chính trong nơi người tôi tớ mà chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa cứu độ.

Nhưng người tôi trung cũng có tham gia phần của mình vào cuộc đau khổ mà Thiên Chúa đã chỉ định cho ông. Ông đồng ý với chương trình của Đức Chúa, gánh chịu hậu quả của tội lỗi người khác, vâng lời Thiên Chúa cho đến mức bằng lòng chịu chết thay cho thiên hạ. Ông là một nhân tố tự do và tự nguyện, không ai ép buộc ông, nhưng hoàn toàn hiến dâng cho Thượng đế. Đây là một sự cộng tác lạ lùng giữa Thiên Chúa và nhân loại để mưu ích cho loài người. Kết quả là một công trình vĩ đại. Bởi người tôi tớ đã “xoá tội trần gian và tranh thủ được ơn tha thứ cho những kẻ xúc phạm”. Ai đã thi hành cuộc hy sinh ? Thiên Chúa hay người tôi tớ ? Câu trả lời là cả hai. Thiên Chúa đã hy sinh người tôi trung. Người tôi trung đã bằng lòng hiến tế. Trường hợp của Abraham và người con duy nhất Isaac. Trong văn bản, kẻ có lỗi dùng ở đại từ “chúng ta”: “Sự thật, chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta… Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội… Chúng ta đã đi lạc như chiên cừu v.v…” Hoá ra người tôi tớ này không phải là kẻ phạm tội. Đau khổ của ông có mục đích duy nhất là thức tỉnh ý thức tội lỗi của nhân loại !

Ngày hôm nay, người tôi tớ mà Isaia loan báo đó đã trở thành hiện thực nơi cuộc đời ngôn sứ Giêsu. và ngôn sứ Giêsu hôm nay tiến vào hội đường như là việc hết sức bình thường. Những người trong Hội Đường đã trao cho ngôn sứ Giêsu sách Isaia và mở ra, bất chợt bắt gặp lại hình ảnh của người tôi tớ đau khổ cũng như sứ mạng của người ngôn sứ đó Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.

Sau đó, Chúa Giêsu đã nói với những người ở trong hội đường rằng : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”

Một lần nữa, Chúa Giêsu khẳng định lại vai trò của Ngài. Ngài đến để đem niềm vui, đem bình an, đem hạnh phúc cho con người.

Sứ vụ của Chúa Giêsu cũng đã được ông Etra nói với dân sau khi nghe sách Luật mà ông mở ra đọc cho dân : “Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em.”

Vẫn là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.

Chúng ta sẽ tự hỏi rằng chúng ta có giàu có gì đâu để loan báo cho người nghèo ?

Và, có ai hỏi ta, ta cũng sẽ nói rằng tôi nghèo lắm, tôi đâu có gì để mà cho, có gì để mà chia sẻ ? Nói như thế mà không biết ngượng.

Thử, lúc nào đó trong lặng thầm, nhìn lại cuộc đời chúng ta xem, chúng ta được Chúa ban cho quá nhiều ơn đó nhưng chúng ta đã không nhận ra.

Có lúc nào đó, người hằng nghiền ngẫm suy tư

Cảm thấy đời ta, chứa chan hồng ân Chúa ban

còn chờ gì nữa ? Không vang khúc hát tri ân Ngài ?

Lạy Chúa, con xin cảm tạ, Lạy Chúa con xin cảm tạ

Ôi lạ lùng hồng ân Chúa đã ban cho đời !

Chúa ơi, sao con suy thấu tỏ tường ?

Ôi, nhiệm mầu tình yêu thánh thiêng dâng cao vời !

Chúa ơi, tình Ngài tuyệt diệu xiết bao

Nghiền ngẫm thử đi sẽ rõ ! Những ngày này, những ngày Tết Nguyên Đán cận kề. Giữa dòng đời ngược xuôi đi tìm miếng cơm manh áo, ta hạnh phúc hơn nhiều người đó chứ ! Ta hạnh phúc hơn nhiều người nhưng ta đâu nhận ra để rồi ta oán trách Chúa thế này thế kia.

Cứ thử đặt mình vào vai một người di dân xa quê nghèo vì miếng cơm manh áo ta sẽ rõ hơn ai hết. Đi làm tháng vài triệu bạc, thuê căn phòng trọ ọp ẹp gần triệu bạc. Cơm ăn, áo mặc nữa, quay đi quay lại hết tháng phải đóng tiền phòng trọ, tiền điện tiền nước, thử hỏi còn bao nhiêu. Và, những ngày này dắt díu nhau về quê gặp gia đình được dăm ba bữa.

Những ngày này, ra các bến xe, ta thấy những người nghèo ngược xuôi để về quê với hai bàn tay chai sạm và bờ vai gầy guộc nhỏ ta mới thấy được Chúa thương ta là dường nào.

Và, nhất là cuộc đời của ta là ta hạnh phúc, ta có Chúa trong đời.

Một chút, một chút thôi một bữa ăn, một chầu karaoke ta có thể làm ấm lòng những người nghèo. Những người nghèo đó ở đâu xa ? Những người nghèo đó ngay bên cạnh nhà ta mà bấy lâu nay ta vô tâm vô tình không nhớ đến họ.

Có cái để cho nữa đó chứ ! Là chút tấm lòng với những người bất hạnh.

Sứ vụ của Chúa mở ra cho mỗi người chúng ta, chuyện quan trọng là chúng ta có sống sứ vụ mà Chúa đã sống, đã mời gọi chúng ta hay không mà thôi.

Lm. Anmai, CSsR.

CUỐN THEO THẦN KHÍ

Thứ Bảy Tuần 2 Thường Niên C

“Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng!”.

“Thập giá – cột thu lôi của ân sủng – làm tắt cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, để chỉ còn lại ánh sáng của tình yêu Ngài! Trên đường Đamas, một Saun hung hãn đã bị cột thu lôi của ân sủng quật ngã, và con người này đã cuốn theo Thần Khí của Đấng Phục Sinh!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Hôm nay, Giáo Hội kính nhớ một con người đã bị “cột thu lôi của ân sủng quật ngã”; đúng hơn, một vị thánh mà sự cải đạo của ngài – có thể nói – là một trong những sự kiện quan trọng nhất sau biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô vào những năm đầu Kitô giáo. Bởi lẽ, ân sủng của Ngài đã biến đổi Phaolô, một người đã để mình ‘cuốn theo Thần Khí’.

Trước khi được Chúa tỏ mình, Phaolô “đã nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa”; tuy nhiên, theo cách rất phá hoại! Ông đàn áp những người tin “Đạo mới”; để rồi, cuộc hiện ra của Chúa Phục Sinh trên đường Đamas đã khiến Phaolô dừng bước – bài đọc một. Từ đó, Ngài đã biến “Saun” – có nghĩa là ‘tìm kiếm, đòi hỏi và khát vọng’ thành một “Phaolô” – có nghĩa là ‘hèn mọn, nhỏ bé và khiêm nhường’. Phaolô đã chỗi dậy, tiến về phía trước, ‘cuốn theo Thần Khí’, phục vụ Chúa theo một cách rất khác – loan báo tình yêu Ngài như lệnh đã truyền, “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng!” – Thánh Vịnh đáp ca.

“Tôi ngã xuống đất”; “Ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không còn trông thấy”. Một nghịch lý mang nhiều ý nghĩa! Không chỉ trong bóng tối, con người mới không nhìn thấy; nhưng ngay cả trong ánh sáng, nó cũng mù loà! Lúc tưởng mình sáng, đó là lúc tăm tối nhất đời ông. Phaolô buộc phải nhắm mắt để thấy rằng, sự bốc đồng theo kế hoạch của riêng mình là mù tối và chỉ tình yêu trong trái tim Đấng Phục Sinh mới thật là ngời sáng. Ngài quật Phaolô xuống tận đất; để sau đó, nâng lên đến mức “Tông Đồ Dân Ngoại”. Thế nhưng, hình ảnh đẹp nhất vẫn là thước phim người ta cầm tay dắt Phaolô vào thành, một ‘Phaolô chập chững’ trong hành trình ‘một con người mới’ ‘cuốn theo Thần Khí’ trong Chúa Kitô!

“Chính cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh đã biến đổi toàn bộ con người Phaolô. Nhân tính và niềm đam mê của ông đối với Thiên Chúa và vinh quang của ông không bị huỷ diệt, nhưng được biến đổi bởi Thánh Thần. Người duy nhất có thể thay đổi trái tim chúng ta là Chúa Thánh Thần, và điều đó đã xảy ra trong mọi khía cạnh cuộc sống Phaolô. Bất kỳ ai ở trong Chúa Kitô, người đó là một tạo vật mới được biến đổi từ bên trong!” – Phanxicô.

Anh Chị em,

“Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng!”. Mệnh lệnh của Chúa Kitô “Là một mệnh lệnh mang chiều kích truyền giáo của đức tin! Hoặc đức tin có chiều kích truyền giáo, hoặc không phải là đức tin. Đức tin không phải là điều gì đó chỉ dành cho riêng tôi để tôi có thể lớn lên với nó: đây là một tà giáo ngộ đạo! Đức tin luôn dẫn bạn thoát khỏi chính mình, đi ra ngoài và truyền tải nó! “Hãy đi, để mọi người thấy anh sống thế nào!”. Trong việc truyền bá đức tin, hành động vì đức tin, có Chúa luôn đồng hành với tôi. Tôi không bao giờ đơn độc. Chính Chúa, Đấng truyền đạt đức tin ở cùng tôi; miễn sao tôi để mình được tự do ‘cuốn theo Thần Khí’ của Ngài!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chớ gì cột thu lôi ân sủng Chúa quật ngã con mỗi khi con mải mê chạy theo những phù phiếm thế gian. Cho con mềm mại ‘cuốn theo Thần Khí’ mỗi ngày!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

LỜI CHÚA CÓ ỨNG NGHIỆM TRONG ĐỜI TÔI?

Chúa Nhật 3 Thường Niên Năm C

Hôm nay chúng ta nghe phần mở đầu của sách Tin Mừng theo Thánh Luca, được ghi chép lại từ những “người đã được chứng kiến ngay từ đầu” (Lc 1:2) những câu chuyện về Chúa Giêsu. Những người này là nhân chứng về Chúa Giêsu, là cha ông của chúng ta trong đức tin vì “đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta” (Lc 4:2). Thánh sử viết về sự khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu bằng cách thuật rằng “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Chúa Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Ngài đồn ra khắp vùng lân cận. Ngài giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh” (Lc 4: 14-15).

  1. Lắng nghe lời công bố của Chúa Giêsu

Đoạn sách mà Chúa Giêsu đọc là của Isaia, vị đại ngôn sứ 700 năm trước: “Thần khí của Chúa là Chúa Thượng ngự trên TÔI, vì Chúa đã xức dầu tấn phong TÔI, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Is 61: 1-2).

Chúng ta thử hình dung cảnh tượng này: những người lần đầu tiên nghe thấy Chúa Giêsu đứng lên đọc Sách Thánh và cất tiếng nói trong hội đường: “Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh… Ngài bắt đầu nói với họ: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:16, 21). Họ không biết những lời Ngài nói đó ám chỉ điều gì. Những lời đó liên quan đến Ngài như thế nào. Cõi lòng họ hẳn đã cháy bỏng hy vọng và khao khát Đấng mà vị đại ngôn sứ đã mô tả trong đoạn Sách Thánh mà họ vừa nghe. Lẽ nào Rabbi Giêsu này là Đấng đó? “Chúa đã xức dầu tấn phong TÔI, để TÔI loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai TÔI đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4: 18-19). Trong đôi mắt họ ánh lên niềm hy vọng ấp ủ từ lâu tận cõi lòng, nay được bộc lộ ra, hướng về Rabbi Giêsu này: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài” (Lc 4:22).

Tất nhiên, sách Tin Mừng được viết ra nhiều năm sau khi Chúa Giêsu đã hoàn tất cuộc đời và sứ mệnh của mình nơi trần thế. Vì vậy, sách Tin Mừng cho biết những gì đã diễn ra trong cuộc đời trần gian của Chúa Giêsu, và minh chứng Chúa Giêsu là niềm hy vọng, là lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Ngài là Đấng được xức dầu tấn phong làm Đấng Mêsia, công bố thời kỳ hồng ân của Thiên Chúa. Ngài đem lại tự do cho người bị áp bức, sự tự do mà tất cả mọi người đều mong ước cho cuộc sống của mình, vốn bị giam cầm trong mù tối, cả thể chất lẫn tinh thần.

Trong những tuần lễ đầu tiên của một năm phụng vụ mới, chúng ta có thể học cách lắng nghe Lời Chúa Giêsu theo một cung cách mới. Trong Thánh lễ, khi được công bố, Lời Chúa Giêsu trở thành Sự Hiện Diện thực sự của Ngài. Sự hiện diện thực sự này, nếu được chúng ta quan tâm và thực lòng đón nhận, sẽ làm nên con người đích thực của chúng ta, như những cá nhân và như một cộng đoàn Hội Thánh, gắn bó với Chúa Giêsu. Việc lắng nghe Lời Chúa thật quan trọng đối với đời sống đức tin của các tín hữu. Phụng vụ và lời công bố Tin Mừng trong mỗi Thánh lễ đều dạy chúng ta cách sống trong trần thế như thế nào, khao khát Chúa như thế nào, cần đến Chúa và phục vụ người lân cận như thế nào, để chúng ta được thứ tha tội lỗi, được sáng soi tâm hồn, có được tự do của người con Chúa, được lãnh nhận mọi hồng ân của Đấng đã công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21).

Đọc các đoạn Tin Mừng và các bài thánh thư hoặc trước hoặc sau mỗi Thánh lễ, trong lặng lẽ một mình, mỗi ngày, là điều đáng khích lệ. Chúng ta không thể hiểu Lời Chúa chỉ bằng cách nghe trong Thánh lễ, rồi sau đó thì thôi. Mỗi người chúng ta phải tự mình làm quen với các hình ảnh, các câu chuyện, các nhân vật, toàn bộ cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, để bước vào Thánh lễ, hoặc tiếp tục sống Thánh Lễ, mỗi lần mỗi trọn vẹn hơn. Sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Thánh lễ nằm trong lời công bố Tin Mừng, trong hình bánh và hình rượu trở thành Mình Thánh và Máu Thánh của Ngài, và trong cuộc sống đời thường của mỗi chúng ta. Là những người đã lãnh phép rửa tội, chúng ta đầy tràn Thần Khí của Chúa Kitô, trở nên chi thể trong Nhiệm Thể sống động của Ngài, như Thánh Phaolô, trong bài đọc thứ hai hôm nay, đã khẳng định: “Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhấtVậy anh em, anh em là thân thể Chúa Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1 Cor 12: 13, 27). Chúng ta hãy mở các Sách Thánh, cụ thể là sách Tin Mừng theo thánh Luca, đọc các câu chuyện cuộc đời của Chúa Giêsu và bước vào mối tương quan cá vị với Ngài. Rồi ra, chúng ta sẽ dần được biến đổi thành những gì chúng ta cử hành trong Thánh lễ, thành Thân Mình của Chúa Kitô, trong trần thế.

  1. Sống lời công bố của Chúa Giêsu Kitô

Mục đích của sách Tin Mừng Luca là giới thiệu Chúa Giêsu cho độc giả là những người Do Thái sống ở nước ngoài, chịu ảnh hưởng Hy Lạp, hoặc cho độc giả không phải là người Do Thái, không quen văn hóa Do Thái. Một số khái niệm và từ ngữ của người Do Thái đã được tác giả trình bày rất ngắn gọn và rõ ràng bằng tiếng Hy Lạp. Tuy nhiên, Sách Tin Mừng của Thánh Luca được viết trước hết là để đọc chung trong một nhóm Kitô hữu tụ họp trong một ngôi nhà, khi họ cùng nhau chia sẻ Bữa Ăn của Chúa. Vì thế, Thánh Luca hướng sự chú ý của mình vào những sứ điệp đặc thù của Kitô giáo hơn là những bận tâm của thế giới Hy-La thời đó.

Cũng vậy, chúng ta có thể nghe linh mục hoặc ai đó đọc Tin Mừng, nhưng việc đó sẽ không giúp chúng ta tiến lên trong đời sống đức tin chừng nào chúng ta chưa chú tâm vào sứ điệp của Chúa Giêsu, chưa có ý định tìm biết ngày càng rõ ràng hơn về con người của Ngài. Có sự khác biệt giữa việc nhớ một vài câu chuyện trong cuộc đời Chúa Giêsu và việc nhận biết đầy đủ về chính Ngài là ai trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Lời Chúa Kitô có dần biến đổi đời tôi không và đời tôi có dần trở nên xứng hợp với Lời Chúa Kitô không? Xin cho Lời Chúa Kitô ứng nghiệm trong đời tôi.

Thánh Luca bắt đầu sách Tin Mừng của mình bằng lời tựa gửi đến Thêôphilê, tiếng La tinh là Theophilus. Trong nguyên văn Hy Lạp, chữ Theophilus được viết là Θεόφιλος. Đây là một danh từ kép gồm hai chữ θεός – Thiên Chúa – và φιλία – tình yêu hoặc trìu mến. Chữ Theophilus có thể dịch là tình yêu của Thiên Chúa hay người yêu mến Thiên Chúa. Nếu hiểu theo nghĩa thứ hai, thì chữ Theophilus có thể là một danh từ chung, ám chỉ những người yêu mến Chúa, và có thể ám chỉ bất cứ Kitô hữu nào, dù hầu hết những nhà chú giải đều coi điều đó ám chỉ đến một người trở lại Kitô giáo và là người bảo trợ cho Luca viết sách Tin Mừng. Ở đây, Luca thông báo cho Thêôphilê về ý định của mình, đó là dẫn người đọc đến với một giáo huấn vững chắc thông qua một tường thuật “đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự” và được “tuần tự viết ra” (Lc 1:3) “về những sự kiện đã được ứng nghiệm giữa chúng ta” (Lc 1:1). Tuy nhiên, Luca không có ý định chứng minh cho Thêôphilê về lịch sử Kitô giáo, vì đó là “những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu” (Lc 1:2), nhưng để khuyến khích đức tin: “mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn mà ngài đã học hỏi thật là vững chắc” (Lc 1:4).

Thánh Luca mong muốn đưa các độc giả của ngài vào câu chuyện cuộc đời của Chúa Giêsu và qua đó giúp họ nâng con người của họ lên tới Chúa Giêsu. Thánh Luca, vốn là “Anh Luca, thầy thuốc yêu quý” (Côlôsê 4:14), mong muốn chữa lành đời sống của họ, vốn “nghèo hèn…bị giam cầm… mù tối… bị áp bức” (Lc 4: 18) cả vật chất lẫn linh hồn. Trong bối cảnh như thế, các câu mở đầu của sách Tin Mừng Luca tưởng như ít quan trọng, nhưng trái lại.

Cũng vậy, khi tham dự Thánh lễ, nghe công bố Lời Chúa, chúng ta không chỉ nhắm lợi ích của riêng mình, mà còn cầu nguyện cho người nghèo, người bị tù đày, người đói khát, những người mà cuộc sống của họ đang gánh chịu những hậu quả của các hệ thống bất công. Chúng ta xin cho Lời Chúa Kitô ứng nghiệm nơi tất cả mọi người trong thế giới.

Có thể nhiều người thời Chúa Giêsu đổ xô đến với Ngài vì vô vọng trong cuộc sống, chúng ta ngày nay không như thế sao? Cả những người ngày nay đang ít nhiều khước từ Ngài, giống như những người đồng hương tại quê nhà Nadarét của Ngài (Lc 4: 16, 23, 24, 29), lại không có khát khao sâu xa được cứu độ sao? Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo viết: “Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ của tất cả mọi người, mọi người đều cần ơn cứu độ, và ơn cứu độ được ban cho mọi người nhờ Đức Kitô” (số 389). Con người ngày nay đang phải chịu đựng những căng thẳng, các mối tương quan tan vỡ, bệnh tật, mất mát, cái chết của những người thân yêu và sự trống rỗng trong sâu xa cõi lòng, không ngừng lao vào làm việc, vào hoạt động, rồi tìm kiếm lạc thú trong tiêu dùng, trong hưởng thụ, quên mất rằng cái chết, vốn hư vô hóa mọi sự, đang chờ đợi mọi người. Trong một thế giới không có Chúa Giêsu, cuộc sống của con người chỉ gồm những thú vui chóng qua, những nỗi đau ngày càng tăng không thể tránh khỏi, cùng sự mơ hồ đáng sợ vào cuối cuộc đời. “Sự khốn cùng của con người xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: cùng cực về của cải vật chất, sự đàn áp bất công, các bệnh tật thể lý và tâm thần, sau cùng là cái chết; tất cả những sự khốn cùng của con người này là dấu chỉ cho thấy tình trạng yếu đuối nguyên thủy, mà sau tội đầu tiên của ông Ađam, con người sống trong đó, và đó cũng là dấu chỉ cho thấy sự cần thiết của ơn cứu độ; những nỗi khốn cùng đó đã lôi kéo lòng thương xót của Chúa Kitô, Đấng Cứu độ, Đấng đã muốn mang lấy những nỗi khốn cùng đó khi Ngài đồng hóa mình với ‘những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây’, Mt 25,40.45” (GLHTCG, số 2448).

Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần, ban cho chúng ta Ơn Khôn Ngoan để chúng ta có thể nhận ra thực tế của thân phận phàm nhân chóng qua của chúng ta cần được Chúa Kitô cứu độ. Xin “quyền năng Thần Khí thúc đẩy Chúa Giêsu” (Lc 4:14) cũng thúc đẩy chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày, tìm đến gần “Chúa Giêsu, niềm hy vọng của chúng ta, bởi vì Ngài là đích điểm cuộc hành trình dương thế của chúng ta” (Đức Thánh Cha Phanxicô, buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 18/12/2024).

Phêrô Phạm Văn Trung

Mời Chúa đến nhà

Chúa Nhật 2 Thường Niên Năm C

Những ngày tháng cuối năm các đám cưới đua nhau tổ chức. Mùa cưới rộ lên làm cho mùa đông bớt vẻ ảm đạm tiêu điều. Đám cưới nào thường cũng vui. Trong đám cưới người ta chỉ nói chuyện vui. Nhưng niềm vui kéo dài được bao lâu? Những lời chúc trăm năm hạnh phúc có thật sự đem hạnh phúc đến cho đôi tân hôn và làm cho họ hạnh phúc suốt đời không? Nhìn vào thực trạng đời sống gia đình hôm nay, ta thấy có được hạnh phúc gia đình là một điều rất khó, hạnh phúc trăm năm thì lại càng khó lắm.

Đám cưới Cana hôm nay cũng suýt lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang nửa chừng thì hết rượu. Hết rượu là một bất trắc không ngờ. Trong gia đình, những bất trắc có thể đưa đến bất đồng. Bất đồng dễ đưa tới bất hoà. Đã bất hoà thì đường đến bất hạnh không xa.

Đám cưới Cana thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc Chúa Giêsu đến tham dự bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa yêu thương con người nên đã đến ở giữa loài người. Không những đến ở giữa loài người. Thiên Chúa còn trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành với con người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một Thiên Chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình than, Thiên Chúa đã đến chia vui với gia đình trong dịp đại hỷ. Và việc Thiên Chúa đến nhà đã cứu gia đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày đầu tiên chung sống.

Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn mời Chúa đến nhà. Sự hiện diện của Chúa giúp ta vượt qua được những bất trắc trong đời sống gia đình. Những bất trắc thì nhan nhản trong đời sống hằng ngày.

Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn tiền cho con đi học, thiếu thốn thuốc men khi bệnh tật. Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử, thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức tin trong gia đình.

Đời sống gia đình lúc đầu rất vui, nhưng sau đó, nếu không khéo gìn giữ sẽ trở nên nhạt nhẽo như nước lã. Nhạt nhẽo vì tình nghĩa phai dần. Nhạt nhẽo vì những bổn phận nặng nề, nhàm chán. Nhạt nhẽo vì những khuyết điểm không tránh được của mọi người.

Những thiếu thốn và những nhạt nhẽo ấy hầu như vượt ngoài khả năng giải quyết của ta, nên ai cũng muốn mời Chúa đến nhà để Chúa cứu gia đình khỏi sự tan vỡ, sụp đổ.

Thế nhưng mời Chúa đến không phải là tổ chức làm phép nhà cho long trọng, ăn tân gia cho linh đình. Mời Chúa đến không phải chỉ là làm bàn thờ cho đẹp, treo thật nhiều ảnh tượng. Muốn mời Chúa đến, việc đầu tiên cần thiết là phải làm theo ý Chúa. Như Đức Mẹ dạy các gia nhân: “Người bảo gì thì phải làm theo”. Nhờ làm theo lời Chúa mà gia đình Cana thoát khỏi cảnh xấu hổ, hạnh phúc gia đình được bền vững.

Gia đình muốn sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy làm theo Lời Chúa. Đọc Phúc Âm, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn tiếng nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình. Để Lời Chúa điều khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta rút được trong ngày Tết phải là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống gia đình trong suốt năm mới này.

Sống theo Lời Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những thiếu thốn. Sống với Chúa, hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi mới như chất rượu ngon. Sống trung thành kết hiệp với Chúa, gia đình sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên trời, lúc đó chàng rể đích thật là Đức Kitô sẽ cho ta nếm thử rượu tuyệt ngon trên thiên đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai.

Lạy Chúa, xin đến với chúng con. Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con. Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về những thiếu thốn?

2. Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về sự nhạt nhẽo tình nghĩa?

3. Bạn đã có kinh nghiệm về việc thực hành Lời Chúa trong gia đình chưa?

4. Có bao giờ bạn cảm thấy gia đình bạn được Chúa cứu thoát khỏi hiểm nguy, thử thách, thất bại?

TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Subcategories