3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Hãy sẵn sàng cho một tương lai tốt đẹp

"Anh em hãy sẵn sàng" (Mt 24,44)

Sợi chỉ đỏ :

- Tương lai tốt đẹp được khơi lên bởi ngôn sứ Isaia (Bài đọc I)

- Nghĩ đến nó, tác giả Tv 121 hân hoan hát mừng Thiên Chúa (Đáp ca)

- Đức Giêsu khuyên hãy tỉnh thức sẵn sàng chờ đón nó (Bài Tin Mừng)

- Thánh Phaolô giải thích thế nào là tỉnh thức sẵn sàng (Bài đọc II)

 

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Hôm nay Giáo Hội bước vào Mùa Vọng. Vọng là chờ, là mong. Nhưng chúng ta chờ mong điều gì ? Phải chăng là mong chờ Lễ Giáng sinh ? Thưa không, chúng ta không mong chờ một lễ vui, mà mong chờ chính Chúa sẽ đến với chúng ta. Khi Ngài đến, Ngài sẽ mang cho chúng ta bình an, hạnh phúc. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng những ơn lành ấy chỉ đến với những ai đã chuẩn bị lòng mình sẵn sàng. Vậy kể từ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy tích cực chuẩn bị tâm hồn, vì ơn cứu độ của Chúa đã đến gần.

 

II. GỢI Ý SÁM HỐI

- Một năm phụng vụ đã trôi qua, hôm nay bắt đầu một năm phụng vụ mới. Phải chăng trong năm phụng vụ vừa qua chúng ta đã có phần thờ ơ, ươn lười, nhiều lầm lỗi ?

- Xã hội ngày nay đầy dẫy sự xấu. Phải chăng chúng ta cũng có phần tạo nên tình trạng ấy ?

- Chúng ta cũng mong rằng thế giới sẽ tốt hơn, con người sẽ thương yêu nhau hơn. Nhưng chúng ta có làm gì cho tương lai ấy mau đến không ?

 

III. LỜI CHÚA

 

1. Bài đọc I (Is 2,1-5) :

Vào hậu bán thế kỷ VIII trước công nguyên, vương quốc Giuđa khá thịnh vượng về mặt vật chất, nhưng lại rất suy đồi về mặt đạo đức. Trước tình trạng ấy, ngôn sứ Isaia một mặt thẳng thắn vạch tội dân và kêu gọi họ ăn năn sám hối, mặt khác loan báo rằng nếu dân trở lại thì Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tương lai tốt đẹp.

Tương lai ấy được Isaia diễn tả bằng những hình ảnh thi vị :

- Đó sẽ là thời dân Thiên Chúa được tôn vinh : "Núi Nhà Chúa sẽ được xây trên đỉnh các núi". Mà dân Thiên Chúa được tôn vinh cũng có nghĩa là Thiên Chúa được tôn vinh, vì chính nhờ đức tin của họ mà các dân tộc trên mặt đất sẽ biết tới Chúa và tôn thờ Ngài : "Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng : Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà của Giacóp".

- Khi mọi người đã biết tôn thờ Chúa thì đó cũng sẽ là một thời thái bình : "Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa".

 

2. Đáp ca (Tv 121)

Tâm tình đầy lạc quan hy vọng của Isaia được diễn tả qua Tv 121 : "Ôi tôi sung sướng biết bao khi nghe nói : Chúng ta sẽ về nhà Chúa"

 

3. Bài Tin Mừng (Mt 24,37-44)

Đức Giêsu cho biết Ngày tốt đẹp ấy sắp đến. Nhưng Ngài đặc biệt lưu ý ba điều :

a/ Ngày ấy sẽ đến một cách không ai ngờ cũng như chuyện Hồng thuỷ thời Nôe : thiên hạ cứ mải mê với những chuyện thế tục "Người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Nôe vào tàu mà người ta cũng không ngờ".

b/ Trong Ngày ấy, số phận loài người sẽ phân thành hai hạng khác nhau : có người sẽ "được đem đi" (được tiếp nhận), nghĩa là được nhận vào hưởng tương lai hạnh phúc với Chúa, nhưng có người sẽ "bị bỏ lại", nghĩa là không được hưởng hạnh phúc ấy (Chú ý : một số bản Việt ngữ đã dịch ngược nghĩa là "bị đem đi" và "được để lại").

c/ Được tiếp nhận hay bị bỏ rơi là do người ta có chuẩn bị sẵn sàng hay không. Vì thế Đức Giêsu kết luận : "Vậy các con phải sẵn sàng"

 

4. Bài đọc II (Rm 13,11-14)

Thánh Phaolô nói rằng Ngày tươi sáng đó rất gần rồi : "Giờ đây phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến". Và Ngài giải thích thế nào là tỉnh thức sẵn sàng :

a/ Trước hết, tỉnh thức sẵn sàng là "từ bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu". Nghĩa là phải tích cực chiến đấu để loại trừ sự dữ và cổ vũ cho sự thiện.

b/ Kế đó, tỉnh thức sẵn sàng là thay đổi cách sống : Hãy bỏ nếp sống cũ theo xác thịt, thể hiện trong việc ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị, lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt ; thay vào đó bằng một cuộc sống mới theo gương Đức Giêsu Kitô.

 

IV. GỢI Ý GIẢNG

 

1. Phải biết nuôi hy vọng

Alan Platon là một nhà văn Nam Phi, tác giả một quyển sách nhan đề Cry the Beloved Countrytrong đó ông mô tả hoàn cảnh khốn khổ của nước Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc apartheid. Platon có một giấc mơ : ông mơ có một ngày mà mọi người dân trong đất nước của ông đều được đối xử công bình và bình đẳng. Và để thực hiện giấc mơ ấy, ông đã lao mình vào chính trị, đấu tranh suốt mấy mươi năm để xoá bỏ chế độ apartheid ấy. Nhiều người cho rằng mơ ước và việc làm của Platon là không thể nào thực hiện được. Nhưng ông vẫn kiên trì vì tin rằng ngày mơ ước ấy sẽ đến. Chỉ tiếc là ông đã chết trước khi thấy được ngày đó, nhưng lịch sử chứng minh rằng ông đã đúng.

Ngôn sứ Isaia còn có một giấc mơ táo bạo hơn nữa : Ông mơ tới ngày các nước sẽ không còn tuốt gươm chém giết lẫn nhau nữa, người ta sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm, và mọi người sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa. Thật là một giấc mơ tuyệt vời ! Có người cho rằng giấc mơ ấy sẽ đến khi Đấng Messia đến. Người khác cho rằng nó chỉ sẽ đến khi Đấng Messia lại đến lần thứ hai. Có kẻ nói nó sẽ chẳng bao giờ đến, đó chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Nhưng vẫn có người tin rằng thế nào nó cũng đến nên miệt mài theo đuổi như Alan Platon trong chuyện trên.

Một chuyện khác : Một người thợ săn nghe nói tới một con chim đặc biệt có đôi cánh rộng màu trắng rực rỡ. Đó là con chim đẹp nhất trong các loài chim trên mặt đất. Vì thế người thợ săn không quản ngại đường xa, trèo đồi vượt suối đi tìm nó hết ngày này sang ngày khác, tháng này đến tháng nọ, năm này đến năm kia. Một lần anh đã may mắn thấy được bóng dáng nó ở một khoảng cách rất xa. Nhưng chỉ thoáng thấy là nó bay đi mất. Anh vẫn kiên trì đi tìm. Một ngày kia anh nhặt được một cọng lông trắng của nó. Rồi anh chết đi mà không bao giờ bắt được con chim mơ ước của mình.

Cuộc săn tìm của người thợ săn là hình ảnh của loài người tìm kiếm hòa bình. Giấc mơ toàn thế giới vui hưởng thái bình của Isaia có thể không thực hiện được nhưng nó không chỉ đơn thuần là nằm mơ giữa ban ngày, mà giống như một ngọn núi mà ta mơ có ngày sẽ đứng trên đó. Dĩ nhiên muốn thế thì ta không thể cứ ngồi một chỗ mà mơ, hoặc ước chi nó từ trên trời hạ thấp xuống tận chân ta. Ta phải leo, phải có chương trình và kiên trì làm theo chương trình ấy, cho dù có chậm chạp và lâu dài.

Ngay cả khi giấc mơ thái bình ấy sẽ không bao giờ được thực hiện trọn vẹn trên toàn thế giới đi nữa, thì việc theo đuổi giấc mơ ấy cũng có ảnh hưởng tốt trên đời ta. Điều quan trọng không phải là đạt được mục đích mà là sống có mục đích. Nhiều khi, có một mục đích tốt cho đời mình thì kể như đủ, miễn là không bao giờ ta bỏ mục đích ấy.

Thế giới ngày nay nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ có thể làm được hầu như mọi điều, nhưng lại bất lực không tạo ra hòa bình được : bất hòa khắp nơi, trên bình diện lớn như nước này với nước nọ, dân này với dân nọ ; hoặc trên bình diện nhỏ như nhóm này với nhóm kia, người này với người khác. Mỗi kitô hữu có thể góp phần mình vào việc thực hiện giấc mơ thái bình của Isaia, bằng những cố gắng xoá bỏ óc kỳ thị, sự đố kỵ, ích kỷ, chia rẻ nhau… ; bằng cách gieo rắc hòa thuận, cảm thông, hợp tác…

Chúng ta cũng nên biết rằng chúng ta không cô đơn trong những cố gắng ấy, mà có Chúa giúp ta : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài đến ở với loài người chúng ta, thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian này, và cùng đồng hành với chúng ta trong nỗ lực leo lên đỉnh núi thái bình.

 

2. "Đây là lúc chúng ta phải thức dậy"

Lời Thánh Phaolô trong bài đọc II làm cho chúng ta giật mình. Phải chăng chúng ta đang ngủ vùi ?

Đúng vậy, dù mắt chúng ta vẫn mở nhưng thực sự chúng ta đang ngủ trong bóng tối mịt mù :

- Chúng ta ngủ vì "những việc làm đen tối"

- Chúng ta ngủ vì cứ "chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng"

- Chúng ta ngủ vì lòng đầy "tranh chấp đố kỵ"

- Chúng ta ngủ vì chỉ "lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt".

Nhưng Thánh Phaolô nhắc nhở rằng : "Đêm sắp tàn, ngày gần đến" và "Giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo", vậy "Đây là lúc chúng ta phải thức dậy".

- "Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày"

- Hãy "cầm lấy khí giới của sự sáng" để chiến đấu chống lại những sức mạnh của tối tăm tội lỗi.

- Hãy cởi bỏ con người cũ thiên về những dục vọng xác thịt để "mang lấy Đức Giêsu Kitô".

 

3. Hai người, hai số phận

"Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi".

Đức Giêsu chỉ nói tình trạng như thế thôi chứ không nói rõ lý do tại sao. Tuy nhiên chúng ta có thể biết lý do qua câu chuyện Ngài kể về thời ông Nôe : Ông Nôe chính là người được tiếp nhận, nhờ ông đã tỉnh táo nghe được lời Chúa báo sắp có nạn Hồng thuỷ, và ông đã tích cực chuẩn bị đóng tàu. Còn mọi người khác là những kẻ bị bỏ rơi, vì họ chẳng để ý tới việc gì khác ngoài cuộc sống vật chất, "ăn uống, dựng vợ gả chồng". Những bận tâm đó đã chiếm hết tâm trí họ rồi, còn tâm trí đâu mà để ý đến lời Chúa. Giả như ông Nôe có kể lại cho họ nghe lời cảnh báo của Chúa thì họ cũng không tin và còn cho là chuyện viễn vông, không thiết thực như chuyện "ăn uống, dựng vợ gả chồng".

Trong cuộc sống của chúng ta, giữa những bề bộn lo lắng về vật chất, thế tục, Lời Chúa vẫn vang lên để nhắc chúng ta phải biết quan tâm đến nhiều việc khác thuộc phương diện tinh thần, phương diện siêu nhiên, phương diện đời đời… Ai tỉnh táo thì nghe được và sẽ "được tiếp nhận", kẻ nào mãi thờ ơ thì như "đàn gãy tai trâu" và sẽ "bị bỏ lại".

 

4. Chúa cấm con thất vọng

* Hãy cố gắng, dù yếu đuối ngã sa, con hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đoạt giải vô địch quốc tế (ĐHV 971)

Cha Charles de Foucauld có để lại mấy giòng sau đây. Đọc kỹ, con sẽ thấy phấn khởi tâm hồn và lấy lại được niềm tin, nhất là những lúc hầu như con thất vọng :

- "Dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng về điều đó".

- "Dù con bội bạc cách mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn Chúa cách mấy. Chúa cũng vẫn bắt con phải hy vọng được sống đời đời dưới chân Chúa trong tình thương và sự thánh thiện".

- "Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói ‘Tôi không thể đi tới được, đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp"

- "Trước những sa ngã trở đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói : "Tôi không hề sửa mình được, tôi không có sức để nên thánh, tôi không xứng đáng để vào thiên đàng…"

- "Vậy Chúa muốn con phải trông cậy Chúa luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa" (ĐHY NVT, Trên đường lữ hành)

 

5. Thức dậy

Ở Mêhicô, giáo phận của Đức Cha Samuel Ruiz có tới 80 % giáo dân là người da đỏ bản xứ. Bản thân ngài nổi tiếng là người bênh vực cho dân da đỏ. Nhưng không phải tự nhiên mà ngài làm được việc đó đâu. Trong một buổi nói chuyện ở Nhà thờ Chính tòa Westminster Mùa Chay 1996, ngài đã thố lộ tâm sự như sau : "Suốt 20 năm làm giám mục giáo phận này, tôi như một con cá đang ngủ (sleeping fish), nghĩa là mắt vẫn mở nhưng chẳng thấy gì. Tôi còn hãnh diện vì giáo phận có nhiều nhà thờ và giáo dân đông đúc. Rồi một hôm tôi gặp cảnh một người da đỏ bị trói vào một thân cây và bị ông chủ dùng roi quất túi bụi vì lý do người này không chịu làm thêm 8 giờ phụ trội nữa." Chính cái biến cố đó đã làm cho Đức Cha Samuel Ruiz "thức dậy". Từ đó trở đi, Ngài hăng hái tranh đấu cho quyền lợi người da đỏ.

Chuyện trên cho ta thấy hai điều : 1/ Thiên Chúa có nhiều cách để kêu gọi người ta thức dậy ; 2/ Và cũng có nhiều cách thức dậy : thức dậy về thể xác (thôi ngủ), thức dậy về xã hội, thức dậy về đạo đức v.v.

 

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến

Mùa Vọng, mùa Xuân của năm phụng vụ, là thời gian chuẩn bị đón mừng Đức Kitô, Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa hướng lòng trông đợi Người đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Trong niềm khát khao trông chờ Chúa ngự đến, chúng ta cùng tin tưởng nguyện xin.

1- Hội Thánh được Chúa Giêsu thiết lập / và trao ban sứ mạng rao giảng mọi nước mọi dân biết Thiên Chúa là Tình yêu. / Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh / luôn làm tròn sứ mạng cao quý nhưng hết sức khó khăn này.

2- Khát vọng sâu xa nhất của con người thời nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng. / Nhưng chiến tranh vẫn bùng nổ ở nhiều nơi trên thế giới / gây ra biết bao cảnh tang thương. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương thâm nhập mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết thương yêu và tôn trọng nhau hơn.

3- Thánh Phaolô kêu gọi : / "Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày / không chè chén say sưa / không chơi bời dâm đãng / cũng không cãi cọ ghen tương" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết luôn ghi nhớ và thực hiện lời mời gọi của vị tông đồ dân ngoại / để có thể trở nên muối ướp mặn đời / và ánh sáng chiếu soi trần gian.

4- Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ : / "Anh em hãy canh thức / vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến". / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn sẵn sàng đón Chúa ngự đến / bằng một đời sống sốt sắng thờ phượng Chúa và chan hòa tình bác ái yêu thương.

CT : Lạy Chúa, vì yêu thương thế gian, Chúa đã ban Con Một xuống thế làm người, sống kiếp phàm nhân, nên giống chúng con trong mọi sự, trừ tội lỗi. Xin cho tất cả chúng con thiết tha trông chờ Con Chúa ngự đến, biết chuẩn bị xứng đáng tâm hồn, để đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh cao cả. Chúng con cầu xin…

(Phần "Lời nguyện cho mọi người" của Năm A này được trích từ Báo Công giáo và Dân tộc, số đặc biệt Giáng sinh năm Phụng vụ A, 1998-1999)

 

VI. TRONG THÁNH LỄ

- Nên dùng Kinh nguyện Thánh Thể 3, nhấn mạnh một số nơi :

. (Sau lời tung hô sau truyền phép) : "Vì vậy lạy Cha, giờ đây chúng con tưởng nhớ… đồng thời mong đợi Người lại đến, chúng con dâng lên Cha hy lễ hằng sống và thánh thiện này…"

. (Sau truyền phép, đoạn 4) : "Lạy Cha, xin cho hy lễ hòa giải này… Còn những con cái Cha đang tản mát bốn phương trời, xin thương quy tụ tất cả về với Cha…"

- Trước Kinh Lạy Cha : Trong niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp "danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời", chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha sau đây :

- Chúc bình an : Ngôn sứ Isaia đã mơ đến ngày thế giới không còn chiến tranh, người ta sẽ lấy gươm giáo rèn thành lưỡi hái lưỡi cày. Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an và trở thành những người xây dựng hòa bình cho cuộc sống.

- Trước lúc rước lễ : "Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng đã đến xóa tội trần gian và sẽ lại đến thăm viếng chúng ta, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa".

 

VII. GIẢI TÁN

Dùng công thức ban phúc lành cuối lễ long trọng của Mùa Vọng (Sách lễ Rôma, xuất bản 1992, trang 575)

 

Hy Vọng

Một trận động đất khủng khiếp đã chôn vùi 30,000 người ở Armenia vào năm 1989. Không lâu sau khi thảm họa xảy ra, một người cha chạy đến trường của đứa con và ông rụng rời nhìn thấy ngôi trường hoàn toàn sụp đổ.

Nhớ đến vị trí lớp học của đứa con là ở một góc trường, ông chạy đến đó và bắt đầu đào xới, với hai bàn tay ông lôi ra những mảng gạch vụn.

Các phụ huynh khác, đang đứng than khóc gần đó, tìm cách ngăn cản ông, họ nói, “Trễ quá rồi! Tất cả chúng nó đều chết hết! Trễ quá rồi!” Ngay cả cảnh sát cũng tìm cách can gián ông. Nhưng ông tiếp tục đào xới.

Ông đào trong 36 giờ đồng hồ không ngừng nghỉ. Vào giờ thứ 38 ông nghe có tiếng nói. Ông la lên, “Armand!”. Tiếng đứa con trai gọi lại, “Bố!”

Sau đó là một cuộc đối thoại lạ thường. Đứa con trai la lên từ đống gạch vụn: “Bố ơi! Có 14 đứa chúng con ở đây. Con nói tụi nó là đừng có lo. Con nói với tụi nó là bố sẽ đến.”

Khi người ta nghe tiếng của Armand, họ cùng với người cha đào xới. Trong vòng nhiều phút sau đó, tất cả 14 đứa con trai được cứu sống. Chúng được bình an, chỉ sợ hãi, đói và khát một chút.

Khi tòa nhà đổ xuống, căn phòng chúng ở thì sập xuống thành hình tam giác, giữ cho chúng khỏi bị đè bẹp (trích từ câu chuyện của Mark V. Hansen trong cuốn Chicken Soup for the Soul).

Có nhiều cách để nhìn vào câu chuyện lạ thường này. Tỉ như, chúng ta có thể nhìn từ quan điểm của dân chúng và cảnh sát.

Khi họ nhìn thấy tòa nhà sụp đổ, họ mất tất cả hy vọng, họ không tin rằng bất cứ ai có thể sống sót.

Hoặc chúng ta có thể nhìn từ quan điểm của người cha của Armand. Ông thấy tòa nhà vụn vỡ nhưng ông không mất hy vọng, ông tin rằng con ông có thể còn sống.

Sau cùng, chúng ta có thể nhìn từ quan điểm của 14 đứa trẻ bị kẹt trong đống gạch vụn của tòa nhà.

Chúng không bao giờ mất hy vọng, phần lớn là vì niềm tin lì lợm của Armand, nó tin rằng cha của nó sẽ đến giải cứu.

Từ quan điểm của các học sinh, câu chuyện này là một minh họa tuyệt vời cho câu chuyện Mùa Vọng.

Trước khi Đức Giêsu giáng lâm, dân chúng Israel ở trong một hoàn cảnh tương tự như 14 học sinh.

Họ bị giam hãm trong một thế giới suy sụp về luân lý và tinh thần. Tất cả những gì họ có thể làm là chờ đợi trong tăm tối, hy vọng sẽ có sự cứu thoát.

Nhờ các ngôn sứ như Isaia, trong bài đọc một hôm nay, họ giữ vững đức tin. Ngôn sứ Isaia luôn nói với họ là hãy tin tưởng vào Cha trên trời, cũng như Armand luôn nói với chúng bạn rằng hãy tin tưởng vào cha của nó.

Nhiều người ngày nay cũng giống như các cha mẹ than khóc đứng chung quanh ngôi trường sụp đổ sau trận động đất.

Họ thấy thế giới chúng ta trong một tình trạng suy sụp về luân lý và tinh thần. Họ không nhìn thấy gì khác hơn là cả một núi tội ác, chiến tranh, ma túy, thối nát, và không tôn trọng mọi hình thức sự sống. Họ bỏ cuộc và chỉ đứng nhìn, than khóc cho hoàn cảnh.

Cũng có những người, giống như các học sinh, bị giam trong một núi gạch vụn. Quả thật họ trong một hoàn cảnh tuyệt vọng. Điều duy nhất đem cho họ hy vọng là đức tin lạ thường của những người, giống như em Armand.

Sau cùng, có những người như cha của Armand. Họ cũng nhìn thấy một đống suy sụp về luân lý và tinh thần, nhưng họ không bỏ cuộc.

Hãy để ý đến một thí dụ thật hay của một trong những người này.

Mẹ của Bs. Ben Carson lớn lên trong hoàn cảnh nghèo nàn tồi tệ ở Detroit. Chồng bà từ bỏ bà khi Ben tám tuổi.

Bà thấy hai mẹ con bị kẹt trong một sự suy sụp về luân lý và tinh thần của thế giới chung quanh. Nhưng thay vì tuyệt vọng, bà bám víu lấy tia sáng đức tin nơi Thiên Chúa, sâu thẳm trong linh hồn của bà.

Tia sáng đức tin đó đã đem cho bà sức mạnh để làm ba công việc ít lương cùng một lúc để sống còn.

Trong hoàn cảnh đó, bà tìm chút thời giờ để khích lệ Ben, bà nói, “Con có thể trở nên bất cứ gì con muốn, nếu con tin rằng Chúa sẽ giúp con, nếu con tự giúp chính mình.”

Được khích lệ bởi lời của mẹ, Ben đã thi hành đúng như vậy.

Ngày nay, Bác Sĩ Ben Carson là một trong những bác sĩ não khoa hàng đầu quốc gia và cũng là tiếng nói hy vọng hàng đầu của ngành y khoa này.

Nói với các học sinh trung học ở trường cũ của ông, bác sĩ Ben nói:

Hãy nghĩ đến điều vĩ đại! Hãy đặt tầm nhìn thật cao như ngọn Everest. Không ai được sinh ra để thất bại.” (Câu chuyện Carson, trích từ Christopher News Notes, February 1993)

Câu chuyện của Armand và người cha, câu chuyện của Isaia và dân Israel, câu chuyện của Ben và người mẹ là những tia hy vọng cho thế giới ngày nay, là nơi nhiều người mất hy vọng.

Những câu chuyện này mời chúng ta hãy trở nên tiếng nói hy vọng cho thế giới ngày nay. Và nền tảng cho niềm hy vọng đó được tìm thấy nơi đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu – một niềm tin mà chúng ta tuyên xưng trong mỗi Thánh Lễ khi chúng ta cầu nguyện rằng:
Chúa Kitô đã chết!
Chúa Kitô đã sống lại!
Chúa Kitô sẽ lại đến.

Đó là ý nghĩa của Mùa Vọng. Đó là đừng mất hy vọng.

Đó là hãy tin tưởng, dù có tăm tối và tuyệt vọng thế nào đi nữa.

Đó là về niềm tin nơi Chúa Giêsu, là người đã đến thế giới của chúng ta cách đây 2,000 năm, đã sống, đã chết, đã sống lại và đã hứa là sẽ trở lại vào cuối thời gian.

Và khi Đức Giêsu trở lại, chúng ta sẽ nghe cùng một tiếng nói mà tác giả sách Khải Huyền được nghe gần 2,000 năm trước khi ông viết:

Tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: "Ðây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ. 

Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ biến mất" (Kh 21:4).

Đây là thông điệp hy vọng trong các bài đọc hôm nay.

Đây là thông điệp hy vọng mà chúng ta cử hành trong mùa Vọng.

Đây là thông điệp hy vọng mà chúng ta tuyên xưng cho toàn thế giới khi chúng ta nói:

Chúa Kitô đã chết!
Chúa Kitô đã sống lại!
Chúa Kitô sẽ lại đến.

Lm Mark Link, S.J.

NGAI TOÀ ĐỎ MÁU

“Đây là vua người Do Thái!”.

“Sự vĩ đại không được đo lường ở những gì chúng ta có, mà ở những gì chúng ta hiến trao!” - Henri Nouwen.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ mời chúng ta chiêm ngắm thập giá, nơi Con Thiên Chúa - Mục Tử Nhân Lành - hiến trao mạng sống vì đàn chiên. Và, trên cao kia là tấm biển ghi, “Đây là vua người Do Thái!”. Thì ra, ngai toà của Ngài là một ‘ngai toà đỏ máu!’.

Từ thập giá, điều được hiến trao không chỉ là thân xác, mà là chính ‘bản thể Thiên Chúa’. Ngài không cho chúng ta một điều gì từ bên ngoài; Ngài cho chính mình, tự biến mình thành “không gian” cho nhân loại trú ngụ. Máu và nước tuôn trào không chỉ là dấu tích của cái chết, mà là việc khai sinh một thế giới mới, nơi con người không còn bị định nghĩa bởi tội lỗi, nhưng bởi chỗ đứng của họ trong trái tim của Thiên Chúa. “Máu và nước tuôn trào từ cạnh sườn là sự khai sinh của một nhân loại mới!” - Bênêđictô XVI. Thập giá là nơi Thiên Chúa tự “làm nghèo” chính mình để nhân loại được “làm giàu” bằng ân sủng.

Ít ai để ý tới, nơi thập giá, quyền năng không đi ra từ quyền lực, mà từ tự hạ; vinh quang không phát xuất từ thống trị, mà từ tự hiến; trật tự vũ trụ được tái lập không bằng quyền lực, nhưng bằng một thân mình bị bẻ ra. Vậy mà cạnh ngai toà ấy, một kẻ bị đóng đinh khác đã đọc được điều mà cả thế giới không thấy, “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”. Không một kinh sách, không một công trạng, chỉ là một trái tim trần trụi đắm mình trong lòng thương xót. Và ‘lời nguyện phong thánh’ được cất lên, “Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên Thiên Đàng!”. “Trên thập giá, quyền năng thể hiện không từ bạo lực, mà từ tình yêu chịu đựng; Người tự hạ chịu đóng đinh và thực thi vương quyền cao cả nhất!” - P. T. Forsyth.

“Nếu đời bạn là một bông hoa, khi nào bạn bước vào thời của hạt giống?” - Ron Rolheiser. Henri Nouwen trả lời, “Không phải khi được tung hô, vỗ tay hay đứng trên đỉnh cao, mà là khi sức lực suy giảm, tiếng nói mờ đi, tên mình gần như bị lãng quên. Khi đó, chúng ta mới thực sự gieo hạt cho đời!”. Điều đó đã xảy ra với Chúa Giêsu! Khi mọi sự tưởng chừng mất hết - quyền lực, ảnh hưởng, môn đệ, mất cả sự hiện diện của Chúa Cha; chính lúc ấy, từ ‘ngai toà đỏ máu’, Ngài bước vào ‘thời của hạt giống’ - đạt tới viên mãn - nhìn xuống 'cánh đồng cứu rỗi'.

Anh Chị em,

Từ ngai toà thập giá, Vua Kitô dạy chúng ta rằng, vinh quang thật không phải là giữ, mà là dám cho; không phải là chiến thắng người khác, mà là chiến thắng chính mình; không phải là thù hận, nhưng là tha thứ. Bước theo Ngài, chúng ta được mời gieo hạt giữa đau thương, và biết rằng, từ nơi ấy, Nước Trời nảy mầm âm thầm nhưng chắc chắn; và Vương Quốc không được xây bằng những kẻ mạnh, nhưng bằng những ai dám để đời mình trở thành món quà. Dưới chân ‘ngai toà đỏ máu’, chúng ta được hỏi không phải, “Tôi đã làm được gì?” - nhưng là - “Tôi đã trao đi bao nhiêu phần đời mình?”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con nhận ra thập giá là vinh quang - đau khổ là sức mạnh - và yêu thương là quyền năng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

THANH THOÁT

Thứ Bảy Tuần 34 TN C

“Phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời!”.

“Cuộc sống tôi chỉ là tấm lụa dệt ‘giữa Chúa và tôi’. Tôi không thể chọn màu, Ngài thường dệt những nỗi buồn! Ngài nhìn phía trên; tôi nhìn phía dưới. Mãi cho đến khi khung dệt lặng yên, Ngài mở khung, giải thích. Các sợi xám thật cần thiết giữa sợi bạc, sợi vàng trong bàn tay khéo léo của Ngài!” - Benjamin Malachi Franklin.

Kính thưa Anh Chị em,

Thế giới vật chất luôn kéo chúng ta xuống, nhìn ‘phía dưới’ tấm lụa đời mình. Lời Chúa hôm nay nhắc bạn và tôi nhìn lên, bước ra khỏi những ngổn ngang “say sưa, lo lắng sự đời”, hầu có thể ‘thanh thoát’.

“Nặng nề vì chè chén say sưa” trước hết được hiểu ở cấp độ nghĩa đen; nhưng “say sưa” cần hiểu ở cấp độ tâm linh, khi chúng ta tìm kiếm một cảm giác an toàn, một sự thoát ly nhất thời, một thứ ‘an thần’. “Thực tại không làm tôi ấn tượng; tôi chỉ tin vào đam mê và khoái lạc - và khi đời thường trói buộc, tôi thoát đi bằng bất cứ cách nào!” - Anaïs Nin. Vậy mà mỗi khi thoả hiệp, tôi trở nên “nặng nề” hơn. Thứ đến, chúng ta có thể quá bận tâm với vật chất và lo lắng sự đời, vốn là nguồn gốc của sự quá tải; và khi quá tải, chúng ta tìm lối thoát. Thông thường, những ‘lối thoát’ ấy lại khiến chúng ta rũ liệt, đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, mất hết niềm vui và nhuệ khí. “Sự mệt mỏi thường không xuất phát từ công việc, mà từ lo lắng, thất vọng và oán trách!” - Dale Carnegie.

Đang khi cuộc sống là thời gian chuẩn bị, không chỉ cho tình bạn với Thiên Chúa mà còn cho ‘tấn công’ của ba thù và những ‘gian khổ’ dai dẳng. Cuộc chiến tâm linh có thật, dù nhận thức hay không, muốn hay không muốn! Chúng ta phải chiến đấu mỗi ngày, và trận chiến quan trọng nhất vẫn là trận chiến sâu thẳm trong trái tim. Chúa Giêsu muốn chúng ta chiến thắng bằng cầu nguyện và tỉnh thức, hầu có thể ‘thanh thoát’ và không trở nên bải hoải, chìm vào u mê. “Chiến thắng chính mình là khởi đầu của mọi chiến thắng; hãy thức tỉnh và cầu nguyện, vì linh hồn không thể chiến đấu khi đang ngủ mê!” - Augustinô.

Anh Chị em,

“Chớ để lòng mình ra nặng nề!”. Hôm nay, thứ Bảy cuối năm phụng vụ, bạn và tôi ngước nhìn Mẹ Maria, một con người ‘tòng thuộc’ Thiên Chúa. Giữa bao sóng gió, thử thách - những ‘sợi chỉ xám’ màu tối - không gì làm Mẹ dao động; không gì ngăn cản Mẹ cất cao lời kinh “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”. Trái lại, Mẹ ‘thanh thoát’ vì đã giao ‘khung lụa đời mình’ cho Chúa, để Ngài tự do chọn màu, vẽ và thêu. Mẹ dâng mọi sự cho Chúa, Đấng đầy ắp Mẹ; trái tim Mẹ - được dẫn dắt bởi tình yêu - cho phép Mẹ luôn chọn điều tốt nhất và từ chối bất cứ điều gì có thể phương hại ‘bức tranh’ đời Mẹ. Hãy cầu xin và bắt chước các nhân đức của Mẹ! “Chìa khóa cho mọi điều là sự buông bỏ - thực sự đứng trước Chúa và nói: ‘Con xin ở đây bao lâu Chúa muốn’ hoặc ‘Lạy Chúa, con sẵn sàng đi bất cứ nơi nào trên trái đất này!’” - Francis Chan.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con thôi tìm kiếm những ảo giác, giao mọi sự cho Chúa, hầu có thể ‘bay bổng!’” Amen.

Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)

 

CHẤP NHẬN MẤT HẾT ĐỂ ĐƯỢC TẤT CẢ

Trong lịch sử cứu độ, không có lời mời gọi nào triệt để và đầy thách thức hơn lời của Chúa Giêsu: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9: 23). Làm môn đệ Chúa không phải là danh hiệu ở đời, nhưng là hành trình chọn lựa giữa con đường của thế gian và con đường của thập giá.

  1. Từ bỏ chính mình

Từ bỏ chính mình” không phải là tự phủ nhận giá trị bản thân, mà là dứt bỏ cái tôi ích kỷ, cái tôi luôn muốn áp đặt ý riêng và lợi ích của mình lên trên ý muốn Thiên Chúa. Thánh Augustinô nói: “Khi gạt Chúa ra khỏi cuộc sống và yêu bản thân, bạn cũng đã rời xa chính mình. Và giờ đây, bạn coi trọng những thứ bên ngoài hơn chính mình…Trước tiên, hãy thoát khỏi những thứ bên ngoài để trở về với chính mình, rồi sau đó hãy trao lại chính mình cho Đấng đã tạo ra bạn...Đó chính là điều các thánh tử đạo đã làm. Các ngài chẳng màng đến những điều bên ngoài; các ngài khinh miệt tất cả. Các ngài không còn yêu chính mình nữa. Các ngài vội vã tìm đến Đấng mà nhờ đó các ngài có thể được tái tạo, có thể sống lại nơi Ngài, có thể ở lại nơi Ngài.. Đó chính là ý nghĩa của việc từ bỏ chính mình.” [1]

Từ bỏ chính mình không phải là đánh mất bản thân, nhưng là hành trình thanh luyện cái tôi lệch lạc, cái tôi bị chi phối bởi tham vọng, kiêu ngạo, ham mê, giận dữ, ganh ghét, để trở về với căn tính đích thực mà Thiên Chúa tạo dựng. Khi dám buông bỏ những ảo tưởng về bản thân và thôi tìm kiếm sự công nhận của người đời, chúng ta khám phá ra con người thật của mình, là hình ảnh phản chiếu tình yêu và sự thiện hảo của Đấng Tạo Hóa. Từ bỏ chính mình vì thế không phải là mất mát, mà là trở về với nguồn sống sâu thẳm, trở nên giống Thiên Chúa trong tình yêu và khiêm hạ phục vụ.

  1. Vác thập giá hằng ngày

Vác thập giá mình hằng ngày” là lời mời gọi sống một cách cụ thể đức tin trong từng biến cố đời thường. Thập giá không chỉ là những khổ đau lớn lao, mà còn là những hy sinh nhỏ bé, những phiền toái, những giới hạn của bản thân hay sự bất công ta phải chịu, tất cả được đón nhận vì tình yêu dành cho Chúa Kitô.

Thánh Tôma Aquinô dạy: “Nếu bạn tìm kiếm sự kiên nhẫn, bạn sẽ không tìm thấy tấm gương nào tốt hơn thập giá. Sự kiên nhẫn vĩ đại thể hiện qua hai cách: hoặc khi người ta kiên nhẫn chịu đựng nhiều đau khổ, hoặc khi người ta chịu đựng những điều mà người ta có thể tránh được nhưng lại bằng lòng chấp nhận, không muốn tránh. Chúa Kitô đã gánh chịu nhiều đau khổ trên thập giá, và Ngài đã gánh chịu một cách kiên nhẫn, bởi vì khi chịu đau khổ, Ngài không hề đe dọa; Ngài bị dẫn đi như con chiên bị dẫn đến lò sát sinh mà Ngài không hề mở miệng.”

Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định chính trên thập giá mà “Chúa Giêsu mang trên mình những vết thương của nhân loại, cả cái chết, và tình yêu của Thiên Chúa đã tưới mát những sa mạc của chúng ta, Ngài đã soi sáng bóng tối của chúng ta. Nhờ Đấng bị bỏ rơi trên thập giá, sẽ không còn ai phải cô đơn trong bóng tối của sự chết nữa.” [2]

Vác thập giá hằng ngày là kiên trì trong cám dỗ, nhẫn nại trong đau khổ, dịu dàng trong lời nói, và tha thứ mọi điều bất công. Người vác thập giá mình hằng ngày là người không bao giờ sống cho chính mình, nhưng sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cảnh báo về một thứ văn hóa an nhàn khiến con người sợ thập giá: “Nền văn hóa an nhàn khiến chúng ta chỉ nghĩ đến bản thân, khiến chúng ta vô cảm trước tiếng kêu than của người khác, khiến chúng ta sống trong những bong bóng xà phòng, dù đẹp đẽ đến đâu, cũng chỉ là phù du; chúng chỉ mang lại một ảo tưởng phù du và trống rỗng, dẫn đến sự thờ ơ với người khác. Chúng ta đã quen với nỗi đau khổ của người khác: nó không ảnh hưởng đến tôi; nó không liên quan đến tôi; nó không phải là việc của tôi!” (Bài giảng tại Lampedusa , ngày 8 tháng 7 năm 2013). Chỉ qua thập giá, chúng ta mới có thể biến đau khổ thành cơ hội gặp gỡ Chúa Giêsu. Vác thập giá hằng ngày là từ chối đồng lõa với thói ích kỷ nhưng cùng bước đi với Chúa Kitô trong sự phục vụ.

  1. Nghịch lý cứu độ: mất để được

Chúa Giêsu nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9: 24). Người bám víu vào danh vọng, an toàn hay của cải sẽ đánh mất linh hồn, mất sự sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu cảnh báo: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Ngài ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9: 26). Môn đệ Chúa không thể thỏa hiệp với tinh thần thế gian, nhưng phải can đảm tuyên xưng Chúa Kitô giữa đời. Vì ai “liều mất mạng sống mình” vì Chúa thì lại tìm được chính mình trong Ngài.

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu diễn tả điều ấy bằng cách sống tinh thần “con đường nhỏ bé”, yêu thương và hy sinh trong từng việc nhỏ bé. “Sự thánh thiện không nằm ở việc thực hiện những hành động này nọ; mà là sẵn sàng từ trong tâm hồn trở nên nhỏ bé và khiêm nhường trong vòng tay Chúa, thừa nhận sự yếu đuối của chính mình và tin tưởng vào lòng nhân từ của Ngài đến mức can đảm.” [3]

Con người luôn khao khát được yêu và được thấu hiểu trong yêu thương, nhưng mọi tình yêu nhân loại đều giới hạn và mong manh. Dù cố gắng yêu hết lòng, người ta vẫn không thể chạm đến chiều sâu của Tình Yêu đích thực. Chỉ nơi Chúa Kitô, Tình Yêu mới được tỏ lộ trọn vẹn và viên mãn; chỉ Ngài mới thật sự thấu hiểu và đáp trả tình yêu chúng ta, như thánh nữ khẳng định: “Chỉ có một Đấng có khả năng thấu hiểu tình yêu; đó là Chúa Giêsu; chỉ mình Ngài mới có thể ban lại cho chúng ta nhiều hơn vô hạn những gì chúng ta có thể dâng hiến cho Ngài.” [4] Chính trong việc dám trao phó đời mình cho Chúa Kitô, con người mới tìm thấy sự sống đích thực.

  1. Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta

Trong thư Rôma, sau lời mời gọi vác thập giá, Thánh Phaolô công bố niềm xác tín tuyệt đối về tình yêu Thiên Chúa, tình yêu biến thập giá thành chiến thắng: “Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được?” (Rm 8,31). Niềm xác tín này dựa trên bằng chứng cao cả nhất: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32). Nếu Thiên Chúa đã ban điều quý nhất là Con của Ngài, thì chắc chắn Ngài cũng ban mọi ơn khác cần cho phần rỗi chúng ta. Thánh Phaolô liệt kê những thử thách có thể làm ta chao đảo: “Gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo” (Rm 8,35). Nhưng tất cả những điều ấy không thể tách chúng ta khỏi Đức Kitô: “Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,37).

Toàn thắng không có nghĩa là thoát khỏi khổ đau, mà là biến khổ đau thành con đường hiệp thông sâu xa hơn với Chúa. Thánh Phaolô khẳng định: “Cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương, hiện tại hay tương lai... không gì tách được chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Kitô Giêsu” (Rm 8: 38-39).

Chính niềm xác tín này giúp ta biến việc vác thập giá thành một hành vi của tự do và niềm vui, vì biết rằng ngay cả khi liều mất mạng sống đời này, ta vẫn được giữ sự sống đời đời trong vòng tay Tình Yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Sức mạnh của đức tin và “niềm trông cậy nơi Chúa” được thể hiện sáng rõ trong câu chuyện người mẹ và bảy người con tử đạo dưới thời vua Antiôkhô, là chứng tá sống động cho lời Chúa Giêsu: “Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9: 24). 

Người mẹ đã chứng kiến bảy người con lần lượt chịu chết, nhưng “vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Chúa” (2 Mcb 7: 20). Tác giả mô tả: “Tuy bà là một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi” (7: 21). Sức mạnh của bà không đến từ thể lực, mà từ đức tin sâu thẳm. Bà đã dạy con mình bài học giáo lý sâu sắc: “Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy” (2 Mcb 7: 28). Nếu Thiên Chúa có quyền năng sáng tạo từ hư vô, Ngài cũng có quyền phục hồi và ban lại sự sống đã mất. Bà khẳng định: “Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Ngài do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Ngài hơn bản thân mình” (2 Mcb 7: 23). Niềm tin ấy chính là hạt mầm của đức tin phục sinh Kitô giáo sau này, tin rằng Đấng tạo dựng con người cũng là Đấng làm cho họ phục sinh. Đó là mẫu gương cho mọi Kitô hữu hôm nay. Dù thập giá của chúng ta không phải là gươm giáo, thì những hy sinh vì công lý, sự thật và lòng trung tín, dù có phải từ bỏ tiện nghi để sống cho các giá trị đó của Tin Mừng, vẫn là một hình thức tử đạo thầm lặng.

Đường thập giá không phải là lối đi của thất bại, mà là hành trình dẫn đến vinh quang phục sinh. Người môn đệ Chúa Giêsu được mời gọi từ bỏ cái tôi, vác thập giá mỗi ngày trong tin yêu, và tin chắc rằng không gì có thể tách ta khỏi tình yêu Thiên Chúa.

Nguyện xin Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh ban cho chúng ta lòng can đảm để trung thành bước theo Ngài, biết hy sinh trong niềm vui và tin tưởng rằng chỉ nơi thập giá, ta mới gặp được vinh quang phục sinh, vì “trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8: 37).

Phêrô Phạm Văn Trung

[1] https://www.reddit.com/r/Catholicism/comments/gc3tqa/st_augustine_on_the_denial_of_self/

[2] https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2021-03/pope-at-audience-the-cross-of-christ-like-a-beacon-of-hope.html

[3] https://catholicpreaching.com/wp/living-the-little-way-in-ordinary-life-national-shrine-of-the-little-flower-basilica-october-3-2019/

[4] https://www.littleflower.org/st-therese/st-therese-quotes/

Subcategories