20. Những Bài Về Đức Mẹ

NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - TS DUYỆT - ME MÂN CÔI

  •  

    LÒNG SÙNG KÍNH KINH MÂN CÔI

    (Hiệu đính tài liệu Kinh Mân Côi) [1]

     

    Trần Mỹ Duyệt

     

    “Nếu Phanxicô muốn lên thiên đàng, thì phải siêng năng lần hạt”. Ðọc và suy ngắm Kinh Mân Côi cách sốt sắng là cầu nguyện. Và hôm nay, Phanxicô đã về trời và đã được tuyên phong hiển thánh vì đã thực hành theo lời khuyên của Đức Mẹ.

     

    Ngày 13 tháng 7 năm 1917, tại Fatima, Ðức Mẹ đã hiện ra lần thứ ba với Lucia, Giaxinta, và Phanxicô, cho ba em nhìn thấy hỏa ngục và những hình phạt mà các linh hồn phải chịu trong đó. Lucia đã hỏi Ðức Mẹ về số phận của mình, của hai em Phanxicô và Giaxinta. Ðức Mẹ đã cho biết đối với Phanxicô, nếu muốn lên thiên đàng thì em phải siêng năng lần hạt. 

     

    Không thấy Ðức Mẹ nói lý do tại sao lại đòi Phanxicô phải lần hạt nhiều. Nhưng có thể hiểu một cách đơn sơ rằng, đối với Phanxicô lần hạt nhiều có nghĩa là cầu nguyện nhiều, bởi vì việc lần hạt Mân Côi không vượt quá khả năng một em nhỏ như Phanxicô. Đối với Phanxicô lần hạt chính là một hình thức cầu nguyện.

     

    Với mỗi Kitô hữu hôm nay, nếu có hỏi Ðức Mẹ một câu tương tự về số phận đời đời của mình như Ba Trẻ Fatima xưa: “Còn số phận con thì sao?”, chắc chắn cũng sẽ được nghe Ðức Mẹ trả lời: “Nếu muốn lên Thiên Ðàng, con phải năng lần hạt”. 

     

    Sơ lược lịch sử kinh Mân Côi [2]

     

    Kinh Mân Côi đã bắt đầu từ thời Trung Cổ. Lễ Mân Côi được Thánh Giáo Hoàng Piô V (1504-1572) thiết lập vào năm 1571 để kỷ niệm chiến thắng vịnh Lepanto, ngày 7 tháng 10 năm 1571. Chiến thắng giữa Thập Tự Quân và đạo quân Hồi Giáo này được cho là do “cánh tay” của Kinh Mân Côi nhiều hơn là do sức mạnh của khí giới và sự dũng cảm của những chiến sỹ Đạo Binh Thánh Giá lúc bấy giờ.

     
    Từ đầu Kinh Mân Côi được coi như một hình thức cầu nguyện đã được Đức Mẹ trao cho Thánh Đa Minh (1170-1221), như một khí cụ chống lại lạc giáo Albigensê và được  Thánh Giáo Hoàng Piô V - vị Giáo Hoàng của Dòng Đa Minh - phổ biến và truyền bá. Chính Ngài đã chính thức chấp thuận Kinh Mân Côi vào năm 1569 như hình thức hiện nay qua Tông Sắc Consueverunt Romani. Kinh Mân Côi đã được hoàn thành bằng cách thêm vào nửa sau của Kinh Kính Mừng và Kinh Sáng Danh ở phần kết của mỗi mầu nhiệm.

     
    Thời Trung cổ, Kinh Mân Côi xuất hiện trong các tu viện thay thế cho Kinh Thần Vụ dành cho các cư sĩ tại gia và những cư sĩ mộ đạo không biết đọc. Thay vì đọc 150 thánh vịnh, họ sẽ cầu nguyện bằng cách đọc 150 “Kinh Lạy Cha” đếm trên một vòng hạt được gọi là vương miện hoặc “hào quang”. Thế kỷ thứ mười hai, với sự gia tăng lòng sùng kính Đức Mẹ, 150 Kinh Lạy Cha được thay thế bằng 150 Kinh Kính Mừng. 


    Chuỗi Mân Côi với 150 Kinh Kính Mừng ban đầu được thầy Henry Kalkar (1328-1408) dòng Đaminh chia thành mười lăm bài suy niệm về những biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, theo sau mỗi suy niệm là 10 Kinh Kính Mừng. Sau này thầy Alanus de Rupe (1428-1478) cũng là tu sỹ Dòng Đaminh đã san định lại các bài suy niệm phù hợp với các giai đoạn trong lịch sử cứu độ thành các mầu nhiệm Vui, Thương và Mừng. Theo thầy Alanus, nguồn gốc của Kinh Mân Côi, lúc đó được gọi là “Thánh thi Đức Trinh Nữ Maria” là do Đức Mẹ đã ban cho cho Thánh Đa Minh. Từ đó, sự thúc đẩy hoạt động tông đồ và phổ biến Kinh Mân Côi được cho là sứ mệnh của Dòng Đa Minh.

     

    Ngày 16 tháng 10 năm 2002, bắt đầu năm thứ 25 Giáo Triều của Ngài, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005) đã ban hành Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria (Thư Rosarium Virginis Mariae) đã thêm vào mầu nhiệm Ánh Sáng tỏa chiếu qua Chúa Giêsu.

     

    20 Mầu Nhiệm Mân Côi 

     

    Khi lần hạt, ngoài việc đọc và suy ngắm ý nghĩa của từng lời kinh, ta còn có dịp đi sâu vào những mầu nhiệm tình thương và sự thánh thiện của Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng như vinh quang của Ðức Trinh Nữ Maria. 

     

    Trước hết, qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, ta hân hoan về Ơn Cứu Chuộc đã được ban cho nhân loại qua Ðức Giêsu Kitô. Suy niệm về cuộc hành trình bác ái của Ðức Maria, khi vượt đồi núi Giuđêa đến viếng thăm chị họ Isave. Cảm nghiệm tình thương bao la của Thiên Chúa Nhập Thể qua hình hài con trẻ nằm rét run trong hang bò lừa tại đồng quê Belem. Học hỏi đức khiêm nhường và tuân phục của Ðức Maria và Thánh Giuse khi lên Giêrusalem dâng Ðức Kitô cho Thiên Chúa. Sau đó, vui mừng với Hai Ðấng khi tìm lại được Giêsu sau ba ngày lạc mất. 

     

    Nhưng khi con người bị đau khổ, bị thử thách mới biết tình Chúa thương yêu như thế nào. Mới hiểu tại sao Ðức Kitô lại đau khổ, đổ mồ hôi hòa máu trong vườn Cây Dầu. Tại sao Ngài để người ta đánh đòn, xỉ vả Ngài. Tại sao Ngài cam tâm chịu nhục hình trước mặt bọn người tội lỗi. Tại sao Ngài vác thập giá. Và nhất là tại sao Ngài lại chịu chết treo trên thập giá. 

     

    Suy ngắm những chặng đường đau khổ của Ðức Kitô từ vườn Cây Dầu đến núi Sọ, ta sẽ hiểu thế nào là tình thương yêu của Thiên Chúa. Thế nào là ác quả của tội lỗi. Thế nào là sự cao quí của linh hồn. 

     

    Sau khi cùng chia vui, xẻ sầu với Ðức Kitô qua các ngả đường trần gian, trong ơn gọi và cuộc sống của mình, nhờ suy ngắm, mỗi Kitô hữu sẽ tìm được nguồn vui thiêng liêng khi nghĩ về cuộc phục sinh vinh quang của Ngài. Nhớ về Thiên Ðàng khi nhìn ngắm Ðức Kitô về trời, vì Ngài về trời là để dọn chỗ cho mỗi người chúng ta: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con” (Jn 14:2). Ngày Mẹ Maria được Thiên Chúa rước về trời và phong làm Nữ Vương trời đất. 

     

    Chúa Giêsu là “ánh sáng thế gian” (Jn 8:12). Ánh Sáng đã xuất hiện như ngọn đuốc dẫn đàng cho nhân loại tìm về cõi phúc trường sinh giữa đêm trường trần gian mù mịt, khi Ngài xuất hiện lãnh nhận việc thanh tẩy từ tay Gioan Tẩy Giả trên sông Giođan. Khi Ngài tham dự tiệc cưới ở Canna với các môn đệ. Khi Ngài kêu gọi mọi người “xám hối” và “tin vào Tin Mừng”. Khi Ngài hiển lộ sáng láng trên núi Taborê. Và khi Ngài thiết lập bí tích Thánh Thể. 

     

    Tóm lại, 20 Mầu Nhiệm Mân Côi chính là 20 quãng đường của mọi người chúng ta phải đi, phải chấp nhận vì tình mến như Chúa Giêsu, như Mẹ Maria đã đi và đã chấp nhận. Một giờ cầu nguyện đơn sơ nhưng với ý nghĩa cao siêu như thế, không phải là một giờ suy nguyện đẹp lòng Thiên Chúa hay sao? Không phải là một giờ để mình tâm sự và nghe Chúa tâm sự với mình qua những mầu nhiệm đó sao? Vì khi suy ngắm những mầu nhiệm đó, ta sẽ được nghe Thiên Chúa nói với ta về cuộc đời của Ðức Kitô, của Ðức Maria và những gì Ngài muốn ta thực hiện trong đời sống theo gương Hai Ðấng. 

     

    Kinh Mân Côi với các vị giáo hoàng [3]

     

    Từ lâu, Kinh Mân Côi vẫn được cho là kinh đọc của các ông già, bà cả, con nít, hoặc của những giáo hữu không biết suy niệm hoặc cầu nguyện bằng Thánh Kinh. Nhưng đó là những suy nghĩ nông cạn, sai lầm của những đầu óc kiêu ngạo. Để hiểu được giá trị và sự cao trọng của Kinh Mân Côi, sau đây là những gì mà 11 vị Giáo Hoàng đã nói về kinh này trả qua lịch sử của Giáo Hội: 

     

    1-Đức Giáo Hoàng Lêô XIII (1878- 1903) qua các Thông điệp của Ngài: [4]


    “Kinh Mân Côi là hình thức cầu nguyện tuyệt vời nhất. Nó là phương thuốc cho mọi tệ nạn của chúng ta, là gốc rễ của mọi phước lành. Không có cách cầu nguyện nào tuyệt vời hơn.”

     
    “Cha tha thiết khuyến khích tất cả các Kitô hữu hiến thân cho việc đọc lại Kinh Mân Côi cách sùng kính đạo hạnh một cách công khai, hoặc riêng tư trong nhà riêng và gia đình của họ, và điều đó không ngừng.” 


    2-Thánh Giáo Hoàng Piô X (1903-1914):


    “Kinh Mân Côi là kinh đẹp nhất và phong phú nhất trong tất cả những lời cầu nguyện chuyển đến Đấng Trung Gian của mọi ân sủng; Đó là lời cầu nguyện hầu như chạm đến toàn bộ trái tim của Mẹ Thiên Chúa. Hãy đọc kinh đó mỗi ngày!”

     
    “Giữa tất cả các lời cầu nguyện, Kinh Mân Côi là kinh đẹp nhất, giàu ơn sủng nhất, và là kinh làm đẹp lòng Đức Trinh Nữ Nhất.”

     
    3-Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV (1914-1922):


    “Lời cầu nguyện của Kinh Mân Côi là hoàn hảo, vì những lời ngợi khen mà nó mang lại, những bài học mà nó dạy, những ân sủng mà nó có được và những chiến thắng mà nó đạt được.”

    “Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện “thích hợp nhất để nuôi dưỡng lòng đạo đức rộng rãi và mọi nhân đức.” 


    “Các Giáo Hoàng La Mã đã không bỏ qua một dịp nào để tuyên dương Kinh Mân Côi và đã làm phong phú nó bằng các Tông huấn.” 


    4-Đức Giáo Hoàng Piô XI (1922-1939):


    “Một vũ khí mạnh mẽ để xua đuổi ma quỷ.” 


    “… Cha khuyên họ, theo gương của chính chúng tôi, đừng để một ngày nào đó trôi qua mà không lần chuỗi Mân Côi, cho dù họ có thể phải chịu gánh chăm lo và lao động nặng nề như thế nào.” 

     
    “Các bậc làm cha, làm mẹ trong các gia đình đặc biệt phải nêu gương cho con cái của họ, nhất là vào lúc hoàng hôn, tụ tập sau ngày làm việc, giữa các bức tường trong nhà và quì gối đọc kinh Mân Côi, cúi mình xuống trước ảnh Đức Trinh Nữ”.

     
    5-Đức Giáo Hoàng Piô XII (1939-1958):

     

    Kinh Mân Côi là “một bản tóm tắt của toàn bộ Tin Mừng” (AAS 38 [1946] trang 419). Kinh Mân Côi rút ra các mầu nhiệm từ Tân Ước và tập trung vào các sự kiện trọng đại của Sự Nhập Thể và Cứu Chuộc

     

    “Chúng tôi không ngần ngại khẳng định công khai rằng chúng tôi đặt niềm tin rất lớn vào Kinh Mân Côi để chữa lành những tệ nạn của thời đại chúng ta.”


    “Hỡi các anh em đáng kính, những nỗ lực của anh chị em nên được hướng dẫn để hiểu được phẩm giá, quyền năng và sự tuyệt hảo của Kinh Mân Côi.”


    “Không có phương tiện nào chắc chắn hơn để xin phúc lành của Thiên Chúa trên gia đình ... hơn việc đọc Kinh Mân Côi hàng ngày.”


    “Ngôi nhà của gia đình Kitô hữu, giống như ở Nazareth, sẽ trở thành một nơi thánh thiện ở trần gian, và có thể nói, một ngôi đền thờ linh thánh, nơi mà Kinh Mân Côi sẽ không chỉ là lời cầu nguyện đặc biệt dâng lên trời cao mỗi ngày trong một hương thơm dịu ngọt, nhưng cũng sẽ hình thành một trường học hữu hiệu nhất về kỷ cương và nhân đức Kitô giáo”. (Thông điệp Ingruentium Malorum về việc đọc kinh Mân Côi [15/09/51])

    6-Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII (1958-1963):


    “Kinh Mân Côi là vinh quang của Giáo hội Rôma .... Có vị trí của riêng mình ... sau Thánh lễ và các Bí tích.”


    “Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện tuyệt vời và phổ quát cho nhu cầu của Giáo hội, các quốc gia và toàn thế giới.”

       
    7-Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI (1963-1978) :  


    Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã dành phần cuối cùng trong Tông Huấn Marialis Cultus (Lòng sùng kính Đức Mẹ) của ngài nói về Kinh Mân Côi. Trong đó Ngài viết:

     

    “Kinh Mân Côi vẫn giữ được giá trị không thay đổi và sự tươi mới nguyên vẹn.” 

    “Nếu tệ nạn gia tăng, lòng sùng kính của Dân Chúa cũng phải tăng lên. ... Hãy sốt sắng cầu nguyện với Mẹ Maria, người mẹ nhân từ nhất của chúng ta bằng cách lần chuỗi Mân Côi trong suốt tháng Mười, như chúng tôi đã chỉ ra. Lời cầu nguyện này rất phù hợp với lòng sùng kính của Dân Chúa, đẹp lòng Mẹ Thiên Chúa nhất và hữu hiệu nhất trong việc được hưởng phúc thiên đàng”.


    “Không còn nghi ngờ gì nữa, sau khi cử hành các Giờ Kinh Phụng Vụ, đỉnh cao mà lời cầu nguyện gia đình có thể đạt tới, thì Kinh Mân Côi nên được coi là một trong những lời cầu nguyện chung tốt nhất và hữu hiệu nhất mà gia đình Kitô hữu được mời đọc”. (Christi Matri,Thông điệp về lời cầu nguyện cho hòa bình trong tháng 10 (15/09/66) và Tông huấn Marialis Cultus (02/02/74).

     
    8-Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô I (26/8-28/9/1978):


    “Kinh Mân Côi là một lời cầu nguyện nghèo nàn ư? Vậy thì một 'lời cầu nguyện phong phú' sẽ như thế nào? Kinh Mân Côi là một cuộc rước các Kinh lạy Cha, lời cầu nguyện do Chúa Giêsu dạy; cuộc rước các Kinh Kính Mừng, lời chào của Thiên Chúa đối với Đức Trinh nữ qua lời chào của Thiên thần; cuộc rước các Kinh Sáng Danh, sự ngợi khen Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh”.


    “Sự khủng hoảng của Kinh Mân Côi không đến trước. Điều đầu tiên xảy ra là sự khủng hoảng trong việc cầu nguyện nói chung ngày nay. Mọi người đều bị xâm chiếm bởi lợi ích vật chất; họ ít nghĩ về linh hồn ... Đối với đời sống nội tâm, và về ... tình cảm dịu dàng với Thiên Chúa, ... quá mệt mỏi khi tìm được vài phút giây. Thật đáng tiếc!"
     
    9-Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005):

     

    “Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện yêu thích, trong đó chúng ta cùng với Đức Maria suy niệm về những mầu nhiệm mà Mẹ, với tư cách là một người mẹ, đã suy niệm trong lòng, “Còn Maria thì bà giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng” (Luca. 2:19) (Osservatore Romano, 44; 30 tháng 10 năm 1979).


    “Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện yêu thích của cha.” 

     
    “Hãy đọc kinh Mân Côi mỗi ngày. Tôi tha thiết kêu gọi các Mục tử hãy lần hạt Mân Côi và dạy những người trong cộng đồng Kitô giáo của họ cách cầu nguyện này”.

    “Gia đình đọc Kinh Mân Côi mỗi tối thật đẹp biết bao”.

     
    10-Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI (2005-2013):


    Kinh Mân Côi là “lời cầu nguyện của người Kitô hữu tiến bước trong cuộc hành hương đức tin, theo sau Chúa Giêsu, trước Mẹ Maria”.

     
    “Chuỗi Mân Côi là một phương tiện được Đức Trinh Nữ ban cho để chiêm ngưỡng Chúa Giêsu và suy gẫm về cuộc đời của Người, để luôn yêu mến và theo Người một cách trung thành hơn”.


    “Các bạn trẻ thân mến, cha mời gọi các bạn đánh giá cao lời cầu nguyện truyền thống về Đức Mẹ, lời kinh này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những khoảnh khắc trọng tâm của sự cứu rỗi mà Chúa Kitô đã thực hiện.”


    “… Những người bệnh thân mến, cha khuyên các con nên tin tưởng vào Đức Trinh Nữ, qua việc thực thi lòng đạo đức này, giao phó mọi nhu cầu của bạn cho Mẹ”.


    Đức Bênêđíctô XVI mời gọi các cặp vợ chồng mới cưới “hãy làm cho việc đọc kinh Mân Côi trong gia đình trở thành một khoảnh khắc tăng trưởng thiêng liêng dưới cái nhìn mẫu tử của Đức Trinh Nữ Maria”.


    11-Đức Giáo Hoàng Phanxicô
    (13 March 2013- ?):

     

    “Nhưng để trở thành tông đồ của Kinh Mân Côi, người ta phải tự mình cảm nghiệm vẻ đẹp và chiều sâu của lời cầu nguyện này, là lời cầu nguyện đơn giản và dễ tiếp cận đối với tất cả mọi người. Trên hết, chúng ta cần được bàn tay của Đức Trinh Nữ Maria dẫn dắt để chiêm ngưỡng dung nhan của Chúa Kitô: một khuôn mặt vui tươi, sáng láng, sầu muộn và vinh quang. Người nào, giống như Đức Maria và cùng với Mẹ, cố gắng gìn giữ và suy gẫm về các mầu nhiệm của Chúa Giêsu, ngày càng đồng hóa các cảm xúc của mình và trở nên phù hợp với Người. Về vấn đề này, tôi muốn trích dẫn một suy niệm tuyệt đẹp của Chân phước Bartolo Longo: “Tương tự như vậy, hai người bạn thường gặp nhau thì rồi ra cũng trở nên giống nhau trong cách sống, cũng giống như vậy khi nói chuyện thân tình với Chúa Giêsu và với Đức Trinh Nữ, qua việc suy niệm về các Mầu nhiệm Kinh Mân Côi, (thực hành Mười lăm ngày Thứ Bảy cầu nguyện với Kinh Mân Côi, ấn bản 27, Pompeii, 1916, tr. 27: trích dẫn trong Rosarium Virginis Mariae, n. 15)”.
     
    Kinh Mân Côi là một trường học của chiêm niệm và thinh lặng. Thoạt nhìn, nó có vẻ giống như một lời cầu nguyện đầy ắp những lời nói, và do đó khó hòa hợp với sự im lặng vốn được khuyến khích chính xác cho việc tĩnh tâm và chiêm niệm. Trong thực tế, sự lặp lại nhịp nhàng này của Kinh Kính Mừng Ave Maria không làm xáo trộn sự tĩnh lặng bên trong mà trái lại đòi hỏi và nuôi dưỡng nó. Cũng giống như cách đối với Thánh Vịnh, khi người ta cầu nguyện các Giờ kinh Phụng vụ, sự im lặng xuất hiện qua các từ và các câu, không phải như một khoảng trống, nhưng như một sự hiện diện của ý nghĩa tối thượng vượt qua chính lời nói và tiếng nói. Vì vậy, bằng cách đọc kinh Kính Mừng Ave Maria, chúng ta phải cẩn thận để tiếng nói của mình không “che lấp” tiếng nói của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn nói qua sự im lặng, như “tiếng gió nhẹ” (I Các Vua 19:12). Vậy thì việc quan tâm đến sự im lặng tràn đầy Thiên Chúa này quan trọng biết bao, cả trong việc đọc kinh cá nhân và cộng đồng! Ngay cả khi nó được các cộng đoàn đông đảo cầu nguyện, như ngày nay, và như bạn làm hàng ngày trong Thánh địa này, cần phải coi kinh Mân Côi như một lời cầu nguyện chiêm niệm, và điều này không thể xảy ra nếu không có im lặng nội tâm.

     
    Cha muốn bổ túc thêm một suy tư khác, liên quan đến Lời Chúa trong kinh Mân Côi, đặc biệt đúng vào thời điểm này khi Thượng Hội Đồng Giám Mục đang diễn ra tại Vatican với chủ đề: “Lời Chúa trong đời sống và trong sứ mệnh của Giáo Hội”. Nếu việc chiêm niệm của người Kitô hữu không thể thực hiện được mà không có Lời Chúa, thì Kinh Mân Côi, để trở thành lời cầu nguyện chiêm niệm, luôn phải phát sinh từ sự thinh lặng của trái tim như một lời đáp lại Lời, theo khuôn mẫu lời cầu nguyện của Mẹ Maria. Khi xem xét kỹ hơn, chuỗi mân côi được dệt hoàn toàn bằng các yếu tố lấy từ Kinh thánh. Trước hết, có sự thông báo về các mầu nhiệm, tốt hơn là được thực hiện như ngày nay, bằng những từ được trích từ Kinh thánh. Làm theo Cha của chúng ta: bằng cách cho lời cầu nguyện theo hướng “thẳng đứng”, nó mở tâm trí của người đọc Kinh Mân Côi để họ có thái độ hiếu thảo đúng đắn, theo lời mời gọi của Chúa: “Khi anh em cầu nguyện, hãy nói: Lạy Cha ...” (Luca 11, 2). Phần đầu tiên của Kinh Kính Mừng Ave Maria , cũng trích từ Phúc Âm, mỗi lần như vậy khiến chúng ta phải lắng nghe lại những lời Thiên Chúa đã nói với Đức Trinh Nữ qua Thiên thần, và những lời chúc phúc cho Mẹ từ người chị họ Isave. Phần thứ hai của Kinh Kính Mừng Ave Maria vang vọng như một lời đáp từ những người con, những người đang khẩn cầu Mẹ, không làm gì khác hơn là bày tỏ sự gắn bó của họ với kế hoạch cứu độ được Đức Chúa Trời bày tỏ. Vì vậy, tư tưởng về người cầu nguyện luôn được neo chặt trong Kinh thánh và trong những mầu nhiệm được trình bày trong đó.” (Diễn từ về Kinh Mân Côi tại đền thờ Pompei, Chúa nhật ngày 19 tháng 10 năm 2008).

     

    Kinh Mân Côi và các thánh

     

    Thánh Bênađô, vị thánh thời danh của Ðức Mẹ có thói quen dùng lời chào của Tổng Thần Gabrien để chào mừng Ðức Mẹ. Mỗi lần khi đi qua tượng ảnh Mẹ tại tu viện, Bênađô cúi đầu và nói: “Ave Maria” - kính chào Maria. Cảm khích về lời chào và tấm lòng yêu mến đó, một hôm sau khi Bênađô vừa chào mừng Ðức Mẹ, liền được nghe Ðức Mẹ chào lại: “Ave Benado” - chào Bênađô. Vì lòng sốt sắng mến yêu luôn thôi thúc trong lòng thánh nhân, ngài được cho là đã thêm vào cuối kinh Lạy Nữ Vương những lời này: “Ôi khoan thay! nhân thay! dịu thay! Thánh Maria trọn đời đồng trinh”. 

     

    Thánh Anphongsô Giám Mục Tiến Sĩ, sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế đã viết nhiều về Ðức Mẹ, đặc biệt là bộ sách Vinh Quang Ðức Mẹ, trong đó thánh nhân đã diễn tả cách rất đầy đủ về những vinh quang qua 12 nhân đức của Ðức Mẹ. 

     

    Thánh Ludovico Maria Grignon a Monfort đã hô hào lòng sùng kính và tận hiến cho Ðức Mẹ.

     

    Thánh Ðaminh, người tiên phong cổ võ việc lần hạt Mân Côi. Nhờ Ngài sốt sắng rao truyền việc lần hạt, đã chiến thắng được lạc giáo Albigense tung hoành và gieo rắc bao tai họa cho Giáo Hội tại nước Pháp thời của Ngài. 

     

    Trong khi rao giảng phép lần hạt Mân Côi tại tỉnh Carcasso, một hôm có một người đã đả kích Thánh Ðaminh về việc đạo đức này. Anh ta đã bị quỉ nhập, và Thánh Ðaminh đã cầu nguyện để trừ quỉ ra khỏi người anh. Trước khi ra khỏi, chính quỉ dữ đã phải thú nhận và thốt lên những lời này: 

     

     “Hỡi mọi người, hãy nghe đây: Ðức Trinh Nữ Maria rất thánh là Mẹ Thiên Chúa. Người có đủ quyền năng gìn giữ mọi người khỏi lửa hỏa ngục. Ai có lòng sùng kính Người, sẽ thoát khỏi tay chúng ta. Nếu chẳng có Người, thì nhiều linh hồn đã phải trầm luân hỏa ngục. Người yêu thương và phù hộ cho những ai siêng năng lần hạt Mân Côi”. 

     

    Nhờ sự hô hào và lòng sốt sắng đối với Kinh Mân Côi của Thánh Giáo Hoàng Piô V, Giáo Hội dưới triều đại Ngài đã chiến thắng đạo quân Hồi Giáo tại vịnh Lépante. 

     

    Chân phúc Bartolo Longo, tông đồ của Kinh Mân Côi, vẫn thường xin Mẹ là Nữ Vương Mân Côi:


    “Hỡi chuỗi Mân Côi đầy ơn phúc của Mẹ Maria, sợi dây ngọt ngào liên kết chúng con với Thiên Chúa, sợi dây tình yêu liên kết chúng con với các thiên thần, là tháp cứu độ chống lại sự tấn công của Địa ngục, bến cảng an toàn cho thế giới đắm chìm của chúng con, chúng con sẽ không bao giờ lìa xa Mẹ. Mẹ là niềm an ủi của chúng con trong giờ chết, là nụ hôn cuối cùng của chúng con khi cuộc đời sắp tàn. Và lời cuối cùng từ đôi môi của chúng con sẽ là tên ngọt ngào của Mẹ, hỡi Nữ Vương Mân Côi, hỡi người mẹ thân yêu nhất, hỡi nơi ẩn náu của những kẻ tội lỗi, hỡi Đấng bảo trợ tối cao cho những người bị đau khổ. Chúng con nguyện ước Mẹ được ngợi ca ở khắp mọi nơi, hôm nay và luôn mãi, dưới đất cũng như trên trời.”

     

    Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã làm gương về lòng yêu mến Ðức Mẹ qua việc lần hạt Mân Côi. Ngài luôn luôn có tràng hạt trong người. Lần hạt riêng và lần hạt chung với con cái bốn phương. Lòng sùng mộ và yêu mến Mẹ Maria đã thôi thúc Ngài chạy lại bên Mẹ như một trẻ thơ. “Totus tuus”.

     

    Ngày 13 tháng 5 năm 1981, Ngài đã được cứu thoát một cách nhiệm mầu khi bị ám sát tại quảng trường Thánh Phêrô. Ngài thâm tín rằng trong biến cố đó, mạng sống Ngài được duy trì là do bàn tay của Ðức Mẹ. Và Ngài đã bày tỏ lòng biết ơn Ðức Mẹ bằng cuộc hành hương Fatima một năm sau, vào ngày 13 tháng 5 năm 1982. Trên mũ triều thiên của Ðức Mẹ Fatima, giữa những viên kim cương lóng lánh, là một đầu đạn mà kẻ ám sát đã bắn vào vị Giáo Hoàng, như dấu chứng hùng hồn về sự săn sóc và yêu thương đặc biệt của Ðức Mẹ dành cho Ngài. Ta hãy nghe lời của Ngài trong Tông Huấn Sứ Ðiệp Mục Vụ Các Gia Ðình:  “Cha mời gọi tất cả hãy lần hạt Mân Côi, đường lối thiết yếu nuôi dưỡng sự tăng trưởng thiêng liêng cho cá nhân và sự thông hiệp yêu thương cho gia đình” (tr.28). 

     

    Ngày 16 tháng 10 năm 2002, bắt đầu năm thứ 25 Giáo Triều của Ngài, Ngài đã ban hành Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria (Thư Rosarium Virginis Mariae) đã thêm vào mầu nhiệm Ánh Sáng tỏa chiếu qua Chúa Giêsu. Tông Thư là một tài liệu rất đặc biệt hô hào mọi người hãy yêu mến và sốt sắng lần hạt Mân Côi. Ngay trong phần nhập đề, Ngài đã viết: 

     

    “Kinh Mân Côi của Trinh Nữ Maria, một kinh đã từ từ thành hình trong thiên niên kỷ thứ hai theo sự hướng dẫn của Thần Linh Thiên Chúa, là một kinh được rất nhiều vị thánh mến chuộng cũng như được Giáo Quyền khuyến khích. Tuy đơn giản, nhưng sâu xa, kinh nguyện này vào đầu thiên niên kỷ thứ ba đây, vẫn là một kinh nguyện có tầm vóc quan trọng trong việc mang lại một mùa gặt thánh đức”. 

     

    Cũng trong phần mở đầu của Tông Thư, Ngài viết tiếp: 

     

     “Mặc dù rõ ràng mang đặc tính Thánh Mẫu, Kinh Mân Côi tự bản chất là một kinh nguyện có trọng tâm là Chúa Kitô. Qua những yếu tố bình dị của nó, Kinh Mân Côi chất chứa tất cả những gì sâu xa của toàn thể sứ điệp Phúc Âm. Có thể nói rằng Kinh Mân Côi là một tổng hợp của Phúc Âm”. 

     

    Kinh Nhật Tụng người Kitô hữu

     

    Như các linh mục và các thầy phó tế đã lãnh chức thánh, như các tu sĩ thuộc các dòng tu, thường ngày đọc kinh Nhật Tụng để đại diện cho Giáo Hội dâng lời ca ngợi Thiên Chúa, người tín hữu giáo dân mỗi ngày cũng dùng lời kinh nguyện của mình ca tụng Thiên Chúa. Kinh nguyện đó là Kinh Mân Côi. Là Lectio Divina của các Kitô hữu.

     

    Trong tinh thần kinh nguyện, Kinh Mân Côi trở thành Kinh Nhật Tụng của người tín hữu. Trong bộ kinh này, ta có dịp đọc lên những lời chúc tụng thánh danh Thiên Chúa, cầu xin một cách đẹp lòng Ngài trong Kinh Lạy Cha - kinh nguyện duy nhất mà Chúa Cứu Thế đã dậy khi còn tại thế. Chúc tụng Mẹ Maria thánh đức bằng những lời Tổng Thần Gabrien, Thiên sứ của Thiên Chúa đã chào mừng Ðức Mẹ. Những lời ngợi khen của Thánh Isave, và lời cầu xin của ta dâng lên Mẹ với ý thức về sự yếu hèn của chính mình. Sau cùng là lời ca ngợi vinh quang Ba Ngôi Thiên Chúa từ muôn thuở và cho đến muôn đời. 

     

    Tóm lại, khi suy nguyện chuỗi Mân Côi với ý nghĩa của Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, và Kinh Sáng Danh, ta không thể không cảm thấy ngợp trời ánh sáng, vinh quang và vui mừng vì được chúc tụng Thiên Chúa chí tôn, đầy tình thương. Ca ngợi Mẹ Maria, người Mẹ diễm phúc, luôn thương xót và cầu bầu cho chúng ta. Trên tất cả, tình thương và phúc lộc đó qui về vinh quang một Thiên Chúa là Cha, và cho phần rỗi của con cái Ngài. 

     

    Một kinh nguyện như thế, chắc chắn không còn bộ kinh nào đẹp đẽ hơn, xứng đáng hơn để ta dâng lên Thiên Chúa. Do đó, Kinh Mân Côi được coi là nhật tụng thần lương (Lectio Divina) của mọi Kitô hữu. Những tâm hồn đạo đức, những thánh nhân kim cổ trong lịch sử Giáo Hội đều có lòng yêu mến Ðức Mẹ, hoặc sùng mộ những Mầu Nhiệm ẩn chứa trong việc lần hạt Mân Côi.

     

    Cũng như Thánh trẻ Phanxicô, nếu ta muốn đạt tới đích của đời sống, muốn chiếm hữu được vĩnh cửu, thì chắc chắn phải siêng năng lần hạt. Lần hạt mỗi ngày. Lần hạt một mình. Lần hạt chung với nhau trong gia đình. Khi một mình trên xe bus. Một mình trên xe từ nhà tới sở, và từ sở về nhà. Lúc rảnh rỗi hay trên giường bệnh. Khi gặp những thử thách, đau khổ mà không biết than thở với ai. Nhờ suy ngắm những mầu nhiệm Mân Côi, ta sẽ biết hy sinh, khiêm nhường, nhẫn nại như Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Ta sẽ hiểu Thiên Chúa muốn mình sống như thế nào. 

     

     “Hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ” (Mt 26:41). Lời Ðức Kitô nói xưa không có luật trừ cho bất cứ ai. Nó không phải là một lời có tính cách cảnh giác hay đề phòng, nhưng là một mệnh lệnh, một điều kiện. Lời Ngài là lời hằng sống, như thánh Phêrô đã tuyên xưng: “Chúa có lời ban sự sống đời đời” (Jn 6:69). Lời đó nhắc nhở ta phải luôn tỉnh thức cầu nguyện. 

     

    Ðời sống của con người trên dương thế không phải là một chuỗi ngày dài hạnh phúc, vui tươi, phấn khởi và thơ mộng như những giấc mơ thần tiên được thêu dệt do trí tưởng tượng trong các tiểu thuyết. Những câu chuyện như thế chỉ có tác dụng làm quên đi thực tế của cuộc đời, hơn là giúp ta biết chấp nhận, thánh hóa, và thăng tiến cuộc đời như Ðức Kitô, như Mẹ Maria, như các thánh nhân đã sống, và đã thánh hóa. 

     

    Nếu được trình bày một cách trung thực, đời người phải là một tập hợp giữa vui và buồn, giữa hạnh phúc và bất hạnh, giữa yêu thương và ghen ghét, giữa bạn hữu và thù nghịch, giữa lương thiện và gian ác. Một cuộc sống mà không ai có thể nói mình hoàn toàn hạnh phúc, hoặc hoàn toàn bất hạnh. Một cuộc sống mà trong đó mọi người phải phấn đấu, chấp nhận, và vươn cao giữa những thử thách, những cám dỗ, và yếu đuối. Trong cuộc sống này, người Kitô hữu không thể không tìm gặp Thiên Chúa, không thể không cậy trông Ngài, và không thể không xin Ngài nâng đỡ. Bằng cách nào? Bằng việc sốt sắng suy ngắm và sống các mầu nhiệm Mân Côi. 

     

    Theo Ðức Giáo Hoàng Piô XII, thì Kinh Mân Côi là một bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng. Nhờ suy ngắm những mầu nhiệm này, Ðức Tin của người Kitô hữu “được nẩy nở thêm” như Ðức Giáo Hoàng Piô XI đã đề cập trong Thông Ðiệp In Crescentibus Malis (Trước Sự Dữ Gia Tăng), và Thánh Hoàng Phaolô VI nhắc lại trong Thông Ðiệp Hòa Bình, ban hành ngày 15 tháng 9 năm 1966. 

     

    Lần hạt đối với Phanxicô là con đường dẫn lên cõi phúc. Ðối với ta cũng thế, lần hạt sẽ giúp hiểu hơn về Ðức Trinh Nữ Maria, và yêu mến Mẹ hơn. Nhờ tình mến này, Mẹ đưa ta tiến gần tới Chúa Giêsu Con Chí Thánh của Mẹ. 

     

    Lần hạt Mân Côi, theo linh mục Joanquim Maria Alonso, CMS, nhà biên khảo thời danh về biến cố Fatima, còn là việc chu toàn một trong ba điều kiện của Ðức Mẹ, đó là: Cải thiện đời sống, tôn sùng Trái Tim Mẹ, và siêng năng lần hạt. 

     

    Linh mục Alonso còn quả quyết rằng Thánh Ý Thiên Chúa muốn dùng Ðức Trinh Nữ Maria để tỏ lòng khoan nhân và công trình Cứu Chuộc vô giá của Ðức Kitô cho nhân loại.

     

    Việc cứu rỗi nhân loại dĩ nhiên thuộc về Ðức Kitô, nhưng do lòng nhân lành vô biên của Ngài, Thiên Chúa muốn ban cho Mẹ Maria quyền ban phát ơn đó cho nhân loại. Giáo huấn của Giáo Hội về vai trò trung gian của Ðức Trinh Nữ Maria, đã được Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII quảng diễn trong Thông Ðiệp Jucunda Semper ban hành ngày 8 tháng 9 năm 1894 như sau: 

     

     “Thiên Chúa, theo sự quan phòng rất nhân lành của Ngài đã ban cho nhân loại vị Nữ Trung Gian này, và đã ấn định rằng tất cả mọi phúc lộc phải qua tay Maria mới đến với chúng ta”. 

     

     

    ______________

     

    Tài liệu: 

     

    [1] Trần Mỹ Duyệt. “Sống Đạo Giữa Đời”, Tủ Sách Vào Đời, 2004. Chương 10, tr.119-129.   

     

    [2] Phêrô Phạm Văn Trung. Kinh Mân Côi và Các Đức Giáo Hoàng. Tin Vui.org. Thứ tư - 07/10/2020.   

    Tham khảo từ:

    https://udayton.edu/imri/mary/o/october-month-of-the-rosary.php
    http://www.vatican.va/content/benedict-xvi/fr/speeches/2008/october/documents/
     

    [3] ibid

     

    [4] Mười một thông điệp của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII về Kinh Mân Côi:
    Supremi Apostolatus Officio , Thông điệp về việc tôn sùng Kinh Mân Côi (09/01/1883)
    Superiore Anno , Thông điệp về việc đọc kinh Mân Côi (30/08/1884)
    Viè En Ben Noto , Thông điệp về Kinh Mân Côi và Đời sống Công cộng (20/09/1887)
    Octobri Mense , Thông điệp về Kinh Mân Côi (22/09/1891)
    Magnae Dei Matris , Thông điệp về Kinh Mân Côi (09/08/1892)
    Laetitiae, Thông điệp Khen ngợi lòng sùng kính Kinh Mân Côi (09/08/1893)
    Iucunda Semper Expectatione , Thông điệp về Kinh Mân Côi (09/08/1894)
    Aduitricem , Thông điệp về Kinh Mân Côi (09/05/1895)
    Fidentem Piumque Animum , Thông điệp về Kinh Mân Côi (20/09/1896)
    Augustissimae Virginis Mariae , Thông điệp về sự vĩnh cửu của Đức Mẹ Mân Côi (09/12/1897)
    Diuturni Temporis, Thông điệp về Kinh Mân Côi (09/05/1898)

     

     

     

NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - LEO NÚI

CON CHỊU KHỔ ĐỂ ĐỨC MẸ CẢI HÓA BỐ MẸ
Tạp Chí "Hang Lộ Đức", phát hành ngày 27/11/1960, đăng tải câu chuyện cảm động sau đây:
Một em bé 12 tuổi, ghẻ lở, ung nhọt đầy mình, nằm điều trị tại một bệnh viện miền Nam nước Pháp. Bệnh tình của em thật là thảm thương, trầm trọng. Tuy nhiên, em rất bình thản, tươi vui, niềm nở với mọi người tới lui chăm sóc, phục vụ em. Không ai nghe em nói một lời phàn nàn, ta thán. Thỉnh thoảng em chỉ gióng lên: "Ước chi tôi được đến Lộ Đức lấy một lần!"
Làm sao thực hiện giấc mộng? Em thì ghẻ lở, đau yếu, mẹ em một mình không đủ phương tiện. Tất cả định đoạt, phương tiện, nằm gọn trong tay ba em. Mà ba em lại là một tay "vô thần" khét tiếng. Ông phản đối ý định của vợ con. ông cho việc hành hương, phép lạ Lộ Đức v.v...là những chuyện dị đoan, mê tín, xằng xịt, lỗi thời...
Cả vợ lẫn con chỉ biết nhìn nhau, nín lặng... ít lâu sau, trước cảnh ốm yếu, đau đớn của đứa con, ông đột ngột đổi ý. Bằng lòng cho vợ con hành hương Lộ Đức, nhưng không quên căn dặn bà vợ: không được kể cho con những chuyện xằng xịt, mê tín về Lộ Đức...
Hai mẹ con lên đường. Tới Lộ Đức, cả hai mẹ con được một cô y tá niềm nở tiếp nhận và lo chu đáo mọi thủ tục .
Ở Lộ Đức được ba ngày, bà mẹ thổ lộ với cô y tá:
- Thưa cô tôi có đạo nhưng đã 25 năm nay chưa xưng tội. Xin phép hỏi cô : nếu bây giờ tôi xưng tội, sửa mình, cô có tin Chúa sẽ cho con tôi được lành mạnh không?
- Điều đó, chẳng ai dám quả quyết với bà, tuy nhiên, tôi xác tín một điều: mọi việc lành và thiện chí, dù nhỏ mọn tới đâu, sẽ thấu tới trời và, bằng cách này hay cách khác, sẽ được Chúa chấp nhận và báo đáp rộng rãi cách thiết thực nhất cho phần rỗi chúng ta...
Suốt ngày hôm đó, bà mẹ có vẻ đăm chiêu, suy nghĩ… Bà chuẩn bị chu đáo, cáo mình, rồi dự lễ, rước lễ. Sau các việc đó bà thấy trong mình hân hoan, phấn khởi, bừng lên thêm lòng tin và sức sống mới mẻ... Bà nói với cô y tá: "Các việc tôi mới làm, xin cô chớ cho thằng nhỏ biết. Rất nguy hiểm. Bác sĩ cho biết: tất cả mọi giao động, dù nhỏ bé, sẽ gây hậu quả tai hại cho thằng nhỏ, có thể khiến nó đứt hơi, chết tức khắc". Cô y tá đồng ý. Hứa tuyệt đối im lặng...
Sau 5 ngày ở Lộ Đức, mẹ con lại dắt nhau trở lui. Trong lúc giã từ, cô y tá hỏi em nhỏ:
- Em à, cuộc hành hương Lộ Đức và mấy ngày ở đây, em hài lòng chứ?
- Thưa cô, em bé bật lên khóc, nói trong nức nở: "Em đến đây... em khấn cầu Đức Mẹ, không phải cho em được lành mạnh, nhưng là cho ba má em trở lại đàng chính..." Nói chưa xong, em lại òa lên khóc.
Cô y tá nói vài lời trấn an. Bỏ đi. Hứa sẽ trở lại sau vài phút. Cô chạy tìm bác sĩ. Hỏi ông: Cô được phép tiết lộ cho em bé những việc mẹ em đã làm chăng? Khi được phép, cô trở lại. Nói với em nhỏ:
- Em à, chị có một điều bí mật muốn nói với em. Em hứa giữ kín không?
- Dạ, em hứa.
- Cả với má em, em cũng không được nói. Hứa không?
Em bé ngần ngại, lưỡng lự, nhưng rồi đáp:
- Dạ, em hứa.
- Em à, chị đưa tin vui cho em: đã 2 hôm nay, mẹ em là con người mới. Mẹ em đã xưng tội, dự lễ, rước lễ sốt sắng đàng hoàng lắm. Cả mặt mũi và con người bà phản chiếu niềm hân hoan dào dạt.
Cô y tá vừa nói vừa hồi hộp như muốn đứt hơi, chỉ sợ em bé sẽ bị giao động mạnh, có thể ngất luôn... Vừa nghe tin, em bé mặt mày hân hoan, rạng rỡ.
Sau vài phút đăm chiêu, em chắp hai tay trên ngực, nói nhỏ:
- Cô ơi từ lúc này, em có thể an tâm từ giã cuộc đời. Em đã được toại nguyện. Em muốn mau được trở lại nhà. Em muốn được chết trong tay ba má em.
Em được trả lại bệnh viện cũ, nơi em nằm điều trị trước. Nhưng em khẩn khoản xin được về nhà, được chết trong tay ba má em.
Về nhà được 2 ngày. Sang đêm thứ ba, bệnh viện nhận điện thoại đưa tin em đã tắt thở.
Sáng hôm sau, cô y tá từ bệnh viện đến phân ưu và nhìn em bé lần chót. Em nằm chết trên giương mà như đang ngủ. Mặt mày tươi tỉnh. Cả con người phảng phất một vẻ siêu thoát, huyền diệu...
Bà mẹ em cũng tỏ ra can đảm, chí khí khác thường. Không khóc lóc, tỉ tê. Bà nói với cô y tá:
- Cô ơi quá nửa đêm, thằng nhỏ tắt thở. Coi nó như một ông thiên thần. Sau 5 phút, nhà tôi nhẹ nhàng mò đến sau tôi, thì thầm trong nước mắt: "Anh muốn nhìn con lần chót". Một việc lạ thường, ít khi ông làm...
Rồi, như tập trung tất cả nghị lực, ông ngập ngừng một lát, rồi nói nhỏ, nhưng rất rõ ràng, vào tai tôi: "Mai sớm, em phải kiếm cho anh một linh mục. Anh muốn sửa lại cuộc đời...".
Nhớ ơn Mẹ tập 1,
Lm Trương Văn Thục, OSB
NS Trái Tim Đức Mẹ, 1994
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 

NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - TGP SAIGON - DANH THÁNH ĐỨC MARIA

  • Ngày 12/09: Danh Thánh Đức Maria

    1. CÁI NHÌN LỊCH SỬ.

    Câu chuyện lịch về sử thánh lễ Danh Thánh Đức Maria là một câu chuyện đẹp.

    Lịch sử kể lại rằng: “Năm 1683, sau khi chiếm được nước Hungary, quân Thổ Nhĩ Kỳ tiến vào nước Áo và dùng hai vạn quân binh để vây hãm kinh đô Vienna của nước này.

    Dân thành Vienna hiệp nhau phòng thủ hết sức cẩn thận vì họ biết rằng sa vào tay quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ thì thế nào cũng bị hành hạ rất dã man.

    Giữa lúc dân thành Vienna đang sống trong cảnh phập phồng lo sợ, thì họ lại phải hú vía một lần nữa khi nhận được một hung tín: một nhà thờ của họ đang bị cháy, và lửa lan rộng rất nhanh, lan đến gần kho vũ khí. Nếu lửa mà chạm đến kho vũ khí thì sẽ rất nguy hiểm: kho vũ khí sẽ nổ lớn, thành phố sẽ thiệt hại nặng về tài sản và nhân mạng, và quân địch sẽ vào chiếm thành dễ dàng.

    Ngày hôm đó là ngày Lễ Đức Mẹ Mông Triệu. Toàn dân thành Vienna sốt sắng kêu xin Đức Mẹ cứu họ khỏi thảm cảnh này. Họ van lơn lớn tiếng Danh Thánh Mẹ Lạy Mẹ Maria! Lạy Mẹ Maria!

    Lạ thay! Ngọn lửa đang cháy rùng rợn, bỗng dừng lại trước kho vũ khí và tắt lịm và kho vũ khí đã thoát cảnh nổ tung.

    Ngay khi đó, thì dân thành Vienna lại nhận được tin vui: viện binh Ba Lan của tướng Sobieski và viện binh Đức của ông hoàng Carlo di Lorena đang đem quân đến giải vây thành Vienna. Hai toán quân này đã gặp nhau trên đường đi cứu viện. Trước khi tiến quân ra trận giải cứu, họ tham dự thánh lễ. Và sau khi tham dự thánh lễ, họ đồng thanh hô to: “Chúng ta hãy lên đường! Đức Mẹ Maria sẽ ở cùng chúng ta!

    Một trận chiến nảy lửa xảy ra. Quân Thổ bại trận, rút lui, để lại rất nhiều vũ khí, trong đó có 200 khẩu đại bác. Một nữa quân lính của họ bị thương và chết.

    Đức Giáo Hoàng Inôxenxiô XI tuyên bố lập Thánh lễ dâng kính Thánh Danh Đức Mẹ Maria để kỷ niệm trận thắng lạ lùng này.

    II. DANH THÁNH MARIA

    1. Danh Thánh Mẹ Maria rất uy quyền

    Mẹ Maria là một thụ tạo trổi vượt trên muôn vàn thụ tạo. Mẹ là người nữ tuyệt mỹ và là Đấng Đầy Ân Sủng, cao trọng hơn hết mọi người phụ nữ trên trần gian này.

    Thánh Tôma Aquinô đã ca ngợi Mẹ như sau: ”Maria có nghĩa là Sao Biển. Vì vậy, ví như thuỷ thủ được sao biển hướng dẫn vào hải cảng thế nào, thì các Kitô hữu muốn tới vinh quang cũng đều phải nhờ sự cầu bầu Hiền Mẫu của Mẹ Maria như vậy”.

    Danh Thánh Mẹ vượt không gian và thời gian để muôn người và mọi thế hệ phải cất tiếng tung hô Mẹ Diễm Phúc.

    Danh Thánh Mẹ được coi trọng đến độ: ngoài danh Đức Giêsu và Thiên Chúa ra, không có tên nào cao trọng, đáng kính cho bằng tên Ðức Mẹ. Thánh Giêrônimô khẳng định rằng: ”Tên Maria chẳng phải cha mẹ hay người thế gian đặt cho ngài, nhưng chính Thiên Chúa soi lòng ông thánh Gioakim và bà thánh Anna đặt tên ấy cho Mẹ Maria”.

    Vì thế:

    “Thánh Danh Maria các thiên thần trông ngóng

    Khát vọng được nghe thánh danh vinh hiển, uy hùng

    Ngỡ ngàng hỏi nhau: “Bà nào lên giữa không trung?”

    Như rạng đông rực rỡ, như vầng nguyệt diệu huyền

    Như đạo binh dàn quân, lệnh Nữ Vương thẳng tiến

    […]

    Nghe Danh Mẹ, mọi thụ tạo cúi đầu cung kính

    Uốn gối tôn vinh, quỷ hỏa ngục phải sấp mình

    Vạn vật muôn loài, chiêm ngưỡng trong lặng thinh

    Thánh Danh Mẹ, thanh thoát vẻ dịu hiền tuyệt diệu” (Mặc Trầm Cung).

    Như vậy, với Danh Thánh Mẹ Maria được cất lên thì: ”Các thiên thần vui mừng, các quỉ dữ run rẩy. Kêu xin tên này, các tội nhân được ơn phúc và ơn tha thứ” (Thánh Canisiô) .

    2. Hãy không ngừng kêu cầu Danh Mẹ

    Ngay từ những thế kỷ đầu của Kitô Giáo, Danh Thánh Đức Maria đã được nhiều người biết đến và tôn kính. Họ cũng đã cử hành phụng vụ thánh lễ để tôn kính Thánh Danh Mẹ tại một số nơi. Nhưng mãi đến năm 1683, Đức Thánh Cha Innôcentê XI mới chọn ngày 12 tháng 09 hàng năm làm ngày toàn thể Giáo Hội hoàn vũ long trọng mừng lễ tôn kính Thánh Danh Đức Maria.

    Khi quyết định chọn ngày này để tôn kính Thánh Danh Mẹ, Đức Thánh Cha đã muốn đặt để Giáo Hội và từng người dưới sự che chở của Thánh Danh Mẹ.

    Thật vậy, danh xưng Maria trong tiếng Do Thái có nghĩa là ”Ngôi Sao Biển”.

    Như vậy, nếu Giáo Hội được ví như con thuyền đang lênh đênh trên biển khơi, thì Đức Maria được ví như ”Ngôi Sao Biển” chiếu sáng cho con thuyền của Giáo Hội đi đúng đường, đúng lối.

    Vì thế, mỗi người chúng ta được mời gọi hướng nhìn lên Mẹ Maria như ngôi sao dẫn lối soi đường, để giúp chúng ta đi đúng hướng.

    Thánh Bênađô viết: ”Khi bạn chiến đấu với bão táp trên biển cuộc đời, hãy ngước nhìn lên Sao Biển là Mẹ Maria. Nếu những ngọn gió cám dỗ thổi vào chiếc thuyền lòng bạn, hay nếu bạn bị va đụng bởi những tảng đá đau khổ, hãy nhìn lên Ngôi Sao – và hãy gọi tên Mẹ! Nếu bạn bị những đợt sóng tham vọng hay đố kỵ xô đẩy, hãy nhìn lên Ngôi Sao – hãy gọi tên của Mẹ! Nếu cơn nóng giận hay tham lam đánh bạt chiếc thuyền lòng bạn, hãy nhìn lên Mẹ Maria! Nếu bạn đang thất vọng vì tội lỗi quá nhiều, hãy tưởng nghĩ đến Mẹ! Trong những khó khăn và nguy hiểm, hãy nhớ đến Mẹ – hãy réo gọi Mẹ! Đừng để Danh Thánh Mẹ rời xa môi miệng bạn. Hãy tưởng nghĩ đến Mẹ luôn luôn! Có Mẹ, bạn sẽ không lạc lối. Được Mẹ chở che, bạn sẽ không sợ gì. Mẹ sẽ dẫn bạn đến với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ của bạn!”.

    Trong thực tế, chúng ta cũng đã thấy: có biết bao người khô khan nguội lạnh, nhưng chỉ vì nể một ai đó hay vì một lời hứa với người đã khuất, nên hằng ngày vẫn trung thành đọc kinh kính Mẹ và kêu cầu Danh Mẹ, đến giờ phút cuối, Mẹ đã giúp vượt thắng cám dỗ của ma quỷ và gìn giữ như của riêng Mẹ vậy. Những người bị ma quỷ tấn công, họ đã kêu cầu Danh Mẹ và đã được Mẹ bảo vệ. Những người ốm đau bệnh tật, luôn kêu Danh Mẹ trợ giúp và tăng sức mạnh, Mẹ đã chữa lành… Những người bị bách hại, kêu tên mẹ và không ngớt van xin, Mẹ đã giải thoát…

    Tắt một lời: tất cả những ai có lòng yêu mến, cậy trông Mẹ và kêu cầu Danh Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ thương yêu và cứu giúp, bởi vì từ xưa tới nay, chưa từng có ai chạy đến với Mẹ mà lại về không bao giờ!

    Chuyện kể rằng:

    Thánh Anphongsô Rodriguez có lòng yêu mến Ðức Mẹ chí thiết. Một hôm đang quì trước bàn thờ Mẹ. Ngài được Ðức Mẹ hiện ra đẹp đẽ lạ lùng và hỏi:

    -Alphonsô, con có mến Mẹ không?

    Thánh nhân giơ hai tay nói lớn:

    - Ôi trời đất, lạy Chúa! Con yêu mến Mẹ lắm. Vâng, con mến Mẹ; ai mà không mến Mẹ, một Ðấng đẹp đẽ tốt lành, thánh thiện như thế? Con mến Mẹ đến nỗi sẵn lòng hy sinh tất cả thịt máu, danh dự và cả mạng sống con nữa.

    -Hỡi Alphonso, con có mến Mẹ thật không?

    -Thưa Mẹ, thật, rất thật. Hỡi lòng con hãy nói lên vì lưỡi con không đủ tiếng diễn tả. Lạy Mẹ chí thánh, Mẹ đừng hỏi điều ấy nữa, Mẹ biết con yêu mến Mẹ lắm.

    Chưa lấy làm đủ; Ðức Mẹ lại hỏi Ngài lần thứ ba:

    -Alphonsô, con có mến Mẹ thật không?

    Lần này theo tính đơn sơ thật thà, Ngài trả lời:

    -Lạy Mẹ, con yêu mến và con mến Mẹ hơn cả Mẹ yêu con nữa!

    Nhìn Alphonsô cách trìu mến, Ðức Mẹ mỉm cười cầm lấy tay Anphongsô mà nói:

    -Ðiều đó không đúng sự thật. Mẹ yêu thương con và yêu thương những kẻ hết lòng yêu Mẹ hơn tất cả mọi quả tim các con hợp lại để yêu Mẹ, điều đó không thể so sánh được.

    Với “tấm lòng con thảo” chúng con xin Mẹ Maria “tái sinh niềm hy vọng trong chúng con và mang lại cho chúng con sự hiệp nhất. Lạy Mẹ Maria, Mẹ của Ơn Cứu Độ, chúng con trao phó cho Mẹ cả cuộc đời chúng con.

    Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con! (Tổng hợp)
    Kính chuyển:
    Hồng
     

NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - TS DUYỆT - LỄ MẸ SẦU BI

  •  
    DM Tran

    MẸ SẦU BI DƯỚI CHÂN THÁNH GIÁ

    Lễ kính 15 tháng 9

     

    Trần Mỹ Duyệt

     

    Tước hiệu Mẹ Sầu Bi gắn liền với nỗi đau khổ và sự cay đắng của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa chúng ta. Theo truyền thống, những đau khổ và cay đắng này của Mẹ không chỉ giới hạn trong cuộc thương khó và khổ nạn của Chúa Giêsu, mà hơn nữa, nó bao gồm trong bảy niềm đau, hoặc bẩy sự khổ sầu như những lưỡi gươm đâm thấu và để lại những vết cắt suốt đời trong Trái Tim Mẹ.    

     

    Bẩy niềm đau:

     

    -Lời tiên tri của Simêon: “Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ.” (Luca 2:34-35)

    -Cuộc di cư của Thánh Gia qua Ai Cập (St. Matthew 2:13, 14).

    -Lạc mất và tìm thấy trẻ Giêsu trong Đền Thờ (St. Luke 2: 43-45).

    -Gặp Chúa Giêsu trên đường lên Núi Sọ.

    -Đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu trong lúc Chúa bị đóng đinh.

    -Ôm xác Chúa Giêsu trong lòng sau khi hạ xác xuống khỏi thập giá.

    -Táng xác Chúa trong mồ đá.

     

    Cũng chính vì lý do này, trong một số hình vẽ, các họa sỹ đã trình bày Trái Tim của Mẹ bị vòng gai nhọn bao quanh, hoặc bẩy lưỡi gươm đâm thâu. Quan trọng hơn hết là ý nghĩa của những nỗi đau này đã phản ảnh lời Fiat (xin vâng) mà Mẹ đã thưa với Tổng Thần Gabriel trong ngày Truyền Tin. Theo Lm. Fr. William Saunders qua bài viết “The Feast of Our Lady of Sorrows” [1] đây, Lễ kính Mẹ Đau Thương đã được phổ biến rộng rãi vào thế kỷ 12, dưới nhiều tước hiệu, phát xuất từ những tài liệu được các đan sỹ Biển Đức ở thế kỷ trước đó. Và rồi đến thế kỷ mười bốn và mười lăm, lễ này đã được cử hành trên toàn Giáo Hội. 

     

    Lễ kính Mẹ Sầu Bi:

     

    Một cách đặc biệt, năm 1482, lễ đã được ghi vào Sách Lễ Roma dưới tước hiệu, Đức Mẹ Sầu Bi (Our Lady of Compassion) nhấn mạnh đến tình yêu thương cao cả của Mẹ Thánh Đức đã phải chịu trong cuộc thương khó của Con. Chữ compassion bắt nguồn từ tiếng Latin có nghĩa là cắm rễ và đau khổ tức là sầu khổ với. Sự đau khổ của Đức Maria vượt xa tất cả chúng ta, bởi vì Mẹ là mẹ Chúa Giêsu, Đấng không chỉ là Con của Mẹ mà còn là Chúa của Mẹ và cũng là Đấng Cứu Thế. Mẹ đã cùng chịu đau khổ với Con của mình. Năm 1727, Đức Giáo Hoàng Benedict XIII đã truyền ghi Lễ Mẹ Sầu Bi vào Lịch Giáo Hội, Thứ Sáu trước Chúa Nhật Lễ Lá. Lễ này đã được sửa đổi và được ghi trong Sách Lễ Roma (Roman Missal) năm 1969.

     

    Theo lịch sử Phụng Vụ Giáo Hội, năm 1668, lễ kính Bẩy Niềm Đau (Seven Dolors) đã được cử hành vào Chúa Nhật sau 14 tháng 9, Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Lễ Mẹ Sầu Bi đã được ghi vào Lịch Roma năm 1814. Sau này Thánh Giáo Hoàng Piô X đã quyết định cử hành vào ngày 15 tháng 9.

     

    Ý nghĩa tước hiệu Sầu Bi:

     

    Mẹ Sầu Bi, Mẹ Đau Thương, Mẹ Bẩy Niềm Đau cũng chính là Mẹ Rất Thánh đã đứng một cách trung thành và can đảm dưới chân thánh giá hiệp dâng Con của mình lên Thiên Chúa để cứu chuộc nhân loại. Hình ảnh này đã được Thánh Ký Gioan ghi lại: Từ trên thánh giá, nhìn xuống thấy Mẹ và môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu đã nói với Mẹ mình: “Hỡi bà, đây là con bà”. Gioan là đại diện những người con mà Mẹ đã sinh ra dưới chân thập giá. Cũng qua người môn đệ, Ngài phán với tất cả chúng ta: “Này là mẹ con.” (Gioan 19:26-27) 

     

    Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội (Dogmatic Constitution on the Church) đã viết: “Mẹ đã đứng đó theo như ý định của Thiên Chúa, sẵn sàng cùng chịu đau khổ với người Con một và dự phần vào hy lễ của Con với cả tấm lòng hiền mẫu, dùng trọn tình yêu chấp nhận hiến tế lễ vật do chính lòng mình sinh ra” (no. 58)* 

     

    Thánh Bênađô (d. 1153) đã viết: “Ôi lạy Mẹ Rất Thánh, một lưỡi gươm đã đâm thấu tâm hồn Mẹ…Người đã chết trong thân xác do tình yêu lớn lao hơn bất cứ ai có thể cảm thấu. Mẹ đã chết trong tâm hồn qua tình yêu không giống như bất cứ ai vì Ngài” (De duodecim praerogatativs BVM).

     

    Suy niệm về sự đau đớn của Mẹ Rất Thánh chúng ta, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lưu ý các tín hữu rằng Mẹ Maria Rất Thánh đã trở nên người an ủi những ai sầu khổ tâm hồn cũng như thể xác. Mẹ biết những nỗi đau của chúng ta, bởi vì chính Mẹ đã đau những nỗi đau ấy. Từ Belem tới núi Calvary. ‘Lòng Mẹ đã bị một lưỡi gươm đâm thâu’. Maria là người Mẹ Tinh Thần của chúng ta, người Mẹ luôn luôn thấu hiểu con cái mình và luôn an ủi chúng khi gặp sầu khổ. Vì sứ mệnh đặc biệt của Mẹ là yêu thương chúng ta. Mẹ đã nhận sứ mệnh này từ trên thánh giá Chúa Giêsu để chỉ yêu thương chúng ta và luôn luôn cứu vớt chúng ta. Nhưng cách mà Mẹ Maria an ủi chúng ta hơn hết là chỉ cho chúng ta Đấng Bị Đóng Đinh và Đấng An Ủi của chúng ta. (1980)

     

    Vì vậy, khi tôn kính Mẹ Rất Thánh của chúng ta, Đức Mẹ Sầu Bi, là chúng ta tôn vinh Người như một môn đệ trung tín và một mẫu gương của đức tin. Chúng ta hãy cầu xin cùng Mẹ như lời cầu mở đầu của Thánh lễ hôm nay:

     

    “Lạy Chúa, khi Ðức Kitô chịu treo trên thập giá, Chúa đã muốn cho Thánh Mẫu của Người đứng kề bên mà thông phần đau khổ. Xin cho Hội Thánh Chúa biết noi gương Thánh mẫu mà kết hiệp với Ðức Kitô chịu khổ hình, để mai ngày được phục sinh vinh hiển cùng với Ðức Kitô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.”**

     

    Bẩy lời hứa của Đức Mẹ:

     

    Qua thánh Bridget. Đức Mẹ đã hứa ban cho những ai sùng kính và hằng ngày đọc 7 kinh Kính Mừng, suy niệm về Bẩy Sự Thương Khó của Người những ơn sau: 

    1. Mẹ sẽ ban ơn bình an cho gia đình của họ.

    2. Họ sẽ được soi sáng về những mầu nhiệm thiêng liêng.

    3. Mẹ sẽ an ủi họ trong những lúc đau thương. Và Mẹ sẽ đồng hành với họ trong công việc thường ngày của họ.

    4. Mẹ sẽ ban cho họ nhiều hơn những gì họ cầu xin nếu những gì họ xin không chống lại thánh ý đáng tôn thờ của Con chí thánh Mẹ, hoặc ngăn cản sự thánh hóa linh hồn họ.

    5. Mẹ sẽ bênh đỡ họ trong những trận chiến thiêng liêng với kẻ thù muôn thuở và sẽ che chở họ khỏi mọi nguy hiểm trong đời sống.

    6. Mẹ sẽ đến thăm viếng, an ủi họ trong giờ lâm chung, và họ sẽ được nhìn thấy dung nhân Mẹ.

    7. Mẹ sẽ xin Con chí thánh Mẹ cho những ai quảng bá lòng tôn sùng này được vào nơi hằng sống ngay sau khi chấm dứt cuộc đời này, bởi vì mọi tội lỗi của họ sẽ được tha và Con Mẹ cùng với Mẹ sẽ là nguồn ủi an và vui mừng của họ. 

     

    ___________

     

    [1]   https://www.catholiceducation.org › culture › the-feast-...

    The Feast of Our Lady of Sorrows

    *Công Đồng Vaticanô II. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin. Nhà xuất bản Tôn Giáo 2012.

    ** Tổng Giáo Phận Hà Nội. Archdiocese of Ha Noi. Lời nguyện nhập lễ. Ngày 15/9: Lễ Đức Mẹ Sầu Bi.

     

     

NGỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - TS DUYỆT - THÁNH DANH MẸ

  •  
    DM Tran

    THÁNH DANH MARIA

    Lễ kính ngày 12 tháng 9

     

    Trần Mỹ Duyệt

     

     

    Thiên Chúa đã sáng tạo một thế giới cho con người; Ngài đã sáng tạo cho riêng Ngài một thế giới mà Ngài đặt cho tên gọi là “Maria.” (Thánh Louis M. Monfort).

     

    Ngoài trừ tiếng Do Thái phát âm là Myriam, tiếng Pháp là Marie, tiếng Anh là Mary, còn lại các tiếng như Việt Nam, Tây Ban Nha, hay tiếng Ý đều phát âm dựa trên gốc Latin và gọi tên của Đức Mẹ là MARIA.

     

    Giáo Hội đã liên kết 3 lễ trọng để nhắc nhớ con cái Giáo Hội về người Mẹ cao sang, quyền phép và rất mực thương yêu con cái mình là Rất Thánh Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Chúa Giêsu Kitô, Mẹ Giáo Hội và cũng là Mẹ toàn thể nhân loại.

     

    -Ngày 8 tháng 12, nhắc nhớ đến ơn Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội.

    -Ngày 8 tháng 9, nhớ ngày Mẹ được sinh ra vào đời. Ngày Sinh Nhật của Đức Mẹ, và:

    -Ngày 12 tháng 9, kính thánh danh Mẹ.

     

    Sơ lược nguồn gốc 

     

    Năm 1513, lễ kính “Thánh danh Maria” được Đức Giáo Hoàng Julius II ban phép cử hành tại Giáo Phận Cuenta, nước Tây Ban Nha. Ban đầu lễ này được cử hành vào ngày 15 tháng 9, với tuần bát nhật sau lễ Sinh Nhật Đức Mẹ.  Sau cuộc cải cách Breviary, lễ này bị đình chỉ bởi Thánh Giáo Hoàng Piô V, nhưng được khôi phục lại bởi Đức Sixtô V, và được chuyển vào ngày 17 tháng 9. Cũng từ đó, lễ Kính Thánh Danh Maria lan rộng khắp Tây Ban Nha và Vương Quốc Naples.

     

    Qua thời gian, lễ này được phép cử hành tại nhiều dòng tu. Đức Innocent XI đã ban phép “Lễ Kính Thánh Danh Maria được cử hành trên Toàn Giáo Hội. Thánh lễ đầu tiên được cử hành vào Chúa Nhật sau Sinh Nhật Đức Mẹ. Thánh Giáo Hoàng Piô X (+1914) đã ra chỉ thị cử hành lễ này vào ngày 12 tháng 9 hàng năm.

     

    Với sự đổi mới Thánh Lễ Roma năm 1970, theo sau Công Đồng Vatican II, ngày lễ được ghi vào lịch phụng vụ của toàn Giáo Hội, mặc dù Votive Mass vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong lần tái bản thứ ba của sách lễ Roma năm 2003, đã nâng lên thành lễ kính, “optional memorial.”

     

    Chúng ta tôn kính danh Maria bởi vì nó được gắn liền với Đấng là Mẹ Thiên Chúa, một tạo vật thánh thiện, Nữ Vương trời đất, Mẹ của Lòng Thương Xót. Chủ đích thánh lễ là ca tụng thánh danh của Mẹ: “Mirjam” (Maria); Thánh lễ tưởng niệm tất cả mọi đặc ân đã được ban cho Đức Maria bởi Thiên Chúa, và muôn ân sủng chúng ta nhận được qua lời chuyển cầu của Mẹ.

     

    Ý nghĩa tên gọi “Maria”

     

    “Xem mặt đặt tên”, hẳn là Thiên Chúa cũng theo quan niệm này khi Ngài đặt tên MARIA cho Mẹ.

     

    Tên Maria được bắt nguồn từ nhiều ngôn ngữ cổ đại: Tiếng Do Thái gọi là Myriam; trong Aramaic cũng gọi là Maryam, trong Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp gọi là Mariam và tiếng Latin trong Tân Ước gọi là Maria.

     

    Những nghiên cứu của triết học tân thời khảo sát về cổ Ai Cập đưa ra gợi ý rằng Maria có nghĩa là “nữ vương, đấng tuyệt sắc, hoặc được yêu thương”. Một số học giả nghiên cứu các sách vở Ugaritic (cổ Syrian) cho rằng tên mrym  phát xuất từ động từ rwn, vì thế có nghĩa “cao sang, nhẹ nhàng, cao cả, hoặc được kính trọng.” Những điều này xứng với lời chào của Tổng Thần Gabriel trong ngày Truyền Tin: “Kính mừng Maria, đầy ơn phúc [hoặc mừng vui lên, ái nữ đầy ơn]! Chúa ở cùng bà. Bà được chúc phúc trong các người phụ nữ.” (Luca 1:28)

     

    Vì Maria là tên của Mẹ Rất Thánh, nên nó mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt, và vì vậy được cử suy tôn trong 4 trường hợp:

     

    Đầu tiên, Maria là một tên cao cả, vì những Kitô hữu ca tụng Maria như là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ được gọi là “Mẹ Thiên Chúa”, vì Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, ngôi hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến trong thế gian, và đã trở thành người thật nhờ sự thụ thai của Maria qua quyền lực Chúa Thánh Thần.

     

    Thứ hai, Maria là tên thánh thiện nhất trong các tên gọi, khi gọi lên nhắc nhớ chúng ta, Mẹ là đấng đầy ơn phúc. Bởi vì tên này nhắc chúng ta rằng Mẹ là đấng đầy ơn phúc, được chúc phúc giữ các người phụ nữ.

     

    Thứ ba, Maria là tên của một người mẹ, bởi vì Người là Mẹ của chúng ta, nhờ Người Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Đấng đã chết trên thập tự giá (cf. Gioan 19:26-27). 

     

    Sau cùng, Maria là tên của người mẹ, luôn sẵn sàng ban cho chúng ta mọi điều mong muốn, che chở chúng ta khỏi ác quỉ, và cầu “cho chúng ta những tội nhân khi nay và trong giờ lâm tử.”

     

    Các thánh suy tôn Thánh Danh Maria

     

    Maria trong Do Thái là Miryam và theo ngôn ngữ Aramaic, ngôn ngữ được nói vào thời bấy của Đức Mẹ là Mariam . Tên gọi này có nghĩa là “đắng đót”, nhưng qua các thế kỷ, các thánh nhân và các học giả đã có những cắt nghĩa và giải thích khác nhau. Một sự pha trộn giữa nguyên ngữ và lòng sùng mộ. Sau đây là một số những lời ca tụng mà các thánh đã dành cho Đức Mẹ khi suy niệm về Thánh Danh của Người:    

     

    “Maria nghĩa là chiếu sáng hơn, bởi vì Mẹ đem lại Ánh Sáng của thế giới. Trong ngôn ngữ cổ của miền Syria, Maria cũng có nghĩa là Thánh Mẫu”. (St. Isidore of Seville +636)

     

    “Hãy để tôi nói một số điều về tên gọi này, cái tên được chuyển dịch mang ý nghĩa của Ngôi Sao Biển, 1 và nó thích hợp một cách đáng ngưỡng mộ với Mẹ Đồng Trinh.” (St. Bernard +1153)

     

    “Một vì Sao đã xuất hiện cho chúng ta hôm nay: Thánh Maria, Nữ Vương của chúng ta. Tên người có nghĩa là Sao Biển; và không nghi ngờ gì vì Sao trên biển này là thế gian. Vì thế, chúng ta hãy ngước mắt nhìn lên vì Sao đã xuất hiện trên trái đất hôm nay để Người hướng dẫn chúng ta, để Người chiếu sáng chúng ta, để Người có thể chỉ lối, để Người có thể giúp chúng ta để chúng ta có thể vượt lên. Và thật là tốt đẹp để tên Maria được đặt vào bước thang mà chúng ta đang nói đến, ở đó, chúng ta phải bắt đầu trèo lên. Như Thánh Ký đã nói, Giacóp sinh Giuse, chồng của Maria, vì thế ngay từ giây phút lời cầu của chúng ta cất lên, Người đã xuất hiện bên chúng ta và đón tiếp chúng ta trong sự săn sóc, chiếu sáng chúng ta, và đồng hành với chúng ta trên con đường trần gian lao khổ này.” (St. Aelred +1167)  

     

    “Maria nghĩa là Sao Biển, đối với những người vượt biển được hướng dẫn vào bến nhờ sao biển, cũng vậy các Kitô hữu đạt đến vinh quang nhờ sự can thiệp từ mẫu của Maria.” (St. Thomas Aquinas +1274)

     

    “Tên rất thánh, ngọt nào và giá trị xứng hợp một cách cao cả với sự thánh thiện, êm ái và xứng đáng với một trinh nữ. Vì Maria có nghĩa là biển đắng, 2 sao biển, chiếu sáng, 3 Maria được hiểu là Thánh Mẫu. Maria là biển đắng đối với các quỷ thần, đối với con người, Mẹ là Sao Biển; với các Thiên Thần, Mẹ là vinh quang tỏa sáng, và với toàn thể tạo vật, Mẹ là Thánh Mẫu”. 4 (St. Bonaventure +1274)

      

    “Thiên Chúa Cha đã tụ họp tất cả nước lại với nhau và gọi chúng là biển hoặc maria (tiếng Latin, Maria cũng có nghĩa là biển). Ngài đã gom toàn thể ân sủng của Ngài và gọi đó là Mary hay Maria… Khoa báu vô biên không gì khác hơn là Maria, Đấng mà các thần thánh đã xưng tụng “khoa tàng của Chúa”. Vì từ sự trọn đầy của Mẹ tất cả chúng ta được trở nên giầu có.” (St. Louis de Montfort +1716)

     

    Thật không có gì khó khăn để hiểu tại sao có nhiều cách diễn tả tên “Maria”, vì những điều này hàm chứa nhiều giáo huấn và căn bản đức tin. Một số trong đó đã diễn tả tên “Maria” bằng cách nhấn mạnh đến mối giây liên kết giữa Rất Thánh Trinh Nữ Maria với Giáo Hội. Phát xuất từ tiếng Do Thái, động từ mara, nghĩa là “ơn phúc hoặc mạnh mẽ” và quy vào vẻ đẹp của Đức Mẹ và sự sản sinh thần linh của Mẹ. Mẹ là Tota Pulchra, Đấng Tuyệt Mỹ.

     

     

    Thánh Louis de Montfort (d. 1716) suy niệm về lễ này còn nói thêm: “Toàn thể thế giới ngập tràn vinh quang của Mẹ, và điều này một cách hết sức thật đối với những người Kitô Giáo chúng ta, những người đã chọn Mẹ là Quan Thầy, và là Đấng bảo vệ các quốc vương, thị thành, và giáo phận. Nhiều vương cung thánh đường đã được cung hiến cho Thiên Chúa trong danh của Mẹ. Không có thánh đường nào mà lại không có một bàn thờ dâng hiến cho Mẹ. Không có quốc gia hay tôn giáo nào lại không có ít nhất một mẫu ảnh ban phép lạ khi tất cả trong đau khổ đã được cứu vớt và mọi ơn phước được lãnh nhận…

     

    Không có một em nhỏ nào ít nhất một lần trên môi đã không mắp máy lời “Kính Mừng Maria” Tội nhân với sự sợ hãi, cứng cỏi, nhưng không thể không có chút lòng tin tưởng khi nghĩ đến Mẹ. Tất cả ma quỷ trong hỏa ngục, khi nghe tên Maria, chúng đều tỏ vẻ cung kính.”  

     

      

     

     ______________

     

     

     [1] The title, "Star of the Sea," dates back to St. Jerome [+420]. It has been said that the great Doctor had originally used the phrase Stilla Maris to describe Mary as a "drop of the sea," the sea being God. A copyist's error, then, could have resulted in stilla [drop] being written down as stella [star]. Of course, the hallowed title, "Star of the Sea," suits Our Lady perfectly.


    [2] "Bitter sea [mara = bitter; yam = sea]," in addition to the interpretation given by St. Bonaventure, also calls to mind Our Lady's Seven Sorrows and the sword which "pierced" Her soul on Calvary, recalling the lamentation of the mother-in-law of Ruth, who had lost a husband and two sons: "Call me not noemi, [that is, beautiful,] but call me Mara, [that is, bitter,] for the Almighty hath quite filled me with bitterness [Rt. 1: 20]." Maror are "bitter herbs," such as are found on the seder plate at Passover.


    [3] The "Illuminated" points us to St. John's apocalyptic image of the "Woman clothed with the Sun," a dual image encompassing both, the Catholic Church and Mary, the Mother and Image of the Church.


    [4] The interpretation "Lady" for Mary was also proposed by St. Jerome, based on the Aramaic word, mar, meaning "Lord." This would render the meaning "Lady" in the regal or noble sense [as in "Lord and Lady."] Catholic sensibility, however, recognizing in Mary the simple dignity of a Mother, as well as the grandeur of a Queen, did not hesitate to add an affectionate touch to this majestic title. Mary is not just "Lady"; She is "Madonna," Notre Dame i.e., she is Our Lady.

     

    All About Mary includes a variety of content, much of which reflects the expertise, interpretations and opinions of the individual authors and not necessarily of the Marian Library or the University of Dayton. Please share feedback or suggestions with This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..

     

    ***

     

    Đặc biệt tri ân: Một phần lớn tài liệu trong bài viết này, tác giả đã lược dịch từ “The Most Holy Name of Mary – September 12” của – Sister Danielle Peters.  Xin cám ơn Nữ Tu Danielle.

     

    --
    CMC-THDC (Thân Hữu Đồng Công)
    ---