TỰ DO TUYỆT ĐỐI

Bao lâu, chúng ta chưa thật sự sống trong sự hiện diện của Chúa, sống dưới ánh nhìn của Chúa, thì lúc bấy giờ, chúng ta sẽ vẫn cứ loay hoay với chính mình. Chúng ta tìm cách thoát khỏi những cảm xúc tiêu cực, bằng cách học quan sát chính mình để được bình an, nhưng, đó có phải là thứ bình an thật sự không, bởi vì, vẫn còn ẩn tàng một cái tôi là “người quan sát”, người quan sát giống như một chiếc neo, chiếc neo ấy được thả xuống để giữ con thuyền khỏi trôi dạt, nhưng, chính nó lại ngăn, không cho thuyền trôi ra biển lớn, nó trói buộc ta trong một bến cảng tưởng chừng yên bình, nhưng, thật ra, vẫn là đất liền của bản ngã, thế là, ta cứ ngồi đó, an ổn trong sự quan sát, mà chưa bao giờ biết được tự do tuyệt đối, ta giống như con chim nghĩ mình đã thoát lồng, nhưng thật ra, chỉ bay sang một chiếc lồng khác rộng hơn, sáng hơn, thoáng hơn mà thôi.

Chỉ khi nào, chúng ta không còn tin vào chính mình, không còn tin vào người quan sát, mà, chỉ tin vào Đấng Quan Sát, Đấng hiện diện nơi bí ẩn, thấu suốt những gì kín đáo, hằng dò xét và biết rõ ta, khi đó, ta mới thật sự tự do. Chúng ta hãy tưởng tượng: người quan sát là giọt sương, Đấng Quan Sát là đại dương, một giọt sương trước khi rơi vào đại dương, nó vẫn còn một biên giới riêng, một hình tướng riêng, nhưng, khi chạm vào đại dương, ranh giới ấy tan biến: không còn giọt sương riêng biệt, cũng không còn đại dương tách rời giọt sương, mà chỉ là nước mênh mông, không còn phân chia, khi đó, ta được nên một với Chúa, và được tự do như Chúa.

Khi cầu nguyện, ta có được một chút hiểu biết về Thiên Chúa, và thế là, ta liền gán cho hiểu biết ấy một cái tên: cái của tôi, và khi ấy, sự hiểu biết thuần khiết đã bị vẩn đục: chúng ta hãy hình dung ánh sáng mặt trời soi chiếu khắp muôn loài, ánh sáng ấy vốn không lựa chọn, không thiên vị, không dành riêng cho ai, nhưng, một chiếc gương nhỏ, trong khoảnh khắc phản chiếu ánh sáng, lại lầm tưởng rằng: ánh sáng này là của tôi, cũng vậy, khi ta vừa nhận ra sự hiểu biết Thiên Chúa, ta tưởng rằng mình đã có một năng lực siêu nhiên, đã là nhà thần bí. Chính cái khoảnh khắc tuyên bố “tôi đã thấy”, sự hiểu biết ấy đã bị bóp méo, nó không còn là bầu trời, mà chỉ là, một lỗ nhỏ trên vách, mở ra một mảnh trời bé nhỏ mà thôi.

Tự do tuyệt đối không đến từ việc ta đã đạt được điều này, hay đã từ bỏ điều kia, nó không đến như phần thưởng hay kết quả cho sự nỗ lực, nó đơn giản chỉ hiển lộ: khi cái tôi, kẻ luôn tính toán được mất, tan biến đi. Tự do tuyệt đối như hương hoa, tỏa ra khi hoa nở. Ngoài một mình Chúa, không ai điều khiển được nó, không ai chiếm hữu được nó, không ai có thể làm cho nó mất đi hay thêm vào, Chúa ban cách tự nhiên, khi không còn ai đó đứng ra để sở hữu, tự do ấy mới thật sự thuần khiết, cũng như bầu trời, nó chưa từng cần có điều kiện để rộng lớn, chỉ có mây che, ta mới tưởng rằng bầu trời tăm tối, nhưng, khi mây tan, ta mới thấy bầu trời vốn trong sáng, chưa từng bị mất đi, tự do tuyệt đối cũng vậy, nó chưa từng rời xa ta, chỉ bị che phủ bởi lớp mây mù của bản ngã, của ham muốn, của sợ hãi, do ta còn hoài nghi, chưa thật sự đặt hết niềm tin tưởng, cậy trông, tín thác vào Chúa.

Tóm lại, tự do tuyệt đối không phải là được làm tất cả những gì mình muốn, nhưng là, làm theo tất cả những gì Chúa muốn, bởi vì, mình muốn thì vẫn còn thuộc về bản ngã, và theo sau nó vẫn là ràng buộc. Tự do tuyệt đối là khi không còn bị trói buộc bởi bất kỳ ham muốn nào, bất kỳ nhu cầu chứng minh nào, bất kỳ một kết quả nào, đó là tự do không cần điều kiện, mà chỉ biết làm theo thánh ý Chúa mà thôi, khi ấy, ta có thể sống giữa đời thường, đối diện với những mất mát, nhưng, tất cả không thể trói buộc được ta, và mỗi khoảnh khắc của đời sống sẽ trở thành lời ca ngợi không ngừng dâng lên Thiên Chúa, ta sẽ như chiếc lá khô tự do tự tại tung bay theo làn gió Thánh Linh trong bầu trời ân sủng. Ước gì được như thế!

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.