BÁNH SỰ SỐNG LC - TĨNH CAO - THỨ HAI


  •  
    Tinh Cao
     

    Thứ Hai CN5MC-C

     

    BÁNH SỰ SỐNG Lời Chúa

                                                                         

    Bài Ðọc I: Ðn 13, 1-9. 15-17. 19-30. 33-62 (Bài dài)

    "Ðây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi".

    Trích sách Tiên tri Ðaniel.

    Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa, vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.

    Năm đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về những kẻ ấy rằng: "Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ lão, là những người xem ra như cai quản dân chúng". Các ông năng lui tới nhà ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Ðến trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ trong vườn của chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong vườn, thì phải lửa dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn muốn đưa mắt nhìn lên trời và không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.

    Hai ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm trước nữa, bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: "Hãy mang dầu và thuốc thơm cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm".

    Khi hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà Susanna và nói: "Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn".

    Bà Susanna thở dài và nói: "Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!" Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.

    Ngày hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna, hai vị kỳ lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: "Các người hãy đi tìm bà Susanna, con ông Helcia, vợ của ông Gioakim". Người ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.

    Khi hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà Susanna thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa. Hai vị kỳ lão nói: "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng". Dân chúng tin lời hai ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và là thẩm phán, nên họ lên án tử hình cho bà.

    Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".

    Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà này". Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa gì?" Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà".

    Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: "Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão". Ðaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho".

    Khi hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: "Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính". Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây chò". Ðaniel liền nói: "Ðúng là ông nói dối. Ðây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông". Ðaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Ðaniel nói với ông này rằng: "Hỡi dòng giống Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Ðaniel liền nói: "Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông".

    Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan.

    Ðó là lời Chúa.

     Hoặc đọc bài vắn này: Ðn 13, 41c-62 từ chỗ "họ lên án tử hình cho bà"

     

    Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

    Ðáp: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 5ab).

    Xướng: 1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

    2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

    3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

    4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

     

    Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b

    Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

     

    Phúc Âm: Ga 8, 1-11

    "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

    Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Image result for john 8, 1-11

     

    Suy niệm Năm A

     

    Phụng Vụ Lời Chúa cho Thứ Hai Tuần V Mùa Chay (cho những năm mà Chúa Nhật hôm trước không phải là Năm C). Nếu để ý về bố cục của các bài Phúc Âm cho ngày thường trong cả 2 tuần lễ cuối cùng của Mùa Chay, tuần 4 và tuần 5, chúng ta thấy Giáo Hội cố ý sắp xếp các bài Phúc Âm như thế này:

     

    1- Toàn là bài Phúc Âm theo Thánh Gioan, và hầu hết là các bài Phúc Âm cho thấy cuộc đụng độ càng ngày càng gay go quyết liệt giữa Chúa Giêsu và thành phần dân chúng nói chung nhất là thành phần trí thức và lãnh đạo Do Thái giáo nói riêng;

     

    2- Các bài Phúc Âm của Thánh Gioan được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày thường ở 2 tuần cuối Mùa Chay bao gồm 2 yếu tố chính yếu làm nên Thánh Kinh và việc linh ứng Thánh Linh, đó là mạc khải thần linh (nơi Chúa Kitô) và đức tin cứu rỗi (nơi dân Do Thái);

     

    3- Qua các bài Phúc Âm của Thánh Gioan ở 2 tuần cuối Mùa Chay này, chúng ta thấy tình trạng đụng độ quyết liệt giữa mạc khải thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai về chính căn tính của Người, liên quan đến nguồn gốc của Người, với đức tin của thành phần Do Thái giáo vốn tin có một Thiên Chúa chân thật duy nhất trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ;

     

    4- Cuộc đụng độ quyết liệt giữa mạc khải thần linh được nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai tỏ cho đức tin truyền thống của Do Thái giáo gay go kinh hoàng đến độ họ đã chẳng những không thể nào chấp nhận Người, mà còn ném đá Người và tìm cách sát hại Người;

     

    5- Và đó là lý do tột đỉnh của cuộc đụng độ sống còn giữa mạc khải thần linh (được tỏ ra nơi Con Thiên Chúa làm người) và đức tin tuân phục nơi con người (mà dân Do Thái đại diện) là ở Tuần Thánh, được mở ra với Chúa Nhật Lễ Lá, và kết thúc với Tam Nhật Thánh cũng gọi là Tam Nhật Vượt Qua của Chúa Kitô, Đấng khổ nạn tử giá và Phục Sinh vinh quang.

     

    Nếu theo dõi kỹ hơn nữa, chúng ta còn thấy Giáo Hội cố ý chọn đọc các bài Phúc Âm của Thánh Gioan cho 2 tuần cuối Mùa Chay ở ngày thường như thế này nữa, đó là bài Phúc Âm ở đầu mỗi tuần, bài Phúc Âm ở giữa mỗi tuần và bài Phúc Âm ở mỗi cuối tuần trong 2 tuần này.

     

    Nếu bài Phúc Âm ở mỗi đầu tuần (Thứ Hai và Thứ Ba - tuần 4; Thứ Hai - tuần 5) trong 2 tuần cuối này là một câu truyện (đều về ơn cứu độ, cả với dân ngoại vô thần lẫn Do Thái tật nguyền - tuần 4; và với tội nhân - tuần 5), liên quan đến các nhân vật bày tỏ đức tin trước mạc khải thần linh (về lòng thương xót) được nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét tỏ ra cho họ, bằng việc Người cụ thể làm cho họ (phép lạ về phần xác - tuần 4; và giải cứu về phần hồn - tuần 5),

     

    Thì bài Phúc Âm giữa mỗi tuần trong 2 tuần này toàn là chính lời Người nói về chính bản thân Người, về căn tính của Người, về nguồn gốc của Người, để rồi bài Phúc Âm ở cuối mỗi tuần (Thứ Bảy) cho thấy thành quả hay tác dụng của tất cả những gì Người đã mạc khải trong tuần (tình trạng chia rẽ chẳng những trong dân chúng mà còn cả hội đồng đầu mục Do Thái - tuần 4; chia rẽ chính nội bộ hội đồng đầu mục Do Thái, để đi đến quyết định tiên tri của vị thượng tế là một người chết thay cho toàn dân, một quyết định cuối cùng ngay trước khi tiến vào Tuần Thương Khó và Tam Nhật Vượt Qua).

     

    Riêng bài Phúc Âm cho Thứ Hai đầu tuần 5 Mùa Chay hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa cho chúng ta thấy trường hợp của 2 người phụ nữ liên quan đến tội ngoại tình:

     

    Trước hết là người phụ nữ ở trong Sách Tiên Tri Đaniên ở Bài Đọc 1, đó là một người vợ đẹp Suzanna, hoàn toàn bị oan ức, nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự đã giải thoát cho nàng khỏi bị chết oan, nhờ đó, qua chàng tiên tri thiếu niên Đaniên, Ngài đã tỏ mình ra cho những ai tham dự vào vụ án ngoại tình này nói chung, đặc biệt cho hai tay quan án bất lương gian dâm âm mưu hãm hiếp nàng bất thành nên vu oan cho nàng để giữ lấy danh dự và uy tín của mình, để họ tin vào Ngài hơn.

     

    Sau nữa là người phụ nữ ở trong bài Phúc Âm, người phụ nữ quả thực phạm tội ngoại tình và đã bị bắt quả tang. Nếu chị vô tội mà thành phần luật sĩ và biệt phái dám mang đến hỏi Chúa Giêsu là Đấng thấu suốt mọi sự thì Người đã chẳng khuyên riêng chị ở cuối bài Phúc Âm rằng "Chị hãy về và từ đây đừng phạm tội nữa". Tuy nhiên, trong khi họ gài bẫy bắt Người bằng con mồi phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình ấy, thì Người lại sử dụng chính gậy ông đập lưng ông.

     

    Ở chỗ, Người chẳng những không sa lưới của họ mà còn cứu họ, bằng cách Người chẳng những cứu cả hồn lẫn xác của nữ tội nhân ngoại tình mà còn cứu cả thành phần công chính tố cáo chị với Người nữa. Thật vậy, Người đã không bất đồng hay đồng tình ném đá chị trước vấn đề được họ đặt ra: đồng ý ném đá thì Người tác hành phản lại với lòng thương xót hằng có nơi Người và vẫn được Người tỏ ra qua các phép lạ Người làm; ngược lại Người cũng chẳng bảo đừng ném đá chị, bằng không Người đã xui họ làm một điều hoàn toàn trái với luật Moisen, như thể Người dung dưỡng tội nhân và chấp nhận tội lỗi. Đằng này, Người dùng chính tội lỗi của chị để mở mắt cho thành phần luật sĩ và biệt phái vốn tự hào mình công chính.

     

    Chỉ duy có một con người duy nhất bấy giờ đáng ném đá chị là Chúa Giêsu, Đấng vô tội, nhưng Người lại không ném đá chị, trái lại, còn tha thứ cho chị nữa, bởi vì Người có quyền tha tội, không phải do bởi Người là chính vị Thiên Chúa nhập thể, là Con Thiên Chúa, mà còn do Người cũng có tội, không phải vì tội Người đã phạm như ai, như bất cứ một con người phàm nhân mắc nguyên tội nào, mà vì Người là Đấng Cứu Thế, là chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian, đã chấp nhận tất cả mọi tội lỗi của con người, nhờ đó đã đến tội cho con người, theo lòng thương xót vô cùng nhân hậu của Người.

     

    Qua ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được Lòng Thương Xót Chúa vô cùng tuyệt vời, qua việc Chúa Kitô giải quyết vấn đề người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đáng bị ném đá chết. Vẫn biết bài Đáp Ca hôm nay am hợp với trường hợp của người vợ duyên sắc được Chúa cứu cho khỏi bị chết vì oan ức ở Bài Đọc 1 hôm nay, nhưng, ý nghĩa và tâm tình của những câu Thánh Vịnh 22 được Giáo Hội chọn đọc hôm nay, vẫn có thể áp dụng và rất thích đáng cho cả trường hợp của chị phụ nữ tội nhân đáng bị ném đá chết, lẫn thành phần công chính biệt phái cùng luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay.

    1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.

    2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.

    3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

    4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.

      

     

    (Trong năm C, khi bài Tin Mừng về ngươờ phụ nữ ngoại tình đã được đọc ở Chúa Nhật V hôm trước, thì hôm nay đọc bài Tin Mừng dưới đây:)

     

    Phúc Âm: Ga 8, 12-20

    "Ta là sự sáng thế gian".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

    Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".

    Những người biệt phái nói: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".

    Chúa Giêsu trả lời: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".

    Họ nói: "Cha của ông đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".

    Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến giờ Người.

    Ðó là lời Chúa.

     

     

    Suy niệm Năm C

     

        

    Nếu chính Chúa Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến

    thì Người không phải là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng Cứu Thế của nhân loại    

     

    Ngày Thứ Hai trong Tuần V Mùa Chay vẫn tiếp tục với bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, bài Phúc Âm chất chứa lời Chúa Giêsu tự làm chứng về Người.

    Nếu bài Phúc Âm tuần trước cả dân chúng lẫn thành phần lãnh đạo đều chia rẽ nhau về nguồn gốc của Chúa Kitô thì tuần này Người tự mình chính thức làm sáng tỏ nguồn gốc thần linh của Ngưòi. Nếu tuần trước Người nói Người không tự làm chứng về mình thì tuần này Người không thể không tự làm chứng về Người bởi không ai biết Người bằng chính Người.


    Thật vậy, tuần trước,
     các bài Phúc Âm nói chung theo Thánh ký Gioan, cách riêng bài Phúc Âm cho Thứ Năm của tuần trước ấy, Chúa Giêsu đã không tự chứng hay chưa tự làm chứng về Người: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà là minh chứng về mình bằng 3 chứng từ khác nhau liên quan đến bản thân và nguồn gốc của Người: 
     
    1- Chứng từ thần linh liên quan đến Cha là Đấng đã sai Người: "Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực"; 
     
    2- Chứng từ nhân loại liên quan đến Tiền Hô Gioan Tẩy Giả: "Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật"; 
     
    3- Chứng từ Thánh Kinh liên quan đến mạc khải thần linh: "Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống".


    Tuần này, ngay ở bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần, Chúa Giêsu bắt đầu chính thức và công khai tự làm chứng về Người và cho Người, vì tự Người và chính Người là "chân lý", là "sự thật" (Gioan 14:6), một chân lý tỏ mình ra như ánh sáng không thể nào không soi chiếu, nên ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay Người đã ngang nhiên và trịnh trọng tuyên bố: "với những người biệt phái rằng: 'Tôi là sự sáng thế gian. Ai theo Tôi sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".
     
    Tất nhiên, khi Người xưng mình ra như thế, đối với trần gian thì có vẻ như Người khoe khoang, ngạo mạn, nên một giòng điện dương khi chạm phải cùng một giòng điện dương chắc chắn không thể nào không tóe lửa, nghĩa là vì cho Người tỏ ra khoe khoang ngạo mạn như thế mà thành phần bản chất vốn khoe khoang ngạo mạn thính giả của Người bấy giờ là "những người biệt phái" đã không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố của Người: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".
     
    Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã biện minh cho việc Người tự làm chứng về Người và cho Người là những gì hoàn toàn chân thực và chính xác, qua chính câu Người trả lời cho thành phần không tin Người và không chấp nhận lời tuyên bố của Người: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".
     
    Thật vậy, nếu chính Chúa Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến thì Người không phải là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng Cứu Thế của nhân loại, mà chỉ là một trong thành phần con người thuần túy chúng ta, thành phần thuần nhân cho tới chết cũng chưa hoàn toàn biết mình, bởi thế vẫn liên tục sa ngã phạm tội là những gì sai lạc, không đúng sự thật về bản thân họ cũng như không đúng sự thật Thiên Chúa muốn nơi họ và cho họ, và chính vì thế họ chỉ được giải phóng cho đến khi họ nhận biết sự thật mà thôi (xem Gioan 8:32).
     
    Muốn biết mình thực sự là ai thì con người cần phải biết mình "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu", chứ không phải chỉ biết mình "từ đâu tới" song chẳng biết mình sẽ "đi đâu" là đủ biết mình một cách chân thực và chính xác. Chẳng hạn, theo đức tin của mình, Kitô hữu chúng ta tin rằng, về nguyên ủy, hay nguồn gốc, "từ đâu tới" chúng ta được dựng nên từ hư vô, bởi được Thiên Chúa yêu thương, nhưng trong cuộc sống, về cùng đích "đi đâu" là nơi chúng ta sẽ tới và cần phạt đạt tới, chúng ta lại sống như thể không có đời sau, không có Thiên Chúa, chỉ luôn tìm kiếm và theo đuổi những gì thuộc về hạ giới hợp với xác thịt của chúng ta hơn là Nước Trời và thay vì vĩnh phúc trường sinh bất diệt.
     
    Chúa Giêsu thật sự biết được Người "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu": Người từ Thiên Chúa mà tới, Đấng đã sai Người tới: "Thày từ Cha mà đến và đã đến trong thế gian(Gioan 16:28), và vì thế nơi Người "đi đâu" không còn chỗ nào khác ngoài chính nơi Cha của Người muốn Người tới, nghĩa là Người được sai đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, chứ không phải làm theo ý của Người, đúng như Người đã tuyên bố với người Do Thái: "Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai tôi" (Gioan 6:38). 
     
    Mà ý của Cha là nơi Người phải tới, mà Người phải làm theo và chu toàn đây là gì, chính Người cũng biết rõ ràng và chắc chắn Người mới có thể làm theo đúng và đáp ứng thật: "Ý muốn của Đấng đã sai Tôi đó là Tôi không được làm mất một sự gì Ngài đã ban cho Tôi, trái lại, Tôi phải làm cho nó sống lại trong ngày sau hết" (Gioan 6:39). 
     
    "Ngày sau hết", trong câu Chúa Giêsu nói đến ở đây, chúng ta thường hiểu về ngày tận thế, nhưng ở đây có thể hiểu là chính thời điểm của Người, một thời điểm "viên trọn" (Galata 4:4), thời điểm "sau hết" Thiên Chúa đã tỏ mình ra nơi chính Người là Con của Ngài theo giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái là lịch sử mà mạc khải thần linh đã được Thiên Chúa từ từ tỏ hiện cho đến tột đỉnh nơi Chúa Giêsu Kitô vào thời "sau hết" như Thánh Phaolô viết ở ngày đầu Thư Do Thái của thánh nhân (xem Do Thái 1:1-3).
     
    "Sống lại", cũng trong lời Chúa Giêsu nói ở đây, là "sống lạivào "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) tức là vào "ngày sau hết", một "sống lại" trước hết và trên hết về phần hồn của con người đã bị hư đi theo nguyên tội và từ nguyên tội, một "sống lại" bởi cuộc Vượt Qua của Người, khi Người tỏ hết mình ra để bằng cuộc phục sinh của mình, Người chẳng những chiến thắng tội lỗi và sự chết mà còn thông ban sự sống và Thánh Linh cho chung nhân loại qua Giáo Hội của Người mà đầu tiên ở nơi các tông đồ của Người (xem Gioan 20:21-23).


    Về nguồn gốc của Chúa Kitô, tức về xuất xứ của Người "từ đâu đến", đã trở thành sự kiện then chốt và đã từng làm cho dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo của họ nói riêng chia rẽ hết sức trầm trọng, như trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần vừa rồi cho thấy, thì về nơi "đi đâu" của Người hay về việc Người "đi đâu" lại càng là một mầu nhiệm vô cùng bí ẩn, họ làm sao biết được và cũng không thể nào biết được. 


    Cho dù Người có nói ra chăng nữa, như Người đã từng tiết lộ cho các môn đệ thân tín của Người ba lần, mà các vị vẫn "không thể nào đến được", hiểu được, đúng như Người đã quả quyết với các vị như đã quả quyết với dân Do Thái (xem Gioan 13:33), chứ chưa nói gì đến chuyện các vị có thể đến được nơi Người "đi đâu", cho đến khi Người đi dọn chỗ cho các vị trở về đón các vị đi với Người (xem Gioan 14:2-3). 


    Đó là lý do Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thành phần thính giả của Người biết lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người về chính bản thân Người là Đấng đã biết rõ về mình, "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", chỉ vì: 
     
    "Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".
     
    Trong câu này, Chúa Giêsu chẳng những cho thính giả của Người bấy giờ thấy được lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người là vì họ "xét đoán theo xác thịt" chứ không theo chân lý, mà còn cho họ thấy rằng chứng từ của Người là đúng, vì theo nguyên tắc thì chứng của hai người là chứng thật, và vì thế chứng từ của Người là xác thực bởi cả có 2 người làm chứng là chính bản thân Người lẫn Cha của Người là Đấng đã sai Người làm chứng cùng một điều về Người. 
     
    Và chính vì Chúa Giêsu nại đến Cha của Người là một trong hai người làm chứng về Người nên Người đã bị thành phần thính giả của Người thách thức đặt vấn đề: "Cha của ông đâu?", Đấng mà Người đến "để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) qua bản thân Người, đến độ "ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9), nên Người đã cho thành phần thính giả chất vấn Người về Cha của Người rằng: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".
     
    Bài Đọc 1 hôm nay được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên về câu chuyện của bà Suzanna công chính nhưng bị mang đi ném đá chết bởi bà bị kết án theo luật căn cứ vào chứng từ của 2 người chứng, một chứng từ gian dối nhưng hoàn toàn lấn át lời tự chứng của người phụ nữ nạn nhân đáng thương này, chẳng khác nào như Chúa Giêsu tự làm chứng cho mình mà chẳng ai tin vào Người vậy.
     
    Trước hết là lời chứng của hai nhân chứng, tức là của hai lão già đang giữ vai trò làm thẩm phán trong dân thường sử dụng ngôi nhà rộng rãi sang trọng của vợ chồng bà để xử các vụ kiện cáo của dân chúng, đã âm mưu chiếm hưởng thân xác kiều mỹ hấp dẫn của bà khi bà đang tắm kín đáo một mình trong vườn nhà của bà vào một buổi trưa nóng bức:
     
    "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng".
     
    Sau nữa là lời chứng của chính đương sự bị tố cáo là bà Suzanna, như Bài Đọc 1 cho biết, "bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa", và khi bị hai tên "thẩm phán kỳ lão" ở Babylon "phải lửa dục mê đắm... mất lương tâm" rình mò bà và bất ngờ tấn công tình dục bà, nhưng bà đã cương quyết chống trả bất chấp số mệnh ra sao thì ra


    "Bà Susanna thở dài và nói: 'Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!' Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà".
     
    Thế nhưng, chỉ cần căn cứ vào chứng của hai người, mà hai chứng nhân này lại là hai vị thẩm phán đáng kính có tuổi và có thế trong dân thì người vợ thủy chung với chồng và kính sợ Thiên Chúa chỉ có chết, đến độ dân chúng mù quáng cả tin cả nể chẳng cần nghe bà thanh minh gì cả đã "lên án tử hình cho bà"
     
    Khi bị lên án tử rồi, người đàn bà đáng kính đáng phục này chỉ còn biết kêu đến trời và phó thác mọi sự trong tay Ngài là Đấng bà kính sợ và tin tưởng, Đấng bà đã không sợ chết mà xúc phạm đến Ngài, nhất định không chịu chiều theo ý muốn nhục dục của hai lão già gian ác tồi bại, Đấng duy nhất có thể thấy được tất cả sự thật: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".
     
    Nếu bên đối phương tấn công bà có hai nhân chứng, và như Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay cũng có 2 nhân chứng về Người là chính bản thân Người và Cha của Người, thì người đàn bà nạn nhân vô tội bị oan ức này cũng có đủ 2 nhân chứng, đó là chính bản thân bà, vì bà biết bà hơn tất cả mọi người khác biết về bà, một sự thật về bà đúng như Thiên Chúa là nhân chứng thứ hai biết về bà. Bởi thế, Thiên Chúa cũng đã nhúng tay vào làm chứng về bà, như Bài Đọc 1 cho biết tiếp như sau:
     
    "Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: 'Còn tôi, tôi không vấy máu bà này'. Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: 'Lời mi nói có ý nghĩa gì?' Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: 'Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà'".
     
    Phải, Thiên Chúa đã sử dụng một trang thiếu niên trẻ trung đứng ra xét sử hai lão già thẩm phán trong dân, để chẳng những chứng tỏ cho dân của Ngài thấy rằng: 1- ai tin vào Ngài sẽ được Ngài chở che bênh đỡ, và 2- "bóng tối không thể nào át được ánh sáng" (Gioan 1:5): 
     
    "Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan".
     
    Không biết khi được Thiên Chúa minh oan cho, bà Suzanna đã cảm thấy ra sao, nhưng chắc chắn tâm can của bà đã trải qua một cảm nghiệm thần linh rất sâu xa lạ lùng: "Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương", và từ đó tấm lòng tri ân cảm tạ của bà đã trào dâng lên những tâm tình càng tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa hơn: "dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con", đúng như trong Bài Đáp Ca hôm nay:
     
    1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. 
     
    2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. 
     
    3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
     
    4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. 

     

     

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    MC.V-2ab.mp3 

    (Phúc Âm về người đàn bà ngoại tình, hợp với Bài Đọc 1 về bà Suzanna, hay cũng có thể đọc Phúc Âm như Năm C thay thế kh3i bị trùng với CN hôm trước)

    MC.TuanV-2c.mp3 

    (Phúc Âm về Chúa Kitô là Ánh Sáng thế gian, thay cho Phúc Âm người đàn bà ngoại tình đã được đọc Chúa Nhật MCV-C hôm qua)

     

     

     

    Thánh ISIDORO
    Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (+636)

     

    ĐTC Biển Đức XVI: Thánh Isidore of Seville

    Ngày 04-04 Thánh ISIDORO Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (+636) | Giáo Phận Bà  Rịa

     

     

    1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

    Thánh Isidore, quê tại Séville theo truyền khẩu, sinh khoảng năm 560 tại Andalousie (Tây Ban Nha) từ một gia đình gia giáo lành thánh: các anh em là hai giám mục Léandre và Fulgence, còn Florentine là chị gái. Người kế vị anh Léandre trên ngai giám mục thành Sévilla năm 601.

    Trong nhiệm kỳ giám mục khá lâu dài, người rao giảng chống lại những kẻ theo bè Ario và những người lạc giáo được gọi là nhóm “vô thủ lĩnh”. Họ không chấp nhận Đức Kitô có hai bản tính. Gần Sévilla, ngài thành lập một ngôi trường – sau này rất nổi tiếng – để đào tạo các linh mục và giáo dân; ngài cũng là giảng viên tại chính ngôi trường này. Tại Công đồng Tolède lần thứ IV năm 633, ngài yêu cầu Giáo Hội phải thành lập các trường tương tự: đó là nguồn gốc các trường của Hội Thánh và Đan Viện, xuất hiện trước khi có các đại học.

    Là một nhà văn lớn, một học giả uyên thâm về nền văn học ẩn sĩ Đông Phương và rất sùng mộ Origène, thánh nhân đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm, trong đó: tập Luận đề (Sentences) và ba quyển sách dọn đường cho các “Tổng Luận” thời Trung Cổ để trau dồi kiến thức lẫn tâm linh cho các linh mục, đan sĩ và giáo dân. Nhưng tuyệt tác phẩm của người vẫn là cuốn sách mang tựa đề tiếng La Tinh Etymologiae (dịch sang pháp ngữ: Étymologies sur l’origine de certaines choses– nguồn gốc các từ đầu ngành,): đó là một loại từ điển bách khoa (hai mươi quyển) bao gồm mỹ thuật, kỹ thuật, luật, y học, các khoa học tự nhiên, tôn giáo...

    Là sử gia (lịch sử dân Goths), là thi sĩ và nhà Phụng Vụ (bộ Sách Lễ và Kinh Nhật Tụng, được cho là của thánh nhân, là cốt lõi cho Phụng Vụ tương lai mozarabe); ngài còn là luật gia (Regula monachorum), nhà thần học và mục tử, nên ngài truyền bá truyền thống Công Giáo và chuyên cần tổ chức Hội Thánh. Năm 633, với tư cách là một vị chủ trì Công Đồng Quốc Gia lần thứ IV tại Tolède, ngài ấn định một nền Phụng Vụ thống nhất cho toàn Tây Ban Nha và miền Gaule narbonaise. Người ta cho rằng ngài soạn lời nguyện Adsumus đọc trong mọi Công Đồng.

    Isidore de Séville chiếm vị trí hàng đầu trong suốt thời Trung Cổ; vào thời này, các tác phẩm La Tinh của thánh nhân được nhiều người đọc và sao chép nhiều nhất. Đối với Bède Khả Kính (thế kỷ VIII), thánh nhân là tác giả được ưa chuộng nhất sau Thánh Kinh.

    Qua đời tại Séville năm 636, sau 25 năm làm giám mục và được tôn kính như một vị hiển thánh trong toàn cõi Phương Tây từ thế kỷ IX; ngài được Đức Giáo Hoàng Innocent XIII tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1722. Thi hài thánh nhân được sùng kính tại Léôn (Tây Ban Nha). Nghệ thuật ảnh tượng thường biểu hiện hình ảnh ngài cầm bút lông, với đàn ong vây quanh hay bên cạnh tổ ong.

    2. Thông điệp và tính thời sự

    Lời nguyện riêng biểu dương thánh Isidore làm bậc “tôn sư về linh đạo”, gợi lại tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh của ngài.

    a. sau khi là một người học sinh tầm thường, Isidore chuyên cần học tập, cống hiến cả đời mình để nghiên cứu và giảng dạy. Dưới mắt người đương thời, thánh nhân “phản ảnh kiến thức văn hóa La-Hi cổ xưa”. Ngài đóng vai trò quan trọng trong các thế kỷ về sau cho đến thời các nhà kinh viện nổi tiếng.

    Nhưng trên hết, Isidore là mục tử hơn là nhà nghiên cứu; kiến thức văn hóa uyên thâm của người chỉ phục vụ con người, Hội Thánh và Đức Tin. Phụng Vụ Thánh Lễ trình bày cho chúng ta dụ ngôn các nén bạc (Mt 25, 14-30) để nhấn mạnh tính chuyên cần học hỏi của thánh nhân nhằm phục vụ Hội Thánh và anh em hữu hiệu hơn.

    b. Bài đọc một trong Thánh Lễ (1 Cor 2, 1-10) tập trung vào lẽ khôn ngoan: Đó chính là lẽ khôn ngoan mà chúng ta loan báo... được tiền định cho những ai yêu mến Thiên Chúa.

    - Trong Hội Thánh Tây Ban Nha, nhiệm kỳ giám mục khá lâu dài của thánh Isidore dường như thể hiện lẽ Khôn Ngoan hằng thích thú “giao lưu với con cái loài người” (lời đáp trong các bài đọc Kinh Sách). Với tư cách là nhà văn, nhà thuyết giáo, và giảng dạy, ngài sáng lập các học viện để giáo huấn và đào tạo giới trẻ, thánh nhân đã định hướng mọi việc nhằm đạt được lẽ khôn ngoan đích thực. Ngài thường nhắc nhở: “Hãy yêu mến khôn ngoan, con sẽ được khôn ngoan tán dương ca tụng, nếu con cùng khôn ngoan gắn bó, khôn ngoan sẽ đem vinh dự lại cho con” Nhưng làm sao đạt được lẽ khôn ngoan ? Bài đọc - Kinh sách trích dẫn, một đoạn trong các luận đề của thánh Isidore: “Mọi sự tiến bộ điều do đọc Sách Thánh và suy niệm ... Không ai có thể biết được ý nghĩa Sách Thánh nếu không làm quen nhờ năng đọc”.

    - Lời cầu nguyện chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống Kitô hữu vì nhờ cầu nguyện chúng ta được thanh tẩy; nhờ đọc Sách Thánh, chúng ta được dạy dỗ.Vì thế “nếu làm được cả hai thì tốt, còn nếu không, thì cầu nguyện tốt hơn là đọc Sách Thánh. Ai muốn được luôn ở với Thiên Chúa phải năng cầu nguyện và năng đọc Sách Thánh nữa, bởi lẽ khi chúng ta cầu nguyện là chính chúng ta nói với Thiên Chúa, còn khi chúng ta đọc Sách Thánh thì Thiên Chúa nói với chúng ta” (các Bài Đọc - Kinh Sách).

    Enzo Lodi

    https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/04-04-thanh-isidoro-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-khoang-560-636-le-nho-tuy-chon/ 

     

    Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB

    Trong 76 năm cuộc đời của thánh Isiđorô là thời kỳ tranh chấp cũng như phát triển của Giáo hội Tây Ban Nha. Người Visigoth xâm lăng phần đất này trong một thế kỷ, và trước đó nửa thế kỷ trước khi thánh Isiđorô chào đời thì họ đã thiết lập một thủ đô khác cho chính họ. Ðó là những người theo Ariô – Họ cho rằng Ðức Kitô không phải là Thiên Chúa. Do đó, Tây Ban Nha bị chia làm đôi: Một dân tộc (người Công giáo La Mã) phải chiến đấu với dân tộc khác (người Gôtích Ariô). 

    Thánh Isiđorô là người hợp nhất Tây Ban Nha, giúp quốc gia này trở nên một trung tâm văn hóa và học thuật cũng như một khuôn mẫu cho các quốc gia Âu châu khác, mà các nền văn hóa ấy đang bị đe dọa bởi sự xâm lăng của những dân man di. 

    Có thể nói thánh Isiđorô sinh trong một gia đình thánh thiện của thế kỷ thứ sáu ở Tây Ban Nha. Hai người anh của ngài, Leander và Fulgentius, và người chị, Florentina, đều là các thánh được sùng kính ở Tây Ban Nha. Ðây cũng là một gia đình lãnh đạo và tài giỏi với các vị Leander và Fulgentius đều làm Giám mục và Florentina làm mẹ bề trên. 

    Là một người tài giỏi về học thuật, đôi khi thánh Isiđorô được gọi là “Sư phụ của thời Trung cổ” vì cuốn bách khoa ngài viết, tên là “Etymology” (Từ nguyên học), đã được dùng như sách giáo khoa trong chín thế kỷ. Ngài còn viết các sách về văn phạm, thiên văn, địa lý, sử ký, và tiểu sử cũng như thần học. 

    Kế vị anh mình là Ðức Leander, Isiđorô làm Giám mục Seville trong 37 năm, ngài đặt ra các mẫu mực cho một chính quyền đại nghị ở Âu châu [tức chính quyền có Quốc hội Lập pháp là đại diện của nhân dân], đồng thời ngài tẩy chay các quyết định độc đoán và chủ trì các công đồng quốc gia (national coumcil) để thảo luận về đường hướng của Giáo hội Tây Ban Nha. Ngài yêu cầu mỗi một giáo phận đều phải có chủng viện, ngài viết quy luật cho các dòng tu và thành lập các môn học thuộc đủ mọi ngành. Thánh Isiđorô viết rất nhiều sách, kể cả một cuốn tự điển, một bộ bách khoa, một cuốn sử người Gôtích và một cuốn sử thế giới bắt đầu từ khi Thiên Chúa tạo thành trời đất! Ngài hoàn thành bộ phụng tự Mozarabic mà ngày nay vẫn còn được sử dụng ở Toledo, Tây Ban Nha.  

    Ý thức rất rõ là sự phồn thịnh thiêng liêng và vật chất của quốc gia lệ thuộc hoàn toàn vào việc hấp thụ và liên kết các yếu tố ngoại lai, thánh Hisidorô đã thành công trong việc kết lại  toàn thể đám dân chúng hỗn tạp thành một đất nước thuần nhất tạo thành vương quốc Gôtích Tây Ban Nha. Ngài đã biết sử dụng các tiềm năng tôn giáo và giáo dục để đạt đến mục tiêu này. Ngài đã hoàn toàn thành công. Chủ nghĩa Ariô là hình thức Kitô giáo nguyên thủy giữa những người Visigoth là thành phần lãnh đạo Tây Ban Nha xuất phát từ cuộc xâm nhập Visigoth từ Đức vào Âu châu xưa, đã hoàn toàn biến mất, nhường chỗ cho một Kitô giáo chính thống. Các tà giáo khác cũng bị dập tắt ngay khi vừa mới được thai nghén. Kỷ luật tôn giáo được củng cố khắp nơi. Ngay khi 80 tuổi, ngài vẫn sống khắc khổ. Trong sáu tháng sau cùng của cuộc đời, ngài gia tăng lòng bác ái đến độ, từ sáng đến tối, nhà của ngài lúc nào cũng đầy người nghèo. Ngài từ trần năm 636 và được Giáo hội tuyên xưng là Tiến sĩ Hội Thánh. 

    http://loichua.donboscoviet.org/ngay-4-thang-4-thanh-isidoro/

     

    Thánh Isidorô được coi như vị thánh tiến sĩ lừng danh nhất của Giáo hội Tây Ban Nha. Ngài chào đời tại Carthagena trong một gia đình thật đặc sắc, có cha mẹ đạo đức và và cả bốn anh em đều được tôn phong lên hàng hiển thánh . Các anh Ngài là hai thánh giám mục Leanger và Fulgentio. Chị Ngài là thánh nữ Florentina. Như vậy thánh Isidôrô thật có phúc vì được sinh ra sống giữa các vị thánh.

    Cha mẹ mất sớm, người anh cả lãnh nhiệm vụ hướng dẫn đứa em út Isidorô. Một bức thư của thánh Leander viết cho em gái là thánh Florentina làm chứng điều đó: – “Anh xin em hãy nhớ đến anh trong kinh nguyện và đừng quên chú út Isidorô. Cha mẹ đã ký thác em cho chúng ta và đã trở về với Chúa mà không phải e sợ gì, bởi vì các Ngài đã trao cho em một người chị và hai người anh săn sóc”.

    Dù rất thương em. Nhưng Leander đã phải dùng biện pháp mạnh là cây roi để sửa trị tính nhu nhược của đứa em biếng nhác. Một lần kia vì sợ đòn và chán học, Isidorô đã bỏ nhà trốn đi. Cậu chạy nước rút mau hết sức cho tới khi ngã quỵ bên một bờ giếng. Mơ màng trong lúc lấy hơi, cậu nhìn thấy vách đá bên thành giếng có một đường rãnh. Một phụ nữ đến kín nước giải thích cho cậu biết rằng, đá cứng đến đâu đi nữa nhưng sợ giây thừng cọ sát liên tục cũng soi mòn được. Hiện tượng này khiến cậu phải suy nghĩ: “Với thời gian sợi giây thừng và những giọt nước đẽo được cả đá, còn tôi lại không thể học hành để gọt giũa tâm hơn sao ?”

    Thật là một bài học lạ lùng đối với Isidorô. Ngài lấy lại can đảm bắt tay và làm việc không còn biết mệt mỏi. Nỗ lực không ngừng đã biến Ngài thành nhà thông thái nhất thời đó. Còn thanh xuân, Ngài đã thông hiểu triết học, đã nghiên cứu các tác phẩm về luật. Nhà chép sử Arevalo đã phải thán phục ghi nhận nói Ngài một sự cao siêu như Platon, sự thông hiểu của Aristote, tài hùng biện của Cicéron, sự uyên bác của Origenê, sự thận trọng của thánh Hiêronimô, giáo thuyết của thánh Augustinô và sự thánh thiện của thánh Gregoriô. Người ta còn nói rằng khi đọc một bức thư của Isidorô, thánh Grêgoriô đã thốt lên lời đầy tính chất tiên tri: – “Đây là một tiên tri Daniel, một người còn trổi vượt hơn cả Salomon”.

    Isidorô thụ phong linh mục và theo anh là Leander đang làm giám mục Seville, tham dự các công đồng. Dầu có cuộc bách hại của nhà vua theo phái Ariô và đã trục xuất hai anh của Ngài, thánh nhân vẫn công khai chống lại lạc giáo. Ngài đã thay anh cai quản giáo phận lúc người anh bị lưu đày. Năm 600, khi Đức Cha Leander từ trần, Ngài đã được cử lên kế vị. Đức giáo hoàng Grêgoriô cả còn đặt Ngài làm vị tổng đại diện cho mình ở Tây Ban Nha.

    Dầu không bao giờ là tu sĩ, thánh Isidorô đã viết một bộ luật dòng tu. Ngài giải thích, khai triển và hệ thống hoá phung vụ Mozarabic. Ngài nỗ lực tiêu diệt tàn tích của phái Ariô, và đánh bại lạc thuyết của Acephali, một ngành của lạc giáo Nhất tính thuyết ở Tây Ban Nha. Hơn nữa thánh nhân còn lập nhiều trường học để giáo dục con dân của Ngài. Có ảnh hưởng lớn tại triều đình, Ngài cũng giữ phần sáng chói trong cộng đồng Toleđô năm 610, chủ tọa công đồng Seville II năm 618 hay 619 và công đồng Tôleđo IV năm 633.

    Nhưng trách vụ của Đức giám mục không ngăn cản công việc trước tác phong phú của thánh Isidorô. Ngài đã viết một từ điển các tiếng đồng âm, một khảo luận về thiên văn địa lý, tiểu sử của các vĩ nhân và các nhân vật trong thánh kinh, một cuốn lịch sử xứ Goth. Tác phẩm ảnh hưởng nhất của Ngài là Bộ bách Khoa từ điển ETYMOLOGIES tóm lược những hiểu biết của thời đại Ngài.

    Sau 36 năm nhọc mệt trong chức giám mục, thánh Isidorô phải chịu đựng mọi yếu đau của tuổi già. Bệnh tật có thể nghiền nát thân xác, nhưng lại không thể làm giảm thiểu được nhiệt tâm của Ngài. Trong sáu tháng cuối đời, Ngài tăng thêm việc bác ái đến nỗi một đoàn dân nghèo đến với Ngài tấp nập từ sáng đến chiều và cuối cùng chính Ngài cũng lâm cảnh nghèo túng. Biết rằng sắp kết thúc được đời Ngài mời hai giám mục phụ tá đến thăm, Ngài theo họ tới nhà thờ. Ơ đó một vị giám mục mặc áo nhặm cho Ngài, một vị giám mục bỏ tro lên đầu Ngài. Giơ tay lên trời Ngài lớn tiếng xin Chúa thứ tha tội lỗi, rước lễ. Xin mọi người cầu nguyện cho, khuyên nhủ dân chúng sống bác ái, phân phát hết tiền của còn lại. Trở về nhà, Ngài qua đời trong an bình của Chúa ngày 04 tháng 04 năm 636.

    Theo lời yêu cầu của thánh nhân, thi hài Ngài được mai táng với thánh Leander và Florentina. Nhưng về sau Vua Ferdinand di chuyển hài cốt về Leon. Đức Giáo hoàng Benedictô XV tôn phong thánh Isidorô lên hàng Tiến sĩ Hội Thánh.

    Nguồn: gxdaminh.net

    https://www.giaophanbaria.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/2017/04/03/ngay-04-04-thanh-isidoro-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-636.html