20. Những Bài Về Đức Mẹ

NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - MẸ TẠI TIỆC CƯỚI CANA

Đức Ma-ri-a tại tiệc cưới Ca-na  trong Tin Mừng Gio-an

Đức Ma-ri-a xuất hiện trong Tin Mừng Gio-an hai lần: lần đầu tại tiệc cưới Ca-na (Ga 2,1-12), lần sau tại đồi Cal-vê, dưới chân thập giá Chúa Giê-su (Ga 19,25-27). Đức Ma-ri-a trong Phúc âm thứ tư không được gọi tên như trong Tin Mừng nhất lãm: thay vì gọi đích danh Ma-ri-a, thì tác giả gọi Người là Mẹ Chúa Giê-su. Có lẽ, đó là điểm nổi bật có tính thần học trong Phúc âm Gio-an.

 Đức Ma-ri-a tại tiệc cưới Ca-na

20070227022923!The_Marriage_at_Cana_-_DecaniBối cảnh tiệc cưới xảy ra tại vùng quê Ca-na miền Ga-li-lê (phân biệt với Ca-na miền Coelo-Syria), có sự hiên diện của Đức Ma-ri-a, Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài. Có lẽ Đức Ma-ri-a là một khách mời đặc biệt hoặc có liên quan đến việc tổ chức lễ cưới nên xem ra Đức Ma-ri-a rất lo lắng khi thấy thiếu rượu. Thật vậy, theo phong tục truyền thống Do-thái, đám cưới là một lễ hội rất long trọng và được tổ chức nhiều ngày. Khách mời và gia chủ cùng chia sẻ những ngày tiệc tùng vui vẻ là một cơ hội quan trọng trong đời. Đặc biệt, rượu là một thứ không thể thiếu trong đám cưới vì nó làm tăng niềm vui của khách mời và việc thết đãi rượu thịnh soạn dồi dào là một vinh dự của gia chủ. Hơn nữa, theo văn hóa Đông phương, đãi khách là một nhiệm vụ thiêng liêng, vì thế thiếu thức ăn, nước uống và rượu là một điều xấu hổ cho cô dâu, chú rể. Các Rab-bi thường nói: “Không rượu thì không vui”. Tuy nhiên, say rượu cũng là sự khiếm nhã nên khách mời cũng cần phải chừng mực. Tiếc thay, sự cố không vui đã xảy đến trong tiệc cưới tại Ca-na này: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Đức Ma-ri-a đã nhận ra điều đó và Mẹ đã can thiệp để điều tồi tệ nhất không xảy ra.

1. Sự can thiệp của Đức Ma-ri-a

Rượu là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên niềm vui trong tiệc cưới, nhưng tiếc thay, tiệc cưới Ca-na chưa tàn đã hết rượu. Đức Ma-ri-a đã nhận ra tình hình tồi tệ ấy và đã can thiệp cách chủ động. Tuy nhiên, thái độ và cung cách của Đức Ma-ri-a cho thấy Mẹ thực sự quan tâm đến nhu cầu của người khác và Đức Ma-ri-a đã không yêu cầu cách trực tiếp nhưng bằng một thái độ đức tin và có sự tín thác.

a. Đức Ma-ri-a luôn quan tâm đến nhu cầu của người khác

Đức Ma-ri-a hiện diện trong tiệc cưới Ca-na được tác giả Phúc âm thứ tư diễn tả như một vị khách đặc biệt. Đức Ma-ri-a sát cánh bên Chúa Giê-su và dường như điều ấy làm cho các nhân vật khác trong tiệc cưới trở thành thứ yếu. Tuy Đức Ma-ri-a không tỏ ra là một nhân vật chủ chốt, nhưng điều Mẹ lưu tâm là một công việc quan trọng và cấp thiết, công việc của một ông quản tiệc. Đức Ma-ri-a đã lên tiếng với Chúa Giê-su về tình hình nghiêm trọng xắp xảy đến: thiếu rượu.

Có thể nói, Gio-an đã đặt sự quan tâm của Đức Ma-ri-a về việc thiếu rượu trong tiệc cưới như một dấu chỉ khởi sự dấu lạ đầu tiên của Chúa Giê-su, Đấng được Thiên Chúa sai đến. Vì thế, theo ý định của Gio-an, việc can thiệp của Đức Ma-ri-a hay việc biến nước thành rượu không phải là trọng tâm của biến cố cho bằng việc giới thiệu và minh chứng về Đấng Thiên Sai muôn dân đang mong đợi. Ngài đến để đem ơn cứu độ và đổi mới mọi sự.

Chúng ta sẽ thấy Gio-an thường trình bày các dấu lạ nhắm mục đích thay thế các luật lệ cũ của người Do-thái. Thêm vào đó, khi Chúa Giê-su đến, giáo lý và hệ thống tôn giáo cũ có thể trở nên vô nghĩa nên không thể tồn tại. Do vậy, sự lưu ý của Đức Ma-ri-a về việc thiếu rượu có thể được hiểu theo một nghĩa tượng trưng về tình trạng của dân Do-thái. Trước hết, thiếu rượu được diễn tả như thể “họ đang trở nên trống rỗng và là nạn nhân của những luật lệ vô nghĩa của nhóm biệt phái”[1]

 

. Tiếp đến, nước để dùng trong nghi lễ thanh tẩy theo luật cũ tại tiệc cưới Ca-na không còn cần thiết nữa nhưng giờ đây, nó được thay thế bằng rượu mới thượng hạng là chính Chúa Giê-su. Cuối cùng, khung cảnh tiệc cưới là hình ảnh sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân Người (x. Is 54,4-8; 62,4-5); hình ảnh bữa tiệc cánh chung của Đấng Mê-si-a; và rượu là hình ảnh quen thuộc của tình yêu Thiên Chúa và loài người (x. Is 25,6-9). Chúa Giê-su cũng đã nói về những giáo huấn của Ngài như rượu mới không thể chứa đựng trong bầu da cũ (x. Mt 9,17). Đây chính là lúc cần phải thay thế rượu cũ bằng một thứ rượu mới hoàn hảo hơn.

b. Đức Ma-ri-a luôn tín thác vào quyền năng Thiên Chúa

Wedding-at-Cana-of-GalileeMặc dù trong trình thuật không nói gì đến lý do tại sao thiếu rượu, và dường như người ta cũng thờ ơ về việc đó. Sự thiếu sót trong việc thiếu rượu thuộc trách nhiệm của ông quản tiệc: “Người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu mà không biết từ đâu ra” (Ga 2,9). Tuy nhiên, Đức Ma-ri-a đã nhận ra điều đó. Vai trò của Đức Ma-ri-a lúc này trở nên rất quan trọng, Mẹ đã can thiệp để làm cho tiệc cưới được thêm vui, để cho cô dâu và chú rể không bị bẽ mặt. Cách can thiệp của Đức Ma-ri-a thật nhẹ nhàng thể hiện sự tín thác vào quyền năng Thiên Chúa. Nếu đem so sánh, chúng ta có thể nhận ra hai hình ảnh tương phản: Đức Ma-ri-a đối thoại với Chúa Giê-su (x. Ga 2,3); và lời phàn nàn của ông quản gia với vị tân lang của mình (x. Ga 2,10). Trong khi ông quản tiệc trách cứ tân lang thì lời của Đức Ma-ri-a là một lời “cầu xin”, vừa kín đáo, nhẹ nhàng, vừa thể hiện một niềm cậy trông tín thác. Có thể nói, hình ảnh của Đức Ma-ri-a lúc này thật tuyệt vời, vì Đức Ma-ri-a không đứng ở vị thế của một người Mẹ uy quyền mà ra lệnh và quyết định. Trái lại, Đức Ma-ri-a chỉ gợi ý về hoàn cảnh của gia chủ và để Chúa Giê-su hoàn toàn tự do định liệu. Có lẽ, đó là giờ của Đức Ma-ri-a, giờ Mẹ hiểu rằng đây chính là thời điểm ý Chúa được tôn vinh, và quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện.

Từ giờ phút này, Đức Ma-ri-a được mời gọi vượt lên trên tương quan với Chúa Giê-su như một người Mẹ dẫn dắt con thơ trong tình Mẫu Tử tự nhiên để xuất hiện như người môn đệ. Dù không nói, nhưng cách thức của Đức Ma-ri-a như lời của Gio-an Tẩy giả: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30).

2. Đức Ma-ri-a, người môn đệ đầu tiên

Chúng ta có thể gọi Đức Ma-ri-a là môn đệ đầu tiên và hoàn hảo của Chúa Giê-su không chỉ do chính lòng tin của Mẹ vào Thiên Chúa mà do Đức Ma-ri-a còn làm cho các môn đệ Chúa Giê-su tin vào Người: “Các môn đệ đã tin vào Người” (Ga 2,11). Thật vậy, ngay từ biến cố truyền tin, Đức Ma-ri-a đã tin rằng những điều Chúa phán với Mẹ sẽ thành hiện thực (x. Lc 1,26-38). Đức Ma-ri-a trở thành môn đệ hoàn hảo của Chúa Giê-su ngang qua sự hiện diện âm thầm và luôn lắng nghe tiếng Chúa.

a. Đức Ma-ri-a luôn hiện diện trong âm thầm

Người môn đệ không phải là người đi trước, nhưng luôn theo sau Thầy mình. Chúng ta có lý do để nói rằng sự hiện diện của Đức Ma-ri-a trong tiệc cưới Ca-na như một vị khách độc đáo và danh dự. Có lẽ ở đây, Đức Ma-ri-a là khách mời chính, còn Chúa Giê-su và các môn đệ cùng tháp tùng Mẹ. Tuy thế, Đức Ma-ri-a đã thể hiện sự khiêm tốn và đúng vai trò của mình khi lui lại đằng sau Chúa Giê-su, để qua Chúa Giê-su, vinh quang của Chúa Cha được tỏ hiện và để giờ của Chúa được khởi sự.

Nói cách khác, trong tiệc cưới Ca-na, Đức Ma-ri-a đã thể hiện tư cách mẫu mực của người môn đệ. Từ đó, Mẹ bắt đầu theo Chúa Giê-su trong hành trình rao giảng của Người. Tuy nhiên, Đức Ma-ri-a hiện diện bên Chúa cách âm thầm và gắn bó. Thực ra, không ai có thể chối bỏ mối tương quan khắng khít giữa Chúa Giê-su và Mẹ Ngài. Chúa Giê-su và Đức Ma-ri-a sát cánh như hình với bóng và điều đó nâng đỡ hành trình rao giảng của Chúa Giê-su và hoàn tất sứ mạng Từ Mẫu Con Thiên Chúa của Mẹ. Thánh Phao-lô nói: “Hãy mặc lấy Chúa Ki-tô” (Rm 13,14). Đức Ma-ri-a đã mặc lấy Chúa Ki-tô ngay từ giây phút Mẹ thưa tiếng “xin vâng” (x. Lc 1,38), và Đức Ma-ri-a vẫn còn mặc lấy Chúa trong suốt quãng đường còn lại của đời Mẹ.

Hơn nữa, chính sự hiện diện tuy âm thầm nhưng khăng khít của Đức Ma-ri-a bên Chúa Giê-su là một mẫu gương cho căn tính Ki-tô hữu của chúng ta. Quả thế, “Đức Ma-ri-a nhắc lại cho chúng ta nguồn gốc và căn tính của chúng ta. Cùng với Đức Ma-ri-a, các Ki-tô hữu đã khởi sự hiện hữu như cộng đoàn của những kẻ tin và những kẻ dõi theo bước Chúa Giê-su. Ngoài ra, Đức Ma-ri-a cũng được ca tụng là thành phần tuyệt hảo, là kiểu mẫu đầu tiên và mẫu gương trổi vượt nhất của đức tin và đức ái”[2]

Tóm lại, hình ảnh Đức Ma-ri-a điềm tĩnh trước lời xem ra từ chối của Chúa Giê-su là một minh chứng rõ ràng cho việc Đức Ma-ri-a lắng nghe lời Chúa trong sự xin vâng và tín thác. Đức Ma-ri-a đã gác lại tư cách làm Mẹ qua một bên để cùng Con Mẹ hướng về mục đích phụng sự sứ mạng của Chúa. Theo A. Vanhoye; “Đức Ma-ri-a hoàn toàn chấp nhận định hướng Chúa Giê-su đã tỏ ra khi Mẹ nói chuyện với Chúa. Đức Ma-ri-a đã từ bỏ cấp độ quan hệ với Con Mẹ trước kia và nhận một cấp độ khác vô cùng tích cực. Ảnh hưởng của Đức Ma-ri-a không còn áp đặt lên Chúa Giê-su nhưng được quy hướng về việc phụng sự Ngài”[3]

b. Đức Ma-ri-a luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa

“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5), là lời nói cuối cùng của Đức Ma-ri-a trong Phúc âm Gio-an. Lời nói ấy không chỉ cho thấy Đức Ma-ri-a hiểu rõ Con mình, nhưng còn thể hiện một thái độ tin tưởng và vâng phục như người tôi tớ. Thái độ âm thầm, điềm tĩnh của Đức Ma-ri-a không phải là một sự hụt hẫng thụ động, nhưng là một niềm tin đang thúc bách hành động. Đức Ma-ri-a chờ đợi trong tin tưởng, vì thế phép lạ đã xảy ra.

Thật vậy, Chúa Giê-su chỉ rời gia đình khi Ngài ba mươi tuổi. Trong thời gian trước đó, Ngài sống gắn bó với gia đình, với Mẹ Ngài một cách khắng khít. Chắc chắn giữa Mẹ và Con có nhiều niềm vui, nhiều nỗi lo lắng vất vả chia sẻ với nhau. Vì thế, khi Đức Ma-ri-a mở lời với Chúa Giê-su, dù Mẹ không hiểu Chúa sẽ làm gì, thậm chí còn gặp một phản ứng có vẻ như khước từ thẳng thắn của Chúa (2,4), nhưng Đức Ma-ri-a vẫn hoàn toàn tin tưởng và dặn người giúp việc làm theo ý Chúa. Tin tưởng hoàn toàn ngay cả khi không hiểu, xem ra là một sự liều lĩnh, nhưng thực sự cũng là một kinh nghiệm và hiểu biết chín chắn. Đức Ma-ri-a biết Mẹ tin vào ai và kết quả sẽ như thế nào. Lòng tin của Đức Ma-ri-a là một bài học cho chúng ta. Trong đời sống có khi đen tối không lối thoát, nếu chúng ta biết đặt trọn tin tưởng nơi Chúa, dù không biết Chúa sẽ làm gì, nhưng chắc chắn Chúa sẽ thực hiện những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta.

Bên cạnh đó, thái độ của Đức Ma-ri-a không chỉ diễn tả một niềm tin tuyệt đối nhưng còn biểu lộ sự vâng phục hoàn toàn ý muốn của Thiên Chúa. Lời nhắn nhủ cuối cùng của Đức Ma-ri-a thật ngắn gọn nhưng là một kinh nghiệm dấn thân cả đời Mẹ. Đức Ma-ri-a đã không ngần ngại ban tặng cho chúng ta bí quyết sống của Mẹ. Hãy vâng nghe lời Chúa thì mọi sự tốt đẹp sẽ xảy ra. Trong thực tế, vâng phục ý Thiên Chúa không phải luôn luôn là một đòi hỏi đáp lại những ý định rõ ràng dễ hiểu, nhưng có khi mọi sự ấy chìm trong bóng đêm của những lo lắng và ngờ vực. Vì thế, sự vâng phục đòi hỏi một niềm tin vững vàng và một tâm hồn bén nhạy để lắng nghe những biến cố trong đời và suy đi nghĩ lại trong lòng. “Đức Ma-ri-a đã lắng nghe và đón nhận sứ điệp của tất cả, và trong lúc phục tùng, Đức Ma-ri-a đã trở nên người tớ nữ của Nước Thiên Chúa”[4]

Tóm lại, với tư cách của người môn đệ theo sát chân Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a đã sống một cuộc đời của người nữ tỳ trung tín luôn lắng nghe và thực thi ý Chúa. Sứ điệp về nước Thiên Chúa là sứ điệp của sự hiệp nhất, yêu thương và phục vụ lẫn nhau. Việc làm cho “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,10) là kim chỉ nam hướng dẫn mọi suy nghĩ và hành động của Mẹ. Vì thế, đã có lần Đức Ma-ri-a không chỉ được tuyên dương như một người Mẹ diễm phúc nhưng còn được đề cao với tư cách của người môn đệ hoàn hảo luôn trung tín trong việc lắng nghe và thực thi lời Chúa: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là Mẹ tôi” (Mc 3,35).

 

-----------------------------------

NHỮNG BAI VỀ ĐỨC MẸ - MARIA MẸ CHÚA TRỜI

Maria Mẹ Chúa Trời

(Lc 2, 16-21)

“Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi… và tám ngày sau được gọi tên là Giêsu” (Lc 2,16-21).

Với đoạn Tin Mừng trên đưa chúng ta về với người mẹ vừa mới sinh con là chính Đức Maria sinh ra Chúa Giêsu. Đó là lý do Giáo hội cử hành lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa sau lễ Chúa Giêsu giáng sinh tám ngày, để mời gọi con cái mình tỏ lòng kính trọng và biết ơn Đức Maria, đồng thời tuyên xưng Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.

Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình (x.Is 9, 5) sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Vì thế, ngày đầu năm, Giáo hội khấn xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa cho thế giới được hòa bình.

Đức Maria cưu mang và sinh hạ Chúa Giêsu

Tại Belem Chúa Giêsu đã được sinh ra từ Đức Trinh Nữ Maria. Người đã không sinh ra “do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra” (Ga 1,13). Người là ân ban do tình yêu thương của Thiên Chúa, là “Đấng đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài, để bất cứ ai tin nơi Ngài không bị hư mất, nhưng có cuộc sống đời đời” (Ga 3,16).

Sau Đức Maria và thánh Giuse thì đến các kẻ chăn chiên trên cánh đồng Belem trông thấy vinh quang khiêm tốn của Đấng Cứu Thế. Nghe theo lời loan báo của các thiên thần, « họ đã ra đi vội vã đến thành Belem, và thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh năm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).

Hôm nay, Giáo hội chiêm ngắm thiên chức làm Mẹ Chúa Giêsu của Đức Maria. Thánh Luca giới thiệu cho chúng một “cuộc gặp gỡ” của mục đồng  với “Hài Nhi”, cùng với Đức Maria, Mẹ Người và thánh Giuse. Sự hiện diện âm thầm của Giuse gợi lên sứ mệnh quan trọng của thánh nhân trong tư cách là người gìn giữ mầu nhiềm cao cả của Con Thiên Chúa. Đức Maria, Giuse và các mục đồng vây quanh “Hài Nhi mới sinh ” (Lc 2,16) để tôn thờ, làm nên hình ảnh sống động và tuyệt đẹp của Giáo hội.

Chúa Giêsu nằm trong “Máng cỏ” ám chỉ Thánh Thể mà chính Đức Maria là nhà tạm chứa đựng! Nếu không có kinh nghiệm về “gặp gỡ” cá nhân với Thiên Chúa, người ta không thể tin được. Chỉ có “gặp gỡ” cộng thêm là “nhìn thấy tận mắt”, rồi “chạm tới”, các mục đồng mới có thể trở nên những sứ giả của Tin Mừng ” thuật lại cho người khác về Hài Nhi Giêsu ” (Lc 2,17).

“Tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ” (Lc 2,18), là hoa trái đầu tiên của “cuộc gặp gỡ” Đức Kitô. “Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ” (Lc 2, 20) là hoa trái thứ hai. Đức Maria, là mẫu gương của sự chiêm ngắm “Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19). Người ta gọi tên người là Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”. Tên của Người cũng là Bình An. Chúng ta hãy đón nhận Tên Cực Thánh và rất ngọt ngào này vào lòng và thường xuyên lặp lại trên môi!

Đức Maria Mẹ Thiên Chúa

Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa không? Vì nếu Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, thì chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Thiên Chúa? […]

Ngôi Lời đã làm người, có hồn có xác. Thánh Công đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quan để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria vừa được gọi là Mẹ Chúa Kitô, và Mẹ Thiên Chúa nữa.

Như thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nêu tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng và viết : “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “ Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”. Thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) khẳng định: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”. Vì thế, nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, sinh bởi Đức Maria, thì chúng ta cũng có thể gọi mà không sợ sai lầm rằng: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.

Ngày cầu cho hòa bình

Ngày đầu năm, Giáo hội cử hành biến cố trên với niềm vui, sống lại với niềm tin trong phụng vụ lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã đảm nhận lấy xác phàm hay hư nát của chúng ta, trở thành bé nhỏ và nghèo nàn để cứu độ chúng ta. 

Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Hoà bình là món quà Thiên Chúa ủy thác cho con người. Vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Để cầu chúc cho nhau, chúng ta mượn lời sách Dân Số: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (x. Ds 6,26).

Lạy Chúa Giêsu, Hoàng Tử Bình An ban cho thế giới được hòa bình và hòa hợp giữa các dân tộc.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Nữ Vương bình an giúp chúng ta hiểu và sống sứ điệp bình an mà Chúa Giêsu Con Mẹ đã mang đến, để chúng con có thể mang bình an đến cho mọi người trên trái đất yêu dấu này.

Nữ Vương Bình An, cầu cho chúng con. Amen. 

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chia sẻ Bài này:
 

Related posts

 

NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - CẢM NGHIỆM SỐNG GIÁNG SINH

 
Ảnh cùng dòng

Bài ca tạ ơn.

22/12 – Thứ Bảy tuần 3 mùa vọng.

"Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại".

 

LỜI CHÚA: Lc 1, 46-56

Khi ấy, Maria nói rằng: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!"

Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.

 

 

Suy Niệm 1: Magnificat

Người đời Đức Kitô không những giao hoà con người với Thiên Chúa, Ngài còn là kiểu mẫu của con người đã được giao hoà. Ngài đến để mang lại Tin mừng. Tin mừng ấy chính là con người với Tin mừng cho bằng thái độ phấn khởi vui tươi trong cuộc sống.

Đức Maria là người đầu tiên đã đón nhận ơn cứu độ. Thái độ của Ngài cũng là thái độ mẫu mực cho người Kitô hữu. Người đã mau mắn ra đi đến với Isave để báo tin vui, và trong một giây phút xuất thần, Người đã để cho lời ca của cả một dân tộc được hát lên. Bài ca ấy qua muôn thế hệ được Giáo Hội lấy làm chính lời kinh của mình.

Trong Giáo hội và cùng với Giáo hội, mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng hát lên và sống bài ca ấy. “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Thần trí tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi”, đó phải là bài ca trong từng phút giây cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính máu của Con Một Ngài; không vui sao được khi biết rằng trong người Con Một ấy, chúng ta tìm được ánh sáng chân lý, bình an và hy vọng, không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà cha, có biết bao người cùng tiến bước với chúng ta.

Ước gì niềm vui ơn cứu độ luôn tràn ngập tâm hồn chúng ta, ước gì cùng với Đức Maria, lời kinh muôn thủa của chúng ta luôn là lời ca tán dương Chúa trong từng phút giây cuộc sống.

 

Suy Niệm 2: Ngợi khen Chúa

Bấy giờ Maria nói:

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng

Vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”. (Lc. 1, 46-47)

Tin mừng hôm nay là một bài ca đẹp về việc tạ ơn, có thể chia làm hai nhịp:

Trước hết là tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban ơn riêng cho Đức Maria:

“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng

Vì Chúa đã thương đến phận hèn tớ nữ,

Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả”.

Thực vậy, Đức Maria đã nhận biết Thiên Chúa, đã yêu thương chính riêng mình. Ngài đã tín thác cho Mẹ một sứ mệnh cao cả. Đức Maria, trong niềm phấn khởi vô tận, đã khám phá thấy Thiên Chúa đã đổ đầy cho mình muôn ơn lành. Còn chúng ta, khi có ai tin tưởng trao cho mình nhiệm vụ lớn lao hay ban cho mình một quà tặng, chúng ta tự nhiên ca tụng họ hết lời: “Anh đã rất tốt nghĩ đến tôi, thật quá tốt, tôi còn lâu mới xứng đáng được như vậy”.

Đến lượt chúng ta, chúng ta có biết dừng những giây phút để khám phá ra trong đời mình những điều mà Thiên Chúa đã thương yêu thực hiện cho chính mình không? Khi khám phá được thế, chúng ta sẽ dễ dàng noi gương Đức Maria để cầu nguyện với con tim tự phát thành bài ca cảm tạ ngợi khen Chúa đã làm cho mình những điều lạ lùng.

Nhưng Đức Maria còn đi xa hơn nữa, trong lời cầu nguyện tạ ơn khi nhìn đến hàng loạt những cử chỉ Thiên Chúa đã tỏ ra cho dân mình trong suốt chiều dài lịch sử.

Lòng thương xót nhân ái của Chúa đã trải qua đời nọ tới đời kia cho những ai kính sợ Ngài … tức là những người đã sống liên đới với Chúa từ Áp-ra-ham xuyên suốt tới hết thảy dòng dõi ông, Thiên Chúa đã yêu thương những kẻ nghèo khó và những kẻ hèn mọn.

A.N

 

Suy Niệm 3: LINH HỒN TÔI TẠ ƠN CHÚA (Lc 1,46-56)

Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, cha ông ta rất đề cao chữ hiếu và lòng biết ơn sâu xa đến với những người làm ơn cho mình. Không biết nói lời cám ơn, đồng nghĩa với việc bất hiếu.

Hôm nay, Tin Mừng cho thấy việc Đức Maria đã hân hoan dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã làm nên những điều kỳ diệu nơi Mẹ, lời tạ ơn ấy được gói trọn trong bài ca Magnificat.

Bài ca này, Mẹ Maria muốn diễn tả:

Thứ nhất, tâm tình ngợi khen, chúc tụng vì Thiên Chúa đã làm những việc cả thể nơi Mẹ là đã thương chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đấng mà muôn dân mong đợi.

Thứ hai, Mẹ nhận thấy Mẹ được muôn đời khen ngợi vì có phúc là bởi Mẹ có Chúa ở cùng, nên lòng Mẹ sung sướng, tràn ngập trong ân sủng.

Thứ ba, Mẹ đã ca ngợi sự khôn ngoan của Thiên Chúa khi ra tay dẹp tan lòng trí người kiêu căng, nhưng lại ra tay bênh đỡ kẻ nghèo hèn.

Cuối cùng, Mẹ đã ca ngợi sự trung thành của Thiên Chúa trong việc giữ lời hứa ban Đấng Cứu Độ. Nếu trong Vườn Địa Đàng, con người phạm tội và Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Thế đến, thì hôm nay, Đấng mà muôn dân mong đợi đã đến trong cung lòng Mẹ, Ngài sẽ cứu chuộc Israel và muôn dân...

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cất cao lời ngợi khen Chúa vì Ngài cũng làm cho chúng ta biết bao kỳ công. Ơn vĩ đại nhất chính là ơn cứu độ. Hành vi cao thượng hơn cả đó chính là sự quảng đại, tha thứ của Thiên Chúa trên mỗi người.

Cất cao lời tạ ơn Chúa còn giúp cho chúng ta nhận ra mình yếu đuối và đang được Thiên Chúa thương yêu. Đồng thời cũng bày tỏ lòng sám hối, biết ơn với Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành.

Lạy Thiên Chúa tình yêu, chúng con xin hợp cùng Mẹ Maria cất cao lời ngợi khen Chúa vì Chúa đã làm cho chúng con biết bao điều kỳ diệu. Amen.

Ngọc Biển SSP

----------------------------------

NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - DAY GIÁO LÝ VỀ MẸ

NHỪNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - LỄ MẸ GUADALUPE

 THỨ TƯ 12/12 LÀ LỄ ĐỨC MẸ GUADALUPE

Ở Mỹ Châu Lễ Mẹ này thuộc bậc Lễ Kính (Feast) buộc phải cử hành, bao gồm cả Hoa Kỳ, xin nghe chia sẻ ở cái link này:

LeMeGuadalupe.mp3

 

  

 

Ở các nơi khác Lễ này, từ năm 1999, chỉ là lễ nhớ không buộc (option memorial), 

nên vẫn có thể cử hành PVLC trong tuần như thường, 

 và vì thế xin xem PVLC dưới đây kèm theo cái link audio ở cuối như mọi ngày.

Lời Chúa

Bài Ðọc I: Is 40, 25-31

"Thiên Chúa toàn năng ban sức mạnh cho người mệt mỏi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðấng Chí Thánh phán rằng: Các ngươi sánh Ta với ai? Và kể Ta bằng ai? Hãy ngước mắt lên cao mà xem, ai đã dựng nên muôn loài này? Ðấng vận chuyển các cơ binh của chúng và biết gọi đích danh tất cả, không thiếu vật nào, vì sức mạnh của người rất lớn và quyền năng của Người rất cao.

Hỡi Giacob, tại sao ngươi nói, hỡi Israel, tại sao ngươi nói: Chúa không biết đến số phận tôi, Người không biết đến quyền lợi của tôi? Ngươi không biết? Ngươi không nghe sao?

Chúa là Thiên Chúa hằng hữu, là Ðấng đã dựng nên toàn thể trái đất, Người không mỏi không mệt và sự khôn ngoan của Người không thể suy thấu.

Người ban sức mạnh cho kẻ rã rời và thêm sức cho người mệt mỏi.

Những trai trẻ cũng mòn mỏi mệt nhọc, những tráng sĩ cũng lao đao vấp ngã.

Những ai trông cậy Chúa, sẽ được thêm sức mới, cất cánh bay cao như phượng hoàng, họ chạy mà không mệt, họ đi mà không mỏi.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 103: 1-2, 3-4, 8,10

Ðáp: Hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa.

Xướng 1) Hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể thân tôi, hãy chúc tụng danh Người. Hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và đừng bao giờ quên các ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Người đã thứ tha mọi tội lỗi ngươi, và đã chữa ngươi khỏi tật nguyền. Người đã cứu ngươi khỏi chết và ban cho ngươi hồng ân, nhân ái. - Ðáp.

3) Chúa là Ðấng thương xót nhân ái, chậm oán hờn và yêu thương khôn lường. Người không xử với ta như ta đáng tội, và không trả cho ta theo lỗi của ta. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia - Chúa chúng ta sẽ đến trong quyền lực, và sẽ làm cho mắt các tôi tớ Người được sáng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11:28-30

"Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả cực nhọc".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi.

Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an.

Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.

Ðó là Lời Chúa.

 

Suy niệm

  nhập thể bồi dưỡng  

 

Trong suốt tuần thứ nhất Mùa Vọng, nội dung của các bài Phúc Âm đều liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa cho việc cứu độ con người thế nào (Ơn cứu độ cho cả dân ngoại - Thứ Hai; là mạc khải thần linh - Thứ Ba; là Bánh sự sống - Thứ Tư; là ánh sáng chiếu soi - Thứ Năm; là đá tảng  -  Thứ Sáu; là tình thương - Thứ Bảy) thì trong tuần thứ hai Mùa Vọng, các bài Phúc Âm đang xoay quanh thân phận khốn khổ đáng thương của con người cần được Thiên Chúa cứu độ và trông mong Ơn Cứu Độ.

 

Thật thế, thân phận khốn khổ của con người tội lỗi cần được Thiên Chúa cứu độ được biểu hiệu ở bài Phúc Âm hôm thứ hai nơi người bất toại được Chúa Giêsu chữa lành, và ở bài Phúc Âm hôm qua thứ ba nơi con chiên lạc được tìm thấy, và ở bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần Thứ Hai Mùa Vọng, nơi con người khốn cực cần được bồi dưỡng:

 

"Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".

 

Ở đây, qua lời Chúa trong bài Phúc Âm này, chúng ta thấy trước hết là tình trạng khốn khổ của con người: "khó nhọc và gánh nặng" - Quả thật không ai có thể chối cãi được thực trạng con người mệt mỏi "khó nhọc" cả về phần xác lẫn ê chề "gánh nặng" về tinh thần. 

 

Đúng thế, theo tâm lý tự nhiên và theo kinh nghiệm sống đạo, thực tế cho thấy con người thường sốt sắng vào lúc ban đầu, như khi mới lấy nhau hay mới chịu chức linh mục, hoặc mới đảm nhận một chức vụ nào đó v.v. Bấy giờ tất cả đều nhẹ nhàng dễ chịu, thậm chí còn hứng khởi hăng say nữa. Thế nhưng, qua thời gian, nếu không có đời sống nội tâm, nhất là bị đụng chạm, họ sẽ cảm thấy "khó nhọc" nơi những gì họ yêu thích và theo đuổi một cách mê man ngay từ đầu ấy, đến độ chúng trở thành "gánh nặngđến muốn trút bỏ, bằng cách ly dị, phá giới hay từ chức. 

 

Phải, vào chính lúc ấy, chính lúc con người như hết bình điện nhiệt thành cần phải được "recharge" để lấy lại lòng nhiệt thành ban đầu, con người mới cần phải được Chúa "nâng đỡ bổ sức cho", bằng ân sủng của Người, bằng lời của Người, qua một cuộc tĩnh tâm hoặc linh hướng nào đó hay nhờ đọc Thánh Kinh, bằng các bí tích thánh của Người

 

Thế nhưng, vấn đề ở đây không phải là sau đó và chỉ nhờ đó chúng ta có thể cảm thấy ngay được "ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng" đâu. Trái lại, ở chỗ hoàn toàn ngược lại với những gì chúng ta suy nghĩ, đó là chúng ta cần phải trước hết và trên hết chấp nhận gian nan thử thách đã: "Hãy mang lấy ách của Ta", rồi sau đó chúng ta mới "hãy học cùng Ta", chứ không phải ngược lại, nghĩa là chứ không phải chúng ta cứ "học cùng Ta" bằng cách nhìn lên gương "dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng" của Người là chúng ta tự nhiên có thể vác thánh giá theo Người được ngay đâu. Thực tế cho thấy, chúng ta vẫn thường nói với nhau rằng Chúa là Chúa nên Chúa chịu được còn tôi là người nên tôi không chịu được. 

 

Kinh nghiệm sống đạo cho thấy, sau những cơn thử thách khổ đau khiến chúng ta cảm thấy "khó nhọc và gánh nặng" mà chúng ta nhờ ơn Chúa vẫn vui nhận và trải qua được, chúng ta sẽ cảm thấy càng ngày càng được biến đổi nên giống Chúa Kitô "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng", thậm chí mới thực sự cảm thấy được "ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng", đến độ, có những vị thánh còn say sưa với đau khổ, hứng thú với khổ đau, sống không thể không có đau khổ, (như thể ăn không thể thiếu ớt cay và càng cay càng thú vị vậy), để nhờ đó, nhờ càng khổ đau họ càng được nên giống Chúa Kitô hơn, và các linh hồn càng được cứu độ nhiều hơn. 

 

Thật vậy, bởi nguyên tội và sau nguyên tội, bản tính của con người đã bị băng hoại, và phải chịu hậu quả của nguyên tội ngay ở đời này. Ở chỗ, nam nhân thì "khó nhọc" (đổ mồ hôi xôi nước mắt mới có của ăn - xem Khởi Nguyên 3:17-19) và nữ nhân thì "gánh nặng" (mang nặng đẻ đau và phải phục tùng chồng mình - xem Khởi Nguyên 3:16). Chỉ duy một con người duy nhất không chịu hậu quả "khó nhọc" và "gánh nặng" là Mẹ Maria, Vị chẳng những bởi được đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội do Thiên Chúa ban, mà còn nhờ ở chính con người của Mẹ, một con người "hiền lành và khiệm nhượng trong lòng" giống Chúa Giêsu Kitô Con của Mẹ nhất, ở chỗ sống đúng thân phận "tôi tớ Chúa" (sống một cách ngoan ngoãn "hiền lành" - không hung hăng vượt biên, không dám như nữ nguyên tổ Evà dám vượt quá cái giới hạn tạo vật vô cùng thấp hèn của mình trước nhan Chúa), và sống trọn phận vụ của một người tôi tớ là "xin vâng" của mình (phản ảnh tinh thần "khiêm nhượng trong lòng" của Mẹ, không bao giờ làm chủ, làm theo ý mình, mà là theo ý Chúa như Con Mẹ).


Một tạo vật Vô Nhiễm Nguyên Tội sống "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" là Mẹ Maria đã xuất hiện như Rạng Đông của Mặt Trời Công Chính là Chúa Giêsu Kitô, như báo trước cho thấy thân phận vướng mắc nguyên tội đầy "khó nhọc và gánh nặng" này của con người sẽ được Chính Thiên Chúa hóa thân làm người nơi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) gánh vác, bù đắp và biến đổi nơi cuộc Vượt Qua của Người, bằng tinh thần "hiền lành và khiêm nhưọng trong lòng" của Người.  chỗ, "tuy thân phận là Thiên Chúa nhưng Người vẫn không tự cho mình cứ phải ngang hành với Thiên Chúa mới được, mà đã tự hủy ra như không... và vâng lời cho đến chết và chết trên thập tự giá' (Philiphê 2:6,8), hoàn toàn trái ngược lại với thái độ kiêu căng ngạo mạn và hành động phản loạn bất tuân của con người tạo vật nơi hai nguyên tổ của họ ngay từ ban đầu, một thái độ và hành động vì thế đã làm cho con người bắt đầu cảm thấy "khó nhọc và gánh nặng", và do đó họ cần phải trông chờ Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai Cứu Thế.

 

Đúng thế, một khi con người cảm thấy mình "khó nhọc và gánh nặng" họ mới một là buông xuôi hai là chạy đến với Chúa để được bồi dưỡng vươn lên. Họ có thể buông xuôi ở chỗ, như chính Thiên Chúa nhận định về dân của Ngài qua lời Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Hỡi Giacob, tại sao ngươi nói, hỡi Israel, tại sao ngươi nói: Chúa không biết đến số phận tôi, Người không biết đến quyền lợi của tôi? Ngươi không biết? Ngươi không nghe sao?

 

Thiên Chúa đã trấn an họ để họ có thể tin tưởng mà chạy đến với Người như sau: "Chúa là Thiên Chúa hằng hữu, là Ðấng đã dựng nên toàn thể trái đất, Người không mỏi không mệt và sự khôn ngoan của Người không thể suy thấu. Người ban sức mạnh cho kẻ rã rời và thêm sức cho người mệt mỏi. Những trai trẻ cũng mòn mỏi mệt nhọc, những tráng sĩ cũng lao đao vấp ngã. Những ai trông cậy Chúa, sẽ được thêm sức mới, cất cánh bay cao như phượng hoàng, họ chạy mà không mệt, họ đi mà không mỏi".

 

Đó là lý do con người cần phải hết lòng trông đợi Chúa, Đấng luôn ở với họ, biết họ hơn họ biết mình và yêu họ hơn họ yêu bản thân h, luôn tìm cách cứu độ họ bằng cách tỏ mình ra cho họ, một tiến trình mạc khải thần linh đạt đến tột đỉnh của mình nơi Lời Nhập Thể Vượt Qua, Đấng được Thiên Chúa hứa ban cho họ như Đấng Thiên Sai Cứu Thế của họ. Thế nên, con người cần phải có tâm tình chúc tụng ngợi khen và tin tượng cậy trông của Bài Đáp Ca hôm nay với Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu của họ:

 

1) Hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể thân tôi, hãy chúc tụng danh Người. Hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và đừng bao giờ quên các ân huệ của Người. 

 

2) Người đã thứ tha mọi tội lỗi ngươi, và đã chữa ngươi khỏi tật nguyền. Người đã cứu ngươi khỏi chết và ban cho ngươi hồng ân, nhân ái. 

 

3) Chúa là Ðấng thương xót nhân ái, chậm oán hờn và yêu thương khôn lường. Người không xử với ta như ta đáng tội, và không trả cho ta theo lỗi của ta. 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên