ƠN CHỮA LÀNH BỞI ĐỨC TIN TUÂN THEO LỜI CHÚA

Cuộc đời Kitô hữu là những lần gặp gỡ và cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, một hành trình được ghi dấu bằng ơn chữa lành, phần hồn và phần xác, có cả những thử thách của đức tin nhưng vẫn được kêu gọi hãy kiên trì trung tín.

  1. Ơn Chúa đến khi chúng ta tin tưởng vâng theo Lời Ngài

Theo Luật Do Thái, khi người Israel phát hiện phát ban hoặc các triệu chứng da khác, họ phải đến gặp thầy tế lễ để khám. Thầy tế lễ có trách nhiệm xác định xem đó có phải là bệnh phong cùi truyền nhiễm hay không. Nếu chẩn đoán là phong cùi, người đó sẽ bị tuyên bố là ô uế về mặt nghi lễ (Lêvi 13:1, 9-11). Luật cấm người bệnh giao tiếp với cộng đồng; họ bị cô lập hoàn toàn. Người bệnh phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!”. Họ bắt buộc phải sống bên ngoài trại (Lêvi 13:45-46). Sự cô lập này có mục đích ngăn chặn dịch bệnh lây lan, tuy nhiên, đối với người bệnh, nó đồng nghĩa với một bản án chung thân, buộc họ phải sống như những người bị ruồng bỏ và khai trừ khỏi xã hội. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Hãy tưởng tượng những người phong cùi phải chịu đựng biết bao đau khổ và tủi hổ: về thể xác, xã hội, tâm lý và tinh thần! Họ không chỉ là nạn nhân của bệnh tật, mà còn cảm thấy tội lỗi, bị trừng phạt vì tội lỗi của mình! Họ đang sống trong sự chết” [1].

Chúa Giêsu đã chữa lành nhiều người phong cùi (Lc 5:12-14; Mc 1:40-42). Hôm nay, mười người phong cùi đứng từ xa, cùng nhau kêu lên: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc 17:12-13). Họ đứng tại biên giới giữa miền Samaria và miền Galilêa, nhưng “Họ dừng lại đằng xa” (Lc 17: 12), tuân theo lề luật, một kiểu cô lập.

Điều đáng chú ý là Chúa Giêsu không chữa lành ngay lập tức, mà ra lệnh: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17:14). Mệnh lệnh này đòi hỏi đức tin thể hiện qua sự vâng lời tức thì. Khi đó, họ vẫn còn bệnh phong cùi, chưa có sự thay đổi thể chất. Tuy nhiên, trong đức tin, họ đã vâng lời và bắt đầu hành trình. Chính hành động này là bằng chứng họ tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. “Đang khi đi thì họ được sạch” (Lc 17:14). Phép lạ chữa lành không tức khắc mà được hoàn thành trong lúc họ tuân phục Lời Chúa. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi người được chữa lành phải thể hiện đức tin của họ. Đức tin ấy được thử thách bằng sự tuân phục vô điều kiện. Tôi có tin vào Chúa Giêsu bằng cách tuân theo Lời Ngài một cách không do dự không?

  1. Ơn Chúa đến khi chúng ta khiêm nhường tin tưởng

Câu chuyện của Naaman, quan lãnh binh Syria, cho thấy ơn chữa lành còn đòi hỏi sự khiêm tốn nữa. Naaman, một quý tộc triều đình, đã giận dữ khi được tiên tri Êlisa truyền lệnh “hãy đi tắm bảy lần trong sông Giođan” (2V 5:10). Ông muốn một nghi thức hoành tráng tương xứng với địa vị của mình, chứ không phải một dòng sông tầm thường của Israel. Sự kiêu ngạo ấy đã suýt khiến ông không nhận được ơn chữa lành. Chỉ khi được đầy tớ khuyên nhủ, Naaman mới chịu nhún mình: “Ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Giođan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ” (2V5:14).

Đức tin đích thực đòi hỏi từ bỏ niềm kiêu hãnh cá nhân, đòi hỏi khiêm nhường tuân theo lời Thiên Chúa ngay khi chúng ta đang ngờ vực. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Thật không dễ hiểu được sự khiêm nhường là gì…Chẳng hạn, trường hợp của Naaman người Syria…Naaman đã hiểu ra một chân lý nền tảng: chúng ta không thể dành cả đời để ẩn mình sau lớp áo giáp, một vai trò chúng ta đang đóng, hay sự công nhận của xã hội; cuối cùng, điều đó sẽ làm chúng ta tổn thương. Sẽ đến lúc trong cuộc đời mỗi cá nhân, người ta muốn gạt bỏ hào quang của vinh quang thế gian này để hướng đến một cuộc sống trọn hảo, đích thực, không cần đến áo giáp hay mặt nạ nữa… Mang trong mình bạc vàng, Naaman lên đường và đến gặp tiên tri Êlisa, người đã đặt ra cho ông, như điều kiện duy nhất để được chữa lành, một cử chỉ đơn giản là cởi áo và tắm bảy lần dưới sông Giođan. Không liên quan gì đến sự nổi tiếng, danh giá, vàng bạc! Ân sủng cứu độ là cho không; ân sủng không thể bị quy giản thành giá trị của cải trần gian…Đây quả là một bài học lớn! Sự khiêm nhường tuân theo lời Chúa, phơi bày bản tính phàm nhân của mình, đã mang lại sự chữa lành cho Naaman” [2].

Ơn chữa lành thể lý chưa bao giờ là điều cuối cùng mà Chúa Giêsu nhắm tới. Bài học lớn nhất nằm ở sự chấp nhận của người được chữa lành: đó là tin tưởng và vâng theo Đấng chữa lành. Cuối cùng, mọi hành động vâng lời đều phải được neo chặt vào một thực tại không thay đổi: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17: 19). 

  1. Ơn cứu độ dành cho ai biết tạ ơn

Thánh sử Luca đặc biệt đề cập đến việc: “Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari” (Luca 17: 15-16). Tin Mừng không ghi lại họ đã đi được bao xa trước khi được chữa lành. Tuy nhiên, chỉ có một người quay lại cảm ơn Chúa Giêsu vì đã chữa lành anh ta. Chúa Giêsu bày tỏ sự thất vọng khi chín người kia không nghĩ đến việc ngợi khen Thiên Chúa đã chữa lành họ: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17: 17-18).

Chúng ta học được rằng Thiên Chúa mong muốn chúng ta bày tỏ lòng biết ơn Ngài về tất cả những gì Ngài đã làm trong cuộc đời chúng ta. Chín người Do Thái kia đã nhận được ơn chữa lành, nhưng lại thiếu lòng tri ân, và vì thế, họ mất đi sự cứu rỗi trọn vẹn. Lời cuối cùng Chúa Giêsu dành cho người Samaria là: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17: 19). Sự khác biệt nằm ở chỗ: chín người Do thái được lành sạch thể xác nhưng chỉ để quay lại với luật Môsê, còn người Samaria được cứu chữa để hiệp thông với Chúa Kitô.

Thánh Augustinô cảnh báo: “Chúng ta vẫn còn vô ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đã thanh tẩy chúng ta khỏi bệnh phong hủi tâm linh. Lòng kiêu hãnh và sự tự phụ của chúng ta, ngăn cản chúng ta khiêm nhường nhận ra những ân huệ của Đấng Tạo Hóa, chính là nguyên nhân dẫn đến sự vô ơn của chúng ta. Chúng ta giống như những người đã biết Thiên Chúa và được giải thoát khỏi bệnh phong hủi của sự lầm lạc, nhưng vẫn còn mang trong mình lòng vô ơn đối với Đấng Tạo Hóa, Đấng đã soi sáng cho họ. Họ đã đánh mất vương quốc thiên đàng…Còn một người phung đã trở lại, lớn tiếng tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa…Ông được Chúa Giêsu ca ngợi, trở nên như người trung thành giữ gìn của cải được giao phó, bảo tồn vương quốc này bằng sự khiêm nhường và lòng biết ơn của mình” [3].

Sau khi được chữa lành, Naaman trở lại gặp tiên tri Êlisa, tuyên bố đức tin mạnh mẽ: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel” (2V 5: 15). Ông bày tỏ tri ân bằng cách cố gắng dâng lễ vật. Sự chữa lành đã dẫn đến hoán cải tuyệt đối về đức tin. Naaman xin mang đất về: “Vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Chúa” (2V 5: 17). Hành động mang đất này là biểu tượng của lòng trung thành không lay chuyển, thể hiện mong muốn thờ phượng Thiên Chúa ngay tại quê hương ngoại giáo. Lòng tri ân đích thực đòi hỏi sự công nhận Thiên Chúa là Đấng duy nhất và dấn thân sống theo niềm tin đó.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở về tầm quan trọng của thái độ biết ơn này: “Có thể nói, câu chuyện này chia thế giới thành hai nửa: những người không tạ ơn và những người tạ ơn; những người đón nhận mọi sự như thể mình có quyền, và những người đón nhận mọi sự như một món quà, như ân sủng. Tạ ơn luôn bắt đầu từ sự nhận biết rằng ân sủng đi trước chúng ta. Chúng ta đã được yêu thương trước khi học cách yêu thương…Nếu chúng ta nhìn cuộc sống theo cách này, thì lời “tạ ơn” sẽ trở thành động lực cho mỗi ngày của chúng ta… Lời “tạ ơn” mà chúng ta phải nói liên tục, lời cảm ơn mà người Kitô hữu chia sẻ với mọi người, lớn lên trong cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu” (Buổi tiếp kiến chung, 30/12/2020).

  1. Trung tín trong gian khổ

Lòng tri ân và trung thành không chỉ được thể hiện trong niềm vui, mà còn phải được duy trì trong gian khổ. Đây là giáo huấn của Thánh Phaolô gửi cho Timôthê: “Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2Tm 2: 9). Thánh Phaolô “cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Chúa Kitô Giêsu, và được hưởng vinh quang muôn đời” (2Tm2: 10). Sứ điệp an ủi nằm trong nghịch lý của Kitô giáo: sự giam cầm thân xác của Phaolô lại là phương tiện loan báo Lời Chúa: “Lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích!” (2Tm 2: 9), nhưng “là lời đáng tin cậy” (2Tm 2: 11-12).

Chịu đựng đau khổ không phải là hành động tự tôn mà là tình yêu hy sinh. Thánh Thánh Isaac thành Ninivê (+ 613), giám mục Syriac, dạy rằng: “Con cái của Thiên Chúa phân biệt mình với những người khác ở chỗ họ sống trong đau khổ, trong khi thế gian tự hào về sự xa hoa và yên bình. Thiên Chúa không hạ mình để những người yêu dấu của Ngài sống trong thứ yên ổn xác thịt, nhưng Ngài muốn họ phải lưu trú trong nỗi buồn, áp bức, trong lao động, nghèo đói, trần truồng, thiếu thốn, nhục nhã, bị sỉ nhục trong thân thể nặng nề và những suy nghĩ buồn bã… Sau mọi đau khổ vì Chúa, sự giải thoát sẽ đến. Một tâm hồn yêu mến Chúa sẽ tìm thấy niềm an ủi nơi Chúa và chỉ nơi Ngài mà thôi” [4].

Thánh Phaolô củng cố niềm hy vọng: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Ngài” (2Tm 2: 11-12). Sự Sống lại là lời bảo đảm rằng mọi đau khổ đều có ý nghĩa. Những lời này là lời mời gọi sống triệt để sự hiệp thông với Chúa Kitô, chấp nhận thập giá để nhận được vinh quang. Tuy nhiên, lời an ủi lớn lao nhất nằm ở sự bảo đảm cuối cùng về bản chất Thiên Chúa: “Nếu ta không trung tín, Ngài vẫn một lòng trung tín, vì Ngài không thể nào chối bỏ chính mình” (2 Tm2:13).

Lòng trung thành của Thiên Chúa là bất di bất dịch. Dù ta yếu đuối, vô ơn, Thiên Chúa vẫn trung tín với lời hứa và bản chất yêu thương của Ngài. Chúng ta cần cầu xin Chúa Giêsu với lòng tin tưởng, kiên trì và đầy đức tin. Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, sẽ ban ơn. Sách Giáo Lý khẳng định: “Những lời Thiên Chúa hứa luôn luôn được thực hiện. Thiên Chúa là chính Chân Lý, những lời của Ngài không thể là sai lầm. Vì vậy, một cách hoàn toàn tin tưởng, người ta có thể phó mình cho sự thật và sự trung tín của lời Ngài trong mọi sự” (số 215). Lòng trung thành này là nền tảng đức tin, giúp ta luôn hy vọng và kiên trì trong lòng tri ân.

 

Phêrô Phạm Văn Trung

[1] https://www.vatican.va/content/francesco/en/homilies/2015/documents/papa francesco_20150215_omelia-nuovi-cardinali.html

[2] https://www.vaticannews.va/en/word-of-the-day/2023/03/13.html

[3] https://thedivinelamp.wordpress.com/2012/08/20/st-augustines-homily-on-luke-1711-19/

[4] https://evangelistarion.wordpress.com/2014/12/02/writings-of-scripture-and-church-fathers-on-suffering-and-afflictions/