3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

VÔ NGẦN VÔ HẠN

Thứ Năm Tuần 2 Phục Sinh C

“Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn!”.

“Lạy Chúa, xin cứ quấy rầy con, thúc bách con dám táo bạo hơn, lao ra những vùng biển lớn, nơi bão tố thể hiện quyền làm chủ của Chúa; nơi mất đất liền, con sẽ lần dò những vì sao! Xin đẩy lùi chân trời hy vọng của con ở người đời; giục con hướng tới một tương lai chỉ biết cậy trông vào Chúa, vào sức mạnh, khôn ngoan và tình yêu, những quà tặng vô ngần vô hạn của Ngài!” - Sir Frances Drake.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến những quà tặng vô giá mà Sir Frances Drake đề cập, đó là những gì Thần Khí Đấng Phục Sinh tặng trao những ai thuộc về Ngài - “Đấng được Thiên Chúa sai đi” - Đấng mà “Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người ‘vô ngần vô hạn!’”.

Hãy nhìn vào Hội Thánh sơ khai, nhìn vào các tông đồ để thấy sức mạnh nội tại của Thần Khí được ban! Trước thượng hội đồng, Phêrô và các tông đồ bị tra vấn về việc đã rao giảng một Đức Kitô tử nạn và phục sinh; các ngài đã ngoan cường lên tiếng, “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm!” - bài đọc một. Những lời ấy chỉ có thể phát xuất từ những con người đầy Thần Khí, tuyệt đối tin tưởng vào Ngài. Thánh Vịnh đáp ca xác tín, “Kẻ nghèo hèn kêu xin, và Chúa đã nhận lời!”.

Chúa Phục Sinh sẽ không dè sẻn khi phân chia món quà Thánh Thần cho bất cứ ai! Ngài ban tặng Thánh Thần cách ‘vô ngần vô hạn’. Nhờ Thánh Thần, Ngài nâng toàn bộ cuộc sống chúng ta lên một bình diện khác, bình diện ân sủng. Sự hào phóng của Ngài, trước hết, thể hiện trong Bí tích Thánh Thể. Mỗi khi chúng ta tiếp nhận Mình Máu Thánh, Chúa Phục Sinh để lại trong tâm hồn chúng ta một sự đổi mới; đồng thời, giúp chúng ta đào sâu sự hiện diện của Thánh Thần trong cuộc sống. Hiệp thông với Thánh Thể, thân xác và linh hồn chúng ta hưởng nếm sự bất tử của mầu nhiệm Phục Sinh.

Thánh Thần là món quà hiệp nhất, cung cấp thuốc giải độc cho mọi khuynh hướng chia rẽ; chống lại sự kiêu ngạo, ích kỷ, bằng cách nhắc nhở chúng ta về sự khiêm nhường; thúc đẩy chúng ta sống bác ái, ban sức mạnh để mỗi người cho đi “Giêsu”, quà tặng ‘vô ngần vô hạn’ đã lãnh nhận, mà không tính toán hay kiết cáu.

Anh Chị em,

“Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn!”. Bởi Thánh Thần, Chúa Giêsu đi vào trần gian, hoạt động trong Thánh Thần; khi trút hơi thở, Ngài “trao Thần Khí”. Cũng thế, nhờ Thánh Thần, các tông đồ và con cái Giáo Hội hai ngàn năm qua không ngừng “lao ra những vùng biển lớn, bất chấp bão tố”. Bởi lẽ, Thánh Thần là tình yêu, sức mạnh và là món quà tuyệt hảo của Đấng không tính toán; trái lại, ban ân sủng của Ngài cách hào hiệp. Và tất nhiên, Ngài cũng đang chờ đợi sự đáp trả của bạn và tôi là những người vốn không cần “lần dò những vì sao”, chỉ cần ngoan nguỳ dưới bàn tay của Thánh Thần để hoàn tất những gì Chúa Phục Sinh còn dang dở; đó là trở nên chứng tá “hướng đến một tương lai” đầy sự hiện diện của Thiên Chúa trong một thế giới loại trừ Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con thoả mãn với những con cá quèn của ao đầm! Dạy con lao ra những vùng biển lớn; với Thánh Thần, con đánh bắt từng mẻ linh hồn về cho Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh

Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:

1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ngươì xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.

Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.

2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.

Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.

Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh Chúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.

Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.

3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.

Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.

Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.

4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.

Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.

Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.

Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.

Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.

Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.

Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.

Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.

Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

NHỮNG VẾT SẸO...

LỄ KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA - CHÚA NHẬT II PHỤC SINH, CUỐI TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

Chắc không ai sống trong đời mà lại không có bất cứ một vết sẹo. Có thể là vết sẹo của một lần đùa giởn vô ý gây ra. Có thể là vết sẹo của một lần đứt tay, hay một vết trầy xướt trên thân thể. Cũng có thể là vết mỗ do bệnh tật lâu ngày đã liền da…

Tuy nhiên, có những vết sẹo được nhìn thấy bên ngoài, trên thân xác, nhưng cũng không ít những vết sẹo trong tâm hồn, trong trái tim, trong trí nhớ, trong cuộc đời… không bao giờ chủ nhân của nó quên được.

Mỗi vết sẹo dù trên thân xác, hoặc trĩu nặng trong tâm hồn đều gợi lại một câu chuyện, một sự tích, một lý do... Có khi là những kỷ niệm của niềm vui, nhưng cũng có khi là những đau đớn không thể nguôi ngoai…

I. VẾT SẸO - DẤU CỦA THÁNH GIÁ.

Hôm nay, Tin Mừng cho biết có đến hai lần Chúa hiện ra. Cả hai lần, thánh Gioan ghi nhận Chúa hiện ra có cùng một cách thế. Lần thứ nhất, ngay khi hiện ra,“Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người”.

Có gì trên tay và trên cạnh sườn mà Chúa cho xem? Nơi ấy, dấu thánh giá không bị phai nhòa. Trên đôi cánh tay, trên cạnh sườn còn nguyên dấu tích của những cây đinh, của lưỡi đòng đâm thấu qua. Chính những vết sẹo, cũng chính là dấu thánh giá còn mới nguyên trên thân thể Chúa.

Những vết sẹo, dấu chứng của thánh giá trở thành dấu chỉ của niềm tin nơi các tông đồ. Nhìn vào dấu của thánh giá trên thân thể của người đang hiện diện trước mặt mình, các tông đồ đã tin Thầy mình sống lại.

Nhưng lần ấy, khi Chúa hiện ra, thánh Tôma không có mặt. Thánh nhân nhất quyết không tin.

Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra, có mặt thánh Tôma. Lần này thái độ của Chúa mạnh hơn, dứt khoát hơn. Chúa không chỉ đưa tay và cạnh sườn cho xem, nhưng Chúa Giêsu Phục Sinh lên tiếng: “Tôma, hãy xỏ ngón tay của con vào lổ đinh trên tay Thầy đây, hãy thọc bàn tay của con vào cạnh sườn của Thầy. Con đừng cứng lòng tin nữa, mà hãy tin”.

Mới hôm nào dõng dạc tuyên bố: “Nếu tôi chưa xỏ ngón tay tôi vào lổ đinh của Chúa, nếu tôi chưa thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi không tin”. Tuyên bố mạnh mẽ là thế, kiên quyết là thế, dứt khoát là thế, nhưng bây giờ trước dấu thánh giá còn in sâu một cách hùng hồn trên thân thể của Đấng Phục Sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.

Một lần nữa, qua thái độ của thánh Tôma, thánh Gioan cho thấy, chỉ sau khi xem những vết sẹo trên tay và cạnh sườn bị thương tích, các môn đệ mới tin, đó là Chúa của họ. Chỉ sau khi xem những vết sẹo trên tay và cạnh sườn bị thương tích, họ mới hết nghi ngờ, mới cảm thấy “vui mừng vì xem thấy Chúa”.

Vết sẹo hay dấu chứng của thập giá trở thành bằng chứng của lòng tin: CHÚA ĐÃ PHỤC SINH.  Như vậy dấu của thánh giá là bảo đảm cho đức tin của các môn đệ. Dấu của thánh giá là bảo đảm cho đức tin của chúng ta.

Chúa Kitô đã phục sinh. Dù đã phục sinh, Chúa đã không tự xóa bỏ dấu vết đau khổ trên thân thể của mình. Sự phục sinh dù vinh hiển và khải hoàn đến đâu, vẫn không thể xóa nhòa bất cứ một dấu ấn nào của thánh giá.

Trái lại, dấu vết của đau khổ, của thánh giá vẫn còn trên thân thể sáng láng của Đấng Phục Sinh, lại làm cho các môn đệ dễ nhận ra đức tin, vững tin và được củng cố đức tin.

II. NHẬN RA ĐIỀU GÌ QUA CÁC SẸO ẤY?

Vết sẹo hay dấu chỉ thánh giá trên thân thể Đấng Phục Sinh cho ta nhận ra hai điều này:

  1. Dấu ấn của tình yêu trước tội lỗi.

Dấu vết thập giá không chỉ là những kỷ niệm về một cái chết nhục nhã còn ghi lại trên thân thể Đấng Phục Sinh, mà là một nhắc nhở cho ta về khuôn mặt tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu ấy, Thiên Chúa đã cúi mình thật sâu trong thân phận con người để ta được diễm phúc làm con Thiên Chúa. 

Dấu vết kinh hoàng của thập giá trên thân thể Đấng Phục còn là nỗi đau trong tâm hồn nhân loại mỗi khi họ nhìn vào đó mà nhận ra sự khủng khiếp do tội lỗi của chính mình gây ra.

Mãi mãi dấu thánh giá vẫn không bao giờ mai một trong Hội Thánh nói riêng và trong nhân loại nói chung. Bất cứ nơi đâu, nếu nhìn thấy bóng dáng thánh giá, người ta vẫn nhận ra rằng, tình yêu của Thiên chúa là một tình yêu chung thủy, vẫn mãi mãi hiện diện giữa lòng đời, dẫu hết thời gian này đến thời gian khác, con người không ngừng bất trung và sai phạm.

  1. Đau khổ trong đời người.

Mặt khác, Mỗi người đều có nỗi buồn: gia đình đang sum họp, bỗng dưng người vợ hay người chồng phản bội, rẽ sang hướng khác. Gia đình đang sung túc, bỗng dưng người thân ra đi vĩnh viễn, mà người thân đó có khi là cột trụ của đời sống, của kinh tế gia đình. Mất mát thật to, nỗi buồn càng lớn...

Hay con đường tương lai, sự thành công đang ở trước mặt, bỗng dưng một biến cố đau thương xảy đến, làm mất hết tất cả. Hay hy vọng đang ngời ngời sáng phía trước, bỗng dưng mất mát người thân yêu nhất đời mình…

Những lúc bi đát đến cùng cực, chúng ta hãy nhìn về phía Chúa Giêsu, để thấy thánh giá là điều hiển nhiên của cuộc đời mỗi người. Đó là cây thánh giá mà ta phải vác đi theo tiếng gọi của Chúa: “Ai theo Ta hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”.

Chúng ta may mắn vì được tôn thờ một Thiên Chúa đã từng biết đến đau khổ, và hôm nay, sau khi phục sinh, Chúa của chúng ta vẫn còn mang trên thân thể những lỗ gai nhọn đâm vào đầu, những lỗ đinh xuyên thủng bàn tay, bàn chân, và dấu của cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu.

Nói cách khác, chúng ta có một Thiên Chúa biết đến đau khổ là gì, chết là gì, để trong nỗi đau và trong nỗi chết chóc thường ngày của ta, Chúa gần gũi với ta, Chúa chia sớt cùng ta, Chúa thấu hiểu từng thách thức mà đời ta luôn đối diện và không ngừng trải qua...

Vì thế, ta tin, trong cuộc đời của mình, không ai là đơn lẻ, không ai là mồ côi. Chúa vẫn đang đồng hành khi ta ấp ủ Chúa trong mọi buồn vui của bản thân. Thánh giá Chúa vẫn không ngừng soi rọi để cứu độ thập giá đời ta.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

LÒNG THƯƠNG XÓT

(Tđcv 5, 12-16; Kh 1, 9-11a. 12-13. 17-19; Ga 20, 19-31) 

Truyện kể: Một võ sĩ đã trở lại đạo. Ngày kia, người bạn của anh gặp mặt và hỏi: Tôi nghe anh mới tòng giáo, thật tức cười. Võ sĩ nói: Sao lại tức cười, đó là điều tốt mà anh. Người bạn nói thêm: Nếu vậy, liệu anh xóa nổi chân tướng du côn cao bồi trước chăng? Những vết sẹo trên mặt anh sẽ tố cáo tung tích của anh. Võ sĩ trả lời: Tôi không ngại chi về điều đó. Những vết sẹo kia, nay trở thành cửa sổ cho ơn Chúa chảy vào hồn tôi. Cũng vậy những tội của chúng ta đã được tha, tuy còn dấu vết, nhưng là dấu vết của tình thương Chúa vậy. 

Đôi khi chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu còn giữ những vết sẹo trên lòng bàn tay, bàn chân và cạnh sườn từ khi bị đóng đinh thập giá? Vì khi Chúa Phục Sinh, Chúa có thể chọn bất cứ hình hài và thân xác hoàn hảo như các thiên thần. Khi xuất hiện, Chúa đã giữ nguyên những vết sẹo để các môn đệ có thể thấy và có thể sờ chạm. Sự kiện Chúa Kitô phục sinh sẽ không hoàn toàn thuyết phục, nếu không có những vết sẹo trên tay, chân và cạnh sườn của Chúa. Chúng ta biết khi con người mơ ước, ai trong chúng ta cũng ước mong có khuôn mặt tươi tắn, hàm răng đẹp, da nốt mịn màng và khung hình thon đẹp. Chúng ta mong ước một thân xác hoàn hảo không vết nhăn. Nhưng Chúa Kitô phục sinh đã xuất hiện một cách ngoại thường, trên thân mình vẫn mang những vết sẹo hằn sâu để nhắc nhớ chúng ta sự hy sinh đau khổ để cứu chuộc nhân loại. 

Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện với các tông đồ qua quyền năng của Ngài. Chúa trao cho các ngài uy quyền chữa lành tất cả các bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ ma quỷ. Rất nhiều người đã tuôn đến xin ơn lạ và lãnh nhận ơn cải đổi tâm hồn. Hạt giống đức tin được gieo vào lòng người. Từng tâm hồn hối cải trở về với Chúa. Họ đã được lãnh nhận ơn sủng chữa lành phần xác và tô điểm tâm hồn. Họ là những tín hữu nồng cốt xây dựng Hội Thánh sơ khai trên trần thế. Giáo Hội bắt đầu nẩy mầm và phát triển sinh hoa kết trái. 

Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia. Điều vô cùng quan trọng là Chúa Giêsu trao ban quyền tháo cởi và cầm giữ cho các tông đồ. Các tông đồ nhận lãnh ơn chữa lành và thực hành các phép lạ để đặt nền móng cho Giáo Hội sơ khai. Nhưng chìa khóa của sự tháo cởi và cầm buộc tinh thần được lưu truyền qua ngàn muôn thế hệ. Chúa Giêsu thấu tỏ sự ương ngạnh cứng cỏi cũng như sự yếu đuối thấp hèn và tội lỗi của con người. Chúa đã lập Bí tích Hòa Giải để mọi người có cơ hội hối lỗi trở về với lòng nhân từ của Chúa. Chúa tin tưởng vào quyền tài phán của các tông đồ và những người kế vị. Chúa đã trao quyền cho Giáo Hội qua biểu tượng của chiếc chìa khóa thánh Phêrô. Biết rằng trao chìa khóa cho ai là đặt niềm tin tưởng nơi người đó.

Chúa Giêsu nhắc nhở các tông đồ: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! "(Ga 20, 29). Các tông đồ đã được diễm phúc nhìn thấy Chúa Phục Sinh nhãn tiền. Các ngài được gặp gỡ, ngồi chung bàn bẻ bánh, đàm thoại, ăn uống và được Chúa ban bình an chúc lành. Các Tông Đồ sẵn sàng ra đi làm nhân chứng. Làm nhân chứng là phải đối diện với sự sống sự chết. Tất cả mười một vị Tông đồ đã đổ máu đào chứng minh niềm tin sắt son vào Chúa Kitô Phục Sinh. Thánh Gioan là nhân chứng sống động cho tình yêu Chúa. Mọi lời rao giảng dạy dỗ của thánh Gioan đều qui về tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Các tông đồ đã can đảm sống cho tình yêu và chết cho tình yêu.

Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Mỗi ngày chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô qua việc ghi dấu thánh giá trên mình. Chúng ta tuyên xưng Chúa là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, là Thầy và là Chúa. Tin vào Chúa là lắng nghe và thực hành lời Chúa. Nước Chúa rộng mở đón nhận mọi thành phần, nhưng điều quan trọng là chúng ta cần tin tưởng vào tình yêu của Chúa và tuân giữ lời Ngài. Vì đức tin không có thực hành thì đức tin chỉ là những triết thuyết viển vông và trống rỗng.

Mỗi lần tham dự thánh lễ, chúng ta cử hành mầu nhiệm sự chết và sống lại của Chúa Kitô. Chúng ta sẽ loan truyền ơn cứu độ cho tới khi Chúa lại đến. Lạy Chúa, những vết sẹo nơi thân mình đã nhắc nhở chúng con về lòng thương xót vô bờ của Chúa. Xin nguồn bình an và ân sủng của Chúa Kitô Phục Sinh tràn đổ trên tâm hồn mỗi người chúng con. Amen.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

TIN VÀO CHÚA KITÔ PHỤC SINH VÀ NHẬN LẤY THÁNH THẦN CỦA NGÀI

  1. Sự hoang mang ban đầu của các tông đồ về việc Thầy Giêsu phục sinh

Theo lịch Do Thái, đó là ngày đầu tiên trong tuần: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần” (Ga 20: 1), các tông đồ đã được bà Maria Mađalêna báo rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20: 2). Phêrô và Gioan chạy đến ngôi mộ. Hai ông thấy đúng những gì bà Maria Mađalêna kể lại: thi thể Chúa Giêsu không còn trong đó nữa. Nhưng điều lạ lùng là những tấm khăn liệm thi thể Ngài vẫn còn ở đó. Chi tiết này được kể hai lần: “Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó” (Ga 20: 4-5) và: “Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó.” Phêrô phát hiện thêm một điều quan trọng, đó là “khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20: 6-7). Những chi tiết này ngay lập tức đập vào mắt của Phêrô và Gioan. Xác chết dĩ nhiên không thể tự cởi bỏ khăn liệm của mình. Còn nếu có những kẻ muốn cắp xác người chết, hẳn chúng không phí thì giờ ngồi gỡ bỏ những tấm khăn liệm đó, lại càng không tốn công vô ích cuộn chúng lại, sắp xếp tấm nào ra tấm đó, có lớp lang trật tự như thế. Đã xẩy ra chuyện lớn rồi. Có lẽ hai ông nhớ lại chỉ mấy ngày trước đây khi Chúa Giêsu làm phép lạ vĩ đại cho anh Ladarô sống lại, Ngài nói với cô Mátta, chị anh ấy rằng: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11: 25). Họ bắt đầu suy nghĩ, và bàn luận với nhau rằng điều hẳn đã xảy ra là Thầy Giêsu đã sống lại. Chính thánh sử Gioan này, ngay chương hai của sách Tin Mừng của ngài, đã xác nhận điều này: “Vậy, khi Ngài từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Ngài đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Chúa Giêsu đã nói” (Ga 2: 22). 

  1. Niềm vui được tận mắt thấy Chúa Giêsu sống lại

Tuy nhiên, các ông vẫn rất hoang mang và ngay cả hoảng sợ vì những sự kiện của vài ngày trước. Các ông đã chứng kiến, ​​mắt thấy tai nghe, Chúa Giêsu chịu khổ hình dữ dội và chết thảm thương trên thập tự giá như thế nào. Hẳn các ông thất vọng với chính mình vì đã từng mạnh miệng nói sẽ trung thành với Thầy nhưng sau đó lại chối bỏ (Ga 18: 17, 25-26) và thậm chí trốn chạy khi Ngài bị bắt trong Vườn Giệtsimani. Hẳn các ông vô cùng hối hận về việc Chúa Giêsu đã phải chịu nhiều đau khổ và họ cảm thấy bất lực như thế nào khi không bảo vệ được Thầy mình. Các ông sợ chính quyền. Chắc chắn các ông sợ những nhà lãnh đạo Do Thái đứng sau âm mưu giết Chúa Giêsu. Các ông sợ cho mạng sống của chính mình, sợ cho tương lai bất định của mình. Và cũng không phải là vô lý khi có người nghĩ rằng các ông cũng sợ chính Thầy Giêsu của mình, đơn giản bởi vì các ông sẽ ăn nói sao đây với Vị Thầy mà các ông đã khiến Ngài thất vọng rất nhiều. Phêrô đã chối Ngài ba lần, và những người còn lại đã bỏ rơi Ngài, ngoại trừ “người môn đồ mà Chúa Giêsu yêu thương”, người đã ở dưới cây thập tự và đã đưa rước mẹ của Chúa Giêsu về nhà mình (Ga 19: 27). Dù sao đi nữa, cuối cùng thì có lẽ người mà các môn đệ muốn gặp nhất vào buổi tối hôm đó chính là Chúa Giêsu, đã sống lại từ cõi chết, để họ được đối mặt và trả lời Ngài về những nhát đảm và thất tín của họ. Cửa nhà thì đóng kín nhưng tâm hồn của họ đã mở sẵn rồi. Tâm hồn chúng ta có mở sẵn để đón nhận Đấng Phục Sinh chưa?

Tất nhiên, Chúa Giêsu sẽ không bị ngăn cản bởi những cánh cửa đóng kín. Chính Ngài là “cửa cho chiên ra vào” (Ga 10:7) đã đi thẳng qua những cánh cửa đóng kín đó và xuất hiện giữa bầy chiên đang sợ hãi của Ngài. Ngài đến không phải để đối chất với các môn đệ của Ngài về những thất bại của họ. Ngài không nói bất cứ lời nào trách cứ các ông nhưng Lời đầu tiên của Ngài lại là: “Bình an cho anh em” (Ga 20: 19). Đó là một lời vừa chào vừa chúc, xóa sạch không chỉ tất cả những bất trung của các môn đệ mà còn đem lại một sức mạnh mới, không còn nhuốm một chút nào mầu sắc buồn bã, lo âu, sợ hãi, áy náy, băn khoăn, hoang mang, bất định, cảnh giác, đề phòng, thủ thế…mà là một cảm giác vui tươi, bình an sâu sắc và trọn vẹn - loại bình an mà Ngài đã để lại cho các ông: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga14:27). Xin Đấng Phục Sinh ban cho chúng ta sự bình an trọn vẹn và sâu thẳm mà Ngài đã ban cho các môn đệ đầu tiên.

Rồi thì, Chúa Giêsu “cho các ông xem tay và cạnh sườn” (Ga 20: 20) để các ông có thể thấy rằng chính Ngài, thực sự bằng xương bằng thịt, đã bị đóng đinh, chết, chôn trong huyệt mộ, nhưng bây giờ đang ở trước mặt các ông tỏ tường. Giờ thì không còn hoang mang, nghi ngờ, sợ hãi gì nữa, nên “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20: 20). đúng như Chúa Giêsu đã nói với họ trước kia: “Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Ga 16:22). Chúng ta hãy thường xuyên cất lên tiếng ca Alleluia – Ngợi khen Chúa - trong vui mừng hoan hỉ không ai lấy mất được, vì Đấng Phục Sinh đã chiến thắng tử thần và chúng ta có thể gặp Ngài mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống của mình.

  1. Đón nhận Thánh Thần của Chúa Kitô Phục Sinh và được sai đi

Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20: 21). Các tông đồ được sai đi để tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu là mặc khải Thiên Chúa cho thế giới. Các ông sẽ không bị bỏ lại một mình trong nhiệm vụ khó khăn này. Chúa Giêsu đã hứa sẽ sai một Đấng Bảo Trợ khác (παρακλητός trong Tin Mừng Gioan là Thần khí sự thật, Thánh Thần, Đấng hiện diện với, Thầy dạy, Chứng Nhân, Đấng mặc khải, Đấng dẫn đường, Ngôn sứ và Đấng tôn vinh Chúa Giêsu: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài. Còn anh em biết Ngài, vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14:16-17). Bây giờ, Ngài thực hiện lời hứa đó. Như hành động sáng tạo xưa kia: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (Sáng thế 2:7), thì nay “Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (20:22) như hành động sáng tạo mới. “Thần Khí sự thật” này “sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14: 26) và “Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Ngài nghe, Ngài sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (14:26; 16:12-14).

Sau đó, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:23). Như nhiều nhà chú giải đã chứng minh, “tội lỗi” trong Tin Mừng của Thánh Gioan không phải là một phạm trù đạo đức; mà về cơ bản, đó là sự không có lòng tin, là sự từ chối tiếp nhận sự mặc khải của Thiên Chúa qua con người của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu không trao cho các môn đệ của Ngài một quyền năng đặc biệt nào đó để quyết định tội lỗi của ai sẽ được tha thứ và tội lỗi của ai sẽ không được tha thứ. Thay vào đó, Ngài cho thấy rõ hơn ý nghĩa của việc được sai đi, để làm cho mọi người biết đến tình yêu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Khi mọi người biết đến và ở lại trong Chúa Giêsu, họ sẽ được “giải thoát” khỏi tội lỗi của họ. Tuy nhiên, nếu những người được Chúa Giêsu sai đi không làm chứng, thì mọi người sẽ vẫn mắc kẹt trong sự không tin của họ; tội lỗi của họ sẽ bị “cầm giữ.” Sứ mệnh này thực sự rất cao cả. Xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta Thánh Thần của Ngài để chúng ta làm chứng cho Lòng Thương Xót Cứu Độ của Thiên Chúa, bằng nghĩ suy, lời nói, hành vi, cách sống hằng ngày của chúng ta.

  1. Đức tin của Tôma

Vì một lý do nào đó mà chúng ta không biết rõ, Tôma đã vắng mặt và bỏ lỡ cuộc gặp gỡ đầu tiên vào tối Chủ Nhật này với Chúa Giêsu phục sinh. Mặc dù ông bị coi là “kẻ cứng lòng tin”, nhưng điều ông mong cầu không khác gì điều những người khác đã nhận được: được nhìn thấy Chúa Giêsu, với những vết thương: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin” (Ga 20: 25). Điều kỳ diệu của câu chuyện này là Chúa Giêsu lại xuất hiện một lần nữa một tuần sau đó để đáp ứng đúng những gì Tôma cần: “Tám ngày sau, các môn đệ Chúa Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em. Rồi Ngài bảo ông Tôma: Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20: 26-27). Và Tôma đáp lại bằng lời tuyên xưng đậm tính Kitô học nhất. Đó không chỉ đơn thuần là lời tuyên xưng về giáo lý, mà là lời tuyên xưng về lòng tin và mối tương giao cá vị của ông với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20:28). Chúa Giêsu biết những mong muốn của mỗi người chúng ta nơi Ngài, và Ngài có cách giải quyết đúng nơi đúng thời.

Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20:29) không phải là một lời khiển trách, mà đúng hơn là một chúc lành cho tất cả những ai sẽ tin dù không có một cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt với Chúa Giêsu. Thật vậy, thánh sử Gioan tuyên bố rằng đây chính là mục đích của sách Tin Mừng này: “Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài” (Ga 20: 31).

Trong mùa Phục sinh với những tiếng hát Alleluia -Hãy ngợi khen Chúa, chúng ta dường như không một chút lo buồn, sợ hãi, hoang mang hay nghi ngờ. Chúng ta dễ quên rằng các môn đệ đầu tiên đã cảm thấy lo buồn, sợ hãi, nghi ngờ, và bối rối trước khi hiểu ra và vui mừng về những gì đã diễn ra vào ngày hôm đó. “Tám ngày sau, các môn đệ Chúa Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín” (Ga 20: 26). Việc “các cửa vẫn đóng kín” như tám ngày trước (Ga 20: 19) cho thấy Tôma không phải là người duy nhất cần sự trấn an của Chúa Giêsu rằng Ngài thực sự đã chiến thắng cái chết.

Khi Tôma muốn chắc chắn rằng người trước mặt mình là Chúa Giêsu, ông được Ngài mời đặt tay vào những vết thương của Ngài. Chúa Giêsu dùng những vết thương đó để giúp Tôma nhận ra Ngài. Chúa Kitô có những vết thương của Ngài. Chúng ta có những vết thương của mình. Chúa Kitô Phục Sinh vẫn đồng cảm và đồng hành với chúng ta trong những đau đớn thân xác và những đau khổ tâm hồn của chúng ta. Những vết thương của Đấng Phục Sinh là dấu hiệu cho thấy “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19: 30). Những đau đớn thân xác và những đau khổ tâm hồn của chúng ta cũng sẽ hoàn tất, chỉ trong Chúa Kitô chịu khổ hình, chết trên Thập tự giá và nhất là đã sống lại, như bài đọc thứ hai khẳng định: “Tôi là Gioan, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Chúa Giêsu… Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa… Lúc thấy Ngài, tôi ngã vật xuống dưới chân Ngài, như chết vậy. Ngài đặt tay hữu lên tôi và nói: Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:9-10, 17-18).

Trong Thánh Thần của Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, chúng ta hân hoan ca mừng và tuyên xưng: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118: 22-24).

 

Phêrô Phạm Văn Trung

 

Subcategories