3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

TIN MẠNH MẼ VÀ SỐNG NHỎ BÉ

Cuộc đời Kitô hữu là hành trình được định hướng bởi đức tin, đức cậy và đức ái, nhưng luôn đối mặt với thử thách do những yếu đuối của xác thịt, những dục vọng trong lòng và những tác động của người đời gian ác. Lời các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17: 5), không chỉ là lời cầu xin của các môn đệ khi xưa, mà còn là tiếng kêu của mỗi người chúng ta ngày nay trước những giới hạn của bản thân.

  1. Quyền năng của đức tin hạt cải

Chúa đáp: Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17: 6). “Lòng tin lớn bằng hạt cải” mà Chúa Giêsu nói đến buộc chúng ta chú tâm suy ngẫm. Hạt cải nhỏ bé nhưng lớn lên thành cây to nhất trong vườn. Hình ảnh hạt cải nhỏ bé nhưng chứa đầy sức mạnh này cho thấy rằng quyền năng của đức tin nằm ở phẩm chất, chứ không phải số lượng. Đức tin là sự tín thác trọn vẹn, dù khởi đầu nhỏ bé nhưng có thể phát triển và bén rễ sâu vào Thiên Chúa, làm được những điều phi thường như “bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc.” Chúa Giêsu không nói về đức tin theo kiểu số lượng nhiều ít hay to bé, nhưng Chúa nói về bản chất và sức mạnh của đức tin đó. Cùng với dụ ngôn về người đầy tớ ý thức mình vô dụng, lời dạy này nhấn mạnh sự phục vụ trong khiêm tốn, biết mình nhỏ bé nhưng vẫn sẵn lòng tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, như lời đáp ca: “Bởi chính Ngài là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Ngài lãnh đạo, là đoàn chiên tay Ngài dẫn dắt” (Thánh vịnh 95: 7).

Thánh Clêmentê thành Alexandria suy niệm: “Đức tin đến từ sự dạy dỗ và lời Chúa, để thực hiện các điều răn. Các tông đồ là những người như vậy, có đức tin chuyển núi và dời cây. Bởi vậy, nhận thấy sức mạnh lớn lao của đức tin, các ngài đã cầu xin Chúa tăng thêm đức tin cho họ; một đức tin bén rễ sâu vào đất như hạt cải, và lớn lên mạnh mẽ trong đất, đến mức những điều cao cả đều dựa vào đó… Vì vậy, các tông đồ cũng khuyên nhủ: đức tin của anh em chớ đặt nơi sự khôn ngoan của loài người, những kẻ tự xưng mình là đáng tin, nhưng phải đặt nơi quyền năng của Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể cứu rỗi con người mà không cần bằng chứng, chỉ bằng đức tin” [1]. Điều phi thường không đến từ sức mạnh con người, mà từ sự khiêm tốn phó thác vào Thiên Chúa: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10).

Người đầy tớ làm việc cả ngày, phục vụ chủ nhưng người chủ không cần phải mang ơn, vì đó là bổn phận của người đầy tớ. Tương tự, mọi việc lành chúng ta làm chỉ là bổn phận của thụ tạo đối với Đấng Tạo Hóa. Chúng ta không thể đòi Thiên Chúa “trả nợ” với lý do là chúng ta đã sống đời tốt lành. Khái niệm công trạng trong mối tương quan với Thiên Chúa cần phải loại bỏ.

Qua dụ ngôn này chúng ta mời gọi sống khiêm tốn triệt để. Dù làm được phép lạ hay phục vụ người nghèo cả đời, thái độ cuối cùng phải là: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng.” Chúng ta phục vụ không để được khen thưởng, mà vì được tạo dựng để yêu mến và phụng sự Thiên Chúa.

Thánh Ambrôsiô tóm tắt: “Cũng như chúng ta không những không nói với người hầu của mình hãy nghỉ ngơi đi, mà còn đòi hỏi người ấy phục vụ thêm nữa, mà không cảm ơn người ấy, thì Thiên Chúa cũng không cho phép chúng ta chỉ làm một việc duy nhất, vì ai còn sống thì phải luôn làm việc. Vậy nên, hãy nhìn nhận chúng ta là những người đầy tớ, bằng cách thực hiện nhiều hành động vâng phục theo phận sự. Chúng ta cũng không nên tự đề cao mình chỉ vì chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta đã phục vụ tốt trong những gì mình phải làm thì chúng ta cũng không nên tự hào. Mặt trời vâng lời, mặt trăng phục tùng, các thiên thần phục vụ” [2].

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh: “Rất nhiều Kitô hữu giống như thế này: họ tốt lành, họ đi lễ, nhưng liên quan đến việc phục vụ thì  họ chỉ đi đến một mức độ nào đó. Nói phục vụ, là nói đến tất cả mọi thứ: phục vụ Thiên Chúa trong sự thờ phượng, trong lời cầu nguyện, trong lời ngợi khen, phục vụ người lân cận và phục vụ đến cùng. Chúa Giêsu mạnh mẽ về điều này và khuyên: Cũng vậy, khi đã làm xong mọi điều được truyền dạy, hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Điều quan trọng là phục vụ phải tự nguyện, không đòi hỏi bất cứ điều gì đáp lại” (Suy niệm buổi sáng tại nhà nguyện Thánh Mácta, thứ Ba, ngày 11 tháng 11 năm 2014).

Tại Việt Nam, các Dòng tu, Tu hội Đời và nhóm thiện nguyện Công giáo đang âm thầm phục vụ tại các cơ sở nuôi dưỡng trẻ mồ côi, người khuyết tật, và bệnh nhân AIDS/người già neo đơn. Công việc chăm sóc hàng ngày như tắm rửa, cho ăn là vô cùng khó khăn, đòi hỏi sự hy sinh toàn diện. Khi được hỏi, họ khiêm tốn trả lời: “Chúng tôi chỉ đang làm những gì Chúa muốn” hoặc “Đây là bổn phận của người môn đệ,” coi đó là vinh dự được phục vụ Chúa Giêsu nơi người nghèo khổ nhất.

Tương tự, nhiều giáo dân và nhóm Caritas tổ chức các hoạt động như nấu cháo miễn phí, thăm bệnh nhân, làm việc kín đáo, không phô trương thành tích. Họ dùng thời gian và tài lực cá nhân để giúp đỡ, xem đây là lòng biết ơn đối với ơn cứu độ của Chúa, một mẫu gương sống động của sự khiêm tốn phục vụ vô vị lợi [3].

  1. Trung tín giữa những gian ác

Tuy nhiên, thực tại khắc nghiệt được tiên tri Khabacúc mô tả: “Cho đến bao giờ, lạy Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: Bạo tàn! mà Ngài không cứu vớt?” (Kh 1: 2). Đó là những thử thách đức tin trong sự chờ đợi kiên nhẫn. Tiên tri Khabacúc mô tả thử thách của đức tin: “Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau? Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn, chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ” (Kh 1: 2-3). Tiếng kêu này biểu lộ sự bất công và sự dường như im lặng của Thiên Chúa, một thực tại vang vọng qua mọi thời đại, đặc biệt trong chiến tranh, khủng hoảng, và áp bức. Lời than van của Khabacúc thách thức sự “bình chân như vại” trong sự yên ổn của chính mình, mời gọi chúng ta không chấp nhận bất công như một chuyện đương nhiên, mà kêu cầu Thiên Chúa với lòng tin chân thật.

Thiên Chúa đáp lại: “Hãy viết lại thị kiến và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy. Đó là một thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu” (Kh 2: 2-3). Đây là bài học về đức cậy trông đối thần: dù công lý có chậm đến, nhưng quyền năng vinh quang của Thiên Chúa là chắc chắn.

Chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi Ngài. Câu then chốt của ngôn sứ Khabacúc: “Người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (Kh 2: 4) trở thành nền tảng cho giáo lý Thánh Phaolô về sự công chính hóa bằng đức tin: “Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do thái, sau là người Hy lạp. Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1: 17). “Thành tín” là sự kiên trì sống công chính giữa những gian ác, mang lại ý nghĩa và mục đích cho cuộc sống. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI viết rằng hy vọng Kitô giáo không phải là ý tưởng, nhưng là “một cuộc gặp gỡ với Chúa của các chúa, một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, và qua đó gặp gỡ một niềm hy vọng còn mạnh hơn những cơ cực của kiếp nô lệ, một niềm hy vọng, do đó, thay đổi cuộc sống và thế giới tự bản chất bên trong” (Spe Salvi, 4).

  1. Thần Khí của Thiên Chúa và Kho Tàng Chân Lý

Thánh Phaolô, trong thư gửi Timôthê, chỉ ra con đường vượt qua sự trì trệ và sợ hãi: làm sống lại ơn sủng và gìn giữ kho tàng đức tin. Những lời này hợp thành giáo huấn trọn vẹn: đức tin cao cả cần sự khiêm tốn, kiên nhẫn giữa bất công, và lòng dũng mạnh để làm chứng.

Thánh Phaolô khuyên Timôthê: “Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh” (2 Tm 1: 6). Ơn sủng cần được khơi dậy, vì đức tin là thực tại sống động, đòi hỏi nỗ lực cá nhân. Điều cản trở là nỗi sợ hãi, nhưng “Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1:7). Thần khí sức mạnh giúp làm chứng và chống lại gian ác. Thần khí bác ái để yêu thương, phục vụ, đặc biệt với người nghèo. Thần khí tiết độ để tự chủ, không bị cuốn vào tự mãn hay vật chất.

Phaolô kêu gọi Timôthê không hổ thẹn làm chứng cho Chúa, chấp nhận đau khổ để tuyên xưng đức tin. Thánh nhân hướng dẫn: “Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Chúa Kitô Giêsu, anh hãy lấy những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy làm mẫu mực” (2 Tm 1:13) và “Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta” (2 Tm 1:14). “Giáo lý tốt đẹp” ở đây chính là đức tin tông truyền, không thể bóp méo. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh: “Đức tin Kitô giáo không chỉ đơn thuần là một tập hợp các mệnh đề được chấp nhận với sự đồng thuận về mặt trí tuệ. Đúng hơn, đức tin là một sự hiểu biết sống động về Chúa Kitô, một sự ghi nhớ sống động về các điều răn của Ngài, và một chân lý để sống…Đức tin là một quyết định liên quan đến toàn bộ sự tồn tại của một người. Đó là một cuộc gặp gỡ, một cuộc đối thoại, một sự hiệp thông tình yêu và sự sống giữa người tin và Chúa Giêsu Kitô, là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Ga 14:6). Nó bao hàm một hành vi phó thác tin tưởng vào Chúa Kitô, điều này cho phép chúng ta sống như Ngài đã sống (Gal 2:20), trong tình yêu sâu sắc đối với Thiên Chúa và anh chị em của chúng ta” (Veritatis Splendor, 88).

Qua các bài đọc Kinh Thánh hôm nay, Hội Thánh, theo gương Chúa Giêsu, muốn dạy rằng: sự phục vụ lớn lao nhất nằm trong sự khiêm tốn lớn lao nhất. Khi sống ý thức mình chỉ là “đầy tớ vô dụng”, chúng ta sẽ được giải phóng khỏi nỗi lo lắng về phần thưởng, khỏi sự tự mãn về những công phúc của mình, vốn không đáng gì. Khi đó chúng ta sẽ phục vụ với niềm vui thuần khiết vì vinh quang Thiên Chúa. Sống đức tin mạnh mẽ, kiên nhẫn, can đảm, nhưng mặc lấy sự khiêm tốn của người đầy tớ vô dụng, đó là điều Chúa Kitô muốn nơi mỗi người môn đệ của Ngài.

Phêrô Phạm Văn Trung

 

[1] The Stromata, or Miscellanies, Book V, Chapter I - On faith https://www.earlychristianwritings.com/text/clement-stromata-book5.html

[2] We Are Unprofitable Servants https://catholicism.org/we-are-unprofitable-servants.html

[3] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giai-dap-thac-mac-cho-nguoi-tre-bai-117-nguoi-cong-giao-lam-tu-thien-54569

Tin và khiêm hạ

Nói đi nói lại, nói tới nói lui, căn cốt nhất của đời người vẫn là niềm tin. Niềm tin làm cho con người vững sống và vui sống. Khi con người tin vào Chúa, vào Thượng Đế, vào Ông Trời của đời mình thì mọi chuyện êm ả vì có Chúa, có Thượng Đế, có Ông Trời lo. Và vì thế, cũng chẳng lạ gì khi cuộc sống gặp khó khăn, thử thách người ta vẫn thường chạy đến Chúa, đến Thượng Đế, đến Ông Trời của mình.

Tâm tình cầu khẩn Đức Chúa của mình khi gặp thử thách gian nan được tiên tri Khabacuc ghi lại thật dễ thương. Dân chúng lâm vào cảnh khốn cùng và đã than thở với Đức Chúa của mình rằng :

Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa,
con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe,
con la lên: "Bạo tàn! " mà Ngài không cứu vớt?
Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài,
còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau?
Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn,
chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ.

Tiếng kêu cầu ấy đã “thấu tai” Đức Chúa và Đức Chúa trả lời :

"Hãy viết lại thị kiến
và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy.
Đó là một thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định.
Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành,
chứ không làm cho ai thất vọng.
Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ,
vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu.
Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục,
còn người công chính thì sẽ được sống,
nhờ lòng thành tín của mình."

Nghe tiếng kêu than của dân, Đức Chúa đã qủa quyết : Ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục còn người công chính thì sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình.

Lời ai oán, lời chất vấn về Thiên Chúa, về Đức Chúa của mình không chỉ ở thời của vị ngôn sứ Khabacuc mà ở mãi mọi thời.

Thời Khabacuc, Đức Chúa còn ở xa dân chúng thì dân chúng kêu gào Đức Chúa cứu giúp mình khi gặp thử thách gian nan là chuyện hợp lý, là chuyện dĩ nhiên.

Hôm nay, chúng ta được Thánh Luca thuật lại cũng những lời chất vấn về niềm tin nhưng chất vấn một cách trực tiếp với chính Chúa Giêsu. Nghĩ về các môn đệ, ắt hẳn nhiều người sẽ ngạc nhiên và buồn cười khi Thầy Giêsu sống với mình, đồng hành với mình mà lòng tin còn trục trặt, còn lung lay. Có lẽ “cây kim trong bọc có ngày cũng lòi ra” để rồi các môn đệ nói với Chúa Giêsu luôn : "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con." Nghe xong, Chúa Giêsu trả lời : "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em.

Câu trả lời thật bí nhiệm ! Lớn bằng hạt cải là bao nhiêu ? Hạt cải bé xíu xiu ấy vậy mà Chúa Giêsu lại đòi lòng tin lớn bằng hạt cải. Hình ảnh về lòng tin hết sức là trừu tượng và khó hiểu. Hạt cải vô cùng bé và Chúa Giêsu cũng mời gọi các môn đệ “Nếu ảnh em có lòng tin lớn bằng hạt cải” thôi. Hạt cải thật nhỏ bé đấy nhưng lòng tin nhỏ như hạt cải cũng khó khăn lắm để mà có.

Thử thách luôn luôn có trong cuộc đời chúng ta nhưng liệu rằng khi ấy có niềm tin hay không mà thôi.

Một lần vào bệnh viện thăm cha già nọ, trên con đường ra cổng thì thấy một nữ tu quen thuộc. Hỏi thăm thì nữ tu ấy cho biết em mình đang nằm cấp cứu. Em của sơ cũng là người thân quen trong niềm tin kitô giáo thôi.

Vào thăm bệnh nhân đang nằm trong phòng cấp cứu mới niệm thấy những biến cố của cuộc đời. Bệnh nhân đi làm thợ hồ, thứ Bảy, dọn dẹp chuẩn bị về thì bị ngã vào cạnh bàn bằng kính. Thế là toàn thân của anh bị mặt kiếng rạch một đường thật dài và thật sâu. Máu lai láng băng-ca. Uống thuốc cầm máu vô hiệu quả. Bác sĩ thấy nguy kịch nên khâu sống ngay tại chỗ chứ không dám đợi đến lúc đưa vào phòng mổ.
Đau đớn tột cùng khi khâu da, khâu cơ và động mạch !

Bệnh nhân đâu có tội đâu có lỗi gì để mà đón nhận tai nạn quá nghiệt ngã như vậy. Thử hỏi nếu đặt trường hợp này vào niềm tin thì ta có bối rối không ? Tại sao Chúa lại để như thế này ? Trong lúc đau đớn bệnh nhân cũng sẽ hỏi Chúa ở đâu như dân Israel ngày xưa hỏi Chúa. Trong lúc đau đớn như thế này thì bệnh nhân cũng phải thốt lên như các môn đệ là xin thêm lòng tin. Chính lúc đau đớn tột cùng này là lúc thử thách của lòng tin.

Nhìn lại cuộc đời của các môn đệ chúng ta thấy rõ điều này. Giữa biết bao nhiêu phong ba bão táp của cuộc đời, nhiều lần nhiều lúc lòng tin của các Ngài phải nói là đứng bên bờ vực thẳm nhưng may quá, lòng tin khi đứng bên bờ vực thẳm của các ngài vừa đủ lớn như hạt cải để rồi các Ngài đã thành công.

Về lòng tin, Thánh Phaolô đã khuyên nhủ Timôthê môn đệ của Ngài qua đoạn thư mà chúng ta vừa nghe : Vì lý do đó, tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh. Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng. Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta.

Thánh Phaolô đã dặn Timôthê rằng với đức tin và đức mến của một người kết hợp với Đức Kitô thì cuộc đời của anh sẽ tốt đẹp. Nhờ Thánh Thần ngự trong mỗi người thì chúng ta sẽ không nhút nhát, được đầy tình thương và sức mạnh.

Quả thật, ngay cả Thánh Phaolô, các tông đồ và những ai tin và kết hợp mật thiết với Chúa thì cuộc đời sinh viên thành công và sinh viên được hưởng phần phúc Chúa hứa sinh viên ban cho.

Hôm nay, Chúa Giêsu không chỉ mời gọi các môn đệ về niềm tin nhưng Ngài đi một bước xa nữa là lòng khiêm hạ. Niềm tin và lòng khiêm hạ thường vẫn đi đôi với nhau. Hễ đã tin, đã tín thác vào Chúa thì cũng khiêm hạ trao phó cuộc đời của mình trong vòng tay quan phòng của Ngài. Chúa Giêsu dạy các môn đệ : "Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: "Mau vào ăn cơm đi", chứ không bảo: "Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau! ? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao? Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi."

“Những đầy tớ vô dụng” : câu nói hết sức khiêm nhường và dễ thương.
Con người vẫn thường kẹt trong cái giằng co của chủ và tớ. Nhiều người vẫn nghĩ và cho mình là chủ cuộc đời của mình để rồi mình huyên hoang tự cao tự đại. Nghĩ một cách chính xác, nghĩ một cách nghiêm túc thì mỗi người đều nằm trong lòng bàn tay của Chúa thôi. Ấy vậy mà người ta quên đi cái căn tính của mình, người ta đã hoán đổi vị trí của mình để cho mình làm chủ cuộc đời. Người chủ đích thực ấy chính là Chúa chứ không phải là con người.

Đặt mình vào vị trí của ông chủ. Ông chủ sẽ khen, sẽ rất thích những người đầy tớ khiêm hạ. Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta cũng sống tâm tình khiêm hạ cho rằng mình chỉ là những đầy tớ vô dụng mà thôi.

Vẫn còn đó những thử thách về lòng tin. Vẫn còn đó những thử thách về lòng kiêu ngạo của con người. Thế nhưng những thử thách lòng tin, những thử thách về lòng kiêu ngạo sẽ tan biến mất khi ta sống kết hợp mật thiết với Chúa và hoàn toàn tín thác cuộc đời của ta vào trong lòng bàn tay của Thiên Chúa.

"Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con." Chúng ta hãy bắt chước các môn đệ ngày xưa để chạy đến với Chúa Giêsu xin Chúa ban cho ta thêm lòng tin để sống giữa cuộc đời đầy phong ba thử thách này.

Lm. Anmai, CSsR

KHƯỚC TỪ

Thứ Sáu Tuần 26 Thường Niên C

“Ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy!”.

“Điều quan trọng nhất mà cha mẹ có thể giúp trẻ sáng tạo là dạy chúng không sợ thất bại. Ngoài ra, cần học cách chịu đựng khi bị cười nhạo, sẵn sàng chấp nhận chỉ trích và không ngại khác biệt! Đó là một trải nghiệm cần thiết - trải nghiệm bị khước từ!” - Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cho thấy thời Cựu Ước cũng như Tân Ước, không phải lúc nào những ai được Chúa sai đi cũng dễ dàng thành công! Họ phải “học cách chịu đựng khi bị cười nhạo, chấp nhận chỉ trích và không ngại khác biệt” - nghĩa là phải học biết thế nào là ‘khước từ!’.

Dân Chúa đã từng “phạm tội trước nhan Đức Chúa, đã bất tuân, không nghe tiếng Người” - bài đọc một; họ nhìn nhận đã từng chạy theo các thần. Thánh Vịnh đáp ca cũng là một lời xưng thú của một dân đã từng ‘khước từ’ Thiên Chúa, “Lạy Chúa, để danh Ngài rạng rỡ, xin giải thoát chúng con!”.

Trong bối cảnh sai các môn đệ đi, Chúa Giêsu đề cập sự đối kháng này, Ngài chuẩn bị cho họ điều chắc chắn sẽ xảy đến với bất cứ ai trong tư cách sứ giả của ‘một Thiên Chúa bị khước từ!’. “Đừng sợ thất bại, nhưng hãy sợ không dám bắt đầu - vì bị khước từ đôi khi chỉ là dấu chỉ bạn đã dám thử!” - Roy T. Bennett. Chúa Giêsu không ngần ngại nói thật, “Ai nghe các con là nghe Thầy; và ai khước từ các con là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy!”.

Là những người được sai đi, không ít lần, chúng ta trải nghiệm sự ê chề này. Đức tin của bạn, việc làm của bạn, Phúc Âm mà bạn cố sức rao giảng bằng cả cuộc sống không phải lúc nào cũng được đón nhận. Chống lại bạn không chỉ là những người không biết Chúa, nhưng còn là những anh chị em trong gia đình, trong cộng đoàn; hoặc thậm chí, những người có trách nhiệm nhất trong công cuộc rao giảng - cho dù những gì bạn cống hiến là tốt đẹp nhất, thiết yếu nhất, những công việc mà không phải ai cũng muốn làm, dám làm và có khả năng làm! “Đừng lãng phí chính mình trong sự khước từ; đừng chỉ gầm gừ chống lại cái xấu, nhưng hãy hát lên vẻ đẹp của điều thiện hảo!” - Ralph Emerson.

Anh Chị em,

“Ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy!”. Nhân loại đã khước từ Con Thiên Chúa, “Người đã đến nhà của Người, và người nhà của Người đã không tiếp nhận Người”; sự ‘khước từ’ thê thảm nhất là cái chết thập giá. Vậy mà, sự từ chối Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài không là tiếng nói cuối cùng; tình yêu cứu độ của Thiên Chúa mới là tiếng nói sau chót! Ngài có thể tác động mạnh mẽ để thực hiện kế hoạch cứu độ thông qua những trải nghiệm thất bại mà con người không bao giờ hiểu. Hãy nhìn vào hoa trái cứu độ của thập giá! Vì thế, những gì bạn và tôi cần là cứ trung thành với lời chứng của mình, bất kể nó được đón nhận thế nào. “Mỗi lần tôi nghĩ mình bị từ chối điều gì đó tốt, thì thật ra tôi đang được dẫn hướng đến một điều tốt hơn!” - Steve Maraboli.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dạy con học chịu đựng khi bị cười nhạo, chấp nhận chỉ trích và không ngại khác biệt, miễn sao con mải làm vui lòng Chúa và những gì Chúa muốn!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

LÝ DO VUI MỪNG

Thứ Bảy Tuần 26 Thường Niên C

“Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời!”.

John Wesley - nhà truyền giáo người Anh - trước khi qua đời ở tuổi 88, đã ngồi dậy, nhìn những người thân yêu bên giường và nói, “Sao lại khóc, hãy vui mừng chứ? Điều tuyệt vời nhất cũng là lý do vui mừng nhất là Chúa ở cùng chúng ta!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nói rằng, “Chúa ở cùng chúng ta!” hay nói, “Tên anh em đã được ghi trên trời!” có chung một ý nghĩa. Đó là ‘lý do vui mừng’ mà cả Wesley và Chúa Giêsu nói với những người thân yêu.

Tin Mừng hôm nay cho biết, sau chuyến truyền giáo tốt đẹp, các môn đệ trở về, lòng đầy hân hoan, “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con!”. Tốt! Nhưng với Chúa Giêsu, có một điều gì đó quan trọng hơn: tên của họ được ghi trên trời! Ngài không phủ nhận sự thành công của họ, nhưng Ngài tập trung vào một điều lớn hơn - mối quan hệ của họ với Thiên Chúa. Đây mới là nguồn vui đích thực! Chính điều này làm cho công việc của họ có kết quả; và đó là lý do tại sao Ngài tiếp tục nói, “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”. “Thành công thật không phải ở điều ta làm, mà ở mối hiệp thông yêu thương ta có với Chúa!” - C.S. Lewis.

Điều đáng mừng hơn là các môn đệ ‘đã thấy, đã nghe’ và nhất là nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Thầy mình. Họ cảm nhận một mối gắn kết đặc biệt của Ngài với Chúa Cha và họ đã để mình ‘được lôi kéo’ vào mối quan hệ đó. Tin Mừng nhắc nhở chúng ta rằng, sự chia sẻ của chúng ta trong mối hiệp thông của Chúa Giêsu với Chúa Cha mới là niềm vui và là kho tàng đích thực, và đó là ‘lý do vui mừng’ lớn nhất chứ không phải là thành công về những gì chúng ta làm.

Chính hồng ân chia sẻ mối quan hệ này cho phép chúng ta nhìn và nghe những điều mà nhiều tiên tri và vua chúa mong ước được thấy được nghe. Ngay cả khi công việc của chúng ta ngừng lại - thậm chí là thất bại - vì bất cứ lý do gì, dù là tuổi tác, sức khoẻ kém hay thiếu cơ hội… thì hồng ân chia sẻ mối hiệp thông của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha vẫn tồn tại. “Niềm vui được tìm thấy khi chúng ta nhận ra mình thuộc về ai!” - Henri Nouwen.

Anh Chị em,

“Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời!”. Chúa Giêsu không quan tâm những chiến thắng trước Satan hay những gì khác kể cả những chiến công hiển hách. Điều quan trọng với Ngài là “Chúa ở cùng chúng ta” và “chúng ta ở cùng Chúa” hôm nay và mai ngày. Niềm vui đích thực phát xuất từ mối tương quan sống động khi chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài trong từng hơi thở, từng bước đường đời. Và như thế, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta có lý do để vui mừng, vì kho tàng lớn nhất đã ở trong tay chúng ta. “Ở cùng Thiên Chúa biến những khoảnh khắc đời thường thành lễ hội; chiến thắng có thể phai nhạt, nhưng sự gần gũi của Chúa vẫn tồn tại!” - Madeleine L’Engle.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hiểu, mọi chuyện đều là phụ tuỳ; và thành công của con trước hết và trên hết là sống thân tình với Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

BẠN ĐƯỜNG

Lễ Thiên Thần Bản Mệnh

“Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để giữ gìn ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn!”.

“Nếu Chúa sai chúng ta đi trên những con đường đầy đá, Ngài sẽ cung cấp những đôi giày bền bỉ! Sai chúng ta đến một nơi xa lạ, Ngài sẽ chuẩn bị một người bạn đường! Và nếu muốn cứu độ chúng ta đời đời, Ngài ban Con Một!” - A. Maclaren.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa lễ Thiên Thần Bản Mệnh cho thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa dành cho mỗi người. Để canh giữ hồn xác chúng ta từ khi chào đời cho đến ngày tắt hơi, Chúa ban cho mỗi người một ‘bạn đường’, yêu quý chúng ta như một vệ sĩ vô hình.

“Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi!” - bài đọc một; “Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường!” - Thánh Vịnh đáp ca; đặt một em bé giữa các môn đệ, Chúa Giêsu cũng nói đến sự hiện diện của những người ‘bạn đường’ này, “Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy!” - Tin Mừng. “Các Thiên Thần Hộ Thủ là những người bạn trung tín nhất, vì họ ở với chúng ta ngày đêm, luôn luôn và ở mọi nơi. Chúng ta nên thường xuyên kêu cầu các ngài!” - Gioan Vianney.

Hãy tưởng tượng, mỗi người có một vệ sĩ đồng hành chăm sóc suốt đời! Gặp nguy khốn, chúng ta không đơn độc; gặp khó khăn, các ngài gỡ rối; khi bất an, các ngài thêm can đảm. Tuy nhiên, sự có mặt thường xuyên của ‘ai đó’ cũng có thể bất tiện, vì một ‘ai đó’ luôn nhìn thấy mọi hành vi, kể cả tội lỗi chúng ta phạm. Vậy mà, người bạn đó luôn tôn trọng; không phán xét, nhưng chỉ ra sức cản ngăn khi chúng ta làm điều trái. Vì tôn trọng tự do, không ít lần, các ngài bất lực! “Chỉ ở trên thiên đàng, chúng ta mới hiểu được bao nhiêu hiểm nguy đã được thiên thần gìn giữ, và bao nhiêu tình yêu các ngài đã tuôn đổ mà không ai nhìn thấy!” - Henry Newman.

Như vậy, nếu Thiên Chúa để chúng ta bước vào thung lũng bóng tối, Ngài thắp lên một ngọn đèn soi bước chân; nếu Ngài cho chúng ta vác thập giá nặng nề, chính Chúa Kitô cũng đặt vai mình kề sát vai mỗi người! Và nếu Ngài đòi hỏi chúng ta hiến dâng tất cả, chính Ngài cũng trao ban chính mình để bù đắp gấp trăm lần.

Anh Chị em,

“Này Ta sai thiên sứ đi trước con!”. Có thể nói, người ‘bạn đường’ trung tín nhất đời của chúng ta không chỉ là thiên thần bản mệnh, mà chính là Chúa Giêsu. Ngài không chỉ ‘đi trước’ để mở đường, mà còn ‘đi cùng’ để chia sẻ mọi gian truân. Nếu thiên thần hộ thủ là người bạn vô hình giữ gìn, thì Chúa Giêsu lại là Đấng hữu hình đồng hành, mang lấy cả sự chết để đưa chúng ta vào cõi sống. Vì thế, chiêm ngắm thiên thần bản mệnh, chúng ta càng xác tín hơn: tình yêu Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, luôn gởi đến một sự hiện diện dịu dàng và bền bỉ. “Thiên thần hộ thủ giữ gìn chúng ta, nhưng chính Đức Kitô đồng hành với chúng ta - Ngài đã mang lấy thập giá để không con đường nào còn quá cô đơn!” - A.W. Tozer.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, thiên thần bản mệnh canh giữ con trong thầm lặng, nhưng chính Chúa đi trước và bên con. Xin nâng đỡ khi con yếu lòng, hầu con can đảm bước tiếp!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Subcategories