3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Truyền giáo là phục vụ con người

Anh chị em thân mến,

Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cùng hòa chung niềm vui cử hành Khánh Nhật Truyền Giáo — ngày đặc biệt để chúng ta dừng lại và nhìn lại căn tính sâu xa nhất của người Kitô hữu: được sai đi để loan báo Tin Mừng.
Nhưng loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng chính đời sống phục vụ, bằng những việc làm cụ thể cho con người — đặc biệt là những ai nghèo khổ, bị tổn thương, bị quên lãng.

Trong tông huấn Dilexi te, Đức Thánh Cha Lêô đã viết bằng cả trái tim yêu mến Giáo Hội, nhưng cũng tràn đầy nỗi đau khi nhìn thấy thế giới đang bị xâu xé bởi bất công, nghèo đói và chia rẽ. Ngài nhắc nhở rằng:

“Giáo Hội không thể làm ngơ trước những nỗi thống khổ của nhân loại.”

Tình yêu với Giáo Hội không thể chỉ là những lời cầu nguyện sốt sắng hay lòng đạo đức cá nhân, mà phải là dấn thân giữa đời, là sự hiến mình để thăng tiến phẩm giá con người — nhất là người lao động, người nghèo và những nạn nhân của bất công.
Bởi chính khi yêu con người, Hội Thánh mới thật sự truyền giáo.
Và chính khi truyền giáo, Hội Thánh phải dấn thân phục vụ con người cách cụ thể và thiết thực.

Đây là điều mà Đức Lêô đã từng khẳng định rằng:

“Loan báo Tin Mừng không thể tách rời khỏi công lý và bác ái.”

Ngày nay, giữa một thế giới toàn cầu hóa nhưng vẫn đầy bất công, Khánh Nhật Truyền Giáo nhắc chúng ta rằng:

·            Truyền giáo là mang Tin Mừng đến những nơi con người đang đau khổ trong câm lặng.

·            Truyền giáo là bảo vệ phẩm giá con người, từ thai nhi mong manh cho đến người già yếu cuối đời.

·            Truyền giáo là nói thay tiếng nói của người nghèo, khi họ không còn ai bênh vực.

Người truyền giáo không thể thờ ơ trước những vấn đề của xã hội, vì đó chính là nơi con người đang sống và đang cần được cứu độ.
Nếu chúng ta chỉ loan báo một Tin Mừng “tách khỏi cuộc đời”, thì Tin Mừng ấy sẽ không thể chạm tới trái tim người nghe.

Chính Chúa Giêsu cũng đã khởi đầu sứ vụ của Ngài bằng chính lời này:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu cho tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo.” (Lc 4,18)

Loan báo Tin Mừng cho người nghèo — đó là trọng tâm, là trái tim của mọi công cuộc truyền giáo.

Anh chị em thân mến,
Truyền giáo không chỉ là một công việc, nhưng là một cách sống:
là sẵn sàng trở nên hạt lúa rơi xuống đất, mục nát đi để sinh hoa kết trái;
là dám hy sinh, dám yêu thương, dám phục vụ âm thầm.

Khánh Nhật Truyền Giáo hôm nay không chỉ là một lễ kỷ niệm, mà là một lời mời gọi:
Hãy để trái tim chúng ta được đánh động bởi tình yêu Thiên Chúa,
để đôi tay chúng ta biết phục vụ,
và đôi chân chúng ta biết ra đi.

Xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong lòng mỗi người ngọn lửa truyền giáo,
để chúng ta không chỉ nói về Chúa,
mà để thế giới có thể thấy Chúa nơi cách ta sống, ta yêu thương và ta phục vụ.

Amen.
Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

LỜI CHÚA & SUY NIỆM CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO 2025

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mác Cô (16, 15-20): “…khi ấy Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bị luận tội. Những dấu lạ này sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ quỉ, nói các thứ tiếng, Chúng sẽ cầm rắn trong tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng sẽ đặt tay cho kẻ liệt lào và họ sẽ được an lành mạnh khỏe”. Vậy sau khi đã nói với họ rồi, Chúa Giêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố lời bởi phép lạ kèm theo…” Ðó là Lời Chúa

+/ Suy Niệm Lời Chúa: Tin Mừng theo Thánh Mác Cô, chương 16, câu 15-20 (đọc ngày lễ Chúa Thăng Thiên) xoay quanh Sứ Mệnh Truyền Giáo, nhấn mạnh lệnh truyền của Chúa Giêsu, trách nhiệm của người tin và sự hiện diện của Chúa cùng hoạt động với các tông đồ.

  1. Sứ mệnh Truyền giáo:

-Nhiệm vụ: Chúa Giêsu ủy thác cho các môn đệ (và qua đó là toàn thể Giáo Hội) nhiệm vụ "đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo".

-Trách nhiệm cá nhân: Mỗi người tín hữu, dù yếu hèn, đều được Chúa tin tưởng giao phó trách nhiệm này, nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc dấn thân và không ngại ngùng.

  1. Dấu chỉ của người tin:

-Phép rửa và đức tin: "Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án" cho thấy đức tin và việc lãnh nhận Bí tích là nền tảng cho sự cứu rỗi.

-Những dấu lạ đi kèm: Lời Chúa hứa ban những dấu lạ đi theo những ai có lòng tin, như trừ quỷ, nói tiếng mới lạ, cầm rắn, uống phải thuốc độc không hại, và chữa bệnh cho người khác. Những dấu lạ này là bằng chứng cho thấy quyền năng của Thiên Chúa hành động qua những người tin.

  1. Sự hiện diện của Chúa cùng Giáo Hội:

-Chúa cùng hoạt động: Sau khi lên trời, Chúa Giêsu vẫn "cùng hoạt động với các ông" thông qua quyền năng của Chúa Thánh Thần.

-Củng cố lời rao giảng: Chúa củng cố lời rao giảng của các tông đồ bằng những dấu lạ kèm theo, chứng minh sức mạnh và chân lý của Tin Mừng.

  1. Lời kêu gọi thực hành:

-Tạ ơn và cầu nguyện: Chúng ta xin tạ ơn Chúa đã tin tưởng và ủy thác sứ mệnh, đồng thời cầu nguyện cho sự can đảm và ý thức về sứ mệnh của mình.

-Sống và làm chứng: Chúng ta quyết tâm sống Tin Mừng mỗi ngày và làm chứng cho Chúa bằng cả cuộc đời, không sợ hãi hay viện cớ.

-Tin cậy vào Chúa: Dù yếu đuối, chúng ta tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên nâng đỡ khi làm công việc của Ngài.

+/ Suy Niệm Thêm:

Câu 16: "Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị luận phạt." Câu này đặt ra hai con đường rõ ràng:

-"Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ": Đức tin là điều kiện tiên quyết để đón nhận ơn cứu độ. Phép rửa là dấu chỉ bên ngoài của đức tin, biểu trưng cho sự chết đi con người cũ và sống lại với Đức Kitô để bước vào một đời sống mới.

-"Ai không tin thì sẽ bị luận phạt": Đây không phải là lời đe dọa, mà là hệ quả tất yếu của việc khước từ ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng cách nhưng không. Lòng tin là lời đáp trả yêu thương của con người trước tình yêu của Thiên Chúa.

+/ Bài học cho chúng ta hôm nay. Đoạn Tin Mừng này không chỉ là lời tường thuật lịch sử mà còn là lời mời gọi và thách thức cho mỗi Kitô hữu hôm nay.

-Sứ mạng của mỗi người: Chúng ta cũng được mời gọi để trở thành chứng nhân và loan báo Tin Mừng trong môi trường sống của mình, bằng lời nói và gương sáng.

-Chúa luôn đồng hành: Chúng ta không đơn độc trong sứ mạng này. Chúa Giêsu luôn ở cùng chúng ta qua Chúa Thánh Thần, ban cho chúng ta sức mạnh và ơn khôn ngoan để hoàn thành công việc Người đã giao.

-Sức mạnh của đức tin: Các dấu lạ trong đoạn Tin Mừng này có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng hơn là nghĩa đen. Quyền năng đích thực của đức tin là khả năng chiến thắng sự dữ, sống công chính và mang lại hy vọng cho những người đang đau khổ, bệnh tật. Đoạn Tin Mừng này khích lệ chúng ta hãy sống một đời sống đức tin mạnh mẽ, can đảm rao truyền Tin Mừng và tin tưởng vào sự đồng hành của Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh.

+/ SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ, CHO NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO 2025, 19 tháng 10 năm 2025, Những Người Truyền Giáo của Niềm Hy Vọng giữa muôn dân nói rằng: đã chọn khẩu hiệu: "Những Nhà Truyền Giáo của Niềm Hy Vọng giữa Muôn Dân." Khẩu hiệu này nhắc nhở mỗi Kitô hữu và toàn thể Hội Thánh – cộng đoàn những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội – về ơn gọi nền tảng của chúng ta, là những người bước theo Chúa Kitô, trở thành sứ giả và người kiến tạo hy vọng.

+/ THƯ CHUNG 2025 CỦA HHĐGMVN GỞI CỘNG ĐOÀN DÂN CHÚA TẠI VIỆT NAM đề nghị chương trình mục vụ ba năm, mỗi năm một chủ đề, tất cả đều quy về sứ mạng loan báo Tin Mừng:

Năm 2025-2026: Mỗi Kitô hữu là một môn đệ thừa sai: “Anh em là ánh sáng thế gian".

Năm 2026-2027: Mỗi cộng đoàn Kitô hữu là một cộng đoàn thừa sai: “Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ" .

Năm 2027-2028: Hội Thánh Chúa Kitô tại Việt Nam lên đường theo lệnh truyền: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân thành môn đệ".

+/ Như vậy, Giáo Hội đề nghị với chúng ta những việc làm cụ thể trong năm 2025-2026:

-Hãy cầu nguyện hằng ngày cho công cuộc truyền giáo vì chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ mạng cao cả này nhờ ơn

Chúa, đồng thời cầu nguyện cũng là phương thế đào tạo tinh thần truyền giáo cho các tín hữu.

-Hãy học hỏi về Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Tông huấn “Loan báo Tin Mừng” của thánh Giáo hoàng Phaolô VI, để xác tín rằng sứ mạng loan báo Tin Mừng gắn liền với chúng ta, những người đã chịu Phép Rửa và được ghi ấn tín của Chúa Thánh Thần.

-Hãy tập thói quen đọc Kinh Thánh và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, để Lời Chúa thấm vào tâm trí và trở thành ánh sáng soi dẫn tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta.

-Hãy nhiệt thành làm chứng cho Tin Mừng bằng cách sống Lời Chúa trong gia đình, nơi làm việc, cũng như trong mọi môi trường xã hội.

-Hãy mạnh dạn nói về Chúa cho người muốn tìm hiểu, và sẵn sàng trả lời cách hiền hòa cho bất cứ ai chất vấn về niềm tin và hi vọng của chúng ta.

-Hãy sử dụng các phương tiện truyền thông với tư cách môn đệ thừa sai. Mỗi nút like, lời bình, hình ảnh, bài viết chúng ta đưa lên internet và mạng xã hội đều góp phần làm cho đời sống sạch đẹp hơn hoặc ngược lại.

-Hãy có mặt trong môi trường kỹ thuật số này với ý thức chúng ta là các môn đệ được Chúa trao cho sứ mạng “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm".

- Sau hết, để tam dừng, ngày 17 tháng 10, lễ nhớ Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a, giám mục, tử đạo, bị án quăng làm mồi cho thú dữ, tại Rô-ma, quãng năm 110. Tại các chặng dừng chân trên con đường tiến đến nơi hành hình, người đã gửi bảy thư cho nhiều giáo đoàn. Trong các thư đó, người có một trong những bài tình ca thốt lên từ một trái tim thấm nhuần tinh thần Ki-tô giáo: - “Hãy để tôi lãnh nhận ánh sáng tinh tuyền. Nơi tôi chỉ còn một dòng nước sống động đang thầm thì: Hãy đến với Chúa Cha.” Amen

Linh Mục G.B Nguyễn Ngọc Nga

Nét cao đẹp của lòng biết ơn

Một lần, tôi được một cô giáo tâm sự: Dân gian hay ví von, người làm nghề dạy học giống như người lái đò. Càng ngẫm nghĩ, càng thấy đúng. Trong đời mình, chắc ông lái đò không nhớ hết bao nhiêu người được ông đưa sang sông. Nhưng có lẽ ông sẽ không sót tên ai trong những người quay lại cám ơn. Bởi những người sang sông thì nhiều, người trở lại cám ơn chẳng bao nhiêu…

Sống trong cuộc đời, cám ơn người đã làm ơn cho mình là chuyện hết sức bình thường. Nhưng quên ơn người khác, đáng ra phải là chuyện bất thường, lại cũng trở nên bình thường. Điều bình thường và bất thường ấy, có lẽ không ai trong chúng ta không mắc phải. Xét cho kỹ, chúng ta nhận ra, nhiều lần bản thân đã bỏ quên hoặc đã cố tình quên ơn, hoặc chí ít là hai tiếng cám ơn cũng bị đánh mất.

Lòng biết ơn đối với nhau đã là một nét đẹp. Lòng biết ơn đối với Thiên Chúa chẳng những là một nét đẹp thánh thiện, một tình yêu xuất phát từ đức tin cao cả, nhưng còn là ân huệ Thiên Chúa tặng ban. Bởi lòng biết ơn của ta chẳng thêm gì cho Chúa, trái lại lòng biết ơn ấy lại mang ơn cứu độ ngược về cho ta.

Tin Mừng hôm nay, nuối tiếc cách cư xử vô ơn của những người bệnh phong được chữa lành khi thốt lên: “Không phải cả mười người được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”, cách nào đó, Chúa Giêsu đề cao đức tin và lòng biết ơn của người phong xứ Samari.

Đó chỉ là người “ngoại bang” nhưng lòng biết ơn của anh lớn hơn tất cả chín người Dothái giáo. Đó là bài học cần thiết cho ta. Vì có khi quá quen với mọi ơn lành Chúa ban, ta không còn nhận ra đó là điều quý giá lớn lao của tình thương Thiên Chúa dành cho mình. Nếu nhìn ở góc độ này, ta không bằng nhiều anh chị em lương giáo. Bởi nếu một ngày nào đến thăm những trung tâm hành hương (Trung tâm Đức Mẹ La Vang chẳng hạn), ta sẽ bắt găp rất nhiều người đến để cầu xin. Trong đó có rất nhiều người ngoài đạo đến cảm tạ Thiên Chúa. Họ đã có lòng tin, dẫu chỉ là một lòng tin sơ khởi, trước khi nhận biết tỏ tường về Thiên Chúa.

Biết ơn phải là thái độ tất nhiên của người nhận ơn, không đợi đến lúc có ai mong chờ hoặc nhắc bảo. Lòng biết ơn Thiên Chúa phải là trách nhiệm trước tiên của con người. Vì thế mặc dù Chúa Giêsu lên tiếng phàn nàn: “Còn chín người kia đâu?”, tôi không nghĩ Chúa cố ý làm phép lạ để đòi cho bằng được lòng biết ơn của người ta. Tôi nhận ra điều Chúa muốn trong lời của Người là: Chúa mong những người kia trở lại để gặp họ, và trao cho họ chính bản thân Người. Điều này quý giá hơn cả ơn được chữa bệnh, càng lớn gấp bội lần hai tiếng cám ơn. Ơn lành bệnh và sau đó là lòng biết ơn chỉ là nhịp cầu, để ta gặp gỡ Đấng ban ơn, nhờ đó, lớn lên trong lòng tin, sự trông cậy và yêu mến của mình mà thôi.

Chín người phong được lành bệnh nhưng không có lòng biết ơn trong Tin Mừng, biết đâu lại là hình ảnh của bạn và tôi hôm nay. Do nếp nghĩ, thái độ sống, cách thức thể hiện việc sống đạo, từ lời ăn, tiếng nói, hành động, cử chỉ đến não trạng, cả đến tội lỗi của mình, ta trở thành kẻ vô ơn với Thiên Chúa. Nguy hiểm hơn, thái độ vô ơn này kéo dài hết ngày này sang ngày khác trong suốt cuộc đời của mình, đến mức chai cứng lương tâm, không còn nhận ra tấm lòng của Chúa, vì thế cũng chẳng bao giờ có một hành động, hay chỉ là một lời cám ơn Người. Đúng là nguy hiểm! Vì nếu vô ơn đến nỗi không còn một mảy may của lòng biết ơn, ta sẽ trở thành kẻ sống dửng dưng, sống nguội lạnh không ai bằng.

Một câu chuyện rất thật, liên quan đến lòng biết ơn Thiên Chúa. Bạn cùng tôi hãy đọc và hãy ngẫm nghĩ để áp dụng thành bài học cần thiết cho bản thân mình. Đó là câu chuyện do Đức Cha Fulton Sheen, nhà văn, nhà hùng biện lừng danh nước Mỹ và là Tổng Giám mục giáo phận New York kể.

Tháng 10.1962, trên chiếc phi cơ đưa các Đức Giám mục Mỹ đi họp Công Đồng Vatican II, có một cô tiếp viên hàng không thật kiều diễm, nhan sắc tuyệt vời. Đức cha Fulton Sheen đã lưu ý đến sắc đẹp của cô tiếp viên này. Khi phi cơ hạ cánh, đang lúc bước xuống cầu thang máy bay, Đức Cha ghé miệng vào tai cô gái xinh đẹp và nói nhỏ câu gì đó không ai nghe được…

Bốn tháng sau, khi khóa I của Công đồng kết thúc, các Giám mục về nhà nghỉ. Một hôm, cô tiếp viên xinh đẹp kia tìm đến nhà xin gặp Đức Cha: “Thưa Đức Cha, Đức Cha có nhớ con là ai không?”. “Cha nhớ chứ – Đức Cha đáp – Con là tiếp viên trên chiếc máy bay của hãng hàng không Panam đưa chúng tôi đến Rôma”. “Nhưng Đức Cha còn nhớ, Đức Cha đã nói gì với con không?”. “Cha đã nói, có khi nào con tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho con sắc đẹp tuyệt vời chưa?” – “Thưa Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà hôm nay con đến hầu chuyện với Đức Cha. Vậy Đức Cha nghĩ con phải làm gì để tạ ơn Chúa?”.

Hơi bất ngờ, Đức Cha Fulton Sheen im lặng một chút như để cầu nguyện. Sau đó Đức Cha nói: “Cha vừa được tin từ Việt Nam: Đức Cha Jean Cassaigne, một người Pháp, đang làm Giám mục Sài Gòn, xin từ chức để phục vụ trại cùi ở miền núi Di Linh – Lâm Đồng. Những người phong ở đó khốn khổ lắm con ạ! Vậy theo Cha, cách tạ ơn đẹp lòng Chúa và có ý nghĩa hơn cả là con hãy hy sinh một thời gian, đem nụ cười xinh tươi, đem tiếng nói dịu dàng, đem duyên sắc mặn mà của con để an ủi họ, may ra họ vơi đi phần nào nỗi buồn tủi”. Mặt cô tiếp viên tái dần đi. Cô đứng lặng yên trong vài phút. Bỗng cô cúi đầu tạm biệt, không nói một lời…

Bẵng đi một thời gian. Đầu năm 1963, người ta nghe báo chí ở Sài Gòn loan tin: “Một cô tiếp viên rất đẹp của hãng hàng không Panam tình nguyện đến Di Linh – Lâm Đồng để sống bên những người bệnh phong trong sáu tháng”.

Hiểu được lòng biết ơn Thiên Chúa là điều cần thiết, bạn và tôi hãy để tâm tình biết ơn trở thành tâm tình chủ yếu chi phối lời cầu nguyện và toàn bộ cuộc sống mình. Vì chưa cần nói tới những gì Thiên Chúa đã ban trong từng giai đoạn, trong mỗi hoàn cảnh sống, chỉ nguyên toàn bộ cuộc đời chúng ta đã là một hồng ân, một quà tặng vô biên. Vì thế ta hãy biến đời mình như một lời tạ ơn không ngừng. Chỉ khi có tâm tình tạ ơn sâu lắng như thế, ta mới mãn nguyện những gì đã lãnh nhận, bằng lòng những gì mình đang có hôm nay. Với tâm tình ấy, ta thấy mình được bao bọc bởi tình yêu, bằng tình yêu và trong tình yêu của Chúa.

Chỉ khi biết ơn Thiên Chúa, ta mới dám dấn thân trọn vẹn, dấn thân mạnh mẽ, dấn thân không tính toán, không sợ mất mát để làm mọi sự nhằm đáp trả tình yêu. Đức Cha Jean Cassaigne trở nên người cùi, sống và chết giữa những anh chị em phong cùi, đã hoàn tất của lễ toàn thiêu hiến dâng Thiên Chúa thật quý giá để muôn đời sau noi gương bắt chước. Và cô gái tiếp viên hàng không trong câu chuyện bên trên đã dám bước vào đời sống của những anh chị em phong cùi cũng là một tấm gương không nhỏ để mọi người chúng ta soi rọi về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa của chính bản thân mình.

Lm. Vũ Xuân Hạnh

Tâm tình biết ơn

Người cùi xứ Samaria trở lại  và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa  (Lc 17,15)

Sợi chỉ đỏ :

- Bài đọc I : Lòng biết ơn của tướng Naaman người xứ Aram sau khi được khỏi bệnh cùi.

- Đáp ca : Ca tụng những ơn lành Thiên Chúa đã ban.

- Tin Mừng : Lòng biết ơn của một người cùi đối với Chúa Giêsu.

 

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

"Thánh lễ" còn được gọi bằng một tên khác đúng với ý nghĩa hơn, đó là "Lễ Tạ Ơn". Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài đã ban cho chúng ta, đặc biệt các ơn Ngài ban qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.

Vậy giờ đây chúng ta hãy nhớ lại những ơn lành của Chúa để cảm tạ Ngài.

Nhưng trước hết, chúng ta cũng ý thức rằng rất nhiều lần mình đã vô ơn với Chúa, và thành tâm xin Ngài tha thứ cho chúng ta.

 

  1. Gợi ý sám hối

- Rất nhiều khi chúng ta nhận lãnh ơn Chúa ban, nhưng không biết tạ ơn Ngài.

- Nhiều lần chúng ta tham dự Lễ Tạ Ơn, nhưng trong lòng không chút tâm tình tạ ơn nào cả.

- Những thánh giá trong cuộc đời cũng là những ơn lành Chúa ban. Nhưng chẳng những chúng ta không vui lòng đón nhận, mà còn tìm cách trốn tránh.

 

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (2 V 5,14-17)

Chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho tướng Naaman người xứ Aram :

- Được biết bên xứ Israel có ngôn sứ Êlisa đã từng chữa trị nhiều người khỏi bệnh, vua xứ Aram viết thư giới thiệu và đưa cho tướng Naaman đang mắc bệnh cùi đến cho Êlisê cứu chữa.

- Êlisê bảo Naaman xuống tắm 7 lần trong sông Giođan. Ban đầu Naaman không chịu. Nhưng do một người hầu gái thuyết phục nên sau đó Naaman làm theo. Và ông đã được khỏi bệnh cùi.

- Naaman trở lại tạ ơn ngôn sứ Êlisê và tuyên dương quyền phép của Thiên Chúa.

  1. Đáp ca (Tv 97)

Ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa : "Hát lên mừng Chúa một bài ca mới vì Người đã thực hiện bao kỳ công"

  1. Tin Mừng (Lc 17,11-19)
  2. Thái độ của 10 người cùi trong đoạn Tin Mừng này : biết phận mình nên khi thấy Chúa Giêsu thì "dừng lại đàng xa" và kêu xin.
  3. Khi Chúa Giêsu bảo họ "Hãy đi trình diện với các tư tế", Chúa Giêsu vừa thử đức tin của họ vừa mời họ tin tuyệt đối vào Ngài :

- Thử thách đức tin : vì Ngài không chữa bệnh ngay

- Mời gọi đức tin : nếu họ đi là chứng tỏ họ tin Ngài chữa họ.

  1. 9 người cùi do thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.
  2. Bài đọc II (2 Tm 2,8-13)

Mặc dù đang chịu cảnh khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng Phaolô vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng sống với Ngài.

 

  1. Gợi ý giảng

* 1. Suy nghĩ về lòng biết ơn

  1. Chi tiết đánh động nhất trong bài Tin Mừng này là trong số 10 người cùi đã được Chúa Giêsu chữa khỏi, chỉ có một người biết quay lại tạ ơn Ngài, mà người này lại là một người Samaria ngoại đạo. Tại sao thế ?

Thưa vì tâm lý thông thường của những kẻ "ở trong nhà" là nghĩ rằng mọi điều tốt mà người nhà làm cho mình là đương nhiên. Còn những "kẻ ở ngoài" thì nghĩ rằng mình chẳng có lý do nào để được những điều ấy, cho nên khi nhận được thì rất biết ơn. Câu chuyện của bài đọc I minh chứng điều đó : Tướng Naaman không phải là người do thái mà là một người Aram. Bởi đó khi ông được Thiên Chúa của Israel và ngôn sứ Êlisê chữa cho khỏi cùi thì ông vô cùng biết ơn. Ông mang nhiều lễ vật đến tạ ơn Êlisê, và ông lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.

  1. Chúng ta muốn người chịu ơn ta phải tỏ lòng biết ơn ta, thế nhưng khi chịu ơn người khác chúng ta lại ít tỏ lòng biết ơn. Điều này bộc lộ khuynh hướng ích kỷ của chúng ta : chúng ta làm ơn là để được biết ơn. Nói cách khác, chúng ta làm vì mình chứ không vì người khác.

Chúa Giêsu thì ngược lại : Ngài muốn chúng ta tỏ lòng biết ơn Ngài không phải vì Ngài mà vì ích lợi của chính chúng ta. "Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa ?" Khi nói thế, Chúa Giêsu không nghĩ cho bản thân Ngài mà nghĩ cho những người cùi : Ngài muốn họ có tâm tình tốt đối với Thiên Chúa, từ đó sẽ có một liên hệ tốt với Thiên Chúa, và liên hệ tốt này lại phát sinh nhiều ơn lành khác nữa.

  1. Biết ơn Thiên Chúa là một điều rất tốt, không phải tốt cho Thiên Chúa, mà tốt cho chính chúng ta : do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ ý thức hơn về tình thương của Thiên Chúa ; do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ nhận thức rõ hơn về thân phận nghèo nàn của mình ; hai ý thức ấy sẽ giúp chúng ta gắn bó với Chúa và nương tựa vào Ngài nhiều hơn.
  2. Kẻ nào không biết cám ơn trong những việc nhỏ thì cũng không biết cám ơn trong những việc lớn. Vì thế ta cần phải tập cám ơn trong từng việc nhỏ.
  3. Cám ơn Chúa vì những điều vừa ý mình thì rất dễ, nhưng cám ơn Chúa vì những điều trái ý mình mới khó. Vì thế ta cần phải tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho mình : chuyện vui cũng như chuyện buồn, thành công cũng như thất bại, sức khoẻ cũng như bệnh tật. Sự biết ơn về tất cả mọi điều xảy đến cho mình như thế còn phát sinh một ích lợi nữa là khiến ta biết nhìn đời mình một cách toàn diện, thấy cả hiện tại và quá khứ, từ đó ta sẽ nhận ra rằng đời mình được dẫn dắt bởi bàn tay yêu thương kỳ diệu của Chúa như thế nào. Thực vậy, khi nhìn lại quá khứ, ta sẽ thấy rằng những điều làm ta thích và những điều làm ta khổ không tách rời nhau, nhưng liên kết với nhau, đan xen nhau và đều góp phần dẫn ta đến cái hiện tại tốt đẹp ngày nay, từ đó ta có thể nói như Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng "Tất cả đều là hồng ân".

* 2. Suy nghĩ về 9 người cùi vô ơn

Chín người cùi do thái không cảm thấy tâm tình biết ơn có lẽ vì trước đó họ chỉ thấy tình trạng khốn khổ của họ chỉ là ngoài da, và sau đó họ cũng coi tình trạng được khỏi của họ chỉ là ngoài da. Nói cách khác họ chẳng thấy gì khác ngoài một chứng bệnh da liễu : Họ bị da liễu, Chúa Giêsu chữa họ khỏi da liễu, thế là xong. Họ trở về với nếp sống cũ, với những thói quen cũ, những tật xấu cũ, những suy nghĩ cũ… Chẳng có gì thay đổi trừ ra một làn da hết bệnh.

Còn người cùi xứ Samaria, cũng như Naaman xứ Aram đã ý thức thân phận mình khốn khổ sâu xa như thế nào : đau đớn phần xác, mặc cảm tâm lý, tủi nhục tinh thần, cuộc đời như đã bị bỏ đi. Bởi vậy sau đó, cùng với sự khỏi bệnh ngoài da, họ còn được cứu chữa về tâm lý, tinh thần và đạo đức nữa. Họ trở thành những con người mới hẳn.

* 3. Suy nghĩ từ chuyện ông Naaman

  1. Chuyện tướng Naaman mắc bệnh cùi rồi được chữa khỏi cho ta thấy từ đau khổ người ta có thể rút ra nhiều sự lành như thế nào.

- Naaman là một con người có nhiều quyền hành và thế lực vì ông là tướng chỉ huy quân đội nước Aram. Ông rất tự tin vào chính mình, chẳng cần gì đến Thiên Chúa.

- Thế rồi chứng bệnh cùi khủng khiếp đã làm ông mất tất cả, đầy ông từ chóp đỉnh xuống vực sâu của xã hội. Ông biết mình khốn khổ, ông cần ai đó cứu ông → Ông trở thành khiêm tốn hơn.

- Nhờ có người mách bảo, Naaman tìm đến với ngôn sứ Êlisê với hy vọng vị này chỉ nói một lời hay làm một việc gì đó thôi thì ông sẽ khỏi bệnh ngay. Nhưng Êlisê bảo ông đi tắm trong dòng sông Giođan nhỏ bé và phải tắm đến 7 lần. Ban đầu ông không chịu, nhưng sau đó ông chấp nhận → Ông đã biết chịu đựng và kiên nhẫn.

- Khi khỏi bệnh, Naaman ngoại đạo ấy còn khám phá một điều quan trọng hơn tất cả, đó là có một Thiên Chúa thực sự và quyền năng. → Ông có đức tin.

  1. Cũng như Naaman trước khi bị bệnh, chúng ta ít nghĩ tới Chúa khi đời mình đang thuận buồm xuôi gió. Chúng ta cho rằng đời mình hoàn toàn tùy thuộc vào khối óc và đôi tay của mình.

- Khi gian truân khốn khổ ập đến, ta chợt ý thức rằng mình quá nghèo nàn và yếu đuối. Mắt ta được nhìn thấy mặt trái của cuộc đời, đầu ta biết cúi xuống, chân ta biết quỳ xuống, và lòng ta biết hướng lên cao.

- Như thế, đau khổ có rất nhiều lợi ích : nó đem ta đến gần Chúa hơn, nó khiến ta bớt duy vật hơn, nó còn cho ta thấy những khía cạnh tốt lành ẩn giấu trong những điều trái ý.

* 4. Dòng suối ân tình

Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi :

- Thưa Đức cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế ?

Vị Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp :

- Vì đôi mắt của con rất đẹp !

- Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây ?

- Con ạ ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.

Quả thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tuỵ băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.

*

Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa (x. Lv 13,1-44).

Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xoá. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ oà trong tim.

Trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.

Chúa Giêsu phải thốt lên lời quở trách : "Không phải cả mười người được sạch cả sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?" (Lc 17,17-18). "Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói : "Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh" (Lc 17,19). Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.

Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân ! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.

Một đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng "cám ơn" luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói "cám ơn" với tất cả chân thành, một cử chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.

Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một "bài ca tạ ơn". Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, trước khi lập phép Thánh thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy : "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy". Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là Thánh lễ Tạ ơn.

Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa : "Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô" (1 Cr 1,4). Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ : "Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận" (Pl 4,10). Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý :"Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay".

*

Lạy Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.

Xin cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa. luôn thế kiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn. Amen. (TP)

  1. Chuyện minh họa

David đang đi đường thì gặp một người ăn xin. Anh cho người ấy một số tiền rồi tiếp tục đi, lòng rất sung sướng. Nhưng chỉ một sau, anh cảm thấy bực bội khi chợt nhớ hồi nảy người ăn xin kia không cám ơn anh. Anh đem chuyện ấy kể cho một Rabbi nghe.

Vị Rabbi chăm chú lắng nghe, rồi hỏi :

- Khi anh cho tiền người ăn mày, anh cảm thấy sao ?

- Con thấy rất vui.

- Thế đó không phải là phần thưởng cho con rồi đó sao ?

- Nhưng con nghĩ rằng dù sao thì người ấy phải cám ơn con mới phải.

- Thế sao con đã không cám ơn Chúa ?

- Tại sao phải cám ơn Chúa ?

- Vì Chúa đã ban cho con cơ hội làm dụng cụ cho Chúa thực hiện tình thương của Ngài cho một con người khốn khổ. (FM)

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế : Anh chị em thân mến, luôn tạ ơn Chúa vì những hồng ân Người ban tặng cho ta là một trong những bổn phận quan trọng của người Kitô hữu. Với tâm tình con thảo, chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin :

  1. Hội thánh không ngừng quan tâm giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa chúc lành cho Hội thánh / trong công việc cao quý này.
  2. Ước mơ tha thiết của con người là được sống khỏe mạnh và hạnh phúc / nhưng trong thực tế / bệnh tật vẫn đem đến cho con người đau khổ và bất hạnh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em đang đau khổ vì bệnh tật hành hạ / được Chúa thương nâng đỡ ủi an.
  3. Bệnh phong cùi đem lại mặc cảm lớn lao / và nỗi bất hạnh tột cùng cho các bệnh nhân / vì họ cảm thấy bị loại trừ ra khỏi xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều nhà hảo tâm / nâng đỡ những anh chị em kém may mắn này.
  4. Có một thứ bệnh phong cùi đáng sợ hơn là tội lỗi / vì nó làm hoen ố tâm hồn con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tẩy sạch bệnh phong cùi thiêng liêng này bằng bí tích Giải tội.

Chủ tế : Lạy Chúa, biết bao giờ chúng con mới tạ ơn Chúa cho cân xứng với tình thương hải hà của Chúa. Xin cho chúng con biết cố gắng đền đáp phần nào tình thương ấy bằng chính đời sống bác ái yêu thương và tận tụy phục vụ tha nhân. Chúng con cầu xin

  1. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha : Thiên Chúa là Cha hằng ban xuống cho chúng ta là con cái Ngài biết bao ơn lành. Vậy bây giờ chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha để bày tỏ lòng biết ơn chân thành của chúng ta.

- Trước khi rước lễ : Ơn cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là ban chính Con Một của Ngài cứu chuộc chúng ta và còn trở thành lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…"

VII. Giải tán

"Tất cả đều là hồng ân". Anh chị em hãy trở về với cuộc sống thường ngày, và đừng quên cám ơn Chúa về tất cả những gì xảy đến trong cuộc đời.

Sợi Chỉ Đỏ

ƠN CHỮA LÀNH BỞI ĐỨC TIN TUÂN THEO LỜI CHÚA

Cuộc đời Kitô hữu là những lần gặp gỡ và cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, một hành trình được ghi dấu bằng ơn chữa lành, phần hồn và phần xác, có cả những thử thách của đức tin nhưng vẫn được kêu gọi hãy kiên trì trung tín.

  1. Ơn Chúa đến khi chúng ta tin tưởng vâng theo Lời Ngài

Theo Luật Do Thái, khi người Israel phát hiện phát ban hoặc các triệu chứng da khác, họ phải đến gặp thầy tế lễ để khám. Thầy tế lễ có trách nhiệm xác định xem đó có phải là bệnh phong cùi truyền nhiễm hay không. Nếu chẩn đoán là phong cùi, người đó sẽ bị tuyên bố là ô uế về mặt nghi lễ (Lêvi 13:1, 9-11). Luật cấm người bệnh giao tiếp với cộng đồng; họ bị cô lập hoàn toàn. Người bệnh phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!”. Họ bắt buộc phải sống bên ngoài trại (Lêvi 13:45-46). Sự cô lập này có mục đích ngăn chặn dịch bệnh lây lan, tuy nhiên, đối với người bệnh, nó đồng nghĩa với một bản án chung thân, buộc họ phải sống như những người bị ruồng bỏ và khai trừ khỏi xã hội. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Hãy tưởng tượng những người phong cùi phải chịu đựng biết bao đau khổ và tủi hổ: về thể xác, xã hội, tâm lý và tinh thần! Họ không chỉ là nạn nhân của bệnh tật, mà còn cảm thấy tội lỗi, bị trừng phạt vì tội lỗi của mình! Họ đang sống trong sự chết” [1].

Chúa Giêsu đã chữa lành nhiều người phong cùi (Lc 5:12-14; Mc 1:40-42). Hôm nay, mười người phong cùi đứng từ xa, cùng nhau kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17:12-13). Họ đứng tại biên giới giữa miền Samaria và miền Galilêa, nhưng “Họ dừng lại đằng xa” (Lc 17: 12), tuân theo lề luật, một kiểu cô lập.

Điều đáng chú ý là Chúa Giêsu không chữa lành ngay lập tức, mà ra lệnh: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17:14). Mệnh lệnh này đòi hỏi đức tin thể hiện qua sự vâng lời tức thì. Khi đó, họ vẫn còn bệnh phong cùi, chưa có sự thay đổi thể chất. Tuy nhiên, trong đức tin, họ đã vâng lời và bắt đầu hành trình. Chính hành động này là bằng chứng họ tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. “Đang khi đi thì họ được sạch” (Lc 17:14). Phép lạ chữa lành không tức khắc mà được hoàn thành trong lúc họ tuân phục Lời Chúa. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi người được chữa lành phải thể hiện đức tin của họ. Đức tin ấy được thử thách bằng sự tuân phục vô điều kiện. Tôi có tin vào Chúa Giêsu bằng cách tuân theo Lời Ngài một cách không do dự không?

  1. Ơn Chúa đến khi chúng ta khiêm nhường tin tưởng

Câu chuyện của Naaman, quan lãnh binh Syria, cho thấy ơn chữa lành còn đòi hỏi sự khiêm tốn nữa. Naaman, một quý tộc triều đình, đã giận dữ khi được tiên tri Êlisa truyền lệnh “hãy đi tắm bảy lần trong sông Giođan” (2V 5:10). Ông muốn một nghi thức hoành tráng tương xứng với địa vị của mình, chứ không phải một dòng sông tầm thường của Israel. Sự kiêu ngạo ấy đã suýt khiến ông không nhận được ơn chữa lành. Chỉ khi được đầy tớ khuyên nhủ, Naaman mới chịu nhún mình: “Ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Giođan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ” (2V5:14).

Đức tin đích thực đòi hỏi từ bỏ niềm kiêu hãnh cá nhân, đòi hỏi khiêm nhường tuân theo lời Thiên Chúa ngay khi chúng ta đang ngờ vực. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Thật không dễ hiểu được sự khiêm nhường là gì…Chẳng hạn, trường hợp của Naaman người Syria…Naaman đã hiểu ra một chân lý nền tảng: chúng ta không thể dành cả đời để ẩn mình sau lớp áo giáp, một vai trò chúng ta đang đóng, hay sự công nhận của xã hội; cuối cùng, điều đó sẽ làm chúng ta tổn thương. Sẽ đến lúc trong cuộc đời mỗi cá nhân, người ta muốn gạt bỏ hào quang của vinh quang thế gian này để hướng đến một cuộc sống trọn hảo, đích thực, không cần đến áo giáp hay mặt nạ nữa… Mang trong mình bạc vàng, Naaman lên đường và đến gặp tiên tri Êlisa, người đã đặt ra cho ông, như điều kiện duy nhất để được chữa lành, một cử chỉ đơn giản là cởi áo và tắm bảy lần dưới sông Giođan. Không liên quan gì đến sự nổi tiếng, danh giá, vàng bạc! Ân sủng cứu độ là cho không; ân sủng không thể bị quy giản thành giá trị của cải trần gian…Đây quả là một bài học lớn! Sự khiêm nhường tuân theo lời Chúa, phơi bày bản tính phàm nhân của mình, đã mang lại sự chữa lành cho Naaman” [2].

Ơn chữa lành thể lý chưa bao giờ là điều cuối cùng mà Chúa Giêsu nhắm tới. Bài học lớn nhất nằm ở sự chấp nhận của người được chữa lành: đó là tin tưởng và vâng theo Đấng chữa lành. Cuối cùng, mọi hành động vâng lời đều phải được neo chặt vào một thực tại không thay đổi: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17: 19). 

  1. Ơn cứu độ dành cho ai biết tạ ơn

Thánh sử Luca đặc biệt đề cập đến việc: “Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari” (Luca 17: 15-16). Tin Mừng không ghi lại họ đã đi được bao xa trước khi được chữa lành. Tuy nhiên, chỉ có một người quay lại cảm ơn Chúa Giêsu vì đã chữa lành anh ta. Chúa Giêsu bày tỏ sự thất vọng khi chín người kia không nghĩ đến việc ngợi khen Thiên Chúa đã chữa lành họ: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17: 17-18).

Chúng ta học được rằng Thiên Chúa mong muốn chúng ta bày tỏ lòng biết ơn Ngài về tất cả những gì Ngài đã làm trong cuộc đời chúng ta. Chín người Do Thái kia đã nhận được ơn chữa lành, nhưng lại thiếu lòng tri ân, và vì thế, họ mất đi sự cứu rỗi trọn vẹn. Lời cuối cùng Chúa Giêsu dành cho người Samaria là: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17: 19). Sự khác biệt nằm ở chỗ: chín người Do thái được lành sạch thể xác nhưng chỉ để quay lại với luật Môsê, còn người Samaria được cứu chữa để hiệp thông với Chúa Kitô.

Thánh Augustinô cảnh báo: “Chúng ta vẫn còn vô ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đã thanh tẩy chúng ta khỏi bệnh phong hủi tâm linh. Lòng kiêu hãnh và sự tự phụ của chúng ta, ngăn cản chúng ta khiêm nhường nhận ra những ân huệ của Đấng Tạo Hóa, chính là nguyên nhân dẫn đến sự vô ơn của chúng ta. Chúng ta giống như những người đã biết Thiên Chúa và được giải thoát khỏi bệnh phong hủi của sự lầm lạc, nhưng vẫn còn mang trong mình lòng vô ơn đối với Đấng Tạo Hóa, Đấng đã soi sáng cho họ. Họ đã đánh mất vương quốc thiên đàng…Còn một người phung đã trở lại, lớn tiếng tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa…Ông được Chúa Giêsu ca ngợi, trở nên như người trung thành giữ gìn của cải được giao phó, bảo tồn vương quốc này bằng sự khiêm nhường và lòng biết ơn của mình” [3].

Sau khi được chữa lành, Naaman trở lại gặp tiên tri Êlisa, tuyên bố đức tin mạnh mẽ: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel” (2V 5: 15). Ông bày tỏ tri ân bằng cách cố gắng dâng lễ vật. Sự chữa lành đã dẫn đến hoán cải tuyệt đối về đức tin. Naaman xin mang đất về: “Vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Chúa” (2V 5: 17). Hành động mang đất này là biểu tượng của lòng trung thành không lay chuyển, thể hiện mong muốn thờ phượng Thiên Chúa ngay tại quê hương ngoại giáo. Lòng tri ân đích thực đòi hỏi sự công nhận Thiên Chúa là Đấng duy nhất và dấn thân sống theo niềm tin đó.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở về tầm quan trọng của thái độ biết ơn này: “Có thể nói, câu chuyện này chia thế giới thành hai nửa: những người không tạ ơn và những người tạ ơn; những người đón nhận mọi sự như thể mình có quyền, và những người đón nhận mọi sự như một món quà, như ân sủng. Tạ ơn luôn bắt đầu từ sự nhận biết rằng ân sủng đi trước chúng ta. Chúng ta đã được yêu thương trước khi học cách yêu thương…Nếu chúng ta nhìn cuộc sống theo cách này, thì lời “tạ ơn” sẽ trở thành động lực cho mỗi ngày của chúng ta… Lời “tạ ơn” mà chúng ta phải nói liên tục, lời cảm ơn mà người Kitô hữu chia sẻ với mọi người, lớn lên trong cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu” (Buổi tiếp kiến chung, 30/12/2020).

  1. Trung tín trong gian khổ

Lòng tri ân và trung thành không chỉ được thể hiện trong niềm vui, mà còn phải được duy trì trong gian khổ. Đây là giáo huấn của Thánh Phaolô gửi cho Timôthê: “Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2Tm 2: 9). Thánh Phaolô “cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Chúa Kitô Giêsu, và được hưởng vinh quang muôn đời” (2Tm2: 10). Sứ điệp an ủi nằm trong nghịch lý của Kitô giáo: sự giam cầm thân xác của Phaolô lại là phương tiện loan báo Lời Chúa: “Lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích!” (2Tm 2: 9), nhưng “là lời đáng tin cậy” (2Tm 2: 11-12).

Chịu đựng đau khổ không phải là hành động tự tôn mà là tình yêu hy sinh. Thánh Thánh Isaac thành Ninivê (+ 613), giám mục Syriac, dạy rằng: “Con cái của Thiên Chúa phân biệt mình với những người khác ở chỗ họ sống trong đau khổ, trong khi thế gian tự hào về sự xa hoa và yên bình. Thiên Chúa không hạ mình để những người yêu dấu của Ngài sống trong thứ yên ổn xác thịt, nhưng Ngài muốn họ phải lưu trú trong nỗi buồn, áp bức, trong lao động, nghèo đói, trần truồng, thiếu thốn, nhục nhã, bị sỉ nhục trong thân thể nặng nề và những suy nghĩ buồn bã… Sau mọi đau khổ vì Chúa, sự giải thoát sẽ đến. Một tâm hồn yêu mến Chúa sẽ tìm thấy niềm an ủi nơi Chúa và chỉ nơi Ngài mà thôi” [4].

Thánh Phaolô củng cố niềm hy vọng: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Ngài” (2Tm 2: 11-12). Sự Sống lại là lời bảo đảm rằng mọi đau khổ đều có ý nghĩa. Những lời này là lời mời gọi sống triệt để sự hiệp thông với Chúa Kitô, chấp nhận thập giá để nhận được vinh quang. Tuy nhiên, lời an ủi lớn lao nhất nằm ở sự bảo đảm cuối cùng về bản chất Thiên Chúa: “Nếu ta không trung tín, Ngài vẫn một lòng trung tín, vì Ngài không thể nào chối bỏ chính mình” (2 Tm2:13).

Lòng trung thành của Thiên Chúa là bất di bất dịch. Dù ta yếu đuối, vô ơn, Thiên Chúa vẫn trung tín với lời hứa và bản chất yêu thương của Ngài. Chúng ta cần cầu xin Chúa Giêsu với lòng tin tưởng, kiên trì và đầy đức tin. Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, sẽ ban ơn. Sách Giáo Lý khẳng định: “Những lời Thiên Chúa hứa luôn luôn được thực hiện. Thiên Chúa là chính Chân Lý, những lời của Ngài không thể là sai lầm. Vì vậy, một cách hoàn toàn tin tưởng, người ta có thể phó mình cho sự thật và sự trung tín của lời Ngài trong mọi sự” (số 215). Lòng trung thành này là nền tảng đức tin, giúp ta luôn hy vọng và kiên trì trong lòng tri ân.

 

Phêrô Phạm Văn Trung

[1] https://www.vatican.va/content/francesco/en/homilies/2015/documents/papa francesco_20150215_omelia-nuovi-cardinali.html

[2] https://www.vaticannews.va/en/word-of-the-day/2023/03/13.html

[3] https://thedivinelamp.wordpress.com/2012/08/20/st-augustines-homily-on-luke-1711-19/

[4] https://evangelistarion.wordpress.com/2014/12/02/writings-of-scripture-and-church-fathers-on-suffering-and-afflictions/

 

Subcategories