3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

CHUYỆN HAI SỐ PHẬN

Mối tương quan của con người với của cải vật chất tạo ra nhiều thử thách. Giàu có mang lại tiện nghi nhưng có thể làm tâm hồn chai lì, mù quáng trước khổ đau của người khác. Niềm tin Kitô giáo mời gọi chiến đấu vì đức tin, và tình yêu trắc ẩn, vượt qua những sự phù hoa trần gian.

  1. Vực Thẳm Vô Cảm

Tin Mừng theo Thánh Luca đã mở ra một bức tranh đầy tương phản giữa hai con người: một “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta” (Lc16: 19) và “một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no” (Lc16: 20-21). Tội lỗi của người phú hộ không phải là giàu có, mà là sự vô cảm và mù lòa tinh thần. Người phú hộ không ngược đãi nhưng cũng không hề “nhìn thấy” Ladarô ngay trước cửa. Đối với ông, Ladarô chỉ là cảnh vật vô hồn, trái tim hoàn toàn đóng kín trước người nghèo khổ.

Cái chết là điểm phân rẽ cho hai số phận. Ladarô, bị từ chối trên trần gian, được “thiên thần đem vào lòng ông Abraham” (Lc16: 22), ở trong sự an ủi và vinh quang của Nước Trời. Ngược lại, người phú hộ chết và xuống “dưới âm phủ, chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ” (Lc16: 23). Khoảng cách giữa hai người, vốn là sự vô cảm trên trần thế, giờ đây đã trở thành một “vực thẳm lớn đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16: 26). Vực thẳm này không phải do Thiên Chúa tạo ra, mà là kết quả tất yếu của những lựa chọn sống của chính con người. Người phú hộ đã tự mình đào vực thẳm ấy bằng sự phớt lờ, còn Ladarô đã vượt qua nó bằng sự khó nghèo, nhẫn nhục và đau khổ của ông.

Người phú hộ xuống âm phủ vì tội thờ ơ và thiếu bác ái. Thánh Gioan Kim ngôn chỉ ra rằng: “Ông ta không gặp bất hạnh nào, mọi điều tốt lành đều tuôn chảy đến với ông ta như một nguồn suối bất tận. Không có điều gì trái ý xảy ra với ông ta…“ngày ngày yến tiệc linh đình.” Cái kết được định sẵn cho ông ta, và thậm chí trước khi ông ta chết, do sự thờ ơ của ông ta; bởi vì ông ta không hề thương hại người nghèo ở cổng nhà mình hay bất cứ ai khác, chính ông ta đã thể hiện điều đó. Bởi vì nếu ông không thương hại người đàn ông liên tục nằm ở cổng nhà mình, trước mắt ông, người mà mỗi ngày, khi ông ra vào, ông hẳn phải nhìn thấy…thì liệu ông có bao giờ động lòng trắc ẩn đối với bất cứ người đau khổ nào mà ông tình cờ gặp không? Ông ta không hề động lòng với người đàn ông tội nghiệp trông thật đáng thương, gầy gò vì đói và bệnh tật triền miên. Những điều này đều không lay chuyển được con người tàn nhẫn ấy, bỏ mặc những người đang chết đói, và khép chặt lòng trắc ẩn” [1]. Tội của ông ta không phải là điều ông ta đã làm, mà là điều ông ta đã không làm. Dù có tất cả điều kiện tốt lành để làm điều thiện, người phú hộ lại chọn cách sống trong sự nhởn nhơ, thờ ơ và lãnh đạm.

Điều đáng nói là ngay cả trong địa ngục, người phú hộ vẫn chưa thực sự thay đổi. Ông ta van xin ông Abraham sai Ladarô, người mà ông ta đã phớt lờ trên trần gian, đến để làm dịu cơn khát của mình: “Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm” (Lc 16: 24). Ông ta vẫn coi Ladarô như một người đầy tớ, một công cụ để phục vụ lợi ích của mình. Con người ông không hề thay đổi, vì trong cuộc đời trần thế, ông đã chọn trở nên vô cảm như thế. Chính vì vậy, lời thỉnh cầu ấy đã bị từ chối, không phải vì Abraham tàn nhẫn, mà vì sự công thẳng của Thiên Chúa. Ông Abraham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ” (Lc16:25). Lời giải thích này nhấn mạnh rằng Thiên Chúa công bằng và Ngài không bỏ rơi những người nghèo khổ, những người bị áp bức.

Khi lời van xin cho chính mình bị từ chối, người phú hộ quay sang xin cho năm người anh em của mình. Ông ta vẫn tin rằng chỉ một phép lạ phi thường, “nếu có người từ cõi chết đến với họ,thì họ sẽ ăn năn sám hối” (Lc16:30), mới đủ để lay động lòng dạ của họ. Nhưng ông Abraham đáp lời: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đóMôsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin” (Lc16: 29-31).

Đây là lời cảnh báo mạnh mẽ: lòng tin không cần phép lạ. Thiên Chúa đã bày tỏ ý muốn qua Lời Ngài. Nếu ta không lắng nghe, sống tự mãn và vô cảm, không phép lạ nào có thể cứu rỗi.

  1. Vượt Qua Sự An Nhiên Tự Tại

Lời ngôn sứ Amốt từ thời Cựu Ước mang đến một lời cảnh tỉnh mạnh mẽ: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Xion, và sống an nhiên tự tại trên núi Samari” (Am 6:1). Giống như người phú hộ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, những người này không phải là những kẻ độc ác về bản chất. Tội của họ là tự mãn, sống xa hoa, hưởng thụ trong khi đồng bào của họ đang sống trong cảnh lầm than.

Amốt mô tả chi tiết lối sống của họ: “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đavít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng” (Am 6: 4-6). Tiên tri Amốt đã vạch trần một cách thẳng thừng sự phè phỡn, coi thường luân lý của những “nhà lãnh đạo của dân đứng đầu các dân” (Am 6: 1).

Lời kết tội của tiên tri Amốt không chỉ lên án sự xa hoa, mà còn cả sự thiếu đồng cảm với nỗi đau của dân tộc. Tội lớn nhất của những người giàu có là “chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ!” (Am 6: 6). “Nhà Giuse” là hình ảnh của toàn thể dân Israel đang sống trong bất công. Giống như người phú hộ và Ladarô, những người này đã tạo ra một vực thẳm giữa họ và người cùng khổ, sống tách biệt khỏi hoàn cảnh đau thương của xã hội và không thể cảm nhận nỗi đau của đồng loại mình.

Lời cảnh báo của Amốt vẫn còn vang vọng trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đã lên án “các lợi ích của giới quyền lực, muốn lợi dụng sự tự ti của dân chúng, để hình thành một nền văn hóa mới phục vụ giới tinh hoa, nhờ các phương tiện truyền thông và mạng internet. Chỉ những kẻ cơ hội chuyên đầu cơ tài chính và những kẻ bóc lột là được hưởng lợi, còn người nghèo thì luôn thua thiệt” (Thông điệp Fratelli Tutti, số 52), và nhấn mạnh rằng “Một người bị tấn công trên đường, thế mà nhiều người ngoảnh mặt bỏ đi như không thấy gì. Thường có những người lái xe gây tai nạn rồi bỏ chạy luôn. Việc quan trọng duy nhất đối với họ là tránh rắc rối; ai đó có phải chết vì lỗi của họ, họ cũng chẳng quan tâm. Nhưng đây là dấu chứng cho thấy có một lối sống phổ biến được tỏ lộ bằng nhiều cách thế, có khi tinh tế khó nhận biết hơn. Lại nữa, vì tất cả chúng ta đều tập trung lo cho nhu cầu của mình, nên khi gặp ai đó đang đau khổ thì chúng ta cảm thấy khó chịu, cảm thấy bị quấy rầy, bởi lẽ chúng ta không muốn tốn thời giờ để dàn xếp những vấn đề của người khác. Đó là triệu chứng của một xã hội đang đau bệnh, chỉ lo vun đắp cho mình và quay lưng lại trước khổ đau của người khác” (Fratelli Tutti, số 65). Tiên tri Amốt đã tuyên bố rằng Thiên Chúa không bao giờ quên những việc làm này: “Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (Am 6: 7). Đây là lời cảnh báo về sự phán xét của Thiên Chúa, về sự sụp đổ tất yếu của một xã hội thiếu công bằng và tình yêu thương.

  1. Lời Mời Gọi Sống Đời Sống Công Chính

Nếu dụ ngôn về người phú hộ và Ladarô là một lời cảnh báo, thì lời của Thánh Phaolô gửi Timôthê lại là một hướng dẫn cụ thể để không rơi vào số phận ấy. Thánh Phaolô kêu gọi Timôthê, và mỗi Kitô hữu, hãy tránh xa: “mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 10) và trở nên “người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà” (1Tm 6: 11). Đây là những nhân đức đối lập hoàn toàn với lối sống phủ phê và vô cảm của người phú hộ. Cuộc sống của Kitô hữu là một cuộc chiến, không phải để tích lũy của cải, mà là để “thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời” (1Tm 6: 12).

Đây là cuộc chiến tinh thần, đòi hỏi kiên trì và can đảm. Thánh Phaolô nhắc nhở Timôthê về “lời tuyên xưng cao đẹp” trước mặt nhiều nhân chứng. Đó là lời cam kết sống trọn vẹn theo Tin Mừng, làm chứng cho tình yêu và sự thật của Thiên Chúa.

Thánh Phaolô còn truyền cho Timôthê một sứ mệnh: “hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện” (1Tm 6: 14). Sứ mệnh này đòi hỏi chúng ta phải sống một đời sống mẫu mực, làm chứng cho Tin Mừng không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động, nhất là trong một thế giới bị ám ảnh bởi quyền lực và tiền bạc.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta rằng: “Tôi không phải là những thứ tôi sở hữu và những thành công tôi cố gắng đạt được; giá trị cuộc sống của tôi không phụ thuộc vào việc tôi có thể khoe ra bao nhiêu, cũng không giảm đi khi tôi thất bại và gục ngã…Những bất công, những bất bình đẳng, sự phân bổ không đồng đều các nguồn lực trên trái đất, sự lạm dụng của kẻ quyền lực đối với kẻ yếu, sự thờ ơ với tiếng kêu của người nghèo, vực thẳm mà chúng ta đào bới hàng ngày tạo ra sự kỳ thị…Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta dấn thân để hoán cải hữu hiệu từ thờ ơ sang cảm thông, từ lãng phí sang chia sẻ, từ ích kỷ đến tình yêu, từ chủ nghĩa cá nhân đến tình huynh đệ” [2].

Lời khuyên của Thánh Phaolô kết thúc với một lời ca tụng Thiên Chúa: “Chỉ mình Ngài là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy. Kính dâng Ngài danh dự và uy quyền đến muôn đời. Amen.” (1Tm 6:16).

Mọi thứ trên đời đều phù du. Chỉ Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống. Đời sống Kitô hữu là nhận ra sự thật này và đặt hy vọng vào Ngài. Sự sống đời đời không phải món quà ngẫu nhiên, mà là kết quả của cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ vì tình yêu và sự sẻ chia. Lựa chọn hôm nay quyết định nơi cư ngụ vĩnh cửu của chúng ta.

Phêrô Phạm Văn Trung

[1] Discourse I. A homily delivered at antioch on the second day of the month, No. 6.  https://www.tertullian.org/fathers/chrysostom_four_discourses_01_discourse1.htm

[2] Thánh lễ kết thúc Đại hội Thánh Thể toàn quốc của Ý lần thứ 27 https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2022-09/dtc-phanxico-thanh-le-dai-hoi-thanh-the-toan-quoc-y-matera.html

Chia sẻ

(Am 6,1a.4-7; 1 Tm 6,11-16; Lc 16,19-31)

Truyện kể: Nhà vua kia không có con nối dòng, đã niêm yết mời những bạn trẻ điền đơn dự xét để được nhận làm con nuôi trong hoàng tộc. Hai phẩm chất cần có là mến Chúa và yêu tha nhân. Có một cậu bé nhà nghèo muốn điền đơn, nhưng cậu không có thể, vì cậu ăn mặc rách rưới nghèo nàn. Được tin, cậu đã cố gắng làm việc chăm chỉ kiếm tiền mua bộ đồ mới và vội vã lên đường tìm dịp may để được nhận nuôi trong gia đình của vua. Tuy nhiên, đi dọc đường, khi gặp một người nghèo bên vệ đường đang chết lạnh. Anh bạn trẻ tỏ lòng cảm thương và tráo đổi bộ quần áo cho lão ăn xin. Thật khó khăn cho anh bạn trẻ này để được diện kiến nhà vua, vì bây giờ anh chỉ có bộ quần áo rách tả tơi. Vì đã đi được quãng xa, anh nghĩ phải cố gắng hoàn thành được hành trình. Khi anh tới dinh thự của nhà vua, mặc dù bị khinh rẻ và cười chê bởi các cận thần của vua, nhưng cuối cùng anh cũng được diện kiến vua. Anh thật ngạc nhiên thấy vua chính là người ăn xin bên vệ đường và đang mặc bộ quần áo mà anh đã tặng cho ông. Nhà vua bước xuống khỏi ngai vàng, ôm lấy anh bạn trẻ và nói: "Chào đón, hỡi con của ta."

Sự giàu sang phú túc là ân phúc Chúa ban. Người sang giàu hay nghèo hèn cũng chẳng khác gì nhau về sứ mệnh. Người giàu có nỗi khổ của người giàu, kẻ nghèo có nỗi đau của kẻ nghèo. Cách thế tìm kiếm và sử dụng của cải đời này mới là điều quan trọng. Người đời thường chúc nhau làm ăn được phát tài phát đạt, của cải đầy dư, an cư lạc nghiệp và gia đình hạnh phúc. Của cải sinh lợi là dấu hiệu được chúc phúc. Giàu có không phải là cái tội, cái tội do tâm ý con người. Tiên tri Amos đã lên tiếng cảnh cáo những người giàu sang phú quý tự kiêu đã hoang phí tài sản: Đây Chúa toàn năng phán: "Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quý ở Sion và tự kiêu trên núi Samaria." (Am 6,1a). Những người giầu có hay lạm dụng quyền thế để chèn ép những người bé nhỏ thấp kém. Chúng ta nhận biết Thiên Chúa luôn đứng về phía những người nghèo bị đối xử bất công.

Người giàu được hưởng thụ mọi sự sung sướng trên đời. Một số người giàu còn dung dưỡng xác thịt thoả mãn mọi nhu cầu đòi hỏi của bản năng. Họ được hưởng nếm mọi của ngon vật lạ. Sự thụ hưởng qúa độ sẽ làm cho thân xác ươn lười, tinh thần yếu đuối và con người hư hỏng. Amos vạch trần những thói đời xa hoa: "Các ngươi đã nằm ngủ trên giường ngà, mê đắm trên ghế dài: ăn chiên con trong đoàn và bê béo trong đàn." (Am 6,4). Chúng ta biết rằng không phải ăn nhiều, uống nhiều và hưởng thụ nhiều là hạnh phúc. Bất cứ cái gì cũng có cái giá phải trả. Ăn nhiều sẽ béo phì, uống quá độ sẽ say sưa, và hưởng thụ nhiều sẽ gây bệnh hoạn, yếu liệt. Thật vậy, chẳng béo bở gì khi ngày nào cũng có yến tiệc linh đình. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta cũng cần có những bữa tiệc vui, những món ngon và rượu nồng để vui thoả lòng người.

Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn ông phú hộ giàu có và người hành khất Lazarô nghèo đói để giúp chúng ta suy nghĩ về cách đối xử với đồng loại. Ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, còn Lazarô bệnh hoạn đói khổ ngồi cạnh cổng và chẳng ai đoái hoài. Một người thì sung sướng, tiệc tùng vui vẻ và hưởng phước cuộc đời. Một người cô thân cô thế, không nơi cậy dựa và chịu thiệt thòi khổ đau. Khi mãn cuộc đời dương thế, mỗi người đi theo một hướng. Kẻ được chúc phúc, người bị luận phạt. Vậy cuộc sống của người giàu và người nghèo có liên đới với nhau. Không ai có thể nói rằng tôi chỉ có nhiệm vụ lo cho chính tôi và người hàng xóm thì mặc kệ họ. Không phải thế, chúng ta sống là sống cùng, sống với và sống hỗ tương nhau. Cùng giúp nhau hoàn thành sứ mệnh của đời người.

Nhìn xem gương của người phú hộ, dụ ngôn không nói về cách thế làm giàu của ông. Cũng không nói ông phạm tội ức hiếp, khinh bỉ người nghèo hay làm thiệt hại ai điều gì. Ông xây tường cao vui hưởng cuộc sống trong sang giàu cho riêng mình. Có một điều là ông thiếu trách nhiệm với người hàng xóm. Mắt ông không nhìn thấy được sự khổ đau của người khác. Tâm ông không cảm được nỗi cô đơn sầu khổ của người bên cạnh. Ông đã không đoái hoài đến số phận đen đủi hẩm hiu của tha nhân. Kết quả của cuộc đời, khi phải đối diện với sư thật: "Abraham nói lại: 'Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ'." (Lc 16,25). Phần thưởng không nằm ở sự giàu sang hay nghèo hèn, mà là thái độ đối với tiền của và trái tim biết cảm thông chia sẻ với tha nhân.

Sự giàu có tiền bạc của cải có thể làm chúng ta bị mù loà. Khi giầu có, chúng ta dễ quên mất sự nghèo khổ. Khi chúng ta đi ngang qua người ăn xin, tại sao chúng ta thường ngó sang hướng khác? Có lẽ vì chúng ta sợ tiếng nói của lương tâm làm phiền. Chúng ta giả vờ như không nhìn thấy họ. Thường thì người nghèo không van xin, nhưng họ có đôi mắt với cái nhìn rất tha thiết. Có khi người ăn xin giơ tay van nài và chúng ta phải rất tôn trọng khi bố thí. Đừng quăng ném tiền cắc vào cóng long của người ăn xin như là vất bỏ một vật gì. Thái độ cho đi quan trọng hơn quà được cho. Có lần Mẹ Terêxa đã nói: Bệnh ghê tởm nhất của thế giới hôm nay là cảm thấy bị bỏ rơi và sự dữ lớn nhất trong thế giới là thiếu vắng tình yêu và tỏ ra dửng dưng với những nhu cầu cần thiếu của tha nhân.

Chúng ta không cần đợi người chết hiện về để nói với chúng ta cách thế sống đạo. Lời Chúa dạy quá đủ để chúng ta học hỏi và thi hành. Ông phú hộ xin Abraham cho người đã chết về loan tin. Abraham đáp rằng: 'Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài.' (Lc 16,29). Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần rằng dù chỉ một bát nước, chúng ta làm cho người nghèo vì danh Chúa, chúng ta sẽ không mất phần thưởng. Đôi khi chúng ta dửng dưng và nghĩ rằng dụ ngôn Chúa nói là để dành cho những người giàu sang phú quý. Còn chúng ta là những người nghèo, người lao động đầu tắt mặt tối và còn đang hưởng tiền trợ cấp của chính phủ, lấy đâu ra mà giúp đỡ người này người kia chứ. Biết rằng chúng ta không giàu có về tiền tài của cải, chúng ta vẫn có cái để chia sẻ mà. Chúng ta có một trái tim đấy ắp tình thương. Chia sẻ sự cảm thông, sự hiểu biết và tình người còn quan trọng hơn. Một nụ cười, một lời nói nhẹ nhàng, một thái độ khoan dung và sự cảm mến cũng đủ nguôi lòng người đang trong cơn sầu khổ.

Mang danh là Kitô hữu, chúng ta là mộn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: "Hỡi người của Thiên Chúa, hãy theo đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh, đức tin, đức ái, đức nhẫn nại, đức hiền lành." (1 Tm 6,11). Các nhân đức là những bông hoa thơm hương tô điểm cho đời sống đức tin. Các đức tính tốt làm cho đời sống đạo được trổ sinh hoa trái. Đức ái là cao trọng vì đức ái sẽ mở cửa tâm hồn giúp chúng ta đến với tha nhân. Tha nhân giúp chúng ta tiến tới trên con đường trọn lành. Không phải những người giàu có đưa chúng ta tới cửa thiên đàng, nhưng nhờ chính những người bé nhỏ, thấp kém, nghèo hèn và khổ đau. Họ là những ân nhân quý báu nhất của chúng ta trong cuộc hành trần thế này.

Bước vào cuộc đua, chúng ta không thể bỏ cuộc. Phải chiến đấu anh dũng cho đến cùng đường. Đừng khi nào nản chí về việc bác ái giúp người. Bao lâu Thiên Chúa còn ban ân huệ cho chúng ta, bấy lâu chúng ta còn có cơ hội chia sẻ khả năng, thời giờ và của cải của chúng ta với người chung quanh. Người nghèo là hiện thân của Chúa Giêsu giữa dòng đời. Chúng ta đừng khinh rể họ, vì họ đang được chia sẻ sự nghèo hèn thiếu thốn của Chúa Kitô. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: "Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của đức tin. Hãy cố đoạt lấy sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi tới và cũng vì đó, con đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng." (1 Tm 6,12).

Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con quá nhiều hồng ân. Nhiều khi chúng con cứ khư khư giữ lại làm giầu cho chính mình mà quên những nhu cầu cần thiết của anh chị em chung quanh. Xin cho con biết mở mắt, mở tai và mở rộng tâm hồn để cùng chia sẻ niềm vui với mọi người.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

CÁI TÔI: VẬT CẢN CỦA MỤC ĐÍCH CAO CẢ

Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta thường nghe về sự cần thiết khẳng định “cái tôi” mạnh mẽ để thành công. Tuy nhiên, cái tôi lại chính là rào cản lớn nhất ngăn chúng ta đạt được sự cao cả mà chúng ta có thể có theo đúng mục đích tạo dựng ban đầu của Thiên Chúa. Sự lớn lao ở đây không phải là danh vọng hay quyền lực, mà là khả năng sống yêu thương và phụng sự cách trọn vẹn.

  1. Bản chất của cái tôi - ego

Cái tôi vị kỷ không phải là bản chất cốt lõi của chúng ta, mà là nơi trú ngụ của sự ích kỷ, kiêu hãnh và cả những nỗi sợ hãi. Nó là phần trong con người chúng ta luôn muốn bám víu vào những thứ vật chất, danh vọng, hoặc thậm chí là một chút quyền lực kiểm soát nhỏ nhoi. Cái tôi vị kỷ khiến chúng ta chỉ nhìn thấy bản thân và nhu cầu của mình, dẫn đến việc chúng ta sẵn sàng làm tổn thương người khác để đạt được điều mình muốn.

Cái tôi vị kỷ giống như một bức tường dày cộm che khuất tâm hồn rộng lớn của chúng ta, khiến chúng ta không thể nhận ra những chiều sâu tiềm ẩn bên trong. Bức tường này được xây nên từ những tổn thương, những nỗi sợ hãi từ quá khứ và những lời dối trá mà chúng ta tin vào. Nó khiến chúng ta nói về bản thân vượt quá sự thật, nghĩ quá cao về mình, phủ nhận hoặc quên rằng những gì mình có là một ân sủng, một món quà. Thánh Phaolô nói: “Nào có ai coi bạn hơn kẻ khác đâu? Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7). Chính vì vậy, thay vì sống một cuộc đời trọn vẹn và đầy tình yêu, chúng ta lại trở nên nhỏ bé, chỉ dám bơi ở “vùng nước nông” thay vì “chèo ra chỗ nước sâu” (Lc 5: 4) mà Thiên Chúa mời gọi.

  1. Cái tôi và sự mù quáng

Một trong những tác hại lớn nhất của cái tôi là nó khiến chúng ta trở nên mù quáng trước tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa và khả năng trao hiến bản thân cho người khác. Khi cái tôi vị kỷ chiếm lấy vị trí trung tâm, nó biến mọi người thành đối thủ, và chúng ta trở thành trung tâm bị đe dọa. Mỗi người chung quanh, ngay cả Thiên Chúa, đều có thể bị coi là mối hiểm họa đối với khát khao rằng chúng ta phải điều khiển và làm chủ mọi thứ, mà không biết đó chỉ là ảo tưởng.

Sự mù quáng này thực ra xuất phát từ nỗi sợ hãi trong sâu thẳm cõi lòng. Chúng ta nhìn thế giới bằng một tâm trí đầy sợ hãi thay vì tin tưởng. Khi sợ hãi, chúng ta bám chặt vào những gì mình có, những gì mình là, và coi mọi thứ bên ngoài như kẻ thù tiềm tàng. Mối tương quan giữa chúng ta và người khác thường xuyên bị chi phối bởi nỗi sợ này, dẫn đến xung đột và tan vỡ. Hầu hết các vấn đề trong gia đình, bạn bè hay đồng nghiệp đều bắt nguồn từ sự chi phối của cái tôi vị kỷ và đỉnh điểm là sự kiêu ngạo. Thánh Augustinô nhận định: “Sự kiêu ngạo đã biến thiên thần thành ác quỷ” [1]. Cái tôi kiêu ngạo không thực sự hướng tới sự cao cả mà chỉ là thể hiện sự rỗng tuếch, một khao khát của bản thân muốn mọi người tụng ca giá trị của mình, dù thực ra những giá trị ấy không đáng gì.

  1. Kiêu ngạo – Tội lỗi tàn phá nhất

Kiêu ngạo là tội lỗi tàn phá và nguy hiểm nhất. Đó là một dạng đặc biệt của cái tôi vị kỷ, đặt chúng ta vào vị trí cao hơn cả Thiên Chúa và mọi người. Kiêu ngạo không chỉ gây ra sự mù quáng trong đời sống tâm linh mà còn là nguyên nhân sâu xa của mọi sự chia rẽ. Nó chính là ước muốn trở thành Thiên Chúa, “nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (Stk 3: 5), khao khát nắm giữ quyền lực tuyệt đối.

Kiêu ngạo khiến chúng ta sợ hãi yêu thương và coi việc yêu thương người khác là một mối đe dọa vì phải buông bỏ khả năng làm chủ đời mình, phải tùy thuộc vào lòng thương xót của người khác. Thực ra tình yêu ngược lại với nỗi sợ hãi đó. Nỗi sợ hãi phát sinh từ cái tôi chỉ muốn quy mọi sự vào chính mình, trong khi tình yêu vô biên đến từ Thiên Chúa thì “không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1Gioan 4:18). Chúng ta sợ bị tổn thương, sợ mất đi vị thế, và do đó, chúng ta khép mình lại. Để phá vỡ lớp vỏ kiêu ngạo này, Thiên Chúa đôi khi phải dùng những biện pháp mạnh thông qua các mối tương quan để xé toạc tội lỗi này ra khỏi chúng ta, vì cái tôi kiêu ngạo đối lập với ân sủng của Thiên Chúa: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Phêrô 5: 5).

  1. Tình yêu và sự tự do

Tình yêu đến từ Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4: 8). Tình yêu là tự do, ngược lại với sự kìm kẹp của cái tôi khống chế. Khi chúng ta đặt Thiên Chúa vào trung tâm, chúng ta sẽ cảm thấy tự do, bình an và hạnh phúc nhất. Đây là trạng thái mà chúng ta không còn bị nỗi sợ hãi chi phối và có thể yêu thương người khác một cách trọn vẹn.

Cốt lõi của mỗi người chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa và giống Thiên Chúa: “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (Stk 1: 26). Điều này có nghĩa là chúng ta được ôm ấp và nâng đỡ bởi tình yêu vô hạn. Khi nhận ra và sống trong sự thật này, chúng ta biết rằng mình được cứu độ, được an toàn một cách căn cơ, và có thể buông bỏ mọi nỗi sợ hãi để sống trong sự tin tưởng tuyệt đối.

Triết gia Soren Kierkegaard viết: “Khi người ta hoàn toàn bước vào vương quốc của tình yêu, thì thế giới - dù không hoàn hảo đến thế nào đi nữa - vẫn trở nên đẹp đẽ và phong phú, vì chỉ còn lại toàn những cơ hội để yêu thương” [2]. Nỗi sợ hãi chỉ có thể được chinh phục bởi một niềm tin tuyệt đối vào một điều gì đó vượt quá tầm kiểm soát của chúng ta. Chúng ta vượt qua nỗi sợ hãi của cái tôi vốn chỉ qui về mình, bằng cách thực hiện: “một cuộc xuất hành thường xuyên ra khỏi bản ngã khép kín, để tiến tới cuộc giải phóng qua sự tự hiến, và như thế hướng tới khám phá lại chính mình, rồi từ đó, khám phá ra Thiên Chúa” (Deus Caritas est, số 6). Cái tôi cùng với nỗi sợ hãi sâu xa của nó, sẽ bị vượt qua khi chùng ta đặt niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng đem lại cho chúng ta niềm hy vọng vinh quang: “Vì chúng ta tin, nên Chúa Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 5: 2). Đây là lời khẳng định về sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa khi họ sống trong niềm tin vào tình yêu thương xót của Ngài.

  1. Sống một cuộc đời thánh thiện

Chúng ta được kêu gọi mạnh mẽ: hãy chiến đấu chống lại cái tôi mỗi ngày. Chúng ta cần nhận ra rằng cái tôi khiến chúng ta sống một cuộc đời nhỏ bé, trong khi chúng ta được tạo ra để trở nên cao cả. Tình yêu thương người khác dễ dàng hơn nhiều so với việc luôn giữ sự tức giận và xa lánh họ. Khi chúng ta từ bỏ sự kiêu ngạo, chúng ta chọn lấy sự tự do, chọn yêu thương và công nhận rằng Thiên Chúa mới là trung tâm của mọi thứ: vũ trụ, thế giới, con người và chính bản thân mình.

Cuộc sống thánh thiện mà Thiên Chúa mời gọi là một cuộc sống hiệp thông với Ngài và với mọi người. Để làm được điều đó, chúng ta phải có lòng dũng cảm. Và không gì cản trở lòng dũng cảm hơn chính cái tôi vị kỷ, cái tôi quy kỷ của chúng ta, vốn luôn nghĩ mọi thứ cho mình, lấy mình làm chuẩn mực, làm trung tâm. Bằng cách đặt Thiên  Chúa vào trung tâm, chúng ta có thể sống trong tình yêu của Ngài và lan tỏa tình yêu đó đến thế giới, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định: “Chúng ta không phải là tổng hòa của những yếu đuối và thất bại; chúng ta là tổng hòa của tình yêu Chúa Cha dành cho chúng ta và khả năng thực sự của chúng ta để trở nên hình ảnh của Con Ngài” (Bài giảng Thánh lễ Ngày Giới trẻ Thế giới Toronto, 28 tháng 7 năm 2002).

 

Phêrô Phạm Văn Trung

phỏng theo Constance T. Hull

https://catholicexchange.com

[1] https://staugustineparish.ca.

[2] https://www.tudiendanhngon.vn, “When one has once fully entered the realm of love, the world — no matter how imperfect — becomes rich and beautiful, it consists solely of opportunities for love.”

 

Phú Hộ và Lazarô

Trong dụ ngôn Phú hộ và Lazarô, Chúa Giêsu kể: Người nghèo Lazarô kết thúc cuộc đời được tổ phụ Abraham bồng ẵm về thiên đàng, còn ông phú hộ lại bị hành hình trong hỏa ngục.

Chắc chắn Chúa không có ý dạy rằng: Tất cả người giàu đều có tội, còn tất cả những người nghèo đều được cứu. Cũng không phải sự giàu làm cho người ta phải sa hỏa ngục, còn người nghèo đương nhiên vào thiên đàng. Đúng hơn, tất cả mọi người đều được mời gọi sống ơn gọi nên thánh theo mẫu gương thánh thiện của Chúa Kitô.

Người phú hộ sở dĩ phải chịu cực hình trong hỏa ngục, phải trầm luân muôn kiếp, không do ông giàu, không vì ông ăn uống thoải mái. Nhưng ông bị mất sự sống, mất ơn nghĩa với Chúa đời đời, vì ông không biết cho đi, không biết san sẻ. Ông làm ngơ trước người anh em của ông đang đau khổ. Ông không nhìn người nghèo ngay bên thềm nhà ông bằng cái nhìn yêu thương, quan tâm. Thậm chí, ông còn không mảy may một chút để ý gì đến người nghèo ấy, ngược lại còn yến tiệc linh đình, hết sức vô tâm, vô tình, vô nhân ngay bên cạnh sự nghèo khổ, đói rách của người anh em mình.

Như vậy, khi kể dụ ngôn người phú hộ và Lazarô nghèo khó, Chúa không nhằm đe dọa người giàu về sự giàu của họ, cũng không cho phép người nghèo ỷ lại vào tình thương của Chúa mà không lo cố gắng sống đời hoàn thiện.

Một mặt, Chúa thương người nghèo. Chúa chúc lành cho sự nghèo khó. Nhưng mặt khác, Chúa cũng chúc lành cho tất cả những ai có tinh thần nghèo khó. Vì tinh thần này mà dù nghèo hay giàu, con người phải vượt lên trên của cải, vượt lên trên thói tham lam, sự ham mê vật chất của mình mà sống bác ái, sống khiêm nhường, rèn giũa đời sống cho phù hợp với tinh thần Tin Mừng….

Do đó, Điều quan trọng trong sứ điệp của Chúa hôm nay là: Chúa cảnh báo sự nguy hiểm trong việc sử dụng tiền của. Đừng tham lam, đừng sống ích kỷ, đừng xem vật chất là mục đích, nhưng hãy phó thác đời mình trong tay Chúa.

Hãy mở rộng bàn tay để sống bác ái. Chúng ta không giàu đến nỗi có thể cho mọi thứ. Chúng ta cũng không nghèo đến nỗi không có bất cứ cái gì để cho. Hãy thiết lập lòng bác ái nơi tâm hồn, để khi tâm hồn có đức bác ái, nhân đức này sẽ dạy ta biết phải cho gì, dù ta nghèo hay ta giàu.

Hãy cho bằng cả tấm lòng. Hãy giúp đỡ những anh chị em túng thiếu, bệnh tật, đau buồn, bị bỏ rơi, bị từ chối tình yêu, bị đói khát tình người, bị khinh thường, bị ngược đãi, bị tù đày, bị xã hội chê cười, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp mất danh dự và nhân phẩm…

Ta có thể cho anh chị em mình tiền của, nhà cửa, mọi thứ vật chất cần thiết. Nhưng đâu nhất thiết phải có tiền, có của, có vật chất mà thôi. Mọi người đều có thể cho nhau niềm cảm thông, lòng yêu mến, sự tha thứ, sự chia sới tinh thần, sự đồng cảm… Ta có thể cho cả trái tim, cho cả đôi tay, cho cả con người, thậm chí cả cuộc đời của mình.

Chúa đâu chỉ đong đo tình cảm của ta, lòng bác ái của ta qua vật chất. Người nhìn thấy lòng ta, Người thấu suốt tâm tư ta. Chúa đòi phải sống thật, phả bác ái thật, phải yêu thương thật.

Sẽ có một ngày từng người phải ra khỏi cuộc đời, phải trình diện trước tôn nhan và sự công thẳng của Chúa, rồi sau đó mới bước vào một thế giới mới. Giấy thông hành cho chuyến đi này không là tiền của, không là vật chất mà mình đã cố công cả một đời xây đắp, nhưng là tình yêu, lòng bác ái, là sự rộng lượng của bản thân.

Nhân suy niệm về hai hình ảnh tương phản trong Tin Mừng hôm nay: Người nghèo Lazarô được Chúa ân thưởng nơi lòng Tổ phụ Apraham và người phú hộ bị trầm luân đời đời, chúng ta hãy nghe lại lời phát biểu của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhân cuộc thăm viếng nước Mỹ ngày 2.10.1979, mà suy nghĩ về đời sống bác ái của ta:

“Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải và tự do của chúng ta, nếu bất cứ ở vùng nào đó, người nghèo Lazarô của thế kỷ XX vẫn còn đang đứng chờ ngoài cửa… Chúng ta hãy đối xử với họ như những thực khách trong gia đình của mình”.

Hãy lắng nghe và sống giáo lý của Chúa, để mai ngày, dù giàu hay nghèo, khi đi qua khỏi chốn trần ai, ta được đưa vào lòng Tổ Phụ Abraham, như hình ảnh người ngèo Lazarô trong dụ ngôn.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống quảng đại. Biết yêu thương như là bổn phận trên hết mọi bổn phận trong đời Kitô hữu của chúng con. Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con, vì nhiều lần, chúng con đã làm ngơ trước những anh chị em nghèo khổ xung quanh chúng con. Xin cho chúng con từ đây, biết quyết tâm thực hành đức bác ái một cách nghiêm túc như Chúa dạy. Amen.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

NGƯỠNG MỘ

Thứ Bảy Tuần 25 TN C

“Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”.

“Bạn không thể trải qua một ngày ‘cách thành kính’ trừ khi bạn coi đó là ngày cuối đời. Thật đáng ngưỡng mộ với một người luôn nghĩ về cái chết. Ai cống hiến hết mình cho nó hàng giờ chắc chắn sẽ là một vị thánh! Một người từng nghe bản án tử hình của mình sẽ không lo lắng về cách vận hành của các rạp hát!” - John Climacus.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay chỉ ra ‘vị thánh’ Climacus phác hoạ - Chúa Giêsu! Bởi lẽ, đang khi mọi người ‘ngưỡng mộ’ Ngài, thì Ngài - như không quan tâm về cách vận hành của các rạp hát - tuyên bố cuộc khổ nạn của mình, “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”.

Luca ghi nhận, “Mọi người bỡ ngỡ về tất cả các việc Chúa Giêsu làm”; đang khi chỉ mình Ngài biết, sự ‘ngưỡng mộ’ đó chỉ nhất thời, Ngài sắp lên Giêrusalem với những gì đang đợi. Ngài nói, “Con Người sắp bị nộp!”; “Các môn đệ không hiểu”. Họ không hiểu là phải, vì điều Ngài nói quá nghịch thường với những gì họ kỳ vọng. “Sự ngưỡng mộ phai nhạt khi sứ điệp chạm vào vùng an toàn của người nghe!” - Brennan Manning. Giả thiết Ngài nói, ‘Tuần sau, Thầy sẽ đăng quang làm vua’; họ hiểu ngay! Thứ đến, họ quá ‘ngưỡng mộ’ Ngài - dẫu là tốt - và sự ‘ngưỡng mộ’ lấn át lý trí này là vật cản khiến họ không hiểu kế hoạch tiềm ẩn của Chúa Cha - hiến dâng mạng sống để cứu độ nhân loại. “Sự ngưỡng mộ chỉ là một đam mê ngắn ngủi; nó sớm phai nhạt thành dửng dưng!” - Joseph Addison.

Chúa Giêsu không bị thúc đẩy bởi nhu cầu khen lao từ phía con người. Ngài được thúc đẩy bởi sự khen lao của Chúa Cha, chỉ ước muốn làm theo ý Cha, đó là lý do tại sao Ngài lên Giêrusalem, nơi không hứa hẹn điều gì khác ngoài cái chết. Điều tương tự cũng xảy ra với chính Giêrusalem. Niềm tự hào thực sự về nó không phải vì nó “Rộng bao nhiêu, dài bao nhiêu”, nhưng vì nó “Được Thiên Chúa ở cùng!” - bài đọc một - vì “Chúa canh giữ chúng ta, như mục tử canh giữ đàn chiên!” - Thánh Vịnh đáp ca. “Nơi Thiên Chúa ngự, kích thước hay huy hoàng chẳng còn nghĩa lý gì!” - C.S. Lewis. Vì thế, thay vì mải mê tìm kiếm sự tán dương phàm nhân, chúng ta được mời gọi tìm “nụ cười của Thiên Chúa” trong từng bổn phận nhỏ bé mỗi ngày. “Tiếng hoan hô của đám đông sớm tàn; nụ cười của Thiên Chúa tồn tại mãi mãi!” - Max Lucado.

Anh Chị em,

Chúa Giêsu biết rõ lòng người. Ngưỡng mộ hôm nay có thể đổi thành khước từ mai ngày. Vì thế, Ngài không tìm sự ủng hộ hay sự uỷ lạo từ thế gian; thay vào đó là sự hiện diện và vinh quang của Chúa Cha, làm trọn ý Cha, dù ý ấy dẫn đến thập giá. Ngài cho thấy, chỉ khi tâm hồn được neo trong sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể bước đi bình an, bất chấp mọi tán thưởng hay chê bai. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta là trọng tâm của mọi lời hứa!” - Dietrich Bonhoeffer. Chính sự đồng hành của Thiên Chúa mới là vinh quang của Giêrusalem, cũng là vinh quang của mỗi người chúng ta.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cứu con khỏi bệnh “ghiền like” và “nghiện vỗ tay”. Dạy con ghi nhớ, gió đến thì đi, còn hơi thở của Cha mới là điều giữ con đứng vững!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

 

Subcategories