SỐNG VÀ CHIA SẺ LC - THỨ BA CN1MV-A -

  •  
    Tinh Cao
    Dec 2 at 5:50 PM
     
     

    LẮNG NGHE Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I: Is 11: 1-10

    "Chúa lấy đức công bình mà xét xử người nghèo khó".

    Trích sách Tiên tri Isaia.

    Ngày ấy, từ gốc Giê-sê sẽ đâm ra một bông hoa.

    Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa.

    Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công bình mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở.

    Ngài sẽ dùng lời như gậy đánh người áp chế, và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác.

    Ngài lấy đức công bình làm dây thắt lưng và lấy sự trung tín làm đai lưng.

    Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy.

    Bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô, trẻ con còn măng sửa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc.

    Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta.

    Bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa như nước tràn đại dương.

    Ngày ấy gốc Giê-sê đứng lên như cờ hiệu cho muôn dân.

    Các dân sẽ khẩn cầu Ngài và mộ Ngài sẽ được vinh quang.

    Ðó là Lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 71,2, 7-8,12-13,17

    Ðáp: Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người.

    Xướng 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.

    2) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn, sẽ triển nở trong triều đại người, cho tới khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.

    3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu sống người cùng khổ. - Ðáp.

    4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.

     

    Alleluia: Tv 84,8

    Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng tôi, và ban ơn cứu rỗi cho chúng tôi. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 10: 21-24

    "Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần"

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ.

    Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế.

    Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự.

    Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!"

    Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe.

    Ðó là Lời Chúa.

     



     

    SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA

     

    Ngôi Lời nhập thể - Mạc khải Thần Linh

     

    Trong các mùa phụng vụ đặc biệt không phải là Mùa Thường Niên, chẳng hạn như Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, hay Mùa Chay và Mùa Phục Sinh, thường các Bài Phúc Âm không liên tục với nhau như Mùa Thường Niên, dù là Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hay Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh

    Hôm nay, Thứ Ba trong Tuần I Mùa Vọng, Giáo Hội lại chọn một bài Phúc Âm không phải bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu như hôm qua và tiếp hôm qua, mà là bài Phúc Âm của Thánh ký Luca, có một nội dung hoàn toàn khác hẳn với bài Phúc Âm hôm qua, nhưng vẫn theo đúng chủ đề chung của cả Mùa Vọng là "Lời hóa thành nhục thể". 

    Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta biết về thái độ và hành động của Chúa Kitô trong một lúc đột xuất đầy thần hứng của Người theo tác động của Thánh Thần, để thốt lên những lời hân hoan chúc tụng Cha của Người cùng những lời phấn khích các môn đệ của Người:

    Chúa Giêsu dâng lời chúc tụng Cha của Người"Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!"

    Chúa Giêsu phấn khích các môn đệ của Người: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe".

    Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao trong Mùa Vọng là thời điểm trông đợi Đấng Thiên Sai Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô Giáo Hội lại cho đọc những bài Phúc Âm hầu như chẳng liên hệ và dính dáng gì với chiều kích trông đợi và ngưỡng vọng Chúa Kitô đến lần thứ nhất? 

    Nếu bài Phúc Âm hôm qua về viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma được Giáo Hội cho đọc ngay đầu Mùa Vọng, như suy diễn, đã rất am hợp với tinh thần và chủ đề chung của Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể" thế nào, thì bài Phúc Âm hôm nay cũng thế, ý nghĩa sâu xa của lời Chúa vẫn liên hệ với Mùa Vọng như bài Phúc Âm hôm qua, nếu vẫn tiếp tục căn cứ vào chủ đề chính của cả Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể".

    Đúng thế, con người là loài tạo vật được Thiên Chúa dựng nên là để muôn đời hiệp thông thần linh với Ngài. Thế nhưng, muốn hiệp thông thần linh với "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24), con người cần phải nhận biết Ngài, một điều kiện duy nhất bất khả thiếu và bất khả châm chước. Tuy nhiên, theo bản tính hữu hình và hữu hạn, con người không thể nào có thể nào tự mình nhận biết Thiên Chúa như Ngài là, nếu không được chính Ngài tỏ ra cho biết. 

    Đó chính là lý do Chúa Giêsu đã dứt khoát khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!Định luật này thực sự là một điều rất hợp với chẳng những lý lẽ tự nhiên của con người mà còn chính đáng với ý muốn của Thiên Chúa nữa, như Chúa Giêsu cũng đã cho biết: "đó là ý Cha đã muốn thế".

    Có nghĩa là, mạc khải thần linh là một đặc ân, một tác động chính Thiên Chúa tự làm, chứ không phải do con người van xin mà có, do công lênh của con người mà được, và thậm chí cho dù Ngài đã tỏ mình ra cho con người, nhưng con người vẫn tự mình không thể hay khó có thể nhận biết Ngài nếu không được chính Ngài soi động cho biết, hay nếu không có chính Thần Linh của Ngài, như Chúa Giêsu cũng đã xác nhận trong cùng bài Phúc Âm hôm nay: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ".

    Vì mạc khải thần linh là một đặc ân như thế mà những ai được Thiên Chúa tỏ ra cho biết đều là những người diễm phúc, điển hình là thành phần môn đệ của Người, được Người nhắc nhở và phấn khích như phần cuối của bài Phúc Âm hôm nay: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe".

    Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay có nghĩa là gì: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy" đây là gì? Và những gì mà các môn đệ của Người được diễm phúc xem thấy đó, nhìn thấy đó, nghe thấy đó đã từng là đối tượng của những gì hết sức khát khao mong muốn mà không được của "nhiều tiên tri và vua chúa" trong Cựu Ước. Nếu không phải là chính Chúa Giêsu Kitô là tột đỉnh của mạc khải thần linh và là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa muốn tỏ ra cho loài người biết.

    Chúa Giêsu Kitô là tột đỉnh của mạc khải thần linh vì tất cả những gì Thiên Chúa tỏ mình ra trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái thời Cựu Ước đều được ứng nghiệm và nên trọn nơi Người là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), đúng như cảm nhận chí lý của Thư Do Thái ở ngay 2 câu đầu tiên của bức thư này: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử... Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa" (Do Thái 1:1-2)

    Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ là tột đỉnh mạc khải thần linh của Thiên Chúa mà còn là và nhất là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa nữa, bởi chỉ ở nơi duy một mình Người là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), là Đấng "hằng ở nơi Thiên Chúa" (Gioan 1:1,18) mới có thể biết Thiên Chúa mà "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) thôi, nhờ đó, "ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9).

    Mầu nhiệm và biến cố nhập thể thần linh trong lịch sử dân Do Thái và của nhân loại này của "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), như Tông Đồ Phêrô thay tông đồ đoàn tuyên xưng, của "Đức Kitô Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian" (Gioan 11:27), như Matta thay gia đình của chị và dân chúng bấy giờ tuyên xưng, đã được tiên báo từ ngay trong Cựu Ước, rõ ràng nhất là qua Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay: 

    "Ngày ấy, từ gốc Giê-sê (ám chỉ thân phụ của Vua Đavít) sẽ đâm ra một bông hoa. Trên bông hoa ấy (ám chỉ Chúa Giêsu Kitô, thuộc giòng dõi Đavít), thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa". 

    Và chính vì là Đấng Thiên Sai mà Chúa Giêsu Kitô mới tràn đầy "thần linh của Thiên Chúa", chứng tỏ Người thực sự là Con Thiên Chúa, được Thần Linh Chúa thánh hiến và tác động để sống trọn vẹn cho đến cùng tất cả những gì Thiên Chúa mun nơi Người cho phần rỗi muôn dân, như được Bài Đọc 1 tiếp tục cho biết về tinh thần và sứ vụ trần thế của Người:

    "Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công bình mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở. Ngài sẽ dùng lời như gậy đánh người áp chế, và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác. Ngài lấy đức công bình làm dây thắt lưng và lấy sự trung tín làm đai lưng".

    Nhờ thế, tức nhờ Người mà trần gian và nhân thế mới "đầy dẫy sự hiểu biết Chúa như nước tràn đại dương", đến độ, như Bài Đọc 1 diễn tả một thế giới tuyệt diệu tràn đầy thái hóa và bình an, hòa giải được hết mọi khác biệt và xung khắc:

    "Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô, trẻ con còn măng sửa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta".

    Bài Đáp Ca hôm nay cũng hướng về Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế theo chiều hướng của Bài Đọc 1 hôm nay, một Đấng Thiên Sai Cứu Thế là niềm hy vọng và là nguồn cứu độ của muôn dân và cho muôn dân, nhất là của và cho những ai yếu thế bất hạnh cần được giải thoát:

    1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh và phân xử người nghèo khó cách chính trực.

    2) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn, sẽ triển nở trong triều đại người, cho tới khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. 

    3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu sống người cùng khổ.

    4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.

     

     Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

    Thu.3.TuanI-MV.mp3  

    Xin nghe chia sẻ về Thánh Phanxicô Xavier ở cái link dưới đây:

     

    LeThanhPhanxicoXavier.mp3  

     

    image.png

     

    Lễ Thánh Phanxicô Xavier
    Quan thày các xứ truyền giáo như ở Việt Nam (lễ ở bậc lễ kính, chứ không phải lễ nhớ)
     
    Bài đọc 1
    1 Cr 9,16-19.22-23

     

    Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng !

    Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.

    16 Thưa anh em, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng ! 17 Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công ; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. 18 Vậy đâu là phần thưởng của tôi ? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi.

    19 Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. 22 Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. 23 Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.

    Đáp ca
    Tv 116,1.2 (Đ. Mc 16,15)

    Đ.Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng.

    1Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa,
    ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người !

    Đ.Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng.

    2Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
    lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.

    Đ.Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng.

    Tung hô Tin Mừng
    x. Mt 28,19a.20b

    Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ha-lê-lui-a.

    Tin Mừng
    Mc 16,15-20

     

    Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng.

    Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

    15 Khi ấy, Đức Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một và nói với các ông rằng : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin : nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”

    19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.

     

     

     

     Việt Nam, trong số các thánh Dòng Tên, thánh Phanxicô Xavier được các tín hữu yêu mến và tôn kính nhất. Ngài có đặt chân lên đất nước Con Rồng Cháu Tiên không? Chúng ta không dám chắc. Dầu sao, ngài cũng được Hội Thánh đặt làm Bổn mạng các xứ truyền giáo,trong đó có Việt Nam.

    Cũng như thánh I-nhã, thánh Phanxicô Xavier thuộc dân tộc ít người Basco sinh sống ở Tây Ban Nha. Ngài sinh năm 1506 trong một gia đình quyền quý. Năm 19 tuổi, ngài đến Paris học, với ý định tiến thân. Năm 23 tuổi, ngài gặp thánh I-nhã. Sau mấy năm, ngài được thụ phục và gia nhập nhóm bạn của thánh I-nhã. Năm 28 tuổi, ngài cùng với thánh I-nhã và các bạn khấn sống thanh bần và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài thụ phong linh mục tại Venezia, miền đông bắc nước Ý. Năm 35 tuổi, ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á, theo lệnh của Đức Thánh Cha Phaolô III. Từ Ấn Độ, ngài mở rộng hoạt động truyền giáo đếnMalaysia, Inđônêxia và Nhật Bản.

    Với thánh Phanxicô Xavier, Dòng Tên vươn mình đến Châu Á, vừa đạt đến đỉnh cao của sứ mạng loan báo Tin mừng.  Trong 10 năm truyền giáo, ngài vượt chừng 100 ngàn cây số đường biển, trên những con tàu buồm mong manh, để đến Ấn Độ, Malaysia, Inđônêxia, Nhật Bản, và qua đời trên đảo Thượng Xuyên, đang khi mơ ước vào Trung Hoa.

    Tại Ấn Độ, ngài tập trung nỗ lực quanh mũi Comorin, hồi sinh cả một giáo đoàn 20 ngàn tín hữu, và chỉ trong một tháng rửa tội đến 10 ngàn tân tòng. Tại Malaysia, ngài kiên nhẫn giải tội cho từng hối nhân, rửa tội cho từng tân tòng, nay một người, mai một người. Như một mục tử đi tìm chiên lạc, ngài đến các đảo xa lắc xa lơ của Inđônêxia để củng cố đức tin những người thổ dân sống rải rác trên rừng núi, đã được rửa tội nhưng không ai giúp đỡ. Tại Nhật Bản, ngài khởi đầu một cách khó khăn công cuộc rao giảng và gây dựng Hội Thánh. Nghĩ rằng nếu Trung Hoa gia nhập Hội Thánh, cả vùng Đông Á sẽ noi gương, ngài tìm đủ mọi cách để vào vùng đất này.

    Thánh Phanxicô Xavier được xem là một vị tông đồ táo bạo, nếu không muốn nói là liều lĩnh. Thật vậy, đường biển thời ấy luôn bị đe dọa vì bệnh dịch, bão tố và hải tặc, nhưng ngài tin tưởng nếu Chúa không cho phép, không có gì làm hại được ngài. Ở Ấn Độ, ngài phải đương đầu với thời tiết nóng như nung và những đoàn quân Badaga hung dữ; ở Malaysia, ngài phải ê chề với thái độ ngoan cố và trịch thượng của người đại diện chính quyền thực dân Bồ Đào Nha; ở Nhật Bản, ngài phải chịu đựng bão tuyết và con mắt nghi ngờ của các sứ quân. Đặc biệt lúc ấy hoàng đế Trung Hoa ra lệnh xử tử bất cứ người châu Âu nào đặt chân đến, nhưng bất chấp mọi sự, ngài khao khát làm sao để gặp được hoàng đế Trung Hoa. Lòng nhiệt thành với các linh hồn và lòng phó thác tuyệt đối nới Chúa đã giúp ngài làm được những điều không ai dám nghĩ tới.

    Chỗ dựa hữu hình của ngài là Dòng Tên. Ngài luôn cảm tạ Chúa vì đã cho ngài có những người anh em cùng chung lí tưởng, luôn xin anh em cầu nguyện và gửi thêm nhân sự đến tăng cường và tiếp tục công việc ngài đã khởi sự. Ngài gọi Dòng Tên là “Dòng yêu thương”, và luôn mong ước được gặp lại anh em, hoặc ở dưới đất hoặc ở trên trời.

    Mặc dầu rửa tội được chừng 100 ngàn người, củng cố được hàng trăm cộng đoàn tín hữu, ngài vẫn cảm thấy bị thiêu đốt vì đòi hỏi gay gắt của nhu cầu truyền giáo.  Ngài qua đời trên đảo Thượng Xuyên, ngoài khơi tỉnh Quảng Đông, ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ngài được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV tuyên thánh, cùng với thánh I-nhã, năm 1622, và được Hội Thánh đặt làm bổn mạng các xử truyền giáo.

     

    Sau đây là một đoạn văn nổi tiếng: Mời gọi các đại học được trích trong lá thư của Phanxicô Xavier gửi từ Nam Ấn cho các bạn đường ở Rôma, ngày 15.01.1544

    “Biết bao lâu tôi đã muốn đi đến các đại học ở Châu Âu, và nhất là đến Đại học Paris[1] để lớn tiếng kêu to, như một người đã mất trí, với những người vốn giàu kiến thức hơn là có lòng ước ao rút tỉa ích lợi từ  kho kiến thức ấy; và nếu họ đem cũng chừng ấy lòng nhiệt thành dành cho việc nghiên cứu để suy nghĩ về khoản nợ mà Thiên Chúa sẽ đòi họ phải trả về việc nghiên cứu này, cũng như những nén vàng nén bạc đã ban cho họ, thì ắt sẽ có khá đông người xúc động về điếu ấy, họ ắt sẽ sử dụng những phương tiện  và những việc thiêng liêng thích hợp để làm cho mình nhận biết và đi sâu vào thánh Ý Chúa, bày tỏ trong tâm hồn họ và ắt họ sẽ quy phục ý Chúa hơn là sở thích riêng mình mà nói rằng: Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn con làm gì?

    Nhưng tôi e rằng có nhiều người đang sôi kinh nẩu sử trong các đại học, cốt chỉ là để dành cho được một chỗ đứng thuận lợi, có lương bổng cao và chức tước. Họ đã chọn bậc sống mình như thế đấy, buông thả theo những tình cảm lệch lạc của mình.

     

     

     

     Tôi đã súy viết cho đại học Paris để nói cho họ biết rằng có hàng ngàn và hàng triệu người ngoại lẽ ra đã trở thành Ki-tô hữu nếu đã có thêm thợ gặt. Có cả một đám đông như thế trở lại với đức tin của Chúa Ki-tô trong xứ mà tôi đang sống đây, biết bao lần tay tôi mỏi mệt vì ban phép Rửa, và không còn hơi sức để nói vì đã đọc đi đọc lại quá nhiều lần kinh Tin Kính và Mười điều răn bằng thổ ngữ của họ, cũng như những kinh nguyện khác và một huấn dụ trong đó tôi cắt nghĩa cho họ hiểu thế nào là một Ki-tô hữu.”

    (tài liệu trên được lấy từ website của dòng tên ở Việt Nam)

    ***

     

    Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng

     

    Trích thư của thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, linh mục, gửi thánh I-nha-xi-ô.

    Chúng tôi đã tới nhiều làng tân tòng mới được chịu phép rửa cách đây ít năm. Người Bồ Đào Nha không ở các làng này vì đất đai xác xơ cằn cỗi. Vì không có linh mục nên các Ki-tô hữu bản xứ chẳng biết gì khác ngoài việc mình là Ki-tô hữu. Chẳng có ai cử hành bí tích cho họ, chẳng có ai dạy họ kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, chẳng có ai dạy họ biết các điều răn của Chúa.

    Từ khi đến đây, tôi chẳng ngưng lúc nào : tôi rảo khắp làng mạc, làm phép rửa cho nhiều trẻ em chưa được lãnh bí tích này. Tôi đã làm phép rửa cho một số rất đông các trẻ em chưa biết phân biệt bên phải với bên trái. Khi tôi đến các làng ấy, trẻ em không để cho tôi đọc kinh nhật tụng, ăn uống, ngủ nghỉ, nếu tôi chưa dạy cho chúng một kinh. Vì thế, tôi bắt đầu hiểu tại sao Nước Trời lại là của những người giống như chúng.

    Cũng vì không đang tâm từ khước một lời xin thánh thiện như vậy, tôi đã bắt đầu dạy chúng làm dấu thánh giá mà tuyên xưng niềm tin vào Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, rồi dạy chúng kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng. Tôi nhận thấy chúng rất thông minh. Và nếu có ai huấn luyện cho chúng về đạo lý Ki-tô giáo, tôi dám chắc chúng sẽ trở nên những Ki-tô hữu rất tốt lành.

    Tại các miền ấy, có nhiều người không được làm Ki-tô hữu chỉ vì không có ai làm cho họ trở thành Ki-tô hữu. Nhiều lần tôi đã có ý định đi tới các đại học ở châu Âu, trước hết là đại học Pa-ri, mà kêu gào khắp nơi như một kẻ mất trí và thúc đẩy những người chỉ nghiên cứu học thuyết hơn là thực hành bác ái rằng : Tiếc thay, chỉ vì lỗi các ông mà biết bao linh hồn thay vì lên thiên đàng lại phải xuống hoả ngục.

    Ước chi họ miệt mài với văn chương chữ nghĩa thế nào thì họ cũng miệt mài với công việc tông đồ này như vậy, để có thể trả lẽ với Thiên Chúa về học thuyết của họ cũng như các nén bạc đã được trao phó cho họ. Nhiều người trong họ được đánh động vì ý tưởng này. Nhờ suy gẫm những sự việc về Chúa, họ nghe được tiếng Chúa trong tâm hồn và từ bỏ các tham vọng cũng như công việc trần thế mà hoàn toàn vâng theo ý Chúa và lệnh truyền của Người. Họ thốt lên tự đáy lòng : Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn con làm gì ? Xin sai con đi bất cứ nơi nào tuỳ ý Chúa, cả Ấn-độ cũng được !

     

    (bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh, trong Phụng Vụ Giờ Kinh Sách Lễ Thánh Phanxicô Xavier, Bài Đọc 2)

     

     

     -----------------------------