- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
Người cùi xứ Samaria trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa (Lc 17,15)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : Lòng biết ơn của tướng Naaman người xứ Aram sau khi được khỏi bệnh cùi.
- Đáp ca : Ca tụng những ơn lành Thiên Chúa đã ban.
- Tin Mừng : Lòng biết ơn của một người cùi đối với Chúa Giêsu.
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
"Thánh lễ" còn được gọi bằng một tên khác đúng với ý nghĩa hơn, đó là "Lễ Tạ Ơn". Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài đã ban cho chúng ta, đặc biệt các ơn Ngài ban qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.
Vậy giờ đây chúng ta hãy nhớ lại những ơn lành của Chúa để cảm tạ Ngài.
Nhưng trước hết, chúng ta cũng ý thức rằng rất nhiều lần mình đã vô ơn với Chúa, và thành tâm xin Ngài tha thứ cho chúng ta.
- Gợi ý sám hối
- Rất nhiều khi chúng ta nhận lãnh ơn Chúa ban, nhưng không biết tạ ơn Ngài.
- Nhiều lần chúng ta tham dự Lễ Tạ Ơn, nhưng trong lòng không chút tâm tình tạ ơn nào cả.
- Những thánh giá trong cuộc đời cũng là những ơn lành Chúa ban. Nhưng chẳng những chúng ta không vui lòng đón nhận, mà còn tìm cách trốn tránh.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (2 V 5,14-17)
Chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho tướng Naaman người xứ Aram :
- Được biết bên xứ Israel có ngôn sứ Êlisa đã từng chữa trị nhiều người khỏi bệnh, vua xứ Aram viết thư giới thiệu và đưa cho tướng Naaman đang mắc bệnh cùi đến cho Êlisê cứu chữa.
- Êlisê bảo Naaman xuống tắm 7 lần trong sông Giođan. Ban đầu Naaman không chịu. Nhưng do một người hầu gái thuyết phục nên sau đó Naaman làm theo. Và ông đã được khỏi bệnh cùi.
- Naaman trở lại tạ ơn ngôn sứ Êlisê và tuyên dương quyền phép của Thiên Chúa.
- Đáp ca (Tv 97)
Ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa : "Hát lên mừng Chúa một bài ca mới vì Người đã thực hiện bao kỳ công"
- Tin Mừng (Lc 17,11-19)
- Thái độ của 10 người cùi trong đoạn Tin Mừng này : biết phận mình nên khi thấy Chúa Giêsu thì "dừng lại đàng xa" và kêu xin.
- Khi Chúa Giêsu bảo họ "Hãy đi trình diện với các tư tế", Chúa Giêsu vừa thử đức tin của họ vừa mời họ tin tuyệt đối vào Ngài :
- Thử thách đức tin : vì Ngài không chữa bệnh ngay
- Mời gọi đức tin : nếu họ đi là chứng tỏ họ tin Ngài chữa họ.
- 9 người cùi do thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.
- Bài đọc II (2 Tm 2,8-13)
Mặc dù đang chịu cảnh khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng Phaolô vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng sống với Ngài.
- Gợi ý giảng
* 1. Suy nghĩ về lòng biết ơn
- Chi tiết đánh động nhất trong bài Tin Mừng này là trong số 10 người cùi đã được Chúa Giêsu chữa khỏi, chỉ có một người biết quay lại tạ ơn Ngài, mà người này lại là một người Samaria ngoại đạo. Tại sao thế ?
Thưa vì tâm lý thông thường của những kẻ "ở trong nhà" là nghĩ rằng mọi điều tốt mà người nhà làm cho mình là đương nhiên. Còn những "kẻ ở ngoài" thì nghĩ rằng mình chẳng có lý do nào để được những điều ấy, cho nên khi nhận được thì rất biết ơn. Câu chuyện của bài đọc I minh chứng điều đó : Tướng Naaman không phải là người do thái mà là một người Aram. Bởi đó khi ông được Thiên Chúa của Israel và ngôn sứ Êlisê chữa cho khỏi cùi thì ông vô cùng biết ơn. Ông mang nhiều lễ vật đến tạ ơn Êlisê, và ông lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.
- Chúng ta muốn người chịu ơn ta phải tỏ lòng biết ơn ta, thế nhưng khi chịu ơn người khác chúng ta lại ít tỏ lòng biết ơn. Điều này bộc lộ khuynh hướng ích kỷ của chúng ta : chúng ta làm ơn là để được biết ơn. Nói cách khác, chúng ta làm vì mình chứ không vì người khác.
Chúa Giêsu thì ngược lại : Ngài muốn chúng ta tỏ lòng biết ơn Ngài không phải vì Ngài mà vì ích lợi của chính chúng ta. "Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa ?" Khi nói thế, Chúa Giêsu không nghĩ cho bản thân Ngài mà nghĩ cho những người cùi : Ngài muốn họ có tâm tình tốt đối với Thiên Chúa, từ đó sẽ có một liên hệ tốt với Thiên Chúa, và liên hệ tốt này lại phát sinh nhiều ơn lành khác nữa.
- Biết ơn Thiên Chúa là một điều rất tốt, không phải tốt cho Thiên Chúa, mà tốt cho chính chúng ta : do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ ý thức hơn về tình thương của Thiên Chúa ; do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ nhận thức rõ hơn về thân phận nghèo nàn của mình ; hai ý thức ấy sẽ giúp chúng ta gắn bó với Chúa và nương tựa vào Ngài nhiều hơn.
- Kẻ nào không biết cám ơn trong những việc nhỏ thì cũng không biết cám ơn trong những việc lớn. Vì thế ta cần phải tập cám ơn trong từng việc nhỏ.
- Cám ơn Chúa vì những điều vừa ý mình thì rất dễ, nhưng cám ơn Chúa vì những điều trái ý mình mới khó. Vì thế ta cần phải tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho mình : chuyện vui cũng như chuyện buồn, thành công cũng như thất bại, sức khoẻ cũng như bệnh tật. Sự biết ơn về tất cả mọi điều xảy đến cho mình như thế còn phát sinh một ích lợi nữa là khiến ta biết nhìn đời mình một cách toàn diện, thấy cả hiện tại và quá khứ, từ đó ta sẽ nhận ra rằng đời mình được dẫn dắt bởi bàn tay yêu thương kỳ diệu của Chúa như thế nào. Thực vậy, khi nhìn lại quá khứ, ta sẽ thấy rằng những điều làm ta thích và những điều làm ta khổ không tách rời nhau, nhưng liên kết với nhau, đan xen nhau và đều góp phần dẫn ta đến cái hiện tại tốt đẹp ngày nay, từ đó ta có thể nói như Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng "Tất cả đều là hồng ân".
* 2. Suy nghĩ về 9 người cùi vô ơn
Chín người cùi do thái không cảm thấy tâm tình biết ơn có lẽ vì trước đó họ chỉ thấy tình trạng khốn khổ của họ chỉ là ngoài da, và sau đó họ cũng coi tình trạng được khỏi của họ chỉ là ngoài da. Nói cách khác họ chẳng thấy gì khác ngoài một chứng bệnh da liễu : Họ bị da liễu, Chúa Giêsu chữa họ khỏi da liễu, thế là xong. Họ trở về với nếp sống cũ, với những thói quen cũ, những tật xấu cũ, những suy nghĩ cũ… Chẳng có gì thay đổi trừ ra một làn da hết bệnh.
Còn người cùi xứ Samaria, cũng như Naaman xứ Aram đã ý thức thân phận mình khốn khổ sâu xa như thế nào : đau đớn phần xác, mặc cảm tâm lý, tủi nhục tinh thần, cuộc đời như đã bị bỏ đi. Bởi vậy sau đó, cùng với sự khỏi bệnh ngoài da, họ còn được cứu chữa về tâm lý, tinh thần và đạo đức nữa. Họ trở thành những con người mới hẳn.
* 3. Suy nghĩ từ chuyện ông Naaman
- Chuyện tướng Naaman mắc bệnh cùi rồi được chữa khỏi cho ta thấy từ đau khổ người ta có thể rút ra nhiều sự lành như thế nào.
- Naaman là một con người có nhiều quyền hành và thế lực vì ông là tướng chỉ huy quân đội nước Aram. Ông rất tự tin vào chính mình, chẳng cần gì đến Thiên Chúa.
- Thế rồi chứng bệnh cùi khủng khiếp đã làm ông mất tất cả, đầy ông từ chóp đỉnh xuống vực sâu của xã hội. Ông biết mình khốn khổ, ông cần ai đó cứu ông → Ông trở thành khiêm tốn hơn.
- Nhờ có người mách bảo, Naaman tìm đến với ngôn sứ Êlisê với hy vọng vị này chỉ nói một lời hay làm một việc gì đó thôi thì ông sẽ khỏi bệnh ngay. Nhưng Êlisê bảo ông đi tắm trong dòng sông Giođan nhỏ bé và phải tắm đến 7 lần. Ban đầu ông không chịu, nhưng sau đó ông chấp nhận → Ông đã biết chịu đựng và kiên nhẫn.
- Khi khỏi bệnh, Naaman ngoại đạo ấy còn khám phá một điều quan trọng hơn tất cả, đó là có một Thiên Chúa thực sự và quyền năng. → Ông có đức tin.
- Cũng như Naaman trước khi bị bệnh, chúng ta ít nghĩ tới Chúa khi đời mình đang thuận buồm xuôi gió. Chúng ta cho rằng đời mình hoàn toàn tùy thuộc vào khối óc và đôi tay của mình.
- Khi gian truân khốn khổ ập đến, ta chợt ý thức rằng mình quá nghèo nàn và yếu đuối. Mắt ta được nhìn thấy mặt trái của cuộc đời, đầu ta biết cúi xuống, chân ta biết quỳ xuống, và lòng ta biết hướng lên cao.
- Như thế, đau khổ có rất nhiều lợi ích : nó đem ta đến gần Chúa hơn, nó khiến ta bớt duy vật hơn, nó còn cho ta thấy những khía cạnh tốt lành ẩn giấu trong những điều trái ý.
* 4. Dòng suối ân tình
Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi :
- Thưa Đức cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế ?
Vị Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp :
- Vì đôi mắt của con rất đẹp !
- Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây ?
- Con ạ ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.
Quả thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tuỵ băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.
*
Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa (x. Lv 13,1-44).
Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xoá. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ oà trong tim.
Trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.
Chúa Giêsu phải thốt lên lời quở trách : "Không phải cả mười người được sạch cả sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?" (Lc 17,17-18). "Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói : "Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh" (Lc 17,19). Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân ! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.
Một đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng "cám ơn" luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói "cám ơn" với tất cả chân thành, một cử chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.
Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một "bài ca tạ ơn". Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, trước khi lập phép Thánh thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy : "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy". Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là Thánh lễ Tạ ơn.
Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa : "Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô" (1 Cr 1,4). Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ : "Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận" (Pl 4,10). Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý :"Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay".
*
Lạy Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.
Xin cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa. luôn thế kiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn. Amen. (TP)
- Chuyện minh họa
David đang đi đường thì gặp một người ăn xin. Anh cho người ấy một số tiền rồi tiếp tục đi, lòng rất sung sướng. Nhưng chỉ một sau, anh cảm thấy bực bội khi chợt nhớ hồi nảy người ăn xin kia không cám ơn anh. Anh đem chuyện ấy kể cho một Rabbi nghe.
Vị Rabbi chăm chú lắng nghe, rồi hỏi :
- Khi anh cho tiền người ăn mày, anh cảm thấy sao ?
- Con thấy rất vui.
- Thế đó không phải là phần thưởng cho con rồi đó sao ?
- Nhưng con nghĩ rằng dù sao thì người ấy phải cám ơn con mới phải.
- Thế sao con đã không cám ơn Chúa ?
- Tại sao phải cám ơn Chúa ?
- Vì Chúa đã ban cho con cơ hội làm dụng cụ cho Chúa thực hiện tình thương của Ngài cho một con người khốn khổ. (FM)
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, luôn tạ ơn Chúa vì những hồng ân Người ban tặng cho ta là một trong những bổn phận quan trọng của người Kitô hữu. Với tâm tình con thảo, chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin :
- Hội thánh không ngừng quan tâm giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa chúc lành cho Hội thánh / trong công việc cao quý này.
- Ước mơ tha thiết của con người là được sống khỏe mạnh và hạnh phúc / nhưng trong thực tế / bệnh tật vẫn đem đến cho con người đau khổ và bất hạnh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em đang đau khổ vì bệnh tật hành hạ / được Chúa thương nâng đỡ ủi an.
- Bệnh phong cùi đem lại mặc cảm lớn lao / và nỗi bất hạnh tột cùng cho các bệnh nhân / vì họ cảm thấy bị loại trừ ra khỏi xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều nhà hảo tâm / nâng đỡ những anh chị em kém may mắn này.
- Có một thứ bệnh phong cùi đáng sợ hơn là tội lỗi / vì nó làm hoen ố tâm hồn con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tẩy sạch bệnh phong cùi thiêng liêng này bằng bí tích Giải tội.
Chủ tế : Lạy Chúa, biết bao giờ chúng con mới tạ ơn Chúa cho cân xứng với tình thương hải hà của Chúa. Xin cho chúng con biết cố gắng đền đáp phần nào tình thương ấy bằng chính đời sống bác ái yêu thương và tận tụy phục vụ tha nhân. Chúng con cầu xin
- Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Thiên Chúa là Cha hằng ban xuống cho chúng ta là con cái Ngài biết bao ơn lành. Vậy bây giờ chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha để bày tỏ lòng biết ơn chân thành của chúng ta.
- Trước khi rước lễ : Ơn cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là ban chính Con Một của Ngài cứu chuộc chúng ta và còn trở thành lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…"
VII. Giải tán
"Tất cả đều là hồng ân". Anh chị em hãy trở về với cuộc sống thường ngày, và đừng quên cám ơn Chúa về tất cả những gì xảy đến trong cuộc đời.
Sợi Chỉ Đỏ
- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
Cuộc đời Kitô hữu là những lần gặp gỡ và cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, một hành trình được ghi dấu bằng ơn chữa lành, phần hồn và phần xác, có cả những thử thách của đức tin nhưng vẫn được kêu gọi hãy kiên trì trung tín.
- Ơn Chúa đến khi chúng ta tin tưởng vâng theo Lời Ngài
Theo Luật Do Thái, khi người Israel phát hiện phát ban hoặc các triệu chứng da khác, họ phải đến gặp thầy tế lễ để khám. Thầy tế lễ có trách nhiệm xác định xem đó có phải là bệnh phong cùi truyền nhiễm hay không. Nếu chẩn đoán là phong cùi, người đó sẽ bị tuyên bố là ô uế về mặt nghi lễ (Lêvi 13:1, 9-11). Luật cấm người bệnh giao tiếp với cộng đồng; họ bị cô lập hoàn toàn. Người bệnh phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!”. Họ bắt buộc phải sống bên ngoài trại (Lêvi 13:45-46). Sự cô lập này có mục đích ngăn chặn dịch bệnh lây lan, tuy nhiên, đối với người bệnh, nó đồng nghĩa với một bản án chung thân, buộc họ phải sống như những người bị ruồng bỏ và khai trừ khỏi xã hội. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Hãy tưởng tượng những người phong cùi phải chịu đựng biết bao đau khổ và tủi hổ: về thể xác, xã hội, tâm lý và tinh thần! Họ không chỉ là nạn nhân của bệnh tật, mà còn cảm thấy tội lỗi, bị trừng phạt vì tội lỗi của mình! Họ đang sống trong sự chết” [1].
Chúa Giêsu đã chữa lành nhiều người phong cùi (Lc 5:12-14; Mc 1:40-42). Hôm nay, mười người phong cùi đứng từ xa, cùng nhau kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17:12-13). Họ đứng tại biên giới giữa miền Samaria và miền Galilêa, nhưng “Họ dừng lại đằng xa” (Lc 17: 12), tuân theo lề luật, một kiểu cô lập.
Điều đáng chú ý là Chúa Giêsu không chữa lành ngay lập tức, mà ra lệnh: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17:14). Mệnh lệnh này đòi hỏi đức tin thể hiện qua sự vâng lời tức thì. Khi đó, họ vẫn còn bệnh phong cùi, chưa có sự thay đổi thể chất. Tuy nhiên, trong đức tin, họ đã vâng lời và bắt đầu hành trình. Chính hành động này là bằng chứng họ tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. “Đang khi đi thì họ được sạch” (Lc 17:14). Phép lạ chữa lành không tức khắc mà được hoàn thành trong lúc họ tuân phục Lời Chúa. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi người được chữa lành phải thể hiện đức tin của họ. Đức tin ấy được thử thách bằng sự tuân phục vô điều kiện. Tôi có tin vào Chúa Giêsu bằng cách tuân theo Lời Ngài một cách không do dự không?
- Ơn Chúa đến khi chúng ta khiêm nhường tin tưởng
Câu chuyện của Naaman, quan lãnh binh Syria, cho thấy ơn chữa lành còn đòi hỏi sự khiêm tốn nữa. Naaman, một quý tộc triều đình, đã giận dữ khi được tiên tri Êlisa truyền lệnh “hãy đi tắm bảy lần trong sông Giođan” (2V 5:10). Ông muốn một nghi thức hoành tráng tương xứng với địa vị của mình, chứ không phải một dòng sông tầm thường của Israel. Sự kiêu ngạo ấy đã suýt khiến ông không nhận được ơn chữa lành. Chỉ khi được đầy tớ khuyên nhủ, Naaman mới chịu nhún mình: “Ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Giođan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ” (2V5:14).
Đức tin đích thực đòi hỏi từ bỏ niềm kiêu hãnh cá nhân, đòi hỏi khiêm nhường tuân theo lời Thiên Chúa ngay khi chúng ta đang ngờ vực. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Thật không dễ hiểu được sự khiêm nhường là gì…Chẳng hạn, trường hợp của Naaman người Syria…Naaman đã hiểu ra một chân lý nền tảng: chúng ta không thể dành cả đời để ẩn mình sau lớp áo giáp, một vai trò chúng ta đang đóng, hay sự công nhận của xã hội; cuối cùng, điều đó sẽ làm chúng ta tổn thương. Sẽ đến lúc trong cuộc đời mỗi cá nhân, người ta muốn gạt bỏ hào quang của vinh quang thế gian này để hướng đến một cuộc sống trọn hảo, đích thực, không cần đến áo giáp hay mặt nạ nữa… Mang trong mình bạc vàng, Naaman lên đường và đến gặp tiên tri Êlisa, người đã đặt ra cho ông, như điều kiện duy nhất để được chữa lành, một cử chỉ đơn giản là cởi áo và tắm bảy lần dưới sông Giođan. Không liên quan gì đến sự nổi tiếng, danh giá, vàng bạc! Ân sủng cứu độ là cho không; ân sủng không thể bị quy giản thành giá trị của cải trần gian…Đây quả là một bài học lớn! Sự khiêm nhường tuân theo lời Chúa, phơi bày bản tính phàm nhân của mình, đã mang lại sự chữa lành cho Naaman” [2].
Ơn chữa lành thể lý chưa bao giờ là điều cuối cùng mà Chúa Giêsu nhắm tới. Bài học lớn nhất nằm ở sự chấp nhận của người được chữa lành: đó là tin tưởng và vâng theo Đấng chữa lành. Cuối cùng, mọi hành động vâng lời đều phải được neo chặt vào một thực tại không thay đổi: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17: 19).
- Ơn cứu độ dành cho ai biết tạ ơn
Thánh sử Luca đặc biệt đề cập đến việc: “Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari” (Luca 17: 15-16). Tin Mừng không ghi lại họ đã đi được bao xa trước khi được chữa lành. Tuy nhiên, chỉ có một người quay lại cảm ơn Chúa Giêsu vì đã chữa lành anh ta. Chúa Giêsu bày tỏ sự thất vọng khi chín người kia không nghĩ đến việc ngợi khen Thiên Chúa đã chữa lành họ: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17: 17-18).
Chúng ta học được rằng Thiên Chúa mong muốn chúng ta bày tỏ lòng biết ơn Ngài về tất cả những gì Ngài đã làm trong cuộc đời chúng ta. Chín người Do Thái kia đã nhận được ơn chữa lành, nhưng lại thiếu lòng tri ân, và vì thế, họ mất đi sự cứu rỗi trọn vẹn. Lời cuối cùng Chúa Giêsu dành cho người Samaria là: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17: 19). Sự khác biệt nằm ở chỗ: chín người Do thái được lành sạch thể xác nhưng chỉ để quay lại với luật Môsê, còn người Samaria được cứu chữa để hiệp thông với Chúa Kitô.
Thánh Augustinô cảnh báo: “Chúng ta vẫn còn vô ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đã thanh tẩy chúng ta khỏi bệnh phong hủi tâm linh. Lòng kiêu hãnh và sự tự phụ của chúng ta, ngăn cản chúng ta khiêm nhường nhận ra những ân huệ của Đấng Tạo Hóa, chính là nguyên nhân dẫn đến sự vô ơn của chúng ta. Chúng ta giống như những người đã biết Thiên Chúa và được giải thoát khỏi bệnh phong hủi của sự lầm lạc, nhưng vẫn còn mang trong mình lòng vô ơn đối với Đấng Tạo Hóa, Đấng đã soi sáng cho họ. Họ đã đánh mất vương quốc thiên đàng…Còn một người phung đã trở lại, lớn tiếng tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa…Ông được Chúa Giêsu ca ngợi, trở nên như người trung thành giữ gìn của cải được giao phó, bảo tồn vương quốc này bằng sự khiêm nhường và lòng biết ơn của mình” [3].
Sau khi được chữa lành, Naaman trở lại gặp tiên tri Êlisa, tuyên bố đức tin mạnh mẽ: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel” (2V 5: 15). Ông bày tỏ tri ân bằng cách cố gắng dâng lễ vật. Sự chữa lành đã dẫn đến hoán cải tuyệt đối về đức tin. Naaman xin mang đất về: “Vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Chúa” (2V 5: 17). Hành động mang đất này là biểu tượng của lòng trung thành không lay chuyển, thể hiện mong muốn thờ phượng Thiên Chúa ngay tại quê hương ngoại giáo. Lòng tri ân đích thực đòi hỏi sự công nhận Thiên Chúa là Đấng duy nhất và dấn thân sống theo niềm tin đó.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở về tầm quan trọng của thái độ biết ơn này: “Có thể nói, câu chuyện này chia thế giới thành hai nửa: những người không tạ ơn và những người tạ ơn; những người đón nhận mọi sự như thể mình có quyền, và những người đón nhận mọi sự như một món quà, như ân sủng. Tạ ơn luôn bắt đầu từ sự nhận biết rằng ân sủng đi trước chúng ta. Chúng ta đã được yêu thương trước khi học cách yêu thương…Nếu chúng ta nhìn cuộc sống theo cách này, thì lời “tạ ơn” sẽ trở thành động lực cho mỗi ngày của chúng ta… Lời “tạ ơn” mà chúng ta phải nói liên tục, lời cảm ơn mà người Kitô hữu chia sẻ với mọi người, lớn lên trong cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu” (Buổi tiếp kiến chung, 30/12/2020).
- Trung tín trong gian khổ
Lòng tri ân và trung thành không chỉ được thể hiện trong niềm vui, mà còn phải được duy trì trong gian khổ. Đây là giáo huấn của Thánh Phaolô gửi cho Timôthê: “Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2Tm 2: 9). Thánh Phaolô “cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Chúa Kitô Giêsu, và được hưởng vinh quang muôn đời” (2Tm2: 10). Sứ điệp an ủi nằm trong nghịch lý của Kitô giáo: sự giam cầm thân xác của Phaolô lại là phương tiện loan báo Lời Chúa: “Lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích!” (2Tm 2: 9), nhưng “là lời đáng tin cậy” (2Tm 2: 11-12).
Chịu đựng đau khổ không phải là hành động tự tôn mà là tình yêu hy sinh. Thánh Thánh Isaac thành Ninivê (+ 613), giám mục Syriac, dạy rằng: “Con cái của Thiên Chúa phân biệt mình với những người khác ở chỗ họ sống trong đau khổ, trong khi thế gian tự hào về sự xa hoa và yên bình. Thiên Chúa không hạ mình để những người yêu dấu của Ngài sống trong thứ yên ổn xác thịt, nhưng Ngài muốn họ phải lưu trú trong nỗi buồn, áp bức, trong lao động, nghèo đói, trần truồng, thiếu thốn, nhục nhã, bị sỉ nhục trong thân thể nặng nề và những suy nghĩ buồn bã… Sau mọi đau khổ vì Chúa, sự giải thoát sẽ đến. Một tâm hồn yêu mến Chúa sẽ tìm thấy niềm an ủi nơi Chúa và chỉ nơi Ngài mà thôi” [4].
Thánh Phaolô củng cố niềm hy vọng: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Ngài” (2Tm 2: 11-12). Sự Sống lại là lời bảo đảm rằng mọi đau khổ đều có ý nghĩa. Những lời này là lời mời gọi sống triệt để sự hiệp thông với Chúa Kitô, chấp nhận thập giá để nhận được vinh quang. Tuy nhiên, lời an ủi lớn lao nhất nằm ở sự bảo đảm cuối cùng về bản chất Thiên Chúa: “Nếu ta không trung tín, Ngài vẫn một lòng trung tín, vì Ngài không thể nào chối bỏ chính mình” (2 Tm2:13).
Lòng trung thành của Thiên Chúa là bất di bất dịch. Dù ta yếu đuối, vô ơn, Thiên Chúa vẫn trung tín với lời hứa và bản chất yêu thương của Ngài. Chúng ta cần cầu xin Chúa Giêsu với lòng tin tưởng, kiên trì và đầy đức tin. Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, sẽ ban ơn. Sách Giáo Lý khẳng định: “Những lời Thiên Chúa hứa luôn luôn được thực hiện. Thiên Chúa là chính Chân Lý, những lời của Ngài không thể là sai lầm. Vì vậy, một cách hoàn toàn tin tưởng, người ta có thể phó mình cho sự thật và sự trung tín của lời Ngài trong mọi sự” (số 215). Lòng trung thành này là nền tảng đức tin, giúp ta luôn hy vọng và kiên trì trong lòng tri ân.
Phêrô Phạm Văn Trung
[1] https://www.vatican.va/content/francesco/en/homilies/2015/documents/papa francesco_20150215_omelia-nuovi-cardinali.html
[2] https://www.vaticannews.va/en/word-of-the-day/2023/03/13.html
[3] https://thedivinelamp.wordpress.com/2012/08/20/st-augustines-homily-on-luke-1711-19/
[4] https://evangelistarion.wordpress.com/2014/12/02/writings-of-scripture-and-church-fathers-on-suffering-and-afflictions/