HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

CÁC THÁNH ,CÁC THIÊN THẦN  VÀ LOÀI  NGƯỜI KHÁC VÀ GIÔNG NHAU THẾ NAO?

Hỏi :

Nhân Lễ kính các Thánh ngày 1 tháng 11, xin cha giải thích rõ những thắc mắc sau đây :

  • Có Thiên Thần không ?
  • Thiên thần, các Thánh và loài người khác và giống nhau thế nào ?

Trả lời :

  • Có Thiên Thần ( Angels) hay không ?

Để trả lời câu hỏi này , xin đọc Sách Giáo Lý của Giáo Hội đã  nói rõ như sau : : “ “Sự hiện hữu của các hữu thể  thiêng liêng,  không có thân xác mà Thánh Kinh thường gọi là các Thiên Thần, (Angels) là một chân lý của đức tin. chứng từ của Thánh Kinh cũng  rõ ràng như toàn thể Thánh Truyền. “ ( x. SGLGHCG, số 328))

Là chân lý của đức tin có nghĩa đây là điều phài tin trong toàn bộ niềm tin của Đạo Thánh do Chúa Kitô khai sinh  và rao giảng cách nay trên 2000 năm..

Chúa  Giêsu đã nói đến các Thiên Thần như sau :

   “ Anh  em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh  em biết : các Thiên Thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng Thánh Nhan  Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” ( Mt 18:10)

Dịp khác, khi nói về sự sống của những ai được sống lại sau khi phải chết  trong thân xác con nhười, , Chúa cũng nói rõ : “ Quả thật, họ không thể chết nữa vì được ngang hàng với các Thiên Thần. Họ là  con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” ( Lc 20: 36)

Lần nữa, Chúa  cũng nói đến công việc  của các thiên thần như sau:

Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các Thiên Thần theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người.” ( Mt 25:31)

Các Thiên Thần cũng được gọi là các Thiên Sứ  (Heavenly Messengers) như  ta đọc thấy trong Thánh Vịnh sau đây:

       “ Chúc tụng Chúa đi , hởi muôn vì Thiên Sứ

        Bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người

          Luôn sẵn sàng  phụng lệnh.” ( Tv 103: 20)

Như thế rõ ràng cho thấy có các Thiên Thần hay Thiên Sứ ở trên trời. Họ là những  thực  thể thiêng liêng,  không có thân xác (spiritual non-corporeal beings) như loài người chúng ta.Họ đựơc tạo dựng cách hoàn hảo ngay từ đầu để thờ lậy, chúc tụng , ngợi khen Chúa trên Thiên Đàng.Họ.  không có thân xác,và không vướng mắc tội lỗi như con người. Nhưng  một số  -mà kẻ cầm đầu là Satan- đã nổi lên chống lại Thiên Chúa và “ Thiên Chúa sẽ không dung thứ cho các thiên thần có tội,  nhưng đã đẩy họ vào hố địa ngục tối tăm giữ họ để chờ cuộc phán xét.”( 2 Pr 2, 4)

. Khi phải thi hành mệnh lệnh hay sứ mạng nào của Thiên Chúa cho loài người,   thì các Thiên Thần cũng phải dùng những phương tiện “con người” để giúp con người hiểu sứ vụ của họ. Thí dụ, Sứ Thần Gabriel đã xuất hiện có thân xác và dùng ngôn ngữ loài người để truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria.(x Lc 1 :26-38)). Sau khi Chúa Giê su giáng sinh trong Hang bò lừa, các Thiên Thần cũng xuất hiện để báo tin cho các mục đồng biết và chỉ chỗ cho họ đến thờ  lậy Chúa Hái Đồng..Lại nữa,  Khi các Tông Đồ của Chúa Giêsu bị các thuợng tế Do Thái tống giam vào ngục thất, vì đã rao giảng tên Giêsu cho dân chúng, “ nhưng ban đêm các thiên sứ của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói : các ông hãy đi, vào đứng trong Đền Thờ mà nói cho dân chúng những lời ban sự sống. ( x. Cv 5:19-20)

Trong Giáo Hội, người ta thường minh hoạ các thiên thần với đôi cánh trên vai để “bay từ trời xuống”  (theo tưởng tượng của con người.).

II- Sự khác biệt giữa Thiên Thần, Các Thánh và con người:

  • Các Thánh là ai ?

Các thánh ( Saints) trước hết là những con người có hồn có xác, được sinh ra và sống  trên trần thế này và đều vướng mắc tội nguyên tổ (original sin) cũng như các tội cá nhân khác, trừ một mình Đức Trinh Nữ Maria, người  duy nhất được diễm phúc giữ gìn khỏi mọi tội lỗi từ phút đầu được thụ thai cho đến ngày về trời cả hồn xác.

.Thánh Gioan Tẩy Giả được tin là chỉ  mắc tội tổ tông trong 6 tháng  và được khỏi tội này khi Đức  Mẹ đến thăm viếng Bà Ê-li-sa-bét. đang mang thai Thánh nhân đã được sáu tháng.  Lúc đó.  “Bà Ê-li sa bét vừa nghe tiếng bà Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên , và bà được tràn đầy Thánh Thần” ( Lc 1:41).Từ sự kiện này, Giáo Hội tin Thánh Gioan Tẩy Giả chỉ mắc tội tổ tông có 6 tháng thôi.

 Những người phàm được nên thánh vì đã sống thánh thiện, đã thực tâm yêu mến Chúa và đã “ thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” ( Mt. 7: 21) trong suốt cuộc đời của họ trên trần thế này. Họ là những anh hùng  tử đạo, tức những người dám đổ  máu  ra để minh chứng lòng  yêu mến Chúa và trung thành với đức tin Công Giáo. Họ là những nhà truyền  giáo (missionaries).đã hy sinh đời mình cho sứ mạng  phúc  âm  hoá thế giới. Họ là các Tông Đồ lớn nhỏ của Chúa Kitô. Họ là các Tổ phụ  dân Do Thái, là các Ngôn sứ (prophets) , các Giáo Phụ ( Church  Fathers) và cũng là những tín hữu không tên tuổi , tức  là những người chồng, người vợ  đã  chu toàn bổn phận của mình trong mọi  gia đình nhân loại, và âm thầm sống đức tin, đức cậy và đức mến cách sâu đậm trong suốt cuộc đời tại thế.

Đức Mẹ và các Thánh nam nữ đang hưởng Thánh nhan Chúa trên Thiên Đàng và cũng đang hiệp thông với các tín hữu trên trần thế và các linh hồn thánh trong nơi luyện tội( Purgatory) qua lời cầu bầu (intercessions) của họ  trước Toà Chúa cho chúng ta và cho các linh hồn  còn đang ở nơi thanh luyện  cuối cùng  là  Luyện tội ( purgatory) trước khi được vào Thiên Đàng. ( Tín điều các Thánh thông công).

  • Con người:

Là những tạo vật có hồn có xác,.được dựng nên “ theo hình ảnh của Chúa” (St 1:26). Con người được ban cho có lý trí và ý muốn  tự do (free will) để hiểu biết và tự do chọn lựa cách sống trên trần thế , nên phải chịu trách nhiệm  hoàn toàn về những chọn lựa của mình.trước Thiên Chúa là Đấng công minh,đầy lòng  thương xót và thánh  thiện.  Chính vì con người có tự do , nên vấn đề thưởng phạt  chỉ được đặt ra cho riêng con người  mà thôi.

Nói khác đi, trong tất cả các tạo vật hữu hình, “ chỉ mình con người có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng sáng tạo ra mình.” ( x SGLGHCG số 356).

Là tạo vật có lý trí và ý muôn tự do ( free will), con người được  mời gọi nên thánh để  chia sẻ sự sống và hạnh phúc  của Thiên Chúa  cùng các Thánh và các Thiên Thần  ở trên Thiên Đàng , tức Vương Quốc tình yêu và an vui  đời đời  với Chúa...Vì con người có trí hiểu và tự do chọn lựa , nên  Thiên Chúa sẽ  phán đoán con người về những việc mình làm  trong thân xác  và trên trần thế này cho đến ngày linh hồn xa lìa thân xác  trong sự chết của  bản thân mỗi người..

,Ai cũng có thể nên thánh và phải nên thánh, nên hoàn thiện  “ như Cha anh  em trên trời là Đấng hoàn thiện ” như Chúa Giê su đã kêu gọi.( Mt 5: 48).. Lời  mời này dành cho  hết mọi người sinh ra trên trần thế này.Nhưng vấn đề đặt ra là liệu con người có đáp lại lời mời gọi này hay không, vì con người còn có tự do chọn lựa để ưng thuận hay  từ khước.

Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do đó của con người. Nghĩa là Ngài không ép buộc ai phải yêu mến Ngài và vào dự “ Tiệc cưới , cỗ bàn đã dọn sẵn”(x. Mt 22:4). Nếu ai từ khước  vào dự  Bàn Tiệc Nước Trời, tức là hưởng phúc Thiên Đàng,   thì họ đã tự chọn cho mình món ăn và  nơi cư ngụ khác sau khi chấm dứt cuộc sống trên trần thế này.

Tóm lại, các Thiên Thần khác với loài người ở điểm căn bản này: Thiên thần là tạo vật hoàn toàn thiêng liêng (spiritual)  trọn hảo và bất tử. Chức năng của các ngài là các Thiên  sứ( Heavenly Messengers) tức các Sứ giả thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa và hầu hạ Người trên Thiên Đàng. Các Thiên Thần cũng che chở, phù giúp  mỗi  người

chúng ta cách đặc biệt trong cuộc sống trên trần gian này. Đó là chức năng của các Thiên Thần bản mệnh( Guardian Angels),  có lễ kính ngày 2 tháng 10 hàng năm.

Các Thánh là những con người từng có hồn xác, tức là có cả tinh thần lẫn vật chất và đã trải qua cuộc sống con người trên trần thế này. Các ngài đã được cứu độ  và trở nên thánh , nên giống các Thiên Thần vì đã sống đẹp lòng Chúa ở trần gian này.

Như thế , mọi người chúng ta đều có hy vọng được cứu rỗi, trở thành  thánh và nên giống các Thiên Thần nếu chúng ta cùng quyết tâm noi gương các thánh nhất  là gương mẫu đức tin, đức cậy và  đức mến tuyệt vời  của  Mẹ  Maria, của Thánh Cả Giuse và của  các anh hùng tử đạo. Chúng ta cũng có thể nên thánh bằng những việc đơn sơ, nhỏ bé  nhưng  làm vì  lòng mến Chúa như Thánh nữ Tê-rê-xa Giêsu Hài Đồng hoặc yêu thương săn sóc những người nghèo khó, bênh tật, bị bỏ rơi ngoài đường phố như Mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta, đã được tôn phong hiển thánh ( saint).

Tóm lại, có được cứu rỗi và nên thánh hay không là tuỳ  thuộc tự do chọn lựa của mỗi cá nhân cộng tác với ơn thánh của Chúa trong suốt  cuộc sống trên trần thế này.. Nếu ta quyết tâm thì Chúa sẽ giúp sức nâng đỡ để đạt mục đích cứu độ.. Ngược lai, nếu ai cương quyết từ khước Thiên Chúa để sống theo ý muốn của minh, và làm những sự dữ ,sự tội,  như giết người, giết thai nhi, căm thù, gian ác, trộp cướp, dâm ô; cụ thể  ( theo tin báo chí cho biết)  một người  cha và ông nội  đã   hiếp dâm con, cháu  gái còn nhỏ bé,rồi bán nó cho bọn bất lương hành nghề ấu dâm ( child prostitution) rất khốn nạn và tội lỗi, hoặc   chồng giết vợ để lấy vợ khác,, hay  ngược lại, vợ giết chồng để lấy “kép nhí”, như thực trạng sống của biết bao con  người trong  các  xã hội ung thối vì vô luân, vô đạo, bất công bạo tàn, vô nhân đạo. . Những ai sống như vậy,  thì  Chúa  sẽ tôn trọng ý muốn tội lỗi này  của họ ,  và dĩ nhiên những  con người ấy  sẽ phài gánh chịu mọi hậu quả của tự do mình đã chọn.

Đó là lý do phải có Thiên Đàng dành cho những ai thành tâm yêu mến Chúa,  sống theo đường lối của Người,  và bước đi theo Chúa Kitô là “ Con Đường, là sự Thật và là sự Sống” ( Ga 14 : 6). Mặt khác, cũng  phải có hỏa ngục để dành cho những kẻ đã và đang  khước từ Thiên Chúa để  làm những sự dữ . sự tội mà không hề  biết sám hối, ăn năn  để xin tha thứ. Chúa không muốn phạt ai trong hỏa ngục ( Hell) là  nơi đáng sợ này, nhưng chính con người đã tự do chọn nơi này vì đã khước từ Thiên Chúa để sống theo theo những đòi hỏi bất chính của bản năng và đầu hàng ma  quỉ ,là kẻ thù của Thiên Chúa và là bạn rất thân thiết của những ai nghe theo lời dụ dỗ của chúng để chống lại Thiên Chúa bằng đời sống vô luân vô đạo   khi làm những sự dữ, sự tội khiến phải xa lìa Chúa vĩnh viễn trong nợi gọi là hỏa ngục.

Ước mong những giải thích trên đây thỏa mãn câu hỏi đặt ra.

Lm. Phanxicô Xaviê  Ngô Tôn Huấn.