CHUYỆN HAI SỐ PHẬN
- Details
- Category: 3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa
Mối tương quan của con người với của cải vật chất tạo ra nhiều thử thách. Giàu có mang lại tiện nghi nhưng có thể làm tâm hồn chai lì, mù quáng trước khổ đau của người khác. Niềm tin Kitô giáo mời gọi chiến đấu vì đức tin, và tình yêu trắc ẩn, vượt qua những sự phù hoa trần gian.
- Vực Thẳm Vô Cảm
Tin Mừng theo Thánh Luca đã mở ra một bức tranh đầy tương phản giữa hai con người: một “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta” (Lc16: 19) và “một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no” (Lc16: 20-21). Tội lỗi của người phú hộ không phải là giàu có, mà là sự vô cảm và mù lòa tinh thần. Người phú hộ không ngược đãi nhưng cũng không hề “nhìn thấy” Ladarô ngay trước cửa. Đối với ông, Ladarô chỉ là cảnh vật vô hồn, trái tim hoàn toàn đóng kín trước người nghèo khổ.
Cái chết là điểm phân rẽ cho hai số phận. Ladarô, bị từ chối trên trần gian, được “thiên thần đem vào lòng ông Abraham” (Lc16: 22), ở trong sự an ủi và vinh quang của Nước Trời. Ngược lại, người phú hộ chết và xuống “dưới âm phủ, chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ” (Lc16: 23). Khoảng cách giữa hai người, vốn là sự vô cảm trên trần thế, giờ đây đã trở thành một “vực thẳm lớn đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16: 26). Vực thẳm này không phải do Thiên Chúa tạo ra, mà là kết quả tất yếu của những lựa chọn sống của chính con người. Người phú hộ đã tự mình đào vực thẳm ấy bằng sự phớt lờ, còn Ladarô đã vượt qua nó bằng sự khó nghèo, nhẫn nhục và đau khổ của ông.
Người phú hộ xuống âm phủ vì tội thờ ơ và thiếu bác ái. Thánh Gioan Kim ngôn chỉ ra rằng: “Ông ta không gặp bất hạnh nào, mọi điều tốt lành đều tuôn chảy đến với ông ta như một nguồn suối bất tận. Không có điều gì trái ý xảy ra với ông ta…“ngày ngày yến tiệc linh đình.” Cái kết được định sẵn cho ông ta, và thậm chí trước khi ông ta chết, do sự thờ ơ của ông ta; bởi vì ông ta không hề thương hại người nghèo ở cổng nhà mình hay bất cứ ai khác, chính ông ta đã thể hiện điều đó. Bởi vì nếu ông không thương hại người đàn ông liên tục nằm ở cổng nhà mình, trước mắt ông, người mà mỗi ngày, khi ông ra vào, ông hẳn phải nhìn thấy…thì liệu ông có bao giờ động lòng trắc ẩn đối với bất cứ người đau khổ nào mà ông tình cờ gặp không? Ông ta không hề động lòng với người đàn ông tội nghiệp trông thật đáng thương, gầy gò vì đói và bệnh tật triền miên. Những điều này đều không lay chuyển được con người tàn nhẫn ấy, bỏ mặc những người đang chết đói, và khép chặt lòng trắc ẩn” [1]. Tội của ông ta không phải là điều ông ta đã làm, mà là điều ông ta đã không làm. Dù có tất cả điều kiện tốt lành để làm điều thiện, người phú hộ lại chọn cách sống trong sự nhởn nhơ, thờ ơ và lãnh đạm.
Điều đáng nói là ngay cả trong địa ngục, người phú hộ vẫn chưa thực sự thay đổi. Ông ta van xin ông Abraham sai Ladarô, người mà ông ta đã phớt lờ trên trần gian, đến để làm dịu cơn khát của mình: “Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm” (Lc 16: 24). Ông ta vẫn coi Ladarô như một người đầy tớ, một công cụ để phục vụ lợi ích của mình. Con người ông không hề thay đổi, vì trong cuộc đời trần thế, ông đã chọn trở nên vô cảm như thế. Chính vì vậy, lời thỉnh cầu ấy đã bị từ chối, không phải vì Abraham tàn nhẫn, mà vì sự công thẳng của Thiên Chúa. Ông Abraham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ” (Lc16:25). Lời giải thích này nhấn mạnh rằng Thiên Chúa công bằng và Ngài không bỏ rơi những người nghèo khổ, những người bị áp bức.
Khi lời van xin cho chính mình bị từ chối, người phú hộ quay sang xin cho năm người anh em của mình. Ông ta vẫn tin rằng chỉ một phép lạ phi thường, “nếu có người từ cõi chết đến với họ,thì họ sẽ ăn năn sám hối” (Lc16:30), mới đủ để lay động lòng dạ của họ. Nhưng ông Abraham đáp lời: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó…Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin” (Lc16: 29-31).
Đây là lời cảnh báo mạnh mẽ: lòng tin không cần phép lạ. Thiên Chúa đã bày tỏ ý muốn qua Lời Ngài. Nếu ta không lắng nghe, sống tự mãn và vô cảm, không phép lạ nào có thể cứu rỗi.
- Vượt Qua Sự An Nhiên Tự Tại
Lời ngôn sứ Amốt từ thời Cựu Ước mang đến một lời cảnh tỉnh mạnh mẽ: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Xion, và sống an nhiên tự tại trên núi Samari” (Am 6:1). Giống như người phú hộ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, những người này không phải là những kẻ độc ác về bản chất. Tội của họ là tự mãn, sống xa hoa, hưởng thụ trong khi đồng bào của họ đang sống trong cảnh lầm than.
Amốt mô tả chi tiết lối sống của họ: “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đavít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng” (Am 6: 4-6). Tiên tri Amốt đã vạch trần một cách thẳng thừng sự phè phỡn, coi thường luân lý của những “nhà lãnh đạo của dân đứng đầu các dân” (Am 6: 1).
Lời kết tội của tiên tri Amốt không chỉ lên án sự xa hoa, mà còn cả sự thiếu đồng cảm với nỗi đau của dân tộc. Tội lớn nhất của những người giàu có là “chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ!” (Am 6: 6). “Nhà Giuse” là hình ảnh của toàn thể dân Israel đang sống trong bất công. Giống như người phú hộ và Ladarô, những người này đã tạo ra một vực thẳm giữa họ và người cùng khổ, sống tách biệt khỏi hoàn cảnh đau thương của xã hội và không thể cảm nhận nỗi đau của đồng loại mình.
Lời cảnh báo của Amốt vẫn còn vang vọng trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đã lên án “các lợi ích của giới quyền lực, muốn lợi dụng sự tự ti của dân chúng, để hình thành một nền văn hóa mới phục vụ giới tinh hoa, nhờ các phương tiện truyền thông và mạng internet. Chỉ những kẻ cơ hội chuyên đầu cơ tài chính và những kẻ bóc lột là được hưởng lợi, còn người nghèo thì luôn thua thiệt” (Thông điệp Fratelli Tutti, số 52), và nhấn mạnh rằng “Một người bị tấn công trên đường, thế mà nhiều người ngoảnh mặt bỏ đi như không thấy gì. Thường có những người lái xe gây tai nạn rồi bỏ chạy luôn. Việc quan trọng duy nhất đối với họ là tránh rắc rối; ai đó có phải chết vì lỗi của họ, họ cũng chẳng quan tâm. Nhưng đây là dấu chứng cho thấy có một lối sống phổ biến được tỏ lộ bằng nhiều cách thế, có khi tinh tế khó nhận biết hơn. Lại nữa, vì tất cả chúng ta đều tập trung lo cho nhu cầu của mình, nên khi gặp ai đó đang đau khổ thì chúng ta cảm thấy khó chịu, cảm thấy bị quấy rầy, bởi lẽ chúng ta không muốn tốn thời giờ để dàn xếp những vấn đề của người khác. Đó là triệu chứng của một xã hội đang đau bệnh, chỉ lo vun đắp cho mình và quay lưng lại trước khổ đau của người khác” (Fratelli Tutti, số 65). Tiên tri Amốt đã tuyên bố rằng Thiên Chúa không bao giờ quên những việc làm này: “Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (Am 6: 7). Đây là lời cảnh báo về sự phán xét của Thiên Chúa, về sự sụp đổ tất yếu của một xã hội thiếu công bằng và tình yêu thương.
- Lời Mời Gọi Sống Đời Sống Công Chính
Nếu dụ ngôn về người phú hộ và Ladarô là một lời cảnh báo, thì lời của Thánh Phaolô gửi Timôthê lại là một hướng dẫn cụ thể để không rơi vào số phận ấy. Thánh Phaolô kêu gọi Timôthê, và mỗi Kitô hữu, hãy tránh xa: “mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 10) và trở nên “người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà” (1Tm 6: 11). Đây là những nhân đức đối lập hoàn toàn với lối sống phủ phê và vô cảm của người phú hộ. Cuộc sống của Kitô hữu là một cuộc chiến, không phải để tích lũy của cải, mà là để “thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời” (1Tm 6: 12).
Đây là cuộc chiến tinh thần, đòi hỏi kiên trì và can đảm. Thánh Phaolô nhắc nhở Timôthê về “lời tuyên xưng cao đẹp” trước mặt nhiều nhân chứng. Đó là lời cam kết sống trọn vẹn theo Tin Mừng, làm chứng cho tình yêu và sự thật của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô còn truyền cho Timôthê một sứ mệnh: “hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện” (1Tm 6: 14). Sứ mệnh này đòi hỏi chúng ta phải sống một đời sống mẫu mực, làm chứng cho Tin Mừng không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động, nhất là trong một thế giới bị ám ảnh bởi quyền lực và tiền bạc.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta rằng: “Tôi không phải là những thứ tôi sở hữu và những thành công tôi cố gắng đạt được; giá trị cuộc sống của tôi không phụ thuộc vào việc tôi có thể khoe ra bao nhiêu, cũng không giảm đi khi tôi thất bại và gục ngã…Những bất công, những bất bình đẳng, sự phân bổ không đồng đều các nguồn lực trên trái đất, sự lạm dụng của kẻ quyền lực đối với kẻ yếu, sự thờ ơ với tiếng kêu của người nghèo, vực thẳm mà chúng ta đào bới hàng ngày tạo ra sự kỳ thị…Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta dấn thân để hoán cải hữu hiệu từ thờ ơ sang cảm thông, từ lãng phí sang chia sẻ, từ ích kỷ đến tình yêu, từ chủ nghĩa cá nhân đến tình huynh đệ” [2].
Lời khuyên của Thánh Phaolô kết thúc với một lời ca tụng Thiên Chúa: “Chỉ mình Ngài là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy. Kính dâng Ngài danh dự và uy quyền đến muôn đời. Amen.” (1Tm 6:16).
Mọi thứ trên đời đều phù du. Chỉ Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống. Đời sống Kitô hữu là nhận ra sự thật này và đặt hy vọng vào Ngài. Sự sống đời đời không phải món quà ngẫu nhiên, mà là kết quả của cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ vì tình yêu và sự sẻ chia. Lựa chọn hôm nay quyết định nơi cư ngụ vĩnh cửu của chúng ta.
Phêrô Phạm Văn Trung
[1] Discourse I. A homily delivered at antioch on the second day of the month, No. 6. https://www.tertullian.org/fathers/chrysostom_four_discourses_01_discourse1.htm
[2] Thánh lễ kết thúc Đại hội Thánh Thể toàn quốc của Ý lần thứ 27 https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2022-09/dtc-phanxico-thanh-le-dai-hoi-thanh-the-toan-quoc-y-matera.html