- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
Chúa Nhật 7 Thường Niên C
HÃY NHÂN TỪ NHƯ THÁNH PHỤ NHÂN ÁI
ĐỪNG XÉT ĐOÁN ĐỂ CHÚA TRỜI THỨ THA
Đó chính là “cái tâm” của các Kitô hữu – nói chung, và của các tín nhân Công giáo – nói riêng. Lòng nhân từ luôn liên quan sự tha thứ. Cụ thi hào Nguyễn Du đã biện luận: “Thiện căn ở tại lòng ta – Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Tâm không cần Tài, nhưng Tài luôn cần Tâm, nếu không thì Tài sẽ hóa Tai (tai ương, tai họa).
Chữ TÂM có khá nhiều nghĩa – đen và bóng: tâm tạng (trái tim), tâm thất (ngăn dưới trong trái tim), tâm phúc (bụng dạ, lòng, ruột), tâm cảm (lòng, tình cảm), tâm phục (thật lòng kính trọng vâng theo), tâm ý (lòng dạ và đầu óc), đồng tâm nhất trí (cùng một lòng, một ý), viên tâm (điểm giữa vòng tròn, trọng tâm, trung tâm), tâm tưởng, tâm tư, tâm niệm, tâm nguyện, tâm thức, tâm tính, tâm tình, tâm địa, tâm ý, tâm lý, tâm trí, tâm thần, tâm trạng, lương tâm, tâm hồn, tâm linh,…
Chữ Tâm được đề cập ngay ở đầu Kinh Pháp Cú: “Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả”. Chữ Tâm liên quan việc sửa mình (tu thân). Cổ nhân có câu: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị. Thử vị tu thân tại chính kỳ tâm”. Nghĩa là “nếu tâm trí không để vào đó, thì dẫu nhìn mà chẳng thấy, dẫu để tai mà chẳng nghe, dẫu ăn mà chẳng biết mùi vị. Như vậy nên gọi là sửa mình cốt ở chỗ làm cho lòng (cái tâm) mình ngay thẳng.
Trình thuật 1 Sm 26:2, 7-9, 12-13, 22-23 cho biết: Vua Sa-un lên đường và xuống sa mạc Díp, cùng với ba ngàn quân tinh nhuệ của Ít-ra-en, để tìm bắt ông Đa-vít trong sa mạc Díp. Đang đêm, ông Đa-vít và ông A-vi-sai đến chỗ quân binh. Vua Sa-un đang nằm ngủ trong trại binh, cây giáo của vua cắm xuống đất, ở phía đầu vua, còn ông Áp-ne và quân binh thì nằm chung quanh.
Ông A-vi-sai nói với ông Đa-vít: “Hôm nay Thiên Chúa đã nộp kẻ thù của cậu vào tay cậu. Bây giờ, xin cho cháu dùng giáo ghim nó xuống đất, một nhát thôi; cháu không cần đâm nhát thứ hai”. Ông Đa-vít nói với ông A-vi-sai: “Đừng giết vua! Có ai tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô sự đâu?”. Dù sống thời Cựu Ước, với luật “răng đền răng, mắt đền mắt”, nhưng ông Đa-vít vẫn có một tấm lòng – nhân từ và tha thứ.
Sau đó, ông Đa-vít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu vua Sa-un, rồi cả hai người ra đi. Không ai thấy, không ai hay, không ai thức dậy. Họ đều ngủ cả, vì Đức Chúa đã cho một giấc ngủ mê ập xuống trên họ. Ông Đa-vít đi sang phía bên kia và đứng trên đỉnh núi, ở đàng xa; có một khoảng cách lớn giữa họ. Ông Đa-vít nói: “Cây giáo của đức vua đây. Một trong các đầy tớ hãy sang mà lấy. Xin Đức Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự công chính và lòng trung thành của họ: hôm nay Đức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26:22-23). Đó là cái tâm cần thiết mà ông Đa-vít đã có.
Martin Luther King (1929-1968) có triết lý sống tuyệt vời: “Yêu thương là điều duy nhất có thể biến đổi kẻ thù thành bạn hữu”. Điều đó rất phù hợp với giáo huấn mà Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Hãy yêu thương nhau” (Ga 13:34; Ga 15:12 và 17). Đó chính là dấu hiệu chứng tỏ ai thực sự là môn đệ của Ngài (Ga 13:35). Thánh Gioan nói rằng chúng ta không chỉ PHẢI tin vào danh Đức Giêsu Kitô mà còn PHẢI yêu thương nhau (1 Ga 3:23).
Cái “phải” đó không có nghĩa là ép buộc, mà là nhận thức và tự nguyện. Trong tâm tình yêu mến, Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:1-4). Lời tự nhủ đó là điều tâm niệm và tâm nguyện, đồng thời cũng là cách dẫn chứng để chính mình tâm phục khẩu phục – kể cả tha nhân.
Nhờ vào các nguồn đáng tin cậy khác nhau – từ cổ chí kim, cách riêng là chính kinh nghiệm sống tâm linh của mỗi người, chúng ta biết chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn “từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ hoài, không oán hờn mãi, không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 103:8-10). Quả thật, Thiên Chúa quá đỗi nhân từ đến nỗi phàm nhân có lúc cảm thấy phân vân, thế nhưng Ngài thực sự là vậy, không thể khác được, bởi vì đó là bản chất của Ngài và chính Ngài xác nhận: “Ta vốn nhân từ” (Xh 22:26). Và rồi Thánh Gioan cũng đã định nghĩa về Ngài: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16). Một định nghĩa ngắn gọn nhưng bao hàm tất cả.
Nếu Thiên Chúa chấp tội, chẳng ai có thể nên thánh, chẳng ai có thể vào Thiên Đàng. Thế nhưng thật diễm phúc cho chúng ta, vì mọi thứ tội và tội của thế gian này cũng chỉ là “chuyện nhỏ” đối với Ngài: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103:12-13). Thế đấy, tội gì cũng được tha – dù nhỏ hay to, nhẹ hay nặng, khinh tội hoặc trọng tội, nhưng chỉ có một tội không được tha: tội phạm tới Thần Khí – Chúa Thánh Thần (Mt 12:31; Mc 3:29; Lc 12:10). Hữu tâm thì được tha, vô tâm thì đành chịu (hoặc ráng chịu).
Thánh Phaolô trích dẫn: “Như có lời đã chép: con người đầu tiên là A-đam được dựng nên thành một sinh vật, còn A-đam cuối cùng là thần khí ban sự sống. Loài xuất hiện trước không phải là loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ xuất hiện sau đó” (1 Cr 15:45-46). Hai con người với hai dạng “sức sống” hoàn toàn khác nhau. A-đam đầu tiên là nhân loại, A-đam cuối cùng là Đấng Tạo Hóa – Đức Giêsu Kitô.
Thánh Phaolô giải thích rõ ràng hơn: “Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến. Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:47-49). Chúng ta là loài người, mang thân bụi phận cát, nhưng được hình thành một cách lạ lùng, khiến Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!” (Tv 139:14).
Trình thuật Lc 6:27-38 (≈ Mt 5:38-48; 7:1-2) đề cập hai vấn đề, và cũng là hai mệnh lệnh: tình yêu thương và lòng nhân từ – yêu thương và nhân từ với bất kỳ ai – kể cả kẻ thù. Yêu thương và nhân từ không thể tách rời nhau, có cái này thì cũng có cái kia, không có cái này thì cũng chẳng có cái kia.
Nói yêu thương thì không khó, thực hành yêu thương thì rất khó, nhưng không thể không làm, vì đó là mệnh lệnh của Đức Giêsu Kitô: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh thì đừng đòi lại”.
Lòng yêu thương vô cùng quan trọng, là thước đo lòng mến Chúa, và là “món nợ” mà ai cũng phải trả xong cho đến đồng xu cuối cùng. Chính Chúa Giêsu đã nói chi tiết: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5:23-24). Và Thánh Gioan giải thích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Cách so sánh chí lý!
Thật vậy, Chúa Giêsu nói rất cụ thể: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. Điều Ngài nói rất đời thường chứ chẳng xa rời thực tế. Tương tự, người đời cũng nhận định: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” – Mình không muốn điều gì cũng đừng làm cho người khác. Rồi Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn NHÂN HẬU với cả PHƯỜNG VÔ ÂN và QUÂN ĐỘC ÁC”. Lúa và cỏ vẫn sống chung một nguồn nước và cùng hấp thụ chất dinh dưỡng như nhau. Nắng mưa chẳng cho riêng ai – dù người đó tốt hay xấu, biết điều hay ngang ngược.
Chúa Giêsu đưa ra một loạt mệnh lệnh – mệnh lệnh xác định và phủ định: “Anh em HÃY có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em ĐỪNG xét đoán thì sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em ĐỪNG lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em HÃY tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em HÃY cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”. Thiên Chúa rất đại lượng và hào phóng, không ai phải chịu thiệt bao giờ. Ngài nhân lành nhưng chí công, và thời gian cũng có hạn.
Có mọi thứ mà không có đức ái thì cũng hoàn toàn vô ích! (x. 1 Cr 13:1-3). Ca dao Việt Nam so sánh rất cụ thể:
Dẫu xây chín bậc phù đồ (*)
Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người
Đó là cái Tâm mà ai cũng phải có, gọi là “đạo làm người”, loại “đạo” này không phân biệt bât kỳ tôn giáo nào, kể cả những người vô thần, bởi vì là con người thì ai cũng phải có loại “đạo” đó.
Chẳng dễ gì để sống có cái Tâm, bởi vì không chỉ mệt mỏi mà còn khổ lắm, nhưng cái khổ đó rất có giá trị. Có lòng yêu thương thì sẽ có cái Tâm, và làm được điều kỳ diệu, như Thánh Faustina Maria Kowalska cho biết: “Tình yêu cao cả có thể biến đổi những điều nhỏ thành những điều to, và chỉ có tình yêu đó mới làm cho hành động của chúng ta có giá trị”. Thánh Gioan Maria Vianney xác định: “Bạn phải chấp nhận thập giá của mình, nếu bạn can đảm vác nó thì nó sẽ đưa bạn tới Thiên Đàng”.
Lạy Thiên Chúa nhân lành, luôn nhân hậu và giàu lòng nhân ái, xin biến đổi để chúng con có thể nhân từ với mọi người, sống nhân hậu như Ngài mong muốn, xin giúp chúng con biết hy sinh và chịu đựng nhau vì yêu mến Ngài, để đền tội của mình, để cầu nguyện cho tha nhân và các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
- Details
-
Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
Chúa Nhật 7 Thường Niên C
Hôm nay, Tin Mừng theo thánh Luca công bố một sứ điệp rất ngắn gọn, nhưng lại sâu xa: đó là chuẩn mực của lòng nhân từ và cách thể hiện cụ thể của chuẩn mực đó: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6: 36). Thực ra, không dễ sống như Chúa Giêsu đòi hỏi: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6: 27-28). Nhưng Chúa Giêsu rất rõ ràng, cụ thể, thậm chí quyết liệt nữa: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại” (Lc 6: 29-30). Đây không phải là những lời bị chê là dại dột sao? Ít nhất thì những lời này cũng gây ra những quan điểm trái chiều, những tranh cãi, và cũng khó thực hiện đối với mỗi người chúng ta.
- Trở nên giống Chúa Kitô, giống Thiên Chúa
Đối với hầu hết mọi người trên trần thế này, những lời như vậy của Chúa Giêsu là chuyện viễn tưởng và những ai muốn sống theo những yêu cầu như vậy, dù có thể được coi là những người hiền lành, dễ thương, nhưng cũng dễ bị coi là ngốc nghếch. Dĩ nhiên, ai để mình bị cướp đoạt, bị vả vào má phải mà lại còn đưa luôn cả má trái cho người ta vả tiếp, v.v. thì thật ngây thơ, ngớ ngẩn, trong mắt một xã hội mà mọi thứ đều dựa trên chiếm hữu và quyền lực. Vậy Chúa Giêsu có ý nói gì ở đây?
Những môn đệ đích thực của Chúa Kitô, những Kitô hữu chân chính, không cố sức giành ưu thế hay quyền lực áp chế trên người khác, cũng không mong muốn của cải vật chất chỉ để “chiếm hữu riêng mình” mà không quan tâm gì đến những người khác đang thiếu thốn, nghèo đói chung quanh. Điều căn cốt của những ai bước theo Chúa Giêsu là trở nên giống Ngài. Người Kitô hữu đích thực là người muốn nên giống Chúa Kitô, giống Thiên Chúa. Đó chính là điều kiện để họ trở nên con Đấng Tối Cao, như Chúa Giêsu hứa: “Phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Ngài vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6: 35).
Mỗi con người đều mang hình ảnh của Thiên Chúa (Stk 1: 27), là một thụ tạo có một không hai do Thiên Chúa dựng nên, với những tiềm năng, sứ mệnh riêng biệt của mình, phản chiếu lòng nhân từ của Thiên Chúa. Không ai, ngoài Thiên Chúa, có thể hiểu biết trọn vẹn dù chỉ một người. Mỗi cá nhân là một bí nhiệm của cõi nhân sinh, nhất là của thế giới tâm linh rộng lớn hơn. Đó là cách nhìn của Thiên Chúa, của Chúa Giêsu, về mỗi người. Như vậy, khi nói: “Anh em hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6: 28-30), Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta nhìn người khác như cách nhìn của Ngài, cách nhìn đầy lòng nhân ái của Thiên chúa, không chất chứa chút nào cay đắng và giận dữ, mà chỉ là tràn đầy yêu thương. Bài đọc thứ nhất cho chúng ta thấy chàng trai trẻ Đavít, vị vua tương lai quyền uy của Israel, đã sống lòng nhân từ đó khi quyết định tha cho vua Saul mặc dù vị vua này luôn tìm mọi cách để truy đuổi ông, khiến cuộc sống của ông vô cùng khốn khổ: “…Ta sẽ truy nã nó trong mọi thị tộc Giuđa… Vua Saul lấy trong toàn thể Israel ba ngàn quân tinh nhuệ, và lên đường để tìm bắt ông Đavít và người của ông” (1 Sm 23: 23; 24: 3). Đavít không nhìn vua Saul như kẻ thù nhưng như người của Thiên Chúa: “Xin Chúa đừng để tôi làm điều này cho chúa thượng của tôi, đấng Chúa đã xức dầu tấn phong, là tra tay hại vua, vì người là đấng Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 24: 7). Ở đây, Đavít là hình ảnh tiên trưng của Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ Đau Khổ: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53: 7).
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Lời Chúa Giêsu rất rõ ràng: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (27-38). Và đây không phải là tùy chọn, mà là một mệnh lệnh. Nó không dành cho tất cả mọi người, nhưng dành cho các môn đệ, những người mà Chúa Giêsu gọi là “những người đang nghe Thầy đây”. Chúa Giêsu hiểu rất rõ rằng yêu thương kẻ thù việc vượt quá khả năng của chúng ta, nhưng đây là lý do tại sao Ngài đã trở thành người: không phải để chúng ta như chúng ta hiện tại, mà để biến đổi chúng ta thành những người có khả năng yêu thương lớn hơn, đó là tình yêu của Chúa Cha và của chúng ta. Đây là tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho những ai “nghe Ngài”. Vì vậy, điều đó trở nên khả thi! Với Ngài, nhờ tình yêu của Ngài, nhờ Thánh Thần của Ngài, chúng ta có thể yêu thương ngay cả những người không yêu thương chúng ta, ngay cả những người làm hại chúng ta…Những ai lắng nghe Chúa Giêsu, những ai nỗ lực theo Ngài ngay cả khi phải trả giá, sẽ trở thành con cái Thiên Chúa và bắt đầu thực sự giống Chúa Cha trên trời…Điều đó mang lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an. Chúng ta không còn cần đến bạo lực, bằng lời nói và cử chỉ: chúng ta khám phá ra rằng chúng ta có khả năng dịu dàng và tốt bụng; và chúng ta cảm thấy rằng tất cả những điều này không đến từ chính chúng ta mà từ Thiên Chúa” (Kinh Truyền Tin, Quảng trường Thánh Phêrô, 24.02.2019)
- Chuẩn mực của tình yêu: như Cha anh em là Đấng nhân từ
Nếu Cha trên trời là Đấng nhân từ, thì chúng ta, những người con của Ngài, cũng phải nhân từ: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6: 36). Chúa Giêsu xác quyết đây chính là chuẩn mực của tình yêu, của lòng thương xót của Thiên Chúa, và cũng là chuẩn mực sống của những ai muốn là môn đệ của Ngài. Đối với Chúa Giêsu, hoặc là yêu, yêu hết mình, hoặc là không yêu một chút nào cả, vì yêu thương là từ bỏ hoàn toàn bản thân, như Chúa Giêsu Kitô đã yêu: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Philípphê 2: 8).
Có lẽ chúng ta cũng thường tự hỏi: nếu chúng ta cho đi, liệu chúng ta có được nhận lại những gì tương xứng không? Không có câu trả lời nào chắc chắn từ phàm nhân đời này cả. Nhưng có một câu trả lời chắc chắn từ Thiên Chúa: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Ngài sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6: 38). Chúng ta được Thiên Chúa chúc phúc, khi chúng ta biết cho đi trước. Vì vậy, chúng ta nên tự hỏi: khi cho đi, tôi có cho đi thật lòng không, cho đi trong vui vẻ, thanh thản và bình an không?
Để sống như vậy, người ta phải mở lòng để đón nhận tình yêu thương của Chúa Kitô dành cho mình trước. Chỉ khi cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa dành cho riêng mình chan chứa như thế nào, người ta mới có thể, đến lượt mình, dành tình thương cho những người chung quanh. Khi đó, người ta bắt đầu sống với Chúa, vì Chúa, rồi sống với nhau, vì nhau… Chính khi cảm nhận được tình yêu bao la của Thiên Chúa, qua Chúa Kitô, mà những người môn đệ của Ngài muốn sống với và sống giống như Chúa của mình. Họ không còn thèm muốn sự giàu có của thế gian, như chiếm hữu cá nhân để hưởng thụ ích kỷ riêng tư. Họ xem nhẹ những điều sai trái mà người đời gây ra cho họ. Những sai trái ấy không thể làm mất đi điều tốt lành nơi cõi lòng sâu xa của họ, nhưng trái lại họ cảm thương “anh em mình” – những người xúc phạm đến họ – đánh mất chính mình trong tội lỗi. Vì vậy, như Chúa Giêsu, người môn đệ của Chúa Kitô không chỉ vui lòng không đáp trả bạo lực bằng bạo lực, mà thậm chí còn cầu nguyện cho kẻ thù của mình được hạnh phúc và hoán cải. Người môn đệ ấy thấm nhuần Lời của Chúa Kitô: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6: 37).
“Theo cách này, Chúa Giêsu muốn tình yêu của Thiên Chúa chiến thắng lòng hận thù và sự cay đắng trong mỗi trái tim. Logic của tình yêu, đạt đến đỉnh cao trong Thập giá của Chúa Kitô, là huy hiệu của người Kitô hữu và thúc đẩy chúng ta gặp gỡ mọi người bằng trái tim anh chị em. Nhưng làm sao có thể vượt qua bản năng con người và luật trả thù thế gian? Chúa Giêsu đưa ra câu trả lời trong cùng một đoạn Tin Mừng: “Hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (đã dẫn trên).
- Sống bằng tình yêu của Thiên Chúa, nhờ Chúa Kitô
Ờ đây, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đón nhận sức mạnh tình yêu của Ngài vào trong chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta sống tình yêu ấy; vì đó là con đường chân chính dẫn đến vinh phúc và sự sống đời đời. Quyết định là của chúng ta. Nhất là trong thời điểm bất ổn này của thế giới, khi bạo lực, xung đột, chiến tranh xảy ra rõ ràng, khi khủng hoảng kinh tế, xã hội và sức khỏe rất có thể khiến chúng ta nổi loạn và thất vọng. Có giải pháp nào căn cơ nhất cho con người chúng ta ngày nay không? Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một cung cách sống và ứng xử không phải là ngây ngô, ảo tưởng, bởi vì cung cách này mời gọi chúng ta gắn kết với nhau. Nói gắn kết là nói đến tham gia, góp phần, nói đến sự cho đi. Thường tình ai trong chúng ta cho đi mà không mong được nhận lại, nhưng nhờ ân sủng của Chúa Kitô thúc đẩy, chúng ta đủ sức mạnh để không quá đặt nặng việc được đền đáp, vì Chúa đã nói rõ: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng” (Lc 6: 32-34).
Trong thời đại và xã hội hiện nay, chúng ta nhận thức được rằng Lời Chúa là một ngôn ngữ khó hiểu đối với những người không tin theo Thiên chúa, nhưng đó lại là Lời của chính Chúa Kitô: “Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 6: 63). Hôm nay chúng ta có thực sự muốn sống bằng tình yêu của Thiên Chúa không, muốn thuộc về Đấng từ trời mà đến không, như thánh Phaolô nhắn nhủ các tín hữu Côrintô, trong bài đọc thứ hai: “Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15: 48-49).
Phêrô Phạm Văn Trung