4. Bánh Sự Sống

BÁNH SỰ SỐNG LC- TĨNH CAO - THƯ TƯ

  •  
    Tinh Cao
    Tue, Mar 8 at 1:47 PM
     
     

    Thứ Tư

     

    Lời Chúa LÀ BÁNH SỰ SỐNG

     

    Bài Ðọc I: Gn 3, 1-10

    "Dân thành Ninivê đã bỏ đàng tội lỗi".

    Trích sách Tiên tri Giona.

    Lời Chúa phán cùng Giona rằng: "Hãy chỗi dậy và đi đến Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi". Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn, rộng bằng ba ngày đàng. Giona tiến vào thành phố, đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ". Dân thành tin tưởng nơi Chúa; họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ.

    Vua thành Ninivê nghe điều đó, liền bỏ ngai vàng, cởi áo cẩm bào, mặc áo nhặm và ngồi trên đống tro. Trong thành Ninivê, người ta rao sắc lệnh sau đây của nhà vua và các vương hầu: "Người, vật, bò, chiên, không được nếm, không được ăn uống gì hết; người và vật phải mặc áo nhặm, phải kêu to lên cùng Chúa và phải cải thiện đời sống, phải bỏ đàng tội lỗi và những điều bất chính đã phạm. Biết đâu Chúa sẽ đổi ý thứ tha, nguôi giận và chúng ta khỏi chết?" Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa đổi ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó.

    Ðó là lời Chúa.

    Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 12-13. 18-19

    Ðáp: Lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung (c. 19).

    Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

    2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

    3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. - Ðáp.

     

    Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b

    Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".

    Phúc Âm: Lc 11, 29-32

    "Không ban cho dòng giống này điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: "Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona. Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa".

    Ðó là lời Chúa.

     

     

     

    Suy niệm

     

     

     Sự Sống dấu lạ    

     

    Hôm nay, Thứ Tư trong Tuần 1 Mùa Chay, đề tài cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, là "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17), được phản ảnh nơi "điềm lạ về tiên tri Giona" trong bài Phúc Âm trong ngày này.

    Thật vậy, "điềm lạ về tiên tri Giona" được Chúa Giêsu nói đến khi Người "thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại" đây ám chỉ cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc "vượt qua từ sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24), từ tử giá đến phục sinh cho phần rỗi các linh hồn. Chính Chúa Giêsu cũng đã công nhận "điềm lạ về tiên tri Giona" này ám chỉ về Người trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau:

    "Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona. Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa".

    Và Bài Đọc 1 được trích từ chính Sách Tiên Tri Giona đã thuật lại "điềm lạ về tiên tri Giona" thứ tự như thế này. 

    Trước hết, vị tiên tri đây được lệnh Thiên Chúa sai đến Thành Ninivê để rao giảng thống hối cho thành này"Hãy chỗi dậy và đi đến Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi". Vậy điều vị tiên tri này được Thiên Chúa bảo "sẽ nói cho người biết" đây là gì, xin đọc tiếp...

    Sau nữa, vị tiên tri này đã làm theo đúng như lệnh truyền của Thiên Chúa: "Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn, rộng bằng ba ngày đàng. Giona tiến vào thành phố, đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: 'Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá hủy'". 

    Đó, điều vị tiên tri này được Thiên Chúa bảo đó là cảnh báo cho dân thành này về hình phạt họ sẽ phải chịu trong vòng 40 ngày nữa nếu họ không biết ăn năn thống hối? Vậy trước lời cảnh báo nghiêm trọng đầy nguy biến ấy họ có đáp ứng hay chăng? Xin hãy theo dõi tiếp...

    Sau hết, toàn thể thành Ninive, từ vua tới dân đều mau mắn tích cực đáp ứng một cách chân thành không thể nào ngờ được lại có thể xẩy ra như thế nơi thành phần dân ngoại, ở chỗ, họ chẳng hề biết đến vị tiên tri này là ai, có đáng tin hay chăng, trong khi đó vấn đề từ bỏ con đường tội lỗi rất ư là khó khăn, đâu phải là chuyện dễ, một sớm một chiều, hay overnight là xong, nhất là hiện tượng từ bỏ tội lỗi một cách tập thể và đồng lòng với nhau như họ đã thực hiện, lại càng không thể nào xẩy ra được như chuyện lạ bốn phương, không tin cũng phải tin, một chuyện hoàn toàn thần tiên đã thật sự xẩy ra theo trình thuật của Bài Đọc 1 hôm nay:

    "Vua thành Ninivê nghe điều đó, liền bỏ ngai vàng, cởi áo cẩm bào, mặc áo nhặm và ngồi trên đống tro. Trong thành Ninivê, người ta rao sắc lệnh sau đây của nhà vua và các vương hầu: 'Người, vật, bò, chiên, không được nếm, không được ăn uống gì hết; người và vật phải mặc áo nhặm, phải kêu to lên cùng Chúa và phải cải thiện đời sống, phải bỏ đàng tội lỗi và những điều bất chính đã phạm. Biết đâu Chúa sẽ đổi ý thứ tha, nguôi giận và chúng ta khỏi chết?'" 

    Phải, cái lạ là ở chỗ đó, ở chỗ vị tiên tri "Giona" hoàn toàn là một con người xa lạ đối với dân thành Ninive ấy, nhưng lại "đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê", như chính Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nayỞ chỗ, qua lời cảnh báo của vị tiên tri này, "dân thành tin tưởng nơi Chúa; họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ", nhờ thế mà "Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa đổi ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó".

    "Điềm lạ về tiên tri Giona" là ở chỗ đấy, chứ không phải ở chỗ vị tiên tri đây ban đầu bất tuân lệnh Chúa, tìm hết cách trốn tránh sứ vụ rao giảng cho dân mà ông được Thiên Chúa sai đến, nhưng ông vẫn không thể nào thoát được lưới trời lồng lộng, vẫn bị Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan quan phòng hết mọi sự theo ý định bất biến của Ngài chặn bắt bằng một cơn bão tố, để rồi sau đó ông bị đám thủy thủy trên tầu với ông bất đắc dĩ vứt xuống biển, nơi ông bị cá mập nuốt vào bụng 3 ngày 3 đêm mới nhả ông ra trên bờ biển (xem Giona đoạn 1 và 2).

    Sở dĩ trong Bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu nhắc đến Tiên Tri Giona là vì dân Do Thái nói chung và thành phần "dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại" chung quanh Người bấy giờ nói riêng, cứ đòi phải thấy một điềm lạ nào đó từ Người mới tin vào Người, nhưng Người đã vừa trách móc họ thiếu lòng tin lại đồng thời cũng hứa chiều lòng họ như sau: "Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona". 

    Điều Chúa Giêsu hứa với chung dân Do Thái qua thành phần đám đông đang ở với Người bấy giờ đó là lời hứa liên quan đến chính bản thân Người, ở chỗ, như Người đã cho họ biết rõ thêm như sau: "Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy". 

    Có nghĩa là cho dù dân thành Ninive vẫn tỏ ra ăn năn thống hối sau khi nghe lời cảnh báo của một nhân vật lạ hoắc là tiên tri Giona, không cần phải cứ thấy điềm lạ mới chịu tin như dân Do Thái, một dân tộc có một bản chất cố hữu bất khả thiếu và bất khả thay đổi của họ đó là thích điềm lạ và cái gì cũng căn cứ vào điềm lạ, hoàn toàn ngược với dân Hy Lạp thiên về lý trí và triết học, vì điềm lạ đối với dân Do Thái như là dấu chỉ thần linh, dấu chỉ thần hiển của Thiên Chúa, dấu chỉ chắc chắn nhất và bảo đảm nhất cho niềm tin tưởng siêu nhiên của họ.

    Tuy nhiên, Vị Thiên Chúa hóa thân làm người còn tiếp tục hội nhập văn hóa với loài người, với từng dân tộc, để tỏ mình ra cho họ, nhờ đó giúp cho họ có thể dễ dàng tin tưởng vào Người mà được cứu độ. Bằng không, họ sẽ bị trừng phạt xứng với tội lỗi của họ bởi họ không tin tưởng vào một Đấng còn cao trọng hơn cả Giona nữa, như Người cảnh báo họ trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa". Dân Thành Ninive "tố cáo và lên án dòng giống" Do Thái là dân của Chúa ở chỗ họ là dân ngoại mà tin vào vị tiên tri Do Thái và đáp ứng lời đe dọa của Chúa qua vị này trong việc hết lòng và hết mình ăn năn thống hối, trong khi dân Do Thái lại không lắng nghe và đáp ứng chính Đấng Thiên Sai của họ.

    Đúng thế, "Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy". Ở chỗ nào? Ở chỗ, cho dù họ không chịu tin vào Người cho đến khi thấy được một điềm lạ nào đó từ Người, mà Người vẫn có thể làm cho họ tin vào Người, khi chính Người trở nên điềm lạ cho họ. 

    Điềm lạ về Chúa Giêsu Kitô cho giòng dõi gian ác này đây phải chăng là như thế này: cho dù Người có thể xuống khỏi thập giá nhưng Người vẫn không làm, trái lại, "tuy là con, nhưng Người đã biết tuân phục nơi những gì phải chịu để khi hoàn thành Người trở nên căn nguyên cứu độ cho tất cả những ai tín phục Người" (Do Thái 5:8-9).

    Bởi vì, theo Người, chỉ còn một cách duy nhất đó thôi mới chứng thực Người là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái, Đấng được Cha là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ sai đến để giải thoát họ, không phải khỏi quyền lực chính trị mà khỏi quyền lực tội lỗi và sự chết. Đó là lý do Người đã khẳng định về bản thân Người là điềm lạ cho dân của Người như sau: "Khi nào quí vị treo Con Người lên, quí vị sẽ nhận ra Tôi là ai và biết rằng Tôi không tự ý làm gì hết" (Gioan 8:28). Kitô hữu nào chấp nhận "điềm lạ Giona" nơi Chúa Kitô thì như Chúa Kitô, họ cũng sẽ trở thành "điềm lạ" cho những ai chưa nhận biết Người, bằng các chứng từ thần linh siêu việt của họ, vượt trên bản tính tự nhiên thấp hèn, nhất là đối với thành phần tha nhân xúc phạm đến họ mà họ vẫn tha thứ và yêu thương, như Chúa Kitô truyền dạy và làm gương.

    Nếu lời giảng tiên khởi của Chúa Giêsu khi Người mới bắt đầu xuất thân tỏ mình ra là "Triều đại Thiên Chúa đã đến. Hãy hoán cải và tin vào phúc âm" (Marco 1:15), thì việc Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân Do Thái như là "Triều đại Thiên Chúa đã đến", đến như một điềm lạ trên thập tự giá, nhờ đó họ "hoán cải và tin vào Người", hay tin vào Người mà hoán cải cũng thế. 

    Bởi vậy, tác dụng đầu tiên của việc tỏ mình ra của Chúa Kitô cho dân Do Thái như một điềm lạ đó là làm cho họ thống hối ăn năn như dân Thánh Ninive về tội lỗi của họ bằng tất cả tâm hồn của họ. Và việc tỏ mình ra của Chúa Kitô như một điềm lạ trên thập tự giá là tác động Người "tự bỏ sự sống mình đi" nhưng Người đã "lấy nó lại" ở chỗ đã làm cho sự sống đó phát sinh nơi những ai "tín phục" Người, như tâm tình của Bài Đáp Ca sau đây bày tỏ:

    1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. 

    2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. 

    3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. 

     
     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    MC.Tuan1-4.mp3

     

     

    Ngày 09: Thánh Phanxica Rômana, quả phụ nữ tu

     

     

    1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

    Thánh nữ Francoise (Francesca di Bussi di Leoni) được gọi là người Rôma hay là người “rất Rôma trong số các vị thánh”, chỉ vì Bà được sinh ra trong một gia đình quí tộc Rôma và sống suốt đời tại đây, vào lúc Giáo Hội Đông Phương ly khai khỏi Giáo Hội Tây Phương (1378-1417) và bệnh dịch tàn phá thành phố vào năm 1413-1414.

    Được rửa tội và thêm sức tại đại thánh đường Saint-Agnès, kết hôn vào lúc 13 tuổi với quận công Lorenzo Ponziani, có được 3 người con. Francoise sống với chồng 37 năm, cho đến lúc ông qua đời. Bà thật là một mẫu gương làm vợ và làm mẹ.

    Dù rất tất bật trong gia đình, Francoise cùng với chị dâu và cũng là bạn Vanozza, thích cầu nguyện, thực hành sám hối, viếng nhà thờ và các nhà thương, để chăm sóc người nghèo và bệnh nhân. Theo Hạnh thánh, Bà luôn làm sự lành để đối lại sự ác, luôn tạo việc thiện cho những người nói xấu, phê bình và chăm chít đời sống của Bà.

    Khi chồng qua đời, Francoise bỏ lâu đài Transtévère để chia sẻ đời sống với các Người “Tận hiến cho Đức Maria – Oblates de Marie” mà Bà tập họp lại, theo luật Dòng thánh Bênêđicto, trong nhà Tor de’ Specchi tại Rôma. Các Bà đạo đức này sống cuộc đời khổ hạnh và phục vụ các công việc bác ái.

    Được Thiên Chúa ban cho nhiều hồng ân đặc biệt, ngất trí và thị kiến, Francoise sống rất mật thiết với Thiên thần giữ mình của Bà. Bà qua đời ngày 09.03.1440 khi đến nhà người con Battista đang đau. Những lời cuối cùng Bà nói với những người con tinh thần của Bà: “Hãy trung thành cho đến lúc chết. Satan sẽ tấn công các chị cũng như đã tấn công tôi, nhưng không có thử thách nào dữ tợn cả, nếu chúng ta trung thành với Chúa Kitô”.

    Được phong thánh vào năm 1608, Bà được chọn làm thánh quan thầy của các Bà đã lập gia đình, các Bà goá và các người lái xe. Mỹ thuật trình bày Bà cùng với Thiên thần giữ mình và mang một thúng thực phẩm.

    2. Thông điệp và tính thời sự

    Người Rôma rất kính trọng thánh nữ Francoise vì đã có “một đời sống gương mẫu trong hôn nhân, sau đó là đời sống của một nữ tu”; vì thế chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta theo gương thánh nữ Francoise, trung thành phục vụ “trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống”.

    a. Trong đời sống hôn nhân và gia đình, Francoise đã biết những thử thách: cái chết của 2 người con còn nhỏ, lâu đài bị cướp phá và mất của cải, chồng bị thương nặng và bị lưu đày, con trai bị bắt làm con tin...Dù vậy, Bà không bị lay chuyển, luôn trung thành với chồng, Bà đã đáp ơn gọi làm vợ và làm mẹ một cách trung thành như trong các công tác bác ái giữa một thành phố bị chiến tranh và ghẻ chóc thử thách. Ngay trong lâu đài bị cướp phá, Bà lập một nhà thương, và khi tài sản không còn nữa, Bà đi ăn xin để giúp người nghèo và bệnh nhân.

    b. Sự phong phú nội tâm thúc đẩy Bà đến với kẻ khác, và đồng thời rất nhiều người được lôi kéo đến với Bà.

    Hạnh sử thánh Francoise Romaine được Phụng Vụ Giờ Kinh trích dẫn có ghi:

    “Thiên Chúa không chọn Bà để Bà trở thành một vị thánh cho chính mình, nhưng để Bà phục vụ cho những ân sủng mà Thiên Chúa ban cho Bà, để cứu giúp tinh thần và thể xác người đồng loại”.

    - “Thiên Chúa đã gia ân cho thánh nữ Francoise với một sự dễ thương mà mọi người khi tiếp xúc với Bà, có thể cảm nghiệm tình yêu của Bà và sẵn sàng theo lời chỉ dẫn của Bà”.

    Tinh thần bác ái là động lực cho thánh nữ, thúc đẩy Bà đi tìm các bệnh nhân đem về nhà mình hay đến các nhà thương: “Bà làm giảm cơn khát, dọn giường, băng bó các vết thương cho họ..”.

    - Thánh nữ lo lắng việc chăm sóc tinh thần của bệnh nhân. Người ta thấy Bà đi tìm các linh mục và dẫn các ngài đến với bệnh nhân đã được chuẩn bị để lãnh nhận các bí tích sám hối và Thánh Thể.

    c. Sứ điệp của thánh nữ Francoise đưa đến cho mọi người hôm nay, có thể tóm lại trong câu đáp của Phụng Vụ Giờ Kinh:

    - Chỉ có tình yêu mới có những hoa trái công chính.

    - Hãy để cho tình yêu theo đuổi trong anh em những công trình của nó.

    - Hãy mở mắt ra cho ánh sáng tình thương.

    https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-09-03-thanh-phanxica-romanaqua-phu-nu-tu-1384%E2%80%931440-43426

     

    Phanxica thuộc vào một gia đình quí tộc ở Bussi de Leoni. Nhưng Ngài đã sinh ra và sống ở Roma. Từ lúc 6 tuổi Ngài đã thực hành sám hối, muốn vào tu lúc 11 tuổi. Cha Ngài thấy đây chỉ là tưởng tượng của con nít và năm sau đã gả Ngài cho lãnh Chúa trẻ trung Lorenzo di Ponziani. Người vợ trẻ sẽ dẫn đắt chồng mình theo đường trọn lành.

    Phanxica một thánh nữ tươi đẹp. Sống giữa xã hội hào nhoáng Ngài tỏ ra rất hòa nhã dịu dàng. Ngài giữ kín những khổ hạnh của mình. Có ai biết rằng: áo nhặm dưới y phục lộng lẫy của Ngài đã làm Ngài mang thương tích. Ngài dậy sớm để giờ cầu nguyện khỏi bị ngăn trở, Varozza, người em dâu, cùng chia sẻ lý tưởng bác ái với Ngài. Hai người cùng hồi tâm trong một cái hang ở cuối vườn. Họ phục vụ các bệnh nhân tại nhà thương và giúp đỡ những người cùng khốn. Bà mẹ chồng nặng tinh thần thế tục thấy thế nên giận dữ. Nhưng con bà, người chồng trẻ đã trả lời:

      - Sao lại trách họ vì những thói quen đạo đức ấy? Vả lại thói quen ấy có ngăn trở gì tới việc bổn phận của họ đâu?

    Thực vậy, Phanxica luôn sẵn sàng bỏ mọi sự để các bổn phận của một quản gia khỏi bị suy suyển gì. Một mẫu chuyện cho thấy Thiên Chúa chúc lành cho Ngài như thế nào. Phanxica đang cầu nguyện. Người ta tới kêu. Ngài mau mắn bỏ sách đó và trở lại sau khi phục vụ xong. Lần thứ nhất, lần thứ hai... bốn lần liên tiếp như vậy, Ngài đều bình thản bỏ dở việc cầu nguyện. Lần thứ năm Ngài trở lại và thấy sách kinh có dòng chữ vàng. Người ta không hề giã từ Chúa khi phục vụ tha nhân và hiến mình phục vụ cũng là cầu nguyện.

    Cha giải tội và nhà chép sử thánh Phanxica cho biết tình trạng được ơn thần bí của thánh nữ. Thiên thần của Ngài chiếu tỏa một ánh sáng để chỉ cho Ngài biết Thiên Chúa thỏa lòng đối với Ngài. Cũng thế, dù khi lỗi nhẹ, thiên thần liền đánh vào Ngài và thánh nữ tạ ơn Thiên Chúa đã giữ cho mình khỏi rơi vào mưu chước quỉ ma. Với thiên thần, Ngài nên mạnh mẽ. Một lần có sức mạnh quỉ ma đẩy Ngài xuống sông Tibre, thiên thần cứu Ngài lên bờ.

    Sau khi mẹ chồng qua đời, người thiếu phụ nắm quyền quản trị nhà họ Ponziani. Ngài coi gia nhân như anh chị em được gọi để chia sẻ nước Thiên Chúa với Ngài, nếu họ ngã bệnh Ngài tận tâm săn sóc họ. Vào thời đói kém, khi đã cho hết những gì thuộc quyền mình, Ngài ăn xin để giúp đỡ người thiếu thốn, ngày kia, Ngài gọi Varozza lên kho lẫm thu lúa mì còn sót lại trong rơm. Lorenzo theo họ lên coi, đã thấy đống lúa vàng thay vì rơm rạ, một phép lạ xảy ra tương tự tại một thùng rượu không. Đầy thán phục, Lorenzo đã để cho người vợ thánh thiện được tự do xếp đặt cuộc sống mình. Thế là Phanxica bán mọi thứ sang trọng, và chỉ mặc y phục khiêm tốn, lại còn hãm mình nghiêm ngặt hơn.

    Khi chiến đấu cho Đức Thánh Cha, Lorenzo bị trọng thương và được mang về nhà khi đang hấp hối. Thánh nữ đã thành công trong việc làm cho ông sống lại. Faluzzô, em Ngài, bị bắt tù, người ta cho Ngài biết phải nộp con trưởng Gioan Tẩy giả của Ngài làm con tin, nếu không Paluzzô sẽ bị giết chết. Phanxica hoảng hốt đem con đi giấu. Nhưng Don Antoniô là cha giải tội chặn đường lại nói:

      - Con làm gì thế? Hãy đưa đứa con cho người đòi nó.

    Phanxica vâng lời để cứu em chồng, rồi vào nhà thờ quì khóc trước tượng Đức Trinh Nữ. Còn đang cầu nguyện thì viên sĩ quan địch mang đứa bé trả lại, vì ngựa ông không chịu đi.

    Tiếp đến là những biến cố thảm khốc. Roma bị xâm chiếm và bị cướp phá. Lorenzzô phải trốn đi để lại trách nhiệm cho vợ mình, Phanxica ở lại, với hai con Evangêlista và Anê. Cơn dịch xẩy ra, Evangêlista ngã bệnh, lúc chết cậu nói với mẹ:

      - Mẹ đừng khóc, con sẽ được hạnh phúc vì này Thiên thần đến tìm con.

    Một đêm kia Ngài cầu nguyện và thấy người con hiện ra báo tin mình đang ở giữa các Thiên thần và cho biết mình sẽ đến tìm đứa em gái, cho nó chia sẻ hạnh phúc. Một niềm vui siêu nhiên hòa lẫn với các đớn đau loài người. Ngài ngã bệnh và các thị kíến về hỏa ngục làm Ngài thêm khổ cực. An bình trở lại Roma. Lorenzô trở về chứng kiến những tang tóc và cướp phá. Phanxica đau đớn trong lòng, nhưng vẫn tìm lời trấn an đầy tha thứ. Ngài hòa giải thù địch với người chồng chỉ còn biết sống để chia sẻ bước tiến thiêng liêng của vợ mình.

    Phanxica cũng lôi kéo các phụ nữ Roma vào việc giúp đỡ cho những tình cảnh khốn khổ do chiến tranh để lại. Ngài tụ họp vào một nhà những bà cùng một lý tưởng bác ái và khổ hạnh. Đây là thời đầu của dòng những người tận hiến cho Đức Maria. Gọi như thế vì khi tự hiến họ dùng từ ngữ: “Con hiến mình” thay vì tuyên đọc lời khấn. Trong số những cuộc trở lại Phanxica tạo được, có cuộc trở lại của vợ của Gioan Tẩy giả, con Ngài.

    Sau bốn năm hoà hiệp, Phanxica mất chồng. Ngài tới quì trước cửa tu viện mình đã thiết lập. Đi chân không. đeo giây vào cổ, Ngài xin nhập dòng.

    Gioan Tẩy giả ngã bệnh, Phanxica bỏ dòng về thăm, Ngài đã bị lên cơn sốt và đã qua đời chính tại nhà mình. Các nữ tu vây quanh Ngài để nghe những lời khuyên cao cả:

      - Hãy trung tín đến chết, Satan sẽ tấn công các chị như đã tấn công tôi. Nhưng không thử thách nào quá độc dữ nếu các chị trung thành với Chúa Giêsu.

    Nói lời cuối cùng xong, cửa trời mở ra, thiên thần của Ngài ra dấu kêu gọi Ngài theo.

    Ðức Giáo Hoàng Phaolô V đã tôn ngài lên bậc Hiển Thánh năm 1608.

    Thánh Phanxica được chọn làm thánh bảo trợ của các phụ nữ đã lập gia đình và ở nên góa bụa.

    http://tonggiaophansaigon.com/baiviet-tintuc/20100308/4186

    http://giaophanvinhlong.net/thanh-phancica-romana-nu-tu-13841440.html

    ThanhPhanxicaRomana.mp3 

     https://youtu.be/eM82RLH70Vg 

     

    --

BÁNH SỰ SỐNG LC - CHA DŨNG- RADIO LCTX

  •  
    Lan Chi CHUYỂN
     
    Tue, Mar 8 at 10:58 AM
     
     

    Thứ Tư Tuần I - Mùa Chay

    CHA DŨNG - RADIO LCTX

     
     
    Ca nhập lễ
    Tv 24,6.3.22

    Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng tình sâu

    tự ngàn xưa Ngài từng biểu lộ,

    đừng bao giờ để quân thù chế ngự chúng con.

    Lạy Thiên Chúa Ít-ra-en,

    xin cứu chúng con thoát mọi nỗi truân chuyên ngặt nghèo.

    Bài đọc 1
    Gn 3,1-10

     

    Dân thành Ni-ni-vê bỏ đường gian ác mà trở lại.

    Bài trích sách ngôn sứ Giô-na.

    1 Có lời Đức Chúa phán với ông Giô-na rằng : 2 “Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi.” 3 Ông Giô-na đứng dậy và đi Ni-ni-vê, như lời Đức Chúa phán. Ni-ni-vê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường. 4 Ông Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố : “Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ.” 5 Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. 6 Tin báo đến cho vua Ni-ni-vê ; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro. 7 Vua cho rao tại Ni-ni-vê : “Do sắc chỉ của đức vua và các quan đại thần, người và súc vật, bò bê và chiên dê không được nếm bất cứ cái gì, không được ăn cỏ, không được uống nước. 8 Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình. 9 Biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại, chẳng bỏ ý định giáng phạt, và nguôi cơn thịnh nộ, khiến chúng ta khỏi phải chết.” 10 Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, và đã không giáng xuống nữa.

    Đáp ca
    Tv 50,3-4.12-13.18-19 (Đ. c.19b)

    Đ.Lạy Thiên Chúa, một tấm lòng tan nát giày vò,
    Ngài sẽ chẳng khinh chê.

    3Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
    mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm.
    4Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
    tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.

    Đ.Lạy Thiên Chúa, một tấm lòng tan nát giày vò,
    Ngài sẽ chẳng khinh chê.

    12Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng,
    đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.
    13Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh,
    đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài.

    Đ.Lạy Thiên Chúa, một tấm lòng tan nát giày vò,
    Ngài sẽ chẳng khinh chê.

    18Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm,
    con có thượng tiến lễ toàn thiêu,
    Ngài cũng không chấp nhận.
    19Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát,
    một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê.

    Đ.Lạy Thiên Chúa, một tấm lòng tan nát giày vò,
    Ngài sẽ chẳng khinh chê.

    Tung hô Tin Mừng
    Ge 2,12-13

    Đức Chúa phán : Ngay lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, bởi vì Ta từ bi nhân hậu.

    Tin Mừng
    Lc 11,29-32

     

    Thế hệ gian ác này sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.

    Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

    29 Khi ấy, dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói : “Thế hệ này là một thế hệ gian ác ; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na. 30 Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. 31 Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn ; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa. 32 Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng ; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.”

    Ca hiệp lễ
    Tv 5,12

    Lạy Chúa, những ai trông cậy Chúa,

    ước chi họ đều được hỷ hoan,

    và reo vui mãi tới muôn đời.

    Vì có Chúa luôn ở với họ.

     
    --
     Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô (Ep 4,30-32).

    30 Ne contristez pas l'Esprit Saint de Dieu, qui vous a marqués de son sceau pour le jour de la rédemption. 31 Aigreur, emportement, colère, clameurs, outrages, tout cela doit être extirpé de chez vous, avec la malice sous toutes ses formes32 Montrez-vous au contraire bons et compatissants les uns pour les autres, vous pardonnant mutuellement, comme Dieu vous a pardonné dans le Christ.

    Hoa quả của Thần Khí làbác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (Galata 5,22-23)

    22 - Mais le fruit de l'Esprit est charité, joie, paix, longanimité, serviabilité, bonté, confiance dans les autres, 23 douceur, maîtrise de soi.

    https://youtu.be/myMrwYoZMbI

    --------------------------------------------------------------

    •  
       

BÁNH SỰ SỐNG LỜI CHÚA - TĨNH CAO

  •  
    Tinh Cao
     
     

    Thứ Ba CN1MC-C

     

    Lời Chúa LÀ BÁNH SỰ SỐNG

     

    Bài Ðọc I: Is 55, 10-11

    "Lời Ta thực hiện điều Ta mong muốn".

    Trích sách Tiên tri Isaia.

    Ðây Chúa phán: "Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn, cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác".

    Ðó là lời Chúa.

    Ðáp Ca: Tv 33, 4-5. 6-7. 16-17. 18-19

    Ðáp: Chúa cứu người hiền đức khỏi mọi nỗi âu lo (c. 18b).

    Xướng: 1) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. - Ðáp.

    2) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tainạn. - Ðáp.

    3) Chúa để mắt coi người hiền đức, và tai Người lắng nghe tiếng họ cầu. Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. - Ðáp.

    4) Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. - Ðáp.

    Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4,17

    Chúa phán: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến".

    Phúc Âm: Mt 6, 7-15

    "Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

    Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:

    "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ đến chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

    "Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".

     

    Ðó là lời Chúa.


     

    Suy niệm

     

      

        Sự Sống thiên ý    

     

    Ngày Thứ Ba trong Tuần 1 Mùa Chay hôm nay, đề tài cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, là "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17), được tiếp tục ở bài Phúc Âm về lời cầu nguyện Chúa dạy "các con hãy cầu nguyện như thế này".

    Thật vậy, qua nội dung của lời cầu nguyện Chúa Giêsu dạy cho "các môn đệ" trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy hiện lên hình ảnh sống động của một Vị Thiên Sai, Đấng "từ trời xuống không phải để làm theo ý mình là là ý Đấng đã sai" (Gioan 6:38). Người quả thực đã "bỏ sự sống mình đi" ở chỗ "không làm theo ý mình", mà là "ý Đấng đã sai", nhờ đó, Người "đã lấy sự sống mình lại" ở chỗ Người đã tỏ ra sự sống thần linh thật sự ở nơi Người, sự sống của một Người Con Thiên Chúa mà Người muốn thông ban cho chung con người và riêng Giáo Hội của Người.

    Đó là lý do, trong kinh nguyện Chúa dạy vẫn được gọi là Kinh Lạy Cha trong Bài Phúc Âm hôm nay đây, ý nguyện chính yếu, ý nguyện nồng cốt, ý nguyện làm nên các ý nguyện và chi phối các ý nguyện khác đó là ý nguyện: "ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". 

    Trước hết, đối với hai ý nguyện đầu là "danh Cha cả sáng" và "nước Cha trị đến", cả hai ý nguyện này sẽ chẳng bao giờ trở thành hiện thực nếu thiếu vắng ý nguyện thứ ba "ý Cha thể hiện". 

    Điển hình nhất ở nơi chính bản thân và cuộc đời của Chúa Kitô, Đấng đã làm cho "danh Cha cả sáng" khi hoàn thành ý Cha, bằng cuộc khổ nạn và tử giá của Người, nhờ đó và vì thế Người đồng thời cũng đã làm cho "nước Cha trị đến" nơi tâm hồn của những ai tin vào Người, một "nước" hay một vương quốc thần linh đang hiện diện nơi Giáo Hội được Người thiết lập và xuất phát từ cạnh sườn bị đâm vào của Người (xem Hiến Chế Lumen Gentium - 3).

    Sau nữa, đối với 3 ý nguyện, đúng hơn 3 ý cầu sau đó cũng thế, cũng liên kết hết sức mật thiết bất khả phân ly với ý nguyện "ý Cha thể hiện" nằm ở giữa như cốt lõi của Kinh Lạy Cha này. 

    "Lương thực hằng ngày" ở đây được chúng ta có ý cầu là gì, nếu trước hết và trên hết không phải là của ăn phần xác mà chính là việc làm theo và chu toàn ý muốn của Thiên Chúa, như "lương thực của Thày là làm theo ý Đấng sai Thày và hoàn thành các công việc của Ngài" (Gioan 4:34), nhờ đó "ý Cha thể hiện dưới đất ('Nước Cha trị đến') cũng như trên trời ('danh Cha cả sáng')".

    "Xin Cha tha nợ chúng con" là ý cầu thứ hai ở phần sau của Kinh Lạy Cha, một ý cầu gắn liền với ý cầu thứ nhất "xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày". Bởi vì, nếu "lương thực hằng ngày" của chúng ta là việc chu toàn ý muốn Thiên Chúa thì bất cứ khi nào và vì bất cứ lý do nào chúng ta không chu toàn ý muốn của Ngài là chúng ta đã làm buồn lòng Ngài, đã không làm "danh Cha cả sáng" và "nước Cha trị đến" như lòng Ngài ước mong nơi chúng ta, và vì thế chúng ta cần được Ngài tha thứ cho.

    "Xin chớ đến chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ" là ý cầu cuối cùng ở phần hai của Kinh Lạy Cha cũng bất khả tách lìa với ý nguyện thứ 3 "ý Cha thể hiện phần trên và ý cầu thứ 1 "xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày" ở phần dưới. Tại sao? 

    Bởi vì, theo kinh nghiệm tu đức sống đạo, Kitô hữu chúng ta, với bản tính nhiễm lây nguyên tội, luôn luôn bị "cám dỗ" làm theo ý riêng của mình và đam mê nhục dục của mình hơn là ý muốn của Thiên Chúa và lề luật của ngài, hơn là tinh thần Phúc Âm của Chúa Kitô, và thường chúng ta bị "sa chước cám dỗ" nếu không có ơn đặc biệt của Thiên Chúa để có thể chẳng những nhận ra chước cám dỗ vô cùng tinh quái quỉ quyệt mà còn chống trả chước cám dỗ cho đến cùng. 

    Và "sự dữ" chúng ta cầu xin cho khỏi bị rơi vào hay phạm đến đây là gì, nếu không phải là chính những gì chúng ta dám ngang nhiên và ngạo mạn làm trái với ý muốn toàn thiện và tối thượng của Thiên Chúa, là chính thái độ phạm thượng của chúng ta đối với Thiên Chúa vô cùng cao cả, ở chỗ chúng ta đã coi mình hơn Thiên Chúa, coi ý muốn của Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng, quan phòng thần linh trên tất cả mọi sự, không bằng ý muốn thấp hèn thiển cận rất hạ cấp của chúng ta là tạo vật đã được Ngài yêu thương dựng nên và cứu chuộc.

    Chính vì là loài người vô cùng thấp hèn, khốn nạn và yếu đuối mà chúng ta tự mình không thể nào không "sa chước cám dỗ", không thể nào không gây ra "sự dữ" là tội lỗi phạm đến Thiên Chúa, và vì thế mà chúng ta, trong ý cầu thứ hai ở phần sau của Kinh Lạy Cha, chúng ta đã "xin Cha tha nợ cho chúng con", ở chỗ "như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con", bằng không, không tha cho người khác mà cứ muốn được Thiên Chúa thứ tha là chúng ta đã "sa (vào một) chước cám dỗ" khác đối với anh chị em chúng ta, nghĩa là chúng ta đã gây ra một "sự dữ" khác, ở chỗ chúng ta đã sống hoàn toàn phản nghịch lại với bản tính và sự sống thần linh của chúng ta là đức ái trọn hảo như Cha trên trời của chúng ta (xem Mathêu 4:48).

    Bởi thế, trước khi kết thúc bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu còn nhấn mạnh ngay sau Kinh Lạy Cha rằng: "Nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".

    Đúng vậy, tự mình chúng ta không thể nào trả nợ cho Thiên Chúa là Đấng vô cùng cao cả bị chúng ta xúc phạm, ngoài một cách nhẹ nhàng hơn, dễ dàng hơn và khả dĩ hơn đó là cách chúng ta tha nợ cho anh chị em của chúng ta, những người xúc phạm đến chúng ta, thành phần chỉ là một tạo vật thấp hèn đầy khốn nạn đáng bị xúc phạm hơn ai hết, vì chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa tối cao không bao giờ được xúc phạm đến, bởi thế chúng ta mới đáng bị trừng phạt bằng cách bị người khác xúc phạm đến.

    Một khi chúng ta không tha thứ cho anh chị em phạm nhân của chúng ta là chúng ta chứng tỏ chúng ta thực sự chưa hoàn toàn cảm nhận được Lòng Thương Xót Chúa đối với con người khốn nạn tội lỗi của chúng ta, và chưa thấu hiểu được hết tất cả giá trị vô cùng quí báu của ơn Thiên Chúa thứ tha.

    Và vì chưa thực sự cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa và ơn tha thứ của Ngài, mà chúng ta thậm chí còn lấy lòng thù hằn báo oán của mình đối với những người anh chị em phạm nhân của chúng ta để vùi dập đi Lòng Thương Xót Chúa nơi chúng ta, không muốn chia sẻ Lòng Thương Xót Chúa nơi chúng ta qua ơn tha thứ vô cùng bao la bất tận của Ngài cho chung tha nhân, nhất là cho riêng thành phần phạm nhân của chúng ta, như chúng ta đã từng là phạm nhân của Thiên Chúa.

    Tuy nhiên, còn một "chước cám dỗ" nữa, nguy hiểm hơn, mà chúng ta cần phải cầu xin "cho khỏi sự dữ" kinh khủng này, đó là "chước cám dỗ" chán nản thất vọng bởi thấy mình tội lỗi quá sức, tội lỗi không ngừng, đến độ chúng ta tiến đến một "sự dữ" trên hết mọi "sự dữ" đó là chúng ta đặt vấn đề với ân sủng của Chúa, cho rằng ân sủng của Chúa không có tác dụng gì nơi chúng ta, nên chúng ta cứ sa ngã phạm tội mãi, không thể nào vươn lên được, không thể nào tránh phạm tội, do đó chúng ta không còn tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa nữa.

    Trong khi đó, theo sự khôn ngoan vô cùng của mình, Thiên Chúa vẫn âm thầm làm việc nơi họ, thậm chí để cho họ chết đi, chết đến "xông mùi" (Gioan 11:39) Người mới chịu ra tay, để vinh quang của Ngài càng rạng ngời hơn nơi họ, như nơi trường hợp của tử thi Lazarô bước ra khỏi huyệt mộ theo lời tuyên phán đầy quyền linh tái sinh của Người (xem Gioan 11:43-44), "những lời là thần linh và là sự sống" (Gioan 6:63) có một giá trị và tác dụng thần linh vô cùng công hiệu, như chính Thiên Chúa qua miệng tiên tri Isaia đã khẳng định về Lời của Ngài trong Bài Đọc 1 hôm nay:

    "Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn, cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác".

    Phải, một khi thực sự cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa, nơi tận cùng khốn nạn của mình, con người càng tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa hơn và tri ân chúc tụng Chúa hơn ai hết và hơn bao giờ hết, như tâm tình và cảm nhận của Bài Đáp Ca hôm nay:

    1) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. 

    2) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. 

    3) Chúa để mắt coi người hiền đức, và tai Người lắng nghe tiếng họ cầu. Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. 

    4) Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. 

     
     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    --

BÁNH SỰ SỐNG LC - CHA DŨNG - RADIO LCTX

  •  
    Lan Chi CHUYỂN

    Thứ Ba Tuần I - Mùa Chay

    CHA DŨNG - RADIO LCTX

     
     
    Ca nhập lễ
    Tv 89,1-2

    Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,

    Ngài là chốn chúng con ẩn mình.

    Ngài vẫn là Thiên Chúa

    từ muôn thuở cho đến muôn đời.

    Bài đọc 1
    Is 55,10-11

     

    Lời Ta thực hiện ý muốn của Ta.

    Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.

    10 Đức Chúa phán thế này :

    “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời
    không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất,
    chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,
    cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn,

    11thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta,
    sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả,
    chưa thực hiện ý muốn của Ta,
    chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”

    Đáp ca
    Tv 33,4-5.6-7.17-16.18-19 (Đ. x. c.18b)

    Đ.Người công chính được Thiên Chúa giữ gìn,
    giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.

    4Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa,
    ta đồng thanh tán tụng danh Người.
    5Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại,
    giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.

    Đ.Người công chính được Thiên Chúa giữ gìn,
    giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.

    6Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở,
    không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.
    7Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời,
    cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn.

    Đ.Người công chính được Thiên Chúa giữ gìn,
    giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.

    17Chúa đối đầu với quân gian ác,
    xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời,
    16nhưng để mắt nhìn người chính trực
    và lắng tai nghe tiếng họ kêu.

    Đ.Người công chính được Thiên Chúa giữ gìn,
    giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.

    18Họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời,
    giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.
    19Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ,
    cứu những tâm thần thất vọng ê chề.

    Đ.Người công chính được Thiên Chúa giữ gìn,
    giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.

    Tung hô Tin Mừng
    Mt 4,4b

    Người ta sống, không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.

    Tin Mừng
    Mt 6,7-15

     

    Anh em hãy cầu nguyện như thế này.

    Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

    7 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại ; họ nghĩ rằng : cứ nói nhiều là được nhận lời. 8 Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.

    9 “Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này :

    ‘Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,
    xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,

    10triều đại Cha mau đến,
    ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

    11Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày ;
    12xin tha tội cho chúng con
    như chúng con cũng tha
    cho những người có lỗi với chúng con ;

    13xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ,
    nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.’

    14 “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. 15 Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.”

    Ca hiệp lễ
    Tv 4,2

    Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét,

    khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời ;

    lúc ngặt nghèo,

    Chúa đã mở lối thoát cho con,

    xin thương xót, nghe lời con cầu khẩn.

    --
     Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô (Ep 4,30-32).

    30 Ne contristez pas l'Esprit Saint de Dieu, qui vous a marqués de son sceau pour le jour de la rédemption. 31 Aigreur, emportement, colère, clameurs, outrages, tout cela doit être extirpé de chez vous, avec la malice sous toutes ses formes32 Montrez-vous au contraire bons et compatissants les uns pour les autres, vous pardonnant mutuellement, comme Dieu vous a pardonné dans le Christ.

    Hoa quả của Thần Khí làbác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (Galata 5,22-23)

    22 - Mais le fruit de l'Esprit est charité, joie, paix, longanimité, serviabilité, bonté, confiance dans les autres, 23 douceur, maîtrise de soi.

    https://youtu.be/VF7zdYdhwng

    https://youtu.be/71etvE2f7BQ

    https://youtu.be/aVfHYMadE4o

     

    •  
      Mt 6, 7-15 Thứ ba tuần 1 Mùa Chay - Fr Joseph.mp3
      8.7MB

BÁNH SỰ SỐNG LC - TĨNH CAO - THỨ HAI CN1MC-C

  •  
    Tinh Cao
     
     

    Thứ Hai

     

    BÁNH SỰ SỐNG Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I: Lv 19, 1-2. 11-18

    "Hãy xét đoán công minh đối với kẻ khác".

    Trích sách Lêvi.

    Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy nói cho toàn thể cộng đồng con cáiIsrael: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Ðấng Thánh, là Thiên Chúa các ngươi. Các ngươi đừng trộm cắp, đừng nói dối, đừng phỉnh gạt kẻ khác, đừng lấy danh Ta mà thề dối, và đừng xúc phạm danh Thiên Chúa các ngươi. Ta là Chúa.

    Các ngươi đừng nhục mạ kẻ khác và đừng hà hiếp họ. Ðừng giam tiền công lại cho đến ngày mai. Ðừng nguyền rủa người điếc, đừng đặt trước kẻ mù vật gì có thể làm cho nó vấp ngã; nhưng các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, vì Ta là Chúa.

    Ðừng làm điều bất công, cũng đừng xét đoán bất công. Ðừng thiên tư kẻ nghèo, cũng đừng nể mặt người quyền thế. Hãy cứ công minh mà xét đoán kẻ khác.Ðừng lăng mạ, cũng đừng gièm pha kẻ khác. Ðừng mưu sát ai. Ta là Chúa.

    Ðừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. Ðừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa".

    Ðó là lời Chúa.

    Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 15

    Ðáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống (Ga 6, 64b).

    Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phángu kẻ dốt. - Ðáp.

    2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.

    3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. - Ðáp.

    4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Ðá tảng, là Ðấng Cứu Chuộc con. - Ðáp.

    Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 50, 12a và 14a

    Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.

    Phúc Âm: Mt 25, 31-46

    "Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

    Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta". Khi ấy người lành đáp lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?" Vua đáp lại: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta".

    "Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: "Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!" Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?" Khi ấy Người đáp lại: "Quả thật, Ta bảo cho các ngươi biết, những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta". Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu".

     

    Ðó là lời Chúa.


     

    Suy niệm

    LỜI CHÚA LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG

     

        

    Sự Sống bác ái

        

    Hôm nay, Thứ Hai Tuần 1 Mùa Chay, phụng vụ Lời Chúa vẫn tiếp tục đề tài cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, là "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17), bằng cách "vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24). 

    Bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Nhật 1 Mùa Chay, Chúa Kitô đã "tự ý bỏ sự sống mình điở chỗ Người đã chay tịnh 40 ngày trong hoang địa, và Người đã "lấy nó lại" ở chỗ nhờ đó Người đã chiến thắng các chước cám dỗ vô cùng thâm độc và hiểm ác của Satan, đúng hơn đã chiến thắng thần chết là ma quỉ. 

    Thế nhưng, "sự sống" mà Chúa Kitô "bỏ đi" và "lấy lại" đây là gì, nếu không phải là "sự sống" của bản tính nhân loại Người đã "bỏ đi", một bản tính của loài người đã bị băng hoại bởi nguyên tội và theo nguyên tội, nhưng lại là bản tính đã được Người mặc lấy, nhờ đó "sự sống" tự nhiên nơi nhân tính này của Người đã được Người "lấy lại", ở chỗ Người đã thăng hóa nóđã thần linh hóa nó, một dấu chỉ về Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người nói chung và về Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người nói riêng.

    "Sự sống" Chúa Kitô đã "bỏ đi" đây nơi cuộc khổ nạn và tử giá là "sự sống" thể lý, sự sống về phần xác của Người, và "sự sống" Ngưòi "lấy lại" đây nơi cuộc phục sinh của Người là "sự sống" thần linh, "sự sống" thiêng liêng, "sự sống" bất tử, "sự sốngđời đời cho nhân loại, một "sự sống" mà họ đã bị mất đi theo nguyên tội và bởi nguyên tội đã được Người phục hồi, tức là "sự sốngđược hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, "sự sống" yêu thương trọn hảo như Chúa.

    Khi lãnh nhận Phép Rửa thanh tẩy tái sinh, Kitô hữu đã lãnh nhận "sự sống" đời đời này, tức là đã được tái hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, sống "sự sống" thần linh của Ngài, với Ngài và như Ngài nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã "yêu cho đến cùng" (Gioan 13:1), để nhờ đó họ cũng có thể yêu thương nhau "như Thày đã yêu thương các con(Gioan 13:34, 15:12).

    Chính vì "sự sống" thần linh cũng là "sự sống" đời đời này là "sự sống" đức ái trọn hảo "như Thày" mà chỉ có thành phần biết yêu thương nhau như Chúa Kitô mới xứng đáng được hưởng "sự sống" vĩnh hằng với Người mà thôi. 

    Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay cho thấy tiêu chuẩn tối hậu nơi cuộc chung thẩm đối với số phận đời đời của con người sống trên trần gian này đó là yêu thương: yêu thương vì Chúa, vì Chúa ở nơi những người anh chị em hèn mọn nhất được đồng hóa với chính Chúa Kitô, nghĩa là yêu Chúa nơi hiện thân của Chúa là những người anh chị em hèn mọn như chúng ta cũng là một trong những người anh chị em hèn mọn ấy đã được Người yêu:

    "Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta... Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta".

    Thật vậy, theo nguyên tắc, loài người Kitô hữu chúng ta không thể trực tiếp đáp trả tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với chúng ta qua Con của Ngài, thế nhưng, trên thực tế, chúng ta vẫn có thể gián tiếp đáp trả  tình yêu vô đối của Thiên Chúa, bằng cách yêu thương những người anh chị em hèn mọn nhất được đồng hóa với Con của Ngài, và như thế chúng ta được kể là yêu chính Thiên Chúa, sống chính "sự sống" bác ái trọn hảo của Thiên Chúa, với Thiên Chúa và nhưThiên Chúa. 

    Những tình trạng của các người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô được Người liệt kê trong Bài Phúc Âm hôm nay không phải là những nhu cầu (3 cặp) chỉ thuần về thể lý, mà bao gồm cả về luân lý và tâm linh nữa. 

    Chẳng hạn cặp nhu cầu đầu tiên là đói khát, không phải chỉ đói thức ăn và khát nước uống cho thân xác, mà còn bao gồm cả nhu cầu đói khát chân lý, đói khát tin mừng cứu độ nơi nhiều anh chị em chúng ta trên thế giới hiện nay, thành phần đói khát thiêng liêng này thậm chí còn nhiều hơn và đông hơn bao nhiêu lần những anh chị em bị đói khát về thể lý nữa, mà nếu Kitô hữu chúng ta không đáp ứng nhu cầu đói khát chân lý cứu độ này cho họ, bằng chứng từ và hoạt động tông đồ khả dĩ tác hiệu của chúng ta, chúng ta cũng khó lòng phủ nhận hay trốn lánh trách nhiệm của mình trước mặt Chúa trong cuộc chung thẩm

    Hay cặp nhu cầu thứ hai là nhu cầu đón tiếp và phục sức đối với những con người anh chị em là khách lạ và bị trần trụi về thể lý còn bao gồm cả nhu cầu đón tiếp về tinh thần là ở chỗ thông cảm và gắn bó với những anh chị em bị bỏ rơi, bị hất hủi, sống cô độc, sống vất vưởng ngoài lề xã hội v.v., và nhu cầu phục sức về tinh thần là ở chỗ tranh đấu để bênh vực quyền lợi cũng như phục hồi phẩm giá cho những người anh chị em yếu thế, dễ bị đàn áp, khai thác và bóc lột trong xã hội.

    Hoặc cặp nhu cầu thể lý thứ ba là viếng thăm đối với những anh chị em bệnh nhân và tù nhân về thể lý còn bao gồm cả nhu cầu thăm viếng về tinh thần là quan tâm, cầu nguyện, khuyên bảo và nâng đỡ những người anh chị em yếu đuối và sa ngã phạm tội về luân lý nữa, những người anh chị em sống khô khan nguội lạnh, sống cuộc đời phản đức tin, bỏ đức tin để chạy theo thế gian, làm tôi cho xác thịt, tiền tài và danh vọng chức quyền, bị xác thịt, thế gian và ma quỉ thống trị, giam cầm, đầy ải vô cùng khốn nạn cần được giải phóng.

    Theo chiều hướng của bài Phúc Âm về "sự sống" bác ái trọn hảo như thế, Bài Đọc 1 cũng thuật lại những gì Thiên Chúa đã phán dạy dân Do Thái qua trung gian Moisen liên quan đến tha nhân, ở chỗ, về phần tiêu cực, cần phải tránh tất cả những gì xúc phạm đến họ:

    "Các ngươi đừng trộm cắp, đừng nói dối, đừng phỉnh gạt kẻ khác, đừng lấy danh Ta mà thề dối, và đừng xúc phạm danh Thiên Chúa các ngươi. Ta là Chúa.

    "Các ngươi đừng nhục mạ kẻ khác và đừng hà hiếp họ. Ðừng giam tiền công lại cho đến ngày mai. Ðừng nguyền rủa người điếc, đừng đặt trước kẻ mù vật gì có thể làm cho nó vấp ngã; nhưng các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, vì Ta là Chúa.

    "Ðừng làm điều bất công, cũng đừng xét đoán bất công. Ðừng thiên tư kẻ nghèo, cũng đừng nể mặt người quyền thế. Hãy cứ công minh mà xét đoán kẻ khác.Ðừng lăng mạ, cũng đừng gièm pha kẻ khác. Ðừng mưu sát ai. Ta là Chúa.

    "Ðừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. Ðừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa".

    Và lý do duy nhất và trên hết khiến thành phần dân Do Thái được Thiên Chúa ưu tuyển này cần phải tránh tất cả những gì phạm đến tha nhân của họ là vì "Ta là Chúa", một điệp khúc được lập lại ở cuối mỗi lời khuyên "đừng" này "đừng" kia. Nghĩa là vì họ là dân của một Vị Thiên Chúa thánh hảo, mà họ cũng phải thánh hảo như Ngài: "Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Ðấng Thánh, là Thiên Chúa các ngươi". Ở chỗ họ cũng phải tác hành như Ngài, cũng sống "sự sống" thần linh của Ngài, cũng sống "sự sống" bác ái trọn hảo yêu thương như Ngài. 

    Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những cảm nhận sâu xa về "luật pháp", "chỉ thị", "giới răn", "mệnh lệnh", "phán quyết" của Chúa "là Đá tảng, là Đấng Cứu Chuộc" của con người, những gì liên quan đến Bài Đọc 1, vì Bài Đọc 1 bao gồm những điều Chúa chỉ dạy dân riêng của Ngài để họ có thể sống hoàn thiện như Ngài:

    1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. 

    2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. 

    3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.

    4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Ðá tảng, là Ðấng Cứu Chuộc con. 

     
     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    MC.Tuan.1-2.mp3

     

     

     

     

     

     

     

    I. ĐÔI HÀNG LỊCH SỬ

    Lịch sử về cuộc đời hai thánh tử đạo tiên khởi khá mù mờ nhưng trong những truyền thuyết mù mờ về đời sống các vị tử đạo tiên khởi đó, chúng ta vẫn may mắn có được ít tài liệu về sự can đảm của Thánh Perpetua và Felicita từ chính nhật ký của Thánh Perpetua và của giáo lý viên Saturus, cũng như một số những chứng nhân. Văn bản này, thường được gọi là “Sự Tử Ðạo của Perpetua và Felicita,” được nổi tiếng trong các thế kỷ đầu tiên đến nỗi văn bản ấy đã được đọc trong phụng vụ.

    Vào năm 203, Vibia Perpetua quyết định trở nên một Kitô hữu, mặc dù ngài biết điều đó có thể dẫn đến cái chết trong thời kỳ bách hại của Septimus. Một người em trai của ngài cũng noi gương và trở nên người dự tòng. Cha của ngài cuống cuồng lo âu, và ông cố gắng thay đổi ý định của ngài. Sự lo âu của ông cũng dễ hiểu, vì một phụ nữ 22 tuổi, hăng say và có học thức như Perpetua thì không có lý do gì lại muốn chết - chưa kể ngài còn có một đứa con mới sinh.

    Nhưng thái độ của Perpetua thì rất rõ ràng. Ngài chỉ tay vào một bình đựng nước, và hỏi cha ngài,

    - Cha có thấy cái bình đó không ? Cha có thể gọi nó một cái tên nào khác với bản chất của nó không ?.

    Người cha trả lời,

    - Dĩ nhiên là không.

    Và Perpetua thản nhiên tiếp lời,

    - Con cũng không thể gọi con bằng một cái tên nào khác hơn là bản chất của con - một Kitô hữu.

    Câu trả lời đã làm người cha bực mình và ông đã tấn công chính con mình. Nhật ký Perpetua kể cho chúng ta biết, sau biến cố ấy ngài phải sống tách biệt với cha ngài trong vài ngày, và sự tách biệt ấy đã đưa đến sự bắt bớ và tù đày của chính ngài.

    Perpetua bị bắt với bốn người dự tòng khác, kể cả hai người nô lệ là Felicita và Revocatus. Người dạy giáo lý cho các ngài là Saturus đã bị bắt trước đó.

    Nhà tù đầy những con người đến nỗi họ ngộp thở vì nóng nực và không có một chút ánh sáng. Quân lính thì xô đẩy họ không một chút xót thương. Perpetua thật khiếp sợ, nhưng trong tất cả những sự ghê rợn ấy, điều đau khổ lớn lao nhất của ngài là phải xa cách đứa con thơ.

    Người nô lệ trẻ tuổi là Felicita lại càng đáng thương hơn nữa, vì ngài đang mang thai đã được tám tháng tuổi và phải sống trong cái nóng nực, chen chúc, và thô bạo ấy.

    Hai phó tế phục vụ tù nhân đã đút lót cho lính canh để các ngài được có một chỗ ở tốt nhất trong nhà tù. Ở đó, mẹ và em của Perpetua đã đến thăm và đưa con đến cho ngài. Khi được phép giữ con trong tù, ngài cảm thấy “nhà tù trở nên như cung điện”. Cha ngài lại nài nỉ ngài thay đổi ý định, ông hôn tay ngài và ngay cả quỳ dưới chân ngài. Perpetua nói với ông, “Chúng ta không thể dựa vào quyền thế của chúng ta, nhưng vào quyền thế của Thiên Chúa”.

    Trong khi ngài bị đưa ra xét xử, cha ngài cũng đi theo, nài nỉ quan tòa. Vì thương hại, quan tòa cũng cố thay đổi ý định của Perpetua, nhưng ngài vẫn cương quyết, và cùng với các người khác, ngài bị kết án tử hình bằng cách bị ném cho thú dữ ăn thịt trong đấu trường.

    Trong khi đó Felicita cũng rất đau khổ. Theo luật lệ, giết người phụ nữ mang thai là điều trái phép. Giết hài nhi trong bụng mẹ là đổ máu người vô tội và linh thiêng. Trong khi đó, Felicita lại lo rằng ngài không kịp sinh con trước ngày tử đạo, và các bạn ngài sẽ bước vào vinh quang ấy mà không có ngài.

    Hai ngày trước khi bị hành quyết, Felicita đau đớn chuyển bụng. Bọn lính canh chế giễu, nhục mạ ngài và nói,

    - Nếu đau đớn bây giờ mà còn chịu không nổi, thì làm sao đương đầu với thú dữ ?

     Felicita điềm tĩnh trả lời:

     - Bây giờ tôi là người phải chịu đau khổ, nhưng trong đấu trường, một Ðấng khác sẽ ở trong tôi, chịu đau khổ giùm tôi vì tôi đã chịu đau khổ vì Ngài.

     Felicita sinh hạ một bé gái kháu khỉnh và được một Kitô hữu ở Carthage nhận làm con nuôi.

    Vào ngày bị hành quyết, bốn bổn đạo mới và giáo lý viên bước vào đấu trường với niềm vui và sự bình thản. Khi dân chúng đòi hỏi Perpetua và các bạn ngài phải mặc y phục dành cho việc thờ cúng tà thần, Perpetua đã đối chất với các lý hình:

    - Chúng tôi tự ý chịu chết để được tự do thờ phượng Thiên Chúa của chúng tôi. Chúng tôi đã trao mạng sống cho các ông thì không có lý do gì chúng tôi phải thờ lạy thần thánh của các ông.

    Và các ngài đã được phép mặc quần áo của mình.

    Những người đàn ông thì bị tấn công bởi gấu, beo và heo rừng. Các phụ nữ thì bị bò dại tấn công. Perpetua, dù bị tan nát và rối bời, ngài vẫn nghĩ đến các bạn và chạy đến giúp Felicita đứng dậy. Cả hai đã đứng cạnh nhau khi bọn lính cắt cổ tất cả năm vị tử đạo.

    II. BÀI HỌC

    Nói về sự tử đạo Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 2473 đã viết rất hay: “Sự tử đạo là việc làm chứng cao cả nhất cho chân lý đức tin; đó là sự làm chứng cho đến nỗi phải chết. Vị tử đạo làm chứng cho Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, mà họ được liên kết với Người bằng đức mến. Vị tử đạo làm chứng cho chân lý đức tin và đạo lý Kitô giáo. Vị tử đạo chịu chết bằng hành vi của đức can đảm. “Hãy để tôi trở nên mồi ngon cho ác thú, nhờ việc này mà tôi được đến với Thiên Chúa”

    Chính Chúa Giêsu đã muốn như thế. Chúa muốn mọi người làm chứng cho Chúa và làm chúng bằng cái chết của mình là một bằng chứng cao cả nhất.Và Chúa đã không phải thất vọng.

    Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng, Chúa Giêsu sau khi chịu nạn trên thập tự giá, đã phục sinh trở về trong vinh hiển, Ngài vẫn còn mang dấu vết của sự đau thương. Một trong những vị thiên sứ nói với Ngài rằng:

    - Chúa chắc đã chịu thống khổ vô cùng vì loài người dưới đó ?

    Chúa Giêsu đáp:

    - Đúng vậy!

    Thiên sứ hỏi tiếp:

    - Có phải tất cả mọi người đều biết những gì Ngài làm cho họ không ?

    Chúa Giêsu trả lời:

    - Chưa, chỉ mới có một số ít người biết mà thôi.

    Thiên sứ hỏi tiếp:

    - Thế thì Ngài đã làm gì để giúp mọi người biết ?

    Chúa Giêsu đáp:

    - Ta đã dặn Phêrô, Giacôbê và Gioan lãnh trách nhiệm đi nói với những người khác, rồi những người khác nói cho những người khác, rồi cho những người khác nữa, cho đến lúc những người ở nơi xa xôi nhất trên địa cầu đều được nghe.

    Thiên sứ nhìn với vẻ nghi ngờ, vì vị này hiểu rõ con người như thế nào, nên nói tiếp:

    - Vâng, nhưng nếu Phêrô, Giacôbê và Gioan quên đi thì sao ? Nếu họ mệt mỏi trong sự rao giảng thì sao ? Hoặc nếu những người ở thế kỷ 20 không thực hiện trọng trách thuật lại về câu chuyện tình yêu của Ngài cho họ thì sao ? Như thế thì sao ? Ngài không lập những chương trình khác sao ?

    Chúa Giêsu trả lời:

    - Ta không sắp đặt một chương trình nào khác. Ta đặt tin tưởng nơi họ.

    Chúa Giêsu đã chết để ban cho chúng ta Phúc âm và hiện nay Ngài đang tin cậy nơi chúng ta để chuyển đạt Phúc âm đó đến cho tất cả mọi người.

    Chúng ta hãy làm cho mọi người trên thế giới này được biết và được sống Tin Mừng yêu thương của Chúa. Amen.

    Trong nhật ký, Perpêtua mô tả: “Một ngày thật khủng khiếp! Nóng khủng khiếp vì chật người! Bị lính cư xử tồi tệ! Lại khổ nữa, tôi bị dày vò vì lo lắng cho đứa con... Những mối lo lắng như vậy tôi phải chịu đựng nhiều ngày, nhưng tôi được phép cho con ở trong tù với mình, và được bớt lo lắng về con, tôi hồi phục sức khỏe, nhà tù là cung điện tôi ở và tôi nên ở đó hơn bất cứ nơi nào khác”. Vài ngày sau, Phêlicita sinh một bé gái trước khi bị thú dữ giết chết. Nhật ký của Perpêtua về cảnh tù đày hoàn tất ngày hôm trước bị giết chết. “Về những gì thuộc về trò chơi dã man, hãy để họ viết đó là ai”. Nhật ký của Perpêtua được một nhân chứng hoàn tất thêm. (đoạn cuối cùng này được thêm vào bởi người chia sẻ PVLC ở đây).

    https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-07-03-thanh-nu-perpetua-va-thanh-nu-felicita-53748

     

     

    thánh Pécpêtua và thánh Phêlixita


     

    ThanhPerputua-ThanhFecilia.mp3 

     https://youtu.be/I9vVThCUp4w

     

    --