3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Quyền năng tối thượng

Để diễn tả quyền năng tột đỉnh của Đức Giê-su Ki-tô, Vua Vũ Trụ, Giáo Hội đã chọn bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh khác nhau. Năm A với bài Tin Mừng Mát-thêu (Mt 25, 31-46), tôn vinh Đức Vua Giê-su như một vị Thẩm phán tối cao ngự trên ngai toà vinh hiển xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gio-an (Ga 18, 33-37) dùng chính miệng Phi-la-tô tuyên xưng Đức Giê-su là Vua, nhưng là Vua của một “nước không thuộc thế gian”. Từ đó, đưa ra một cái nhìn thần học về uy quyền của Đức Giê-su là Lời Thiên Chúa nhập thể và nhập thế để làm chứng cho Sự Thật: Thiên Chúa yêu thương con người đến độ sai Con Một xuống thế chịu khổ hình và chịu chết để cứu độ nhân loại. Năm C với bài Tin Mừng Lu-ca (Lc 23, 35-43) trình thuật Vua Giê-su hiển trị từ trên thập giá. Vương quyền của Người là do việc Người tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để tiêu diệt tội lỗi, đem lại sự sống vĩnh cửu cho loài người.

Ngoài ra, đọc cả 4 sách Tin Mừng sẽ thấy các môn đệ cũng như nhiều người khác đều tuyên xưng Đức Giê-su là Thiên Chúa, là Vua It-ra-en. Đó là những chứng tích minh hoạ cho ngôi vị Vương Giả của Đức Giê-su. Thánh danh Giê-su có nghĩa là “Đấng Cứu Độ” (Mt 1, 21; Lc 2, 11) – Đấng Cứu Độ là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật – mà Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, vậy chẳng phải Người chính là Vua Vũ Trụ đó sao? Một cách cụ thể thì có thể khẳng định ngôi vị Vua Vũ Trụ đã được tiền định từ trước vô cùng, nên trong Cựu Ước đã tiên báo (“Con Người đang ngự giá mây trời mà đến… Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.” – Đn 7, 13-14; xc thêm Is 9, 1-6; 52, 7-10).

Cũng đã có một số người chê đạo Công Giáo vẫn còn duy trì chế độ quân chủ (vua làm chủ) lỗi thời, vẫn sùng bái tôn thờ một vị Giáo chủ một triều đại cách đây 2000 năm gọi là Vua Giê-su, thậm chí còn coi vị Giáo chủ ấy là Vua cả vũ trụ. Cái chế độ quân chủ ấy vẫn được tiếp nối đến tận ngày nay và gọi những vị Giáo chủ là Giáo hoàng (hoàng: vua), gọi nơi làm việc của Giáo hoàng là thủ đô (Giáo đô La Mã) và gọi bộ máy hoạt động là triều đình (Giáo triều Rô-ma). Trong khi đó thế giới đã hầu như không còn chế độ quân chủ, mà hầu hết đều theo chế độ dân chủ. Cứ kể xét về mặt từ ngữ, về tên gọi, thì nhận định trên không sai. Nó cũng không khác bao nhiêu với những quan điểm nhận định đánh giá con người qua cái áo, qua bộ cánh (sang trọng hay thấp hèn) và như thế là đã quên mất cái cốt lõi của vấn đề, bởi “cái áo không làm nên thầy tu”.

Danh hiệu vua thực chất chỉ là một cách gọi những người đứng đầu trị vì một quốc gia thời phong kiến, mà về sau được gọi bằng danh xưng khác như: tổng thống, thủ tướng, quốc trưởng, chủ tịch nước v.v… Với Đức Giê-su thì vì Người là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật (điều này không phải chỉ do Người tự xưng – đến nỗi đã bị nhóm Pha-ri-sêu cho là phạm thượng – mà còn được chính Thiên Chúa Cha phán bảo khi Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan, khi Người biến hình trên núi Ta-bo, đồng thời Chúa Thánh Thần còn linh hứng, mạc khải cho các Thánh sử, các vị tiên tri, ngôn sứ nữa).

Còn một điều mấu chốt là Đức Giê-su tuy được tôn xưng là Vua Vũ Trụ, nhưng Người không hề sống như kiểu các ông vua phong kiến hay các ông trị vì quốc gia hiện đại (hét ra lửa, mửa ra khói). Người đã hành xử vương quyền bằng cách “không ngựa xe đưa rước, không võng gấm lọng vàng, không tiền hô hậu ủng”, mà đến với những người nghèo hèn, bệnh tật, tội lỗi. Người thu nhận môn đệ nơi những giai cấp thấp cổ bé miệng (chài lưới, nông phu, lao động…), hoặc bị xã hội lên án là tội lỗi (người thu thuế). Một ông vua mà lại quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, đầy tớ của mình, rồi còn nói “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15). Và những Lời Người giảng dậy thì toàn là khuyên bảo ăn ngay ở lành, thật thà công chính, khiêm nhường bác ái, thậm chí còn dậy người ta yêu thương cả kẻ thù (Mt 5, 43-44). Người không chỉ dậy bằng Lời, mà bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cả sinh mạng của Người khi bị treo trên thập giá cho đến chết để đền thay tội lỗi loài người. Trước khi chết treo trên thập tự, Người còn cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ đã đóng đinh mình: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." (Lc 23, 34). Đức Vua Giê-su là như vậy đó.

Rõ ràng Đức Giê-su Ki-tô chính là “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình” (Cl 1, 15-16). Người là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, muôn loài; như vậy Người là chủ muôn loài, chủ vũ trụ (Vua vũ trụ) cũng là lẽ đương nhiên. Đó là xét về mặt danh nghĩa, nhưng còn mặt thực chất của vấn đề, và cũng là điều quan trong nhất, ấy là Người đã vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Không cần nói đến những phép lạ, những linh hứng, mạc khải, mà chỉ cần suy niệm vào chính cuộc đời trần thế của Người (từ cách sống, cách giảng dạy, cách chữa trị bệnh nhân, đến chính việc hy sinh cả tính mạng mình vì yêu thương loài người tội lỗi), cũng đủ để xác tín Người chính là Vua – VUA TÌNH YÊU. Và chính điều này một lần nữa khẳng định Đức Giê-su Ki-tô thật sự là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa, Người chính là VUA VŨ TRỤ vậy.

Ôi! Lạy Chúa! Từ xưa đến nay, chúng con vẫn luôn xưng tụng Đức Giê-su là Vua của loài người, của vũ trụ, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Tuy nhiên, hành động của chúng con, cách cư xử và đời sống của chúng con dường như lại đi ngượic với những lời chúng con tuyên xưng. Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí Tình Yêu cho chúng con, để chúng con đủ can đảm sống đúng những điều chúng con tuyên xưng. Ôi! Lạy Chúa! Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng con xin tuyên xưng từ ngay trong bản thân, trong gia đình chúng con, qua chính cách sống và hành động của chúng con: Đức Giê-su Ki-tô là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa, Người chính là Vua Vũ Trụ, Vua của mỗi người, mỗi gia đình chúng con.

Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Ðức Kitô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Ðấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Đức Giê-su Ki-tô, Vua Vũ Trụ).

JM. Lam Thy ĐVD

Chúa Giêsu là Vua

Vua Giêsu trên Thập giá (Lc 23,35-43)

Sợi chỉ đỏ :

- Bài đọc I : Vua Đavít là hình ảnh Chúa Giêsu là Vua.

- Tin Mừng : Lúc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá chính là lúc Ngài lên ngôi làm vua, ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người.

- Bài đọc II : Chúa Giêsu được Thiên Chúa đặt làm vua của hết mọi loài trên trời dưới đất.

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian Chúa Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận thức vị trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng.

II. Gợi ý sám hối

- Chúng ta đã tôn thờ những "vua" khác không phải là Chúa, như tiền bạc, danh vọng, lạc thú v.v.

- Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa.

- Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu thương.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (2 Sm 5,1-3)

Đoạn này thuật cuộc phong vương lần thứ hai cho Đavít. Cần nhớ rằng sau khi Vua Saun chết, các chi tộc miền Nam đã phong Đavít làm vua của họ. Một thời gian sau, vì mến mộ tài đức của Đavít nên các chi tộc miền Bắc cũng phong Đavít làm vua họ nữa. Như thế là đất nước thống nhất dưới quyền lãnh đạo một vị vua duy nhất.

Trong biến cố này, Thiên Chúa cũng lên tiếng. Ngài nói với Đavít : "Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân của Ta". Câu này rất ý nghĩa : vua Đavít chỉ là "người chăn dắt" dân "của Thiên Chúa". Chính Thiên Chúa mới là Vua thật của "dân Ngài".

2. Đáp ca (Tv 121)

Đây là một ca khúc lên đền, nghĩa là ca khúc mà những người hành hương hát khi họ tiến đến gần đền thờ Giêrusalem.

Tuy những người hành hương tiến đến nơi có đặt "ngai vàng của vương triều Đavít", nhưng họ ý thức rằng họ là những "chi tộc của Chúa" vì chính Chúa mới là vua thật của họ.

3. Tin Mừng (Lc 23,35-43)

Đoạn Tin Mừng này mô tả cảnh Chúa Giêsu trên thập giá :

- Phía dưới thập giá, dân chúng "đứng nhìn" cách bàng quan như không liên can gì đến mình, các thủ lãnh do thái thì chế nhạo "Hắn đã cứu người khác thì hãy cứu lấy mình đi nếu thật hắn là Đấng Kitô", lính tráng cũng chế diễu "Nếu ông là vua dân do thái thì hãy cứu lấy mình đi".

- Trên đầu Ngài có bảng viết "Đây là vua người do thái"

- Bên cạnh Ngài có hai tên gian phi : một tên hùa theo đám người phía dưới để chế diễu Ngài ; tên kia công nhận Ngài là vua nên nói với Ngài "Khi ngài vào Nước của Ngài thì xin nhớ đến tôi".

Nghĩa là : thánh Luca đã cố ý trình bày Chúa Giêsu trên thập giá như một vị vua đang ngự trên ngai của mình. Nhưng đa số những người ở dưới và bên cạnh, vì đã quá quen với hình ảnh một ông vua trần gian nên chẳng những không nhận ra Ngài mà còn chế nhạo Ngài.

4. Bài đọc II (Cl 1,12-20)

Thánh Phaolô trích dẫn một bài thánh thi trình bày địa vị của Chúa Giêsu Kitô :

- Đối với Thiên Chúa : Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa.

- Đối với công trình sáng tạo : nhờ Chúa Giêsu mà muôn vật được tạo thành.

- Đối với công trình cứu độ : nhờ cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà mọi người được giao hòa lại với Thiên Chúa.

Như thế, Chúa Giêsu là Vua tối cao trên toàn thể vũ trụ.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Nguồn gốc và ý nghĩa Lễ Chúa Giêsu là Vua

Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan : "Homo homini lupus" : con người là lang sói của con người. Lang sói là một loài thu dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và giết chóc nhau.

Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận tương tự với nhận định bi quan của triết gia trên : lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất này cho đến nay, có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình ? Hầu hết thời gian lịch sử của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết ; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phòng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần thứ 3 với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000 người chết, hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt.

Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một cách ngu xuẩn như vậy ? Thưa vì trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người : tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau ; và nếu con người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài sang sói đích thực nữa. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau.

Cho nên trong bối cảnh giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11.12.1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau ; nhưng mọi người hãy suy phục vương quyền Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, Đức Giáo Hoàng coi đó là chấm dứt chiến tranh.

Sở dĩ loài người cứ luôn làm hại làm khổ lẫn nhau là vì loài người còn sống theo cái tính thú trong mình. Vậy nếu muốn cho loài người hoà thuận với nhau để cùng nhau chung hưởng thái bình thì loài người phải sống theo cái tính người, gồm có những đức tính mà Chúa đã dạy chúng ta trong Tin Mừng. Con người sống đúng là con người. Chúa Giêsu gọi đó là Sự Thật ; còn ngôn ngữ phụng vụ hôm nay thì gọi đó là vương quyền, vương quốc của Chúa Kitô. Nước Chúa. Ai sống theo những giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về Nước Chúa ; ai giúp cho người khác sống theo những giá trị Tin Mừng ấy thì người đó đang mở mang Nước Chúa ; và khi mọi người, dù có đạo hay không có đạo, đều sống theo những giá trị Tin Mừng ấy, thì đó là thời Nước Chúa đã trị đến.

Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng này, cũng có ý nghĩa : đó là ước nguyện sao cho cuối cùng tất cả mọi người đều ở trong Nước Chúa, một nước chỉ có hoà thuận yêu thương, một nước thái bình hạnh phúc.

Phần mỗi người chúng ta, hãy cố gắng xứng đáng là một công dân Nước Chúa, nghĩa là biết sống đúng tính người, sống theo lương tâm, sống hoà thuận, yêu thương, làm việc lành theo lời dạy của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cố gắng mở mang Nước Chúa bằng cách làm cho thêm nhiều người khác cũng biết sống hoà thuận yêu thương sống theo lương tâm và làm việc lành như vậy.

* 2. Chân lý cuối cùng

Trong những Chúa nhựt cuối của năm phụng vụ, Lời Chúa mời chúng ta nghĩ đến lúc tận cùng của thời gian, để thấy trước khi ấy tình hình sẽ như thế nào, và nhờ đó mỗi người cũng biết điều chỉnh cuộc sống mình trong hiện tại cho phù hợp với viễn ảnh cuối cùng ấy.

- Bằng ngôn ngữ khải huyền, các sách Tin Mừng mô tả lúc đó mặt trời mất sáng, mặt trăng tối sầm lại và các tinh tú trên trời rụng xuống. Qua những hình ảnh lạ lùng ấy, tác giả muốn nói rằng khi đến lúc tận cùng của thời gian, tất cả mọi thứ mà xưa nay người ta coi là quyền lực đều sụp đổ hết, để chỉ còn quyền lực của Thiên Chúa tồn tại và ngự trị.

- Còn sách Huấn ca Ben Sira thì mô tả một cách thi vị hơn và bằng những hình ảnh gần gũi hơn :

"Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa...

Hoa nào không phai tàn. Trăng nào không khuyết

Ngày nào mà không có đêm. Yến tiệc nào không có lúc tàn

Phù hoa nối tiếp phù hoa..."

- Một thi sĩ khác cũng có những suy nghĩ tương tự, ông suy nghĩ về thời gian :

"Khi tôi là một đứa trẻ... tôi thấy thời gian bò tới

Khi tôi là một thanh niên... tôi thấy thời gian đi bộ

Khi tôi trưởng thành... tôi thấy thời gian chạy

Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín muồi thì thấy thời gian bay

Chẳng bao lâu nữa tôi chết, lúc đó thời gian đã đi mất

Ôi lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến, thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa"

Những dẫn nhập khá dài dòng trên chỉ nhằm giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng lễ Chúa Kitô Vua hôm nay theo đúng hướng mà Phụng vụ của ngày Chúa nhựt cuối năm Phụng vụ muốn chúng ta hiểu. Trong hướng đó, chúng ta thấy được một số chân lý sau đây :

- Thứ nhất : Đến lúc tận cùng của thời gian, nghĩa là đến ngày tận thế, hoặc ngày chết của mỗi người, thì chúng ta sẽ thấy tất cả đều sẽ sụp đổ : tiền bạc, danh vọng, sức khoẻ, thế lực, thú vui.... Tất cả đều không còn ý nghĩa và tầm quan trọng gì đối với bản thân mình hết. Đúng như lời của bài thơ chót mà tôi vừa đọc : "Lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến thì ngoài Ngài ra không còn gì là quan trọng nữa".

- Thứ hai : Nếu khi đó chỉ có Chúa là quan trọng thì từ trước tới lúc đó trong cuộc sống, chỉ những ai gắn bó và nương dựa vào Chúa mới thấy yên lòng ; còn những người quen tìm kiếm, chạy theo và nương dựa vào những thế lực khác như tiền bạc, quyền lực, thú vui v.v. sẽ thấy chới với, cô đơn, trơ trụi...

- Thứ ba : Khi đó, đối với tất cả mọi người, dù tin hay không tin, dù tốt hay xấu, mọi người đều mở mắt và nhận thực rằng Chúa Giêsu chính là Kitô và là Vua thật. Kitô nghĩa là Đấng Cứu Vớt, Vua nghĩa là Đấng thống trị. Nhiều người trong lúc còn sống đã tưởng rằng nguồn cứu vớt của họ và thế lực hỗ trợ họ là tiền tài danh lợi thế gian, nhưng khi đó họ sẽ biết họ lầm. Chẳng hạn các nhân vật trong bài Tin Mừng hôm nay : Các thủ lãnh do thái, quân lính, Philatô và tên gian ác ở bên trái Ngài. Chiều hôm đó trên đồi Sọ, họ tưởng Chúa Giêsu đang thất thế vì rõ ràng Ngài đang bị treo, bị đóng đinh dính cứng vào thập giá. Họ chế nhạo Ngài "Nào có giỏi thì thử xuống khỏi thập giá đi". Họ cũng gọi Ngài là Kitô đó, cũng gọi Ngài là Vua đó, nhưng gọi một cách mỉa mai, gọi để nhạo báng : chẳng qua hắn chỉ là một tên Kitô dỏm, một ông vua cỏ mà thôi ! Nhưng đến ngày cùng tận, tất cả những người ấy sẽ sửng sờ khi thấy kẻ bị họ nhạo báng ấy lại xuất hiện với tất cả uy quyền và vinh quang, để xét xử và trừng phạt họ. Ngài đúng là Kitô và là Vua. Chiều hôm ấy trên đồi sọ, chỉ có một người đã nhận biết Ngài, đó là người trộm lành ở bên phải. Anh đã tin Ngài là Vua nên anh nói "Khi nào Ngài vào Nước của Ngài" ; anh cũng tin Ngài là Đấng Kitô cứu thế nên mới thưa "Xin Ngài cứu tôi, xin hãy nhớ đến tôi". Và chúng ta hãy suy nghĩ : hiện bây giờ người trộm lành ấy đang ở đâu ? Chắc chắn anh đang ở bên Chúa và hưởng hạnh phúc trong nước Chúa, như lời Chúa Giêsu đã hứa với anh chiều hôm ấy : "Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ được ở với Ta trên thiên đàng". Thật hạnh phúc thay cho người trộm lành, cả một đời gian ác tội lỗi, nhưng cuối cùng đã gặp được hạnh phúc thiên đàng, nhờ anh đã hiểu được phải trao cuộc đời cho ai và bám víu vào ai.

Cái chân lý mà mãi đến phút cuối đời người trộm lành mới thấy được ấy, Phụng vụ muốn chỉ cho chúng ta thấy ngay từ hôm nay : Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô cứu vớt, Ngài chính là Vua. Ngoài Ngài ra không có ai, không có cái gì là vua thật và có thể cứu chúng ta thật. Vậy ngay từ hôm nay chúng ta hãy quyết định trao gởi cuộc đời mình cho Ngài, sống gắn bó với Ngài, và từ bỏ tất cả những gì nghịch với Ngài. Có như thế chúng ta mới có thể hưởng hạnh phúc muôn đời bên cạnh Ngài, là Kitô thật và là Vua thật của chúng ta.

* 3. Cơn cám dỗ cuối cùng

Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt tiếc thương. Đoàn tuỳ tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có Án Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi :

- Tại sao người ta ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười ?

Án tử trả lời :

- Nếu các vua đời trước mà sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi đội nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được ?

*

Vua trần gian có thần dân để cai trị, có quan quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan.

Chúa Giêsu trái lại, Người không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định : "Nước tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36). Vì thế, cung cách của vị vua Giêsu hoàn toàn mới lạ. Tin Mừng hôm nay sẽ nói lên tính cách Vương Quyền ấy của Người.

Dưới hình thức nhạo báng của các thủ lãnh Do thái, của lính tráng, của bản án treo trên thập giá, đã nói !ên vương quyền của Chúa Giêsu : "Hắn đã cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki tô của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa tuyển chọn" (Lc 23,35). "Đấng Kitô" chính là người được xức dầu, là tước hiệu của vua. "Người Thiên Chúa tuyển chọn" chính là tước hiệu Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Nhất là lời tuyên xưng của người trộm lành đã nói lên vương quyền của Người : "Khi nào về Nước của Người, xin nhớ đến tôi" (Lc 35,42).

Tuy nhiên, nước của Chúa Giêsu không nhằm tư lợi cá nhân như các thủ lãnh khiêu khích, cũng không để ra oai quyền uy như bọn lính thách thức. Nước của Người là Nước Tình Yêu, vương quyền của Người là để phục vụ. Vì thế, Người đã không "xuống khỏi thập giá" cách ngoạn mục, nhưng đã "kéo mọi người" lên với Người (Ga 13, 32). Người đã không "cứu lấy chính mình",nhưng đã "cứu lấy mọi người" khỏi chết muôn đời nhờ cái chết của Người.

Người đã sẵn lòng chịu chết giữa hai tên gian phi, như lời Kinh Thánh rằng : "Người đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân" (ls 53,12). Người đã hoà mình trong đám người tội lỗi, đã chịu chung số phận của họ, Người đã sống và đã chết giữa đám tội nhân, như lời đồn đại về Người : "Bạn của người thu thuế và phường tội lỗi" (Mi 11,19).

Vâng, vương quyền của Người không cai trị bằng sức mạnh biểu dương, nhưng chinh phục bằng"khối" tình yêu thương. Chính vì thế mà Người đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng, là lời thách thức xuống khỏi thập giá, để sẵn lòng chịu chết hầu cứu chuộc con người tội lỗi, chính là thần dân của Người,

Thần dân đầu tiên mà vị Vua có vương miện là mão gai, và ngai vàng là gỗ thánh giá đã chinh phục, chính là người trộm lành. Giữa lúc những kẻ trước đây tung hô vạn tuế nay lại nhạo báng Người, giữa lúc các môn đệ thề sống chết với Người nay lại bỏ trốn hết, thì chỉ có một mình anh, người trộm lành, lên tiếng bênh vực Người : Anh mắng người trộm dữ : "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này có làm điều gì trái !" (Lc 35,40-41). Anh tỏ lòng kính sợ Chúa và ăn năn sám hối, đó là thái độ của người sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ.

Hơn nữa giữa lúc chương trình của Chúa Giêsu dường như thất bại, không còn hy vọng cứu vãn ; giữa lúc thập tử nhất sinh, gần kề cái chết, thì chỉ mình anh, người trộm lành, đã tin vào Chúa, tin vào sự sống đời sau, và tin vào vương quyền của Người. Anh cầu nguyện : "Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Người nhận lời tức khắc : "Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta" (Lc 35,43).

Một lời hứa mà Người chưa hề ban cho ai dù đó là người thân tín và yêu quí nhất của Người.

Một lời hứa được thực hiện ngay tức thì, không đợi đến sáng phục sinh hay ngày thế mạt.

Một lời hứa đi vào vương quốc của những người công chính, qui tụ quanh vua Giêsu vinh hiển.

Lời hứa ban hạnh phúc cho anh trộm lành chính là cuộc sống thân mật với Vua Giêsu, mà anh đã chia sẻ số phận của Người trên thập giá. Cuộc đời của anh tưởng chừng như vĩnh viễn khép lại, nhưng chỉ với một chút niềm tin trong anh bừng sáng, một lòng sám hối chân thành, đã khiến cửa trời rộng mở, đón tiếp anh thênh thang bước vào. Chính từ khi anh trộm lành nhận ra người tử tù bị đóng đinh là vua trời, nhận ra sự sống trong cõi chết, phục sinh trong tử nạn, thì Vua Giêsu tiếp tục lan rộng cuộc chinh phục đến viên đại đội trưởng khiến ông cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa :"Người này quả thật là công chính" (Lc 23,48).

Và trong suốt 2000 năm qua, Người vẫn luôn đón nhận vào trong vương quốc tình yêu của Người ; những thần dân biết duy trì tinh thần hiệp nhất, phục vụ và yêu thương. Chỉ những ai biết sám hối ăn năn, tin nhận vào quyền năng và tình thương của Chúa như anh trộm lành, môi được vào trong vương quốc của Người. Chỉ những người biết kính sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước Trời.

*

Lạy Chúa, xin cho đức tin chúng con đủ mạnh để thấy Chúa không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Người.

Xin dạy chúng con luôn cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống này, nhờ biết đẩy lui sự dữ trên địa cầu, trong khi kiến tạo an bình và yêu thương. Amen. (TP)

* 4. Hai tên gian phi

Các sách Tin Mừng ghi nhận rằng cùng bị đóng đinh chung với Chúa Giêsu hôm ấy còn có hai tên gian phi. Phần Tin Mừng theo thánh thì phân biệt có một người đã sám hối, còn người kia thì không. Chúng ta hãy xem xét từng người.

Trước tiên là tên gian phi không sám hối. Hắn chẳng còn tình cảm, chẳng còn lương tri, chẳng còn nhân tính gì nữa cả. Bởi vì tới lúc sắp chết mà hắn cũng không chút hối hận. Ngay cả Chúa Giêsu cũng chẳng thể cứu hắn. Thực vậy, chẳng ai có thể cứu được người không chịu để cho mình được cứu. Tấm lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn có sẵn đấy, nhưng tối thiểu con người phải muốn đón nhận. Oscar Wilde viết : "Kẻ đang ở trong tình trạng nổi loạn không thể nhận được ơn sủng".

Chúng ta nhìn sang tên gian phi sám hối. Nhiều người đã nghĩ rằng người này được cứu độ dễ dàng quá : sau một đời tội lỗi, anh ta chỉ cần nói với Chúa Giêsu một lời thôi thì được tha thứ hết. Anh đã ăn trộm mọi thứ, và cuối cùng lại ăn trộm luôn thiên đàng nữa. Có người khắt khe nghĩ rằng ít ra Thiên Chúa phải bắt anh ta ở trong luyện ngục một thời gian nào đó mới phải.

Thực ra nếu tìm hiểu kỹ trường hợp anh ta, chúng ta sẽ thấy rằng anh đã làm được một việc không phải là nhỏ và cũng không phải là dễ :

- Khi bị treo trên thập giá, anh không buông theo khuynh hướng xấu có sẵn trong mình mà bực bội và bất mãn để rồi có những phản ứng như tên gian phi kia, là thù người và hận đời rồi chửi bới lung tung. Thay vào đó, anh nhìn lại chính cuộc đời của mình. Anh đã thấy gì ? Thấy cả đời anh chỉ là một đống rác rưởi chẳng có chút gì tốt cả. Từ đó anh ý thức rằng mình đã làm hỏng tất cả : không phải chỉ làm hỏng nhiều việc, mà còn làm hỏng chính cuộc đời mình. Anh biết tội mình, anh nhận trách nhiệm về đời mình.

- Sau đó anh lên tiếng can gián tên gian phi kia đừng chửi rủa Chúa Giêsu nữa. Và anh quay sang kêu xin Ngài "Ông Giêsu ơi, khi nào Ông vào Nước của Ông, xin nhớ đến tôi".

Người ta vẫn có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác chứ không chịu nhận trách nhiệm vào mình. Chuyện gì cũng nói "tại cái này", "bị cái khác", "do người này", "vì người nọ" v.v. Nhiều người còn viện vào khoa tâm lý mà ngụy biện rằng chẳng có gì là tội thực sự cả, tất cả chỉ do hoàn cảnh đẩy đưa ; con người bị tác động bởi nhiều động cơ vượt tầm kiểm soát của mình.

Người gian phi sám hối bị tác động bởi hoàn cảnh bên ngoài nhiều lắm chứ : những đau đớn thể xác làm anh khó chịu, những tiếng la ó của dân chúng làm anh tự ái, án tử hình thập giá làm anh nhục nhã… Những thứ ấy đều xúi anh nổi loạn. Ngoài ra cái chết gần kề cũng xúi anh thất vọng : tới giờ phút này còn hy vọng gì sửa đổi tình thế được nữa ; vả lại tội anh đã quá nhiều và quá rõ…

Có thể sám hối được trong hoàn cảnh như thế không phải là một việc dễ. Tuy nhiên anh đã sám hối. Việc sám hối ấy đã mang lại cho anh chẳng những ơn tha thứ, mà còn cả thiên đàng.

Người gian phi sám hối dạy cho chúng ta biết rằng : không bao giờ là quá trễ để quay về với Chúa, không tội nào là quá nặng để không được thứ tha, bao lâu ta còn thở là ta còn cơ hội để hưởng lòng thương xót Chúa.

* 5. Chúa Giêsu là vua như thế nào ?

a. Làm vua có thể có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình… mới là vua. Người ta vẫn nói : «vua dầu lửa», «vua xe hơi», «vua bóng đá», v.v… mặc dù những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Chúa Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ «vua».

Trước hết, Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết : «Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành» (Ga 1,3 ; xem 1,10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25,34).

Thế gian này có nhiều nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua.

b. Đức Kitô là vua. Nhưng Ngài khác với các vua khác ở chỗ : để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (xem Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.

c. Chúa Giêsu không chỉ là vua vũ trụ, vua của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn mỗi người. Vì yêu thương, vị vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi người để sẵn sàng thi ân giáng phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày càng tốt đẹp, mạnh mẽ và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay không còn tùy thuộc vào sự tự do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng ta. Ngài sẽ không làm được gì cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc nếu chúng ta hoàn toàn thụ động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn làm cho ta.

Để Ngài có thể hành động biến đổi con ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn Ngài làm vua tâm hồn mình, bằng cách :

– Trước tiên, phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.

– Kế đến là ý thức rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn sàng làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.

– Đồng thời ý thức Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi ta.

– Vì thế, ta nhường quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta. Ta không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của Ngài.

– Vì Ngài yêu thương ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài.

– Và cuối cùng là luôn luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu thương và phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần gian này yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng nhờ quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều trở nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ.

Nắm vững điều đó, ta sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một «cây đèn thần» trong tay, một «bùa hộ mạng» an toànmột «vị thần bảo trợ» hữu hiệumột «người tình chung thủy» luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung sướng cảm nghiệm được như thánh Phaolô : «Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). (Nguyễn chính Kết)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế : Anh chị em thân mến, khi bị đóng đinh trên thập giá, người trộm lành đã thưa với Chúa Giêsu : Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi. chúng ta cũng mượn lời khẩn cầu ấy để thân thưa với Thiên Chúa là Cha chúng ta :

1. Hội thánh là một bà mẹ hiền / yêu thương hết thảy mọi con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử luôn nhớ đến những người nghèo khổ bất hạnh / và tìm mọi cách giúp họ sống xứng nhân phẩm của mình.

2. Chúa Giêsu Kitô là vị Vua đem lại hòa bình thật sự cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa tiêu diệt mầm mống chiến tranh / hận thù và bạo lực / để hết thảy mọi người được an cư lạc nghiệp.

3. Hiện nay / có một số anh chị em tận tụy hy sinh / phục vụ những người bị nhiễm HIV / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn nâng đỡ những sứ giả của tình thương / đang xả thân vì đồng loại của mình.

4. Chúa Giêsu là vị Vua nhân ái / luôn chia sẻ mọi vui buồn với thần dân của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn tin tưởng và phó thác cuộc đời cho vị vua đầy lòng nhân ái này.

Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương mà Chúa đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con cũng biết yêu thương và giúp đỡ hết thảy mọi người như Chúa đã luôn luôn yêu thương và không ngừng nâng đỡ chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha : Trong ngày lễ kính Chúa Giêsu là Vua hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến trong cõi lòng mọi người.

- Trước rước lễ : Vua Giêsu đã thương mời chúng ta đến dự tiệc của Ngài. Chúng ta hãy đến dự tiệc thánh trong tâm tình biết ơn và cảm mến. "Đây Chiên Thiên Chúa…"

VII. Giải tán

Trong khi chờ đợi ngày Chúa Giêsu hoàn toàn làm Vua toàn thể nhân loại, mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm một công dân xứng đáng của Nước Chúa, đó là hằng ngày thực hiện giới luật yêu thương.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. José Feder, Alain Gorius et leur équipe, Célébrer le dimanche, C. Nouvelles éditions Mame, Paris, 1977.

2. Flor McCarthy, New Sunday and Holy Day Liturgies, Year C, Dominican Publications. Dubblin 1998. Viết tắt là FM.

3. NN, Fiches dominicales, Bulletin de liaison et d’animation des équipes liturgiques du diocèse de Saint-Brieuc et Tréguier. Année C. France, 1994.

4. Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", năm C. Viết tắt là TP.

5. Jean - Francois Kieffer, Mille images d’Evangile, France 2000.

6. Henri Delhougne, Les Pères de l’Eglise commentent l’Evangile, sưu tập Mysteria, Nxb Brepols, Paris 1991.

7. Linh mục Inhaxio Hồ văn Xuân, Lời nguyện tín hữu ABC, Tp HCM, 2001.

8. Bản tin Vietcatholic.

Gp. Cần Thơ

Bền đỗ sẽ được ơn cứu rỗi

Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm, được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý với các cột và đồ gỗ chạm khắc, rèm thêu, sơn sơn thiếp vàng.

Chúng ta cần phân biệt 3 giai đoạn khác nhau việc xây dựng đền thờ: Đền thờ do vua Salomon xây cất đã bị quân Chaldéa phá cùng với thành Giêrusalem năm 587. Sau đó được vua Zorobabel khởi công xây lại đền thờ (năm -525), với sự cổ võ của tiên tri Zacharia và Agiê, nhưng quân Rôma đô hộ làm hư hại đền thờ. Vua Herodê cả sửa lại vào năm 17, vào thời Đức Giêsu đang trên đường hoàn thành và sẽ kết thúc nào năm 64 sau Công nguyên.

Năm 70 sau CN, vị tướng La mã Titus đem đại quân vây thành. Ông ra lệnh không được đốt phá. Một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã cầm bó đuốc đang cháy ném vào bên trong Đền thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa được. Sau khi đám cháy tàn lụi, Titus ra lệnh phá huỷ thành và Đền thờ.

Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Đức Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Ngài lại nói: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá". Đối với người Do Thái, những từ này là báng bổ: Tiên Tri Giêrêmia đã suýt chết vì điều đó. Những lời trên sẽ là động lực khiến họ chống lại Ngài.

Nói thế là Đức Giêsu đã tách biệt chúng ta ra khỏi sự mơ mộng về quyền năng tối thượng và sự bất tử trên trái đất này, đưa chúng ta trở lại với thực tế của một thế giới mà tất cả là hư không.

Những người nghe Đức Giêsu nói tưởng rằng Thầy nói về ngày tận thế, nên hỏi dồn và bắt Ngài mạc khải cho biết thời gian và dấu chỉ của ngày ấy! Biết ý họ, Ngài đã không đáp ứng yêu cầu, nhưng cảnh báo, điều đó không thuộc quyền của Ngài: chỉ có Chúa Cha là Đấng biết ngày và giờ chung cuộc của thế giới. Đức Giêsu nói với họ " Các ngươi hãy coi chừng đừng để ai lừa gạt các ngươi". Vì sẽ có nhiều kẻ đội danh Ta mà nói rằng Đức Kitô, chính là Ta! Và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Các ngươi sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã. Coi chừng! Chớ khiếp sợ! Vì là sự phải xảy đến, nhưng chưa phải là cùng tận. Vì dân này sẽ dấy lên chống dân kia, nước này chống nước nọ. Và đó đây sẽ có đói kém và động đất.

Mọi sự ấy là khởi điểm của đau cồn chuyển cữ" (Mt 24, 4-8). Bởi vì cuộc chiến thực sự không phải là " quốc gia chống lại quốc gia, và vương quốc chống lại vương quốc ", nhưng là: vì " Danh Thầy" họ sẽ trao nộp các con.

Trở lại sách Công vụ, Thánh Luca gợi lên những cuộc bách hại các môn đệ Đức Kitô phải chịu. Nếu họ không trốn tránh và lún sâu vào tuyệt vọng, là vì Chúa đã cảnh báo trước về những gì đang chờ đợi họ. Tất cả những thảm kịch đó đổi mới người môn đệ chân chính, những cuộc bách hại phải được chọn như là " cơ hội để làm chứng " cho Đấng đã sống lại vinh quang, chắc chắn đã cứu chúng ta khỏi sự sợ hãi cái chết.

Khi thử thách xảy đến với Giáo hội, Thiên Chúa đích thân đến cứu giúp các nhân chứng của Ngài: " Chính Thầy sẽ khơi dậy trong anh em những lời cần phải nói cùng với sự không ngoan khiến cho đối phương không thể chống lại và phản biện được anh em" (x. Mt 10, 17-22). Thiên Chúa không thay đổi tiến trình của các sự kiện mà không xâm lấn vào trách nhiệm thuộc phương diện con người ; người Kitô hữu có những dữ kiện sống động để chứng tỏ rằng sự sống của họ ở nơi Thiên Chúa, chứ không nằm trong tay của người đời.

Sử gia người Rôma Tacitus đã viết rằng các Kitô hữu đã trở thành " sự ghét bỏ của nhân loại! " Điều ấy đã không ngăn cản họ làm chứng cho đức tin, Tertullian đã viết: " Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các Kitô hữu."

Chúa chúng ta rất rõ ràng: "Nếu họ bắt bớ Thầy, họ sẽ bắt bớ các con" (x. Ga 15,18-21). Chúng ta đừng quên rằng thế kỷ 20 đã có nhiều vị tử đạo hơn hai mươi thế kỷ trước của Kitô giáo. Những chứng nhân của Đức Giêsu không sống trên mặt đất, phi thời gian, lời giảng của Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta quảng đại phục vụ việc rao giảng Tin Mừng, theo Chúa Kitô, và theo con đường Ngài đã mở ra trước mắt chúng ta. Đường hẹp của Thập Giá mỗi ngày trên trái đất này. Chúng ta có thể trở thành những người biết biện phân, và thành các tiên tri đầy khôn ngoan của cây Thập giá, để có thể tố cáo những sợ hãi gò bó cằn cỗi, hướng tới anh em chúng ta, sống đời sống thực tế và chiến đấu. "Đây sẽ đến ngày bừng cháy lên như lò lửa” (Bài đọc 1).

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết được những dấu chỉ của Nước Trời, để chúng con can đảm làm chứng cho Chúa mà không sợ bị trả thù. Vì như lời Chúa phán: " những kẻ kính sợ thánh danh Ta, sẽ được Mặt Trời công chính mọc lên soi sáng, mang theo sự cứu chữa trong cánh Người ". Xin giúp chúng con bền đỗ đến cùng để chúng con được ơn cứu rỗi. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lời Chúa và suy niệm Lễ CN 33 TN C, các Thánh Tử Đạo tại Việt-Nam

-Tin Mừng đức Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (Lc 9, 23-26): Khi ấy, Đức Giê-su nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần. Ðó là Lời Chúa

+/ Một bác tiều phu đi đốn củi, Đốn được một bó to sắp mang về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi đời cứ tăng lên, sức khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình vẫn không đổi thay, lại thấy nhiều người chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới kêu lớn lên: “Ước gì tôi được gặp Thần Chết!”. Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng ngay trước mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: “Ông lão muốn điều gì?” Bác lập cập trả lời: “Bó củi to nặng quá! Nhờ ngài đưa giùm lên vai tôi”.

-Ta thấy đó, dù khổ cựa đến đâu, người bình thường vẫn muốn sống, vẫn luôn yêu quý hơn mọi giá. Nhưng dù có quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái chết vẫn là một sự tại không ai có thể phủ nhận được. Lời Thánh Vịnh nói: Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến ngày tận số.

+/ Suy niệm Tin Mừng Luca 9, 23-26 hôm nay, ta tập trung vào lời mời gọi của Chúa Giêsu về việc từ bỏ chính mình, vác thập giá hàng ngày để theo Ngài. Điều này có nghĩa là sẵn sàng hy sinh bản thân vì Đức tin, vì Ngài, sẽ cứu chúng ta khỏi cái chết đời đời. Ngay cả khi phải đánh đổi "cả thế giới". Ai xấu hổ vì Chúa sẽ bị Ngài xấu hổ khi Ngài đến trong vinh quang.

1. Yêu cầu để làm môn đệ: Từ bỏ chính mình: Sẵn sàng từ bỏ mọi tư lợi, ích kỷ và sự luyến tiếc thế gian để hoàn toàn theo Chúa. Vác thập giá hàng ngày: Chấp nhận mọi đau khổ, thử thách trong cuộc sống như một cách để thể hiện lòng theo Ngài.

2. Cái giá và phần thưởng của việc theo Chúa: Mất sự sống thể lý để được cứu: Ai muốn giữ mạng sống mình bằng cách từ chối theo Chúa, thì sẽ mất sự sống đời đời. Ngược lại, ai liều mất mạng sống mình vì Chúa, thì sẽ được cứu, như các thánh tử đạo và tử đạo Việt Nam. Không có lợi ích gì khi được cả thế giới mà mất chính mình: Giữ được tất cả những gì thuộc về trần gian nhưng lại mất đi chính mình (tinh thần, linh hồn) thì hoàn toàn không có lợi.

3. Hậu quả của việc xấu hổ vì Chúa: Đánh mất vinh quang: Những ai xấu hổ vì Chúa Giêsu và lời của Ngài, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì họ khi Ngài ngự đến trong vinh quang của mình.

+/ Được mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào CN33TN, mà chính ngày là cử hành vào ngày 24 tháng 11, Lời Chúa tập trung vào ý nghĩa của việc làm chứng cho đức tin trong hoàn cảnh bị bách hại. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những tấm gương sáng về lòng trung kiên, dám hy sinh mạng sống để bảo vệ niềm tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô.

-Bài đọc I (Sách Ma-ca-bê, hay sách Khải Huyền hoặc sách Khôn Ngoan), Nhấn mạnh đến chiến thắng vinh quang của những người công chính đã chịu đựng gian khổ vì đức tin. Họ được Thiên Chúa đón nhận và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên trời. Điều này an ủi và khích lệ các Kitô hữu đang sống trong gian nan.

-Bài đọc II (Từ thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthê hoặc Công vụ Tông đồ), Ca ngợi đời sống đức tin kiên cường và cái chết anh dũng của các chứng nhân. Ví dụ, câu chuyện về thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi, người đã nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa ngay cả khi bị ném đá, cho thấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động trong các ngài.

+/ Một câu hỏi đặt ra là NGUYÊN NHÂN NÀO DẪN ĐẾN BÁCH HẠI ĐẠO TẠI VIÊT NAM THẾ KỶ 18-19 ĐỂ TA

RÚT KINH NGHIỆM MÀ SỐNG ĐẠO TRONG THỜI ĐẠI A/I HÔM NAY. Theo trang mạng giáo phận Đà Lạt thì:

1. Chúa Trịnh Tráng (1627-1658) – 1629 có sắc lệnh cấm đạo đầu tiên. Nội dung sắc lệnh: Hoàng thượng sắc dụ cho nhân dân biết, các Tây Giang Đạo Trưởng ở trong triều trẫm không có dạy nhân dân những đạo lý sai lầm hại dân hại nước, nhưng để đề phòng điều có thể xẩy ra sau này, hoặc những âm mưu hiện đang ngấm ngầm xếp đặt mà Trẫm chưa điều tra ra, Trẫm cấm ngặt từ đây các thần dân của Trẫm không được đi lại với các Đạo Trưởng và tin theo đạo đó nữa.

+/ Nguyên nhân do xui khiến, như: 1) Ghen tị của lương dân khi thấy các thừa sai, nhất là cha Đắc Lộ thu hút đông dân theo đạo. 2) Các bà Vợ Lẻ (ví dụ như các vua và quan có: Vợ 2, Vợ 3, Vợ 4) phải sa thải khỏi chồng hoặc vợ nếu chồng theo đạo Công Giáo Rô-ma. 3) Vì có lời vu cáo: các cha liên lạc với nhà Mạc và chúa Nguyễn ở miền Nam.

2. Chúa Trịnh Tạc (1658-1682), lệnh trục xuất 6 cha dòng Tên và giam lỏng 2 cha mới tới. Nguyên nhân vì là người sùng đạo Nho, chúa Trịnh Tạc cấm đạo Công Giáo để nâng đạo Nho lên. Vì chúa muốn cấm đạo Công Giáo theo gương nước Trung Hoa và nước Nhật. Vì những vu cáo: người Công Giáo bỏ bê việc cúng thần làng và thờ tổ tiên.

3. Chúa Trịnh Căn (1682-1709), sắc lệnh cấm đạo, Nội dung sắc lệnh: “Đạo Hoa Lang là một thứ đạo giả dối đầy lầm lạc nghịch lại với lý lẽ, dụ dỗ dân chúng và đã bị các tiên vương nghiêm cấm nhiều lần. Trẫm lấy làm ngạc nhiên vẫn còn nhiều người, nam cũng như nữ, dễ dàng bị lôi kéo theo. Vì vậy trẫm cấm những cái xấu xa và nghịch lý sau đây: Từ rày về sau, nếu các đạo trưởng lén lút tập họp dân chúng để giảng đạo và nếu có người nào đem lòng tin theo con đường lầm lạc này, thì các quan tại kinh đô phải xem xét cẩn mật, các quan trấn thủ và các quan án tại các tỉnh phải trông chừng chu đáo trong địa hạt của mình. Nếu bắt được đạo trưởng thì phải xét xử theo luật, còn giáo dân khi bị bắt thì phải đánh đòn ông 50 roi lớn, đàn bà 50 roi nhỏ, và cắt tóc đàng sau gáy. Nhà nào chứa chấp đạo trưởng, nếu đạo trưởng là người Âu châu sẽ bị phạt nặng hơn là đạo trưởng và thầy giảng Việt. Về các nhà thờ và đồ đạo phải thiêu hủy hết để tận diệt hoàn toàn giáo phái hư hỏng này. Lệnh này phải được triệt để thi hành, quan án nào chểnh mảng để cho giáo phái này còn tồn tại sẽ bị trừng phạt xứng đáng”.

4. Chúa Trịnh Cương (1682-1709) – 1721, ban sắc lệnh cấm đạo Nội dung sắc lệnh: “Đạo Hoa Lang đã lạm dụng tình hữu nghị để lừa dối những người ngu dại, dụ dỗ nhiều người khác tin theo. Người nào tin theo là làm nghịch lại đạo giáo của quốc gia, nghịch lại lương tri, và hơn nữa còn muốn xóa bỏ đạo lớn. Từ trước các vị cố vấn khôn ngoan và sáng suốt đã nghiêm cấm đạo này, nhưng các người đứng đầu đã không chịu từ bỏ lại còn tăng thêm số người theo đạo nữa. Nếu chúng ta không trừ diệt, dần dần người dân sẽ theo phái giáo này, vì chưng lòng người dễ chiều theo và sợ rằng sẽ đem đến nguy hại cho quốc gia.

+/ KINH NGHIỆM MÀ SỐNG ĐẠO TRONG THỜI ĐẠI A/I HÔM NAY. Qua việc suy niệm Lời Chúa và noi gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta học được những bài học quan trọng:

-Sống đức tin cách chân thực: Các ngài không chỉ "giữ đạo" một cách hình thức, mà còn sống niềm tin một cách mãnh liệt và triệt để, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống vì Chúa.

-Can đảm làm chứng nhân: Trong xã hội hiện nay, dù không còn sự bách hại về thể chất, nhưng mỗi Kitô hữu vẫn được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng bằng chính đời sống công chính, bác ái, và từ bỏ những ham muốn bất chính, ích kỷ.

-Cậy dựa vào ơn Chúa: Sức mạnh của các Thánh Tử Đạo không đến từ bản thân các ngài, mà từ ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng đã ban cho các ngài sự can đảm và lời ăn tiếng nói cần thiết trong cơn thử thách.

Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để mỗi người Công giáo Việt Nam nhìn lại và thắp lại ngọn lửa đức tin mà các bậc tiền nhân đã truyền lại bằng máu đào của mình. Amen.

Linh Mục G.B Nguyễn Ngọc Nga

KIÊN TRÌ ĐỂ CÓ SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

Chúng ta sắp kết thúc năm phụng vụ. Chu kỳ phụng vụ kết thúc với việc cử hành lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa nhật tới. Sau đó, một chu kỳ mới bắt đầu với Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Vọng. Thật thích hợp, các bài đọc trong Chúa nhật này nhắc nhở chúng ta về thái độ cần có của Kitô hữu đối với ngày tận thế.

Giống như bài đọc thứ nhất nhìn thấy trước sự kết thúc cuối cùng của lịch sử thế giới, nơi điều thiện tách ra khỏi điều ác, nơi người công chính tỏa sáng như mặt trời:

Bấy giờ, các ngươi sẽ lại phân biệt được người công chính với kẻ gian ác, kẻ phụng thờThiên Chúa với kẻ không phụng thờ Người. Vì này Ngày ấy đến, đốt cháy như hoả lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy đến sẽ thiêu rụi chúng - Thiên Chúa các đạo binh phán - không còn chừa lại cho chúng một rễ hay cành nào. Nhưng đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh” (Mal 3: 18-20).

Chúa Giêsu cũng nhìn vào thế giới sau thời đại của Ngài:

Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽcó nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính ta đây", và: "Thời kỳ đã đến gần"; anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu". Rồi Ngài nói tiếp: "Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện” (Lc 21: 8-11).

Tuy nhiên, mặc dù loan báo về ngày tận thế, nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn rộng hơn và xa hơn, có lẽ xa hơn những gì mà sức lực của chúng ta có thể tưởng nghĩ ra và phương tiện tự nhiên của chúng ta có thể làm được.

Theo nghĩa này, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng sự sống không nằm trong đất đá vô tri vô giác trong Đền thờ, vốn là một nơi mà các tông đồ của Ngài dường như cho là một chỗ bảo đảm và họ thán phục một cách kinh ngạc: “Có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng” (Lc 21: 5), nhưng Chúa Giêsu làm cho họ kinh ngạc hơn nhiều khi Ngài tuyên bố: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21: 6).

Đền Thờ bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng sẽ không có ý nghĩa gì ngoài một khối vật chất vô cảm nếu không có những con người sống động qui tụ bên trong để tôn thờ Thiên Chúa với lòng yêu mến chân thành: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha ta thành nơi buôn bán” (Ga 2: 16).  Ngày nay các thánh đường hay các nhà thờ hiện đại của chúng ta cũng không có ý nghĩa gì trừ khi chúng ta thờ phượng Thiên Chúa “trong tinh thần và chân lý” như Ngài đã nói với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp: “Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Ngài như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga 4: 23-24)  chứ “không phải trên núi này hay tại Giêrusalem” (Ga 4: 21).

Vì vậy, chúng ta đừng hoảng hốt về chuyện thế gian này bị phá hủy hoặc đức tin bị thách thức, khi một cách sống đạo truyền thống nào đó mà chúng ta nghĩ là bảo đảm lại dường như đang bị biến mất: một đời sống đạo chỉ dựa dẫm vào nếp sinh hoạt xứ họ , một đời sống đạo chỉ qui chiếu vào luật lệ, bệnh sáo ngữ, cung cách đoàn lũ, [1] một cách diễn tả đức tin chỉ có trong nhà thờ mà không giúp diễn tả ra bên ngoài trong cuộc sống hàng ngày, không trưởng thành trong cách sống đức tin, như thánh Phaolô trách cứ: “Thưa anh em, về phần tôi, tôi đã không thể nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Chúa  Kitô. Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao?” (1 Cr 3: 1-4).

Đúng là Thiên Chúa hiện diện nơi đền thờ, nhưng không phải trong đất đá, quần áo hay công thức nghi lễ bề ngoài, mà là trong tâm khảm những con người đang tìm kiếm ý nghĩa và diễn tả bằng hành động sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng đang sống trong họ.

Tông đồ Phaolô nhắc nhở chúng ta, cho đến hơi thở cuối cùng, chúng ta mỗi người phải góp phần của mình vào sự thăng tiến của thế giới: “Còn về tình huynh đệ, anh em không cần ai viết cho anh em, vì chính anh em đã được Thiên Chúa dạy phải thương yêu nhau, và anh em cũng đang làm như vậy cho tất cả các anh em trong toàn miền Makêđônia. Nhưng thưa anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy tiến tới nhiều hơn nữa. Hãy gắng giữ hoà khí, ai lo việc nấy và lao động bằng chính bàn tay của mình, như chính tôi đã truyền cho anh em. Như vậy, lối sống của anh em sẽ được người ngoài cảm phục, và anh em sẽ không cần nhờ đến ai” (1 Tx 4, 9-12).  Đó là một cách làm cho thế giới có tình người hơn bằng cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của chúng ta tùy theo ơn gọi của chúng ta như Chúa Kitô đã làm.Với sự hiện diện của Ngài, chúng ta được mời gọi sống cuộc sống hàng ngày của mình, “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17: 21). Chính ở tầm mức này mà cuộc đời, cái chết và sự sống sau này của chúng ta sẽ nên giống Chúa Kitô trong sự tin tưởng. Làm như thế, chúng ta không làm gì khác hơn là diễn tả lời nói vàng ngọc này của Chúa Kitô qua cách sống của mình: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình” (Lc 21: 19). Thật vậy, kiên trì là để giữ lấy, để kéo dài, để sử dụng những ngày tháng được ban cho chúng ta, để làm phát sinh sự sống, và cuối cùng sự dũng cảm của chúng ta nhằm phục vụ sự sống sẽ đem lại cho chúng ta Sự sống đích thực là Chúa Giêsu Kitô.

Vậy thì thái độ đúng đắn của Kitô hữu ở giữa những thực tại đang dần qua đi này là gì?

Đó phải là niềm cậy trông bền bỉ, vì biết rằng lòng nhân hậu của Thiên Chúa biểu lộ nơi Chúa Kitô sẽ chiến thắng sự dữ, và đức tin sẽ chiến thắng sự sợ hãi và đau khổ. Gắn bó với Chúa Kitô giúp chúng ta tiến về phía trước. Sống kết hợp với Chúa Kitô trong mọi khoảnh khắc cuộc sống như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2: 20) giúp chúng ta vững vàng trước mọi đe dọa của: “những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện” (Lc 21: 11). Người ta hỏi một người đàn ông đang cuốc đất trong khu vườn của mình rằng ông ta sẽ làm gì nếu biết rằng ông ta sẽ chết vào buổi tối hôm ấy. Người đàn ông không hề mất bình tĩnh: “À, thì tôi sẽ tiếp tục làm việc trong khu vườn của tôi, bởi vì Đấng đến cùng tôi trong cái chết cũng chính là Đấng đã cùng tôi làm việc trong khu vườn”. Thật đúng là: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8: 35, 38-39)

Thực vậy, đối mặt với những bộn bề của cuộc sống dệt nên sự hiện hữu của chúng ta, dù thanh thản hay âu lo, chỉ có sự gắn bó này với Chúa Kitô Giêsu mới làm cho chúng ta tiến về phía trước và đứng vững. Amen!

 

Phêrô Phạm Văn Trung.

[1] http://daminhvn.net/suy-tu-nghien-cuu/nhung-can-benh-tram-kha-trong-doi-song-duc-tin-dao-hieu-kinh-6798.html

 

 

Subcategories