TRÍ TUỆ NHÂN TẠO VÀ VIỆC TRUYỀN GIÁO
- Details
- Category: 8. Đời Sống Tâm Linh
Giáo hội hiện rất quan tâm đến vấn đề “ Trí Tuệ Nhân Tạo” và cũng vì mối quan tâm ấy, Học Viện Công Giáo Việt Nam đã tổ chức hội thảo trong 02 ngày ( 01 và 02/03/2024 ) với chủ đề: “ AI: Cơ hội và thách đố đối với Ki Tô Hữu Việt Nam ). Trong cuộc hội thảo, cha giáo sư JB Lê Đình Phương đã nêu lên công hiệu của Trí Tuệ Nhân Tạo đối với Việc Truyền Giáo như sau:
“ Thúc đẩy truyền giáo và giáo dục đức tin: AI hỗ trợ Giáo Hội trong việc truyền tải giáo lý, tạo ra tài liệu giáo dục đức tin phù hợp với từng cá nhân, giúp mọi người dễ dàng tiếp cận và đào sâu kiến thức công giáo, bất kể khoảng cách hay hoàn cảnh…
……..Nâng cao hiệu quả trong hoạt động bác ái và công tác xã hội: AI giúp quản lý và phân phối nguồn lực, tối ưu hoá các chương trình hỗ trợ người nghèo và các nhóm yếu thế. Phản hồi nhanh và hiệu quả trước các nhu cầu xã hội, từ đó củng cố sứ mệnh bác ái của giáo hội” ( Nguồn: Diễn Đàn Phải Làm Gì ? / Truyền Thông – Công Nghệ ).
Qua sự trình bày của cha giáo sư JB Lê Đình Phương cho thấy Giáo Hội không hơn không kém chỉ là một “ Tổ Chức Cứu Tế Xã Hội” và cũng chính vì thế Trí Tuệ Nhân Tạo mới được coi là công cụ hữu hiệu cho Việc Truyền Giáo ???
Từ lâu, Giáo Hội đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về Việc Truyền Giáo. Thoạt đầu, Truyền Giáo có nghĩa là được sai đi và người được sai đi ấy gọi là Tông Đồ ( Apostolos ). Người được sai đi ấy mang một sứ mệnh thế nên Truyền Giáo được gọi là Missio. Sau này Truyền Giáo lại được hiểu là truyền bá đức tin ( Propagatio ). Thế nhưng việc truyền bá ấy bị hiểu lầm là…tuyên truyền nên đã được đức giáo hoàng Phao Lô VI đổi lại là Phúc Âm Hoá ( Evangelizatio ).
Thật ra, Phúc Âm Hoá hoàn toàn chẳng có liên quan gì đến sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Đức Giê Su Ki Tô đã trao cho các Tông Đồ trước khi Ngài về trời: “ Hãy ra đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Ai tin và chịu phép rửa thì được cứu. Còn ai không tin thì bị luận phạt. Những kẻ tin sẽ có những dấu lạ này cặp theo: Họ sẽ nhân danh Ta mà đuổi quỷ, nói tiếng lạ, bắt rắn độc, có uống nhằm thuốc độc chi cũng chẳng hại gì. Đặt tay trên kẻ đau yếu, kẻ ấy sẽ được lành mạnh” ( Mc 16, 15 -18 ).
Chúa Giê Su nói rất rõ về điều kiện tiếp nhận Tin Mừng: Ai tin thì sẽ được cứu, còn ai không tin sẽ bị luận phạt. Vậy, tin ở đây là tin vào điều gì ? Xin thưa là tin vào Tin Mừng mà Ngài rao giảng: “ Thời đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần, các ngươi hãy ăn năn, sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ).
Để có được lòng tin vào Tin Mừng của Đức Ki Tô thì nhất thiết cần có sự ăn năn, sám hối chừa cải tội lỗi mình. Giữa lòng tin vào Tin Mừng và sự sám hối ăn năn có một mối liên hệ khăng khít không rời. Sự sám hối, ăn năn càng chân thành bao nhiêu thì lòng tin càng triển nở bấy nhiêu, trái lại thì không !.
Tại sao cần có sự ăn năn, sám hối, chừa cải tội lỗi mới có thể có được lòng tin vào Tin Mừng của Đức Ki Tô ? Đó là bởi Tin Mừng ấy là về Nước Trời mầu nhiệm nội tại cũng chính là Chân Tâm Bản Tính của mỗi người: “ Người Pharisieu hỏi Chúa Giê Su về Nước Thiên Chúa chừng nào đến ? Ngài đáp: Nước Thiên Chúa không đến cách mắt thấy được. Người ta cũng không thể nói: Đây này hay đó kia vì này Nước Thiên Chúa ở trong lòng các ngươi” ( Lc 17, 20 -21 ).
Với Nước Trời mà Đức Ki Tô rao giảng thì không thể nói: Đây này hay đó kia bởi vì đó là một Thực Tại Tâm ( Chân Tâm ) siêu việt cả không gian lẫn thời gian. Bởi Nước Trời là một Thực Tại Tâm mầu nhiệm như thế nên lý trí con người không cách chi hiểu được. Nếu lý trí có thể hiểu thì không còn chi là mầu nhiệm nữa ?
Nước Trời là một mầu nhiệm khôn tả, bởi đó mỗi khi rao giảng về mầu nhiệm này Chúa Giê Su đều thốt lên: “ Ai có tai nghe thì hãy nghe !” Trừ ra những kẻ tai bị điếc thì không nghe, ngoài ra, ai mà chẳng nghe ? Tuy nhiên ở đây Chúa Giê Su muốn nói là khi nghe Tin Mừng thì cần lắng nghe với Tâm Vô Phân Biệt !
Để có thể nghe với Tâm Vô Phân Biệt như thế thì cần xoay cái Tâm vào bên trong để nhận ra Bản Tánh Chân Thật vốn sẵn có ở nơi mình gọi là “Phản Văn, Văn Tự Tánh”. Nghe lại tiếng nói chân thật phát ra từ Chân Tâm Bản Tánh , Chúa Giê Su gọi đó là Nghe Tiếng Cha và Ngài cũng mời gọi chúng ta thực hiện điều đó: “ Ta chẳng còn gọi các ngươi là tôi tớ nữa vì tôi tớ thì chẳng biết việc chủ mình làm. Nhưng Ta gọi các ngươi là bạn hữu vì Ta từng tỏ cho các ngươi những điều Ta đã nghe biết ở nơi Cha Ta” ( Ga 15, 15 ).
Nghe được Tiếng Cha ở nơi mình, đó là ơn phúc vô cùng lớn lao và ơn phúc đó các tiên tri và người công chính trước đây đã từng ước ao mà không được: “ Vì phúc cho các ngươi vì thấy được. Cho tai các ngươi vì nghe được. Quả thật Ta nói cùng các ngươi: Có nhiều tiên tri và người công chính đã ước ao điều các ngươi thấy mà không được thấy. Đã ước ao nghe điều các ngươi nghe mà không được nghe” ( Mt 13, 16 -17 ).
Ước ao thấy mà không được thấy đó là thấy Đấng Cứu Thế Giê Su xuất hiện nơi đời. Còn ước ao nghe mà không được nghe đó là nghe Chúa rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Có biết được ơn phúc lớn lao do việc…nghe Tin Mừng của Đức Ki Tô như thế thì mới hiểu được giá trị của Việc Truyền Giáo và ra công thực hiện ! Tại sao ?
Bởi vì tất cả sứ mạng cao cả của Việc Truyền Giáo chỉ hệ tại ở việc rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô về Nước Trời Mầu Nhiệm Nội Tại. Chính là với Tin Mừng ấy mà muôn dân trông đợi chứ không phải là việc “ Cứu Tế Xã Hội” ? Truyền Giáo tất nhiên phải là việc rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô. Thế nhưng để thực hiện công cuộc lớn lao ấy lại đòi hỏi cần có những chứng nhân thực thụ chứ không phải là những giáo sư, tiến sĩ bằng cấp, khoa bảng đủ loại…
“ Hãy nhớ đến Đức Ki Ti Tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết. Đấng thuộc dòng dõi Đa Vít như đã nói trong Tin Mừng mà tôi rao giảng. Vì Tin Mừng ấy mà tôi đã chịu nhiều khổ nhục. Tôi còn phải mang xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng Tin Mừng đâu thể bị xiềng xích. Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự để mưu ích cho những người được Thiên Chúa chọn lựa để họ cũng đạt tới Ơn Cứu Độ trong Đức Giê Su Ki Tô và được hưởng vinh quang muôn đời” ( 2Tm 2, 8 -10 ).
Mục đích của Việc Truyền Giáo là để rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô, hầu cho những ai tiếp nhận, cuối cùng sẽ được hưởng vinh quang Nước Trời chứ không phải để đào sâu kiến thức giáo lý đủ loại của Trí Tuệ Nhân Tạo, chẳng những chẳng đem lại ơn ích gì cho việc Rỗi Linh Hồn mình mà ngày càng xa rời Đạo Thánh Chúa là Đạo Chân Thật ( Ga 17, 17 ).
Như vậy, sự cứu rỗi tất cả là do ở việc tin và sống với Tin Mừng của Đức Ki Tô chứ không phải là am hiểu giáo lý hoặc ngay cả những việc làm bác ái nếu chỉ theo ý riêng mình: “ Ấy là Đấng đã cứu chúng ta, đã kêu gọi chúng ta bởi ơn kêu gọi thánh. Chẳng phải theo công việc của chúng ta bèn là theo chỉ định và ơn sủng của Ngài là ơn sủng đã ban cho chúng ta trong Chúa Giê Su Ki Tô từ trước muôn đời mà hiện nay mới được tỏ ra bởi sự hiện diện của Chúa chúng ta là Đức Giê Su Ki Tô, Đấng đã bãi bỏ sự chết nhờ Tin Mừng mà phơi bày sự sống và sự chẳng hay hư nát ra. Cũng vì Tin Mừng đó mà ta đã được lập làm nhà truyền giáo, tông đồ và giáo sư. Lại cũng vì cớ ấy mà ta chịu những nỗi khổ này. Dẫu vậy, ta chẳng hổ thẹn đâu vì ta biết Đấng mà ta đã tin và cũng tin chắc rằng Ngài có thể giữ sự ta đã phó thác cho Ngài đến ngày đó” ( 2Tm 1, 9 -12 ).
Để rao giảng Tin Mừng của Đức Ki Tô thì nhất định cần có những chứng nhân: “ Các ngươi là những chứng nhân về mọi việc đó” ( Lc 21, 48 ). Những việc cần làm chứng đó là Chúa Giê Su đã chết, sống lại và rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Chính do việc…làm chứng ấy, Giáo Hội Công Giáo đã được khai sinh và tồn tại cho đến ngày nay. Thế nhưng nên nhớ, việc làm chứng ấy luôn đòi hỏi cần có những hy sinh, thậm chí nếu không có hy sinh, cho đến cả mạng sống mình thì không thể có Đạo Thánh Chúa đúng như lời thánh Tertuliano đã nói: “ Các thánh tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu” ( Sanguis martyrum semen christianorum ).
Việc làm chứng đòi hỏi rất nhiều hy sinh, chịu đựng gian khổ và không kém phần nguy hiểm, vì vậy Chúa Giê Su đã ví việc được sai đi ấy giống như chiên con đi vào giữa bầy sói dữ: “ Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” ( Lc 10, 3 ). Lý do khiến việc làm chứng nhân cho Tin Mừng…nguy hiểm như thế bởi vì Đạo Chúa là Đạo Xuất Thế Gian: “ Con đã ban đạo Cha cho họ mà thế gian ghen ghét họ vì họ không thuộc về thế gian cũng như Con không thuộc về thế gian vậy. Con chẳng xin Cha cất họ khỏi thế gian nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi sự ác. Họ không thuộc về thế gian cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy lẽ thật để khiến họ nên thánh. Đạo Cha là đạo thật” ( Ga 17, 14 -17 ).
Làm chứng cho Tin Mừng là làm chứng cho sự thật, thế nhưng trong thực tế đời sống, điều ấy thật không hề dễ chút nào…Bằng chứng rõ nhất đó là qua cuộc bách hại Đạo Công Giáo diễn ra tại miền bắc sau năm 1954. Sự bách hại ấy trước hết là nhằm cô lập, làm khó dễ những vị mục tử chăn dắt đoàn chiên như các hồng y, các đức giám mục và sau nữa là toàn thể các Linh Mục, những con người không chịu khuất phục nhà cầm quyền.
Trong số những vị mục tử ấy, đặc biệt có linh mục Nguyễn Văn Vinh ( 1912 – 1971 ) thường được gọi là cha chính Vinh ( TGP Hà Nội ), người từng du học tại Pháp gần 20 năm, đã đậu bằng tiến sĩ triết học Sorbone, tốt nghiệp Khoa Sáng Tác Âm Nhạc tại Nhạc Viện Quốc Gia…Ngài đã được bề trên ( ĐHY Giu Se Maria Trịnh Như Khuê ) cho phép đem chủng sinh vào nam nhưng đã tình nguyện ở lại để tiếp tục phục vụ giáo hội, rồi bị bắt sau vụ ( Noel 1958 ), và chết dũ tù trong trại giám Cổng Trời ( Hà Giang ) là nơi chuyên giam giữ các tử tù.
Theo lời kể của nhà thơ Tuân Nguyễn ( Không phải nhà văn Nguyễn Tuân ), được nhà văn Phùng Quán kể lại cái chết của cha chính Vinh nguyên văn như sau: “ Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai, ba lần anh ta mới mở mắt chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró hình như thoáng có nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè lưỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi rồi anh ta thều thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây…đưa bàn tay đây cho mình…Anh ta nắm chặt
bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ Nho: Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than và lên cơn co giật…Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ NHẪN ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu gì đó…Giám thị hỏi: Cái hình nguệc ngoạc này có ý nghĩa gì ? Anh mà không thành thật khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam !
Mình nói: Thưa cán bộ, thật tình tôi cũng không rõ, anh ta chỉ nói: Tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí. Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…” ( Nguồn: Quảng Ngãi Nghĩa Thục – Thằng Khùng – Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá ).
Chữ NHẪN được giải thích cho viên giám thị trại giam như là một thứ…bùa để trừ bệnh tật, tà khí, nghe như có vẻ đùa nhưng đó lại là đức tính quan trọng nhất trong đời sống tâm linh, có liên quan đến niềm hy vọng đời sau của người Công Giáo: “ Vì chúng ta được cứu trong sự hy vọng nhưng sự hy vọng đã thấy được thì không còn là hy vọng nữa. Vì có ai lại hy vọng điều đã thấy rồi ư ? Song nếu chúng ta hy vọng điều chưa thấy thì chúng ta mới nhẫn nại mà đợi trông” ( Rm 8, 24 -25 ).
Cha chính Vinh trong cơn hấp hối, thập tử nhất sinh mà còn…ráng viết một chữ NHẪN trên lòng bàn tay của người bạn tù. Điều ấy chứng tỏ ngài đã sống chữ NHẪN theo gương Thầy Chí Thánh Giê Su của mình một cách trọn vẹn. Tuy nhiên để có thể sống được như thế thì nhất định không được thoả hiệp với thế gian dù trong bất kể hoàn cảnh nào…
“ Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh nói: Đảng và chính phủ muốn anh được tha về nhưng với điều kiện là phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh ( CT/ UBLLCG ). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi. Ngài khẳng khái đáp: Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”
Đường lối của ông Vịnh, một linh mục quốc doanh là thoả hiệp với thế gian. Còn của cha Vinh là Đường Thập Giá Chúa Ki Tô. Thoả hiệp với thế gian chỉ có thể đưa đến sự hư mất đời đời. Trái lại Đường Thập Giá Chúa Ki Tô đưa đến vinh quang bất diệt. Người Công Giáo chúng ta chỉ có thể chọn một trong hai con đường ấy mà thôi, không thể có con đường….lưng chừng nào khác !
Nhận ra như thế để cho thấy trong ý nghĩa sâu xa của Việc Truyền Giáo đó cũng là việc thông truyền niềm hy vọng cho nhân loại, một nhân loại đã và đang sống bên bờ tuyệt vọng !!! Thế nhưng làm sao có thể có được niềm hy vọng ấy nếu không có lòng nhẫn nại, đợi trông ?
Phùng Văn Hoá