20. Những Bài Về Đức Mẹ

NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - MẸ NGUỒN CẬY TRÔNG

MẸ NGUỒN CẬY TRÔNG, CHƯA THẤY AI XIN MẸ VỀ KHÔNG

 

Năm 1866, bức Linh Ảnh Đức Mẹ mang tước hiệu Mẹ Hằng Cứu Giúp được Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Pio IX trao cho DCCT với nhiệm vụ quảng bá lòng sùng kính Đức Mẹ, bức Linh ảnh ấy đươc tôn kính tại đền Thánh An Phong, đường Merulana, thành phố Roma, bên cạnh trụ sở trung ương của Hội Dòng. Từ ngày ấy, mỗi bước chân Thừa Sai DCCT đi đến đâu cũng đều được đặt dưới sự bảo trợ của Mẹ Hằng Cứu Giúp, cùng đi với các Thừa Sai, phiên bản bức Linh ảnh được phổ biến khắp nơi.

Năm 1925, ba nhà Thừa Sai đầu tiên DCCT đặt chân đến Huế ( Cha Larouche, cha Cusineau và thầy Barnabe ), trong hành trang của các ngài có phiên bản bức Linh ảnh hay làm phép lạ. Cùng với sự hiện diện của bức Linh ảnh, các Thừa Sai đã nhanh chóng phổ biến các kinh nguyện cầu khấn cùng Mẹ, những lời kinh ngọt ngào, quen thuộc và thân thương với mỗi người dân Việt Công Giáo chúng ta đã được cất lên từ ngày ấy: “Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin che chở mọi kẻ thuộc về con, ban ơn phù hộ cho Đức Thánh Cha, cho Hội Thánh, cho nước con, cho gia đình con, cho kẻ thân nghĩa, kẻ thù nghịch và hết mọi kẻ khốn khó…”, ai trong chúng ta mà chẳng nhớ những lời kinh này.

Trong đời mục vụ, chúng tôi có dịp đi đó đây khắp miền đất nước, từ những Nhà Thờ Chính Toà to lớn đến những ngôi Nhà Nguyện bé nhỏ hun hút nơi vùng sâu, ở đâu chúng tôi cũng bắt gặp phiên bản của bức Linh Ảnh nổi tiếng này, nhìn những bức ảnh được tôn kính chúng tôi biết bước chân của cha anh chúng tôi đã từng đặt đến những nơi đây. Chúng tôi thầm cảm tạ ơn Chúa cùng với sự khâm phục lòng nhiệt thành của cha anh mình.

Câu chuyện “Đức Mẹ lộ hình” tại La Mã Bến Tre là một điển hình. Ngày ấy, hơn 62 năm về trước ( trước năm 1950 ), giữa một vùng sông nước mênh mông, chiến tranh khốc liệt, bức Linh ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp đã xuất hiện một cách lạ lùng ( 5.5.1950 ), kèm theo những phép lạ tỏ tường ( 7.10.1950 ) để cứu vớt che chở người dân quê nghèo khốn khổ ( tìm đọc chuyện Đức Mẹ La Mã Bến Tre ). Ngày nay ngôi Nhà Thờ đã được trùng tu, khuôn viên Nhà Thờ đã được tu bổ, một con đường nhỏ ngang 4 mét vừa được xây dựng để khách hành hương có thể đến với bức Linh Ảnh Đức Mẹ La Mã Bến Tre tương đối dễ dàng, từ Sàigòn nếu di chuyển bằng xe 4 bánh chỉ cần hai tiếng đồng hồ chúng ta đã có thể đến viếng thăm ngôi đền này ( www.ducmelamabentre.com ).

Trong bộ sưu tập về bức Linh Ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp còn một chứng tích tuyệt vời khác nữa. Việt Nam năm 1954, trong hành trình di cư của hàng triệu người từ miền Bắc vào Nam, có một phóng viên đã chụp được cảnh đoàn người di cư, một người phụ nữ lam lũ gồng gánh tất cả mớ gia sản nghèo nàn tả tơi của mình, vậy mà bà đã không quên mang theo bức Linh ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp. Bước chân bà sải đi vững chắc trong niềm tin và cậy trông phó thác trên hành trình hướng về tương lai, ắt hẳn vì Mẹ Hằng Cứu Giúp đang ở cùng bà, ở cùng gia đình bà.

Bức Linh ảnh người phụ nữ xuôi Nam năm ấy mang theo bây giờ ở đâu ? Được tôn kính ở chốn nào chúng ta không có điều kiện để tìm biết.

Thế rồi bây giờ chúng tôi mới biết được thêm một câu chuyện khác, tình cờ nhưng rất thú vị, cũng là một câu chuyện về một người phụ nữ với bức Linh ảnh, cũng là một cuộc di cư vĩ đại khác của 21 năm sau cuộc di cư khổng lồ năm 1954. Nhẩm tính lại, ngày ấy, năm 1954, người phụ nữ trong câu chuyện chúng tôi sắp kể mới chỉ là một em bé 10 tuổi theo cha mẹ chạy vào Nam.

Chị về Việt Nam đã 4 lần nhưng lần này chị mới có dịp đến DCCT, quận 3, Sàigòn, chị liên lạc và giúp đỡ chúng tôi từ lâu nhưng chỉ biết nhau qua thư từ và hình ảnh trên mạng, chị vào thăm Nhà Dòng và trong những câu chuyện chia sẻ, chúng tôi ghi được một câu chuyện lạ lùng thú vị.

Năm 1975, chị có chồng là một sĩ quan không quân đóng tại phi trường Phù Cát, thành phố Quy Nhơn thuộc miền Trung, tháng Tư chiến tranh ác liệt, cả trại gia binh di chuyển vào Sàigòn để lánh nạn, nhưng chẳng bao lâu lại phải tiếp tục di chuyển ra Côn Đảo, anh vẫn tiếp tục trong đội hình chiến đấu của quân đội miền Nam. Không lâu trước ngày Sàigòn thất thủ 30 tháng 4, chị và các chị em khác hoàn toàn mất tin tức chồng, đau buồn và lo sợ.

Ngày ngày chị lang thang một mình ở bãi biển trông ngóng tin chồng, tình cờ một hôm chị nhặt được một tấm bìa báo xuân của một tạp chí Công Giáo nào đó, trên tấm bìa đó còn ghi hàng chữ “Cung chúc tân xuân” cùng với hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp chiếm trọn trang bìa. Tấm bìa trôi dạt ở bãi cát trắng bờ biển, ướt sũng, nhạt nhòa. Chị nhặt lên với tất cả sự tôn kính, mang về khu trại gia binh, hong cho khô và sớm khuya cầu nguyện với bức Linh Ảnh.

Bây giờ nhớ lại, chị kể chị đã hết lòng khẩn khoản nài van Mẹ xin cho được gặp lại chồng. Và chị đã được như ý, khi chị và các con được chuyển đến tạm cư ở đảo Guam, chị đã bất ngờ tìm lại được anh qua hội Hồng Thập Tự Quốc Tế khi mọi sự ngỡ đã hoàn toàn tuyệt vọng. Ai nghe chuyện cũng đều bảo là phép lạ !

Định cư tại Hoa Kỳ, anh chị đã không quên mang theo bức Linh Ảnh kỳ diệu. Chị tiếp tục cầu nguyện với Mẹ Hằng Cứu Giúp xin cho có thêm một cháu gái vì ba cháu đầu đều là trai, một lần nữa, chị lại được như ý. Theo chị kể, lời vật nài cùng Mẹ có nhiều chi tiết thú vị về bé gái chị xin. Vâng, chị đã xin, đã ngỏ lời với tâm tình rất đơn sơ thân mật y như của một người con gái thủ thỉ cùng bà mẹ dấu yêu của mình. Chị đón nhận tất cả những điều ấy như một hồng ân.

Bức Linh Ảnh đó bây giờ chị đóng khung treo trong phòng ngủ, ngay trên đầu giường của chị.

Chị chia sẻ với anh em chúng tôi: bức Linh Ảnh không đẹp vì chỉ là một bức ảnh in trên bìa một tờ báo cũ, lại được vớt lên từ bãi cát bờ biển Côn Đảo, không đẹp vì đã bị ướt rồi hong khô lại, không đẹp vì kỹ thuật in ấn của những năm thập niên 70 tại Việt Nam, nhưng lại đẹp và quý giá tuyệt trần vì bức Linh Ảnh ấy đã xuất hiện trong những ngày tháng chị lao đao hoang mang nhất, cô đơn gian khổ nhất, đẹp vì chị đã mang theo bên mình suốt 37 năm với những lời nguyện cầu to nhỏ, đẹp vì là sự an ủi và cậy trông của cả cuộc đời chị, đẹp vì bức ảnh đã giúp chị cầu nguyện và vững chắc trong Đức Tin, đẹp vì qua bức ảnh chị nhận được quá nhiều ân huệ của Thiên Chúa.

Chị vẫn hằng cầu nguyện với bức ảnh đó: “Xin cho con biết dùng những năm tháng kế tiếp của cuộc đời để phục vụ Chúa trong Hội Thánh tại Việt Nam”.

Xin cám ơn chị Thanh Lịch, Oklahoma, Hoa Kỳ, chị đã làm chứng về tình thương của Chúa qua lời cầu bầu của Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp, Mẹ của tất cả chúng ta…

 

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 6.6.2012 (Ephata 513)

******

NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - MẸ LỘ ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG

  •  
    Chi Tran
    Apr 4 at 1:32 AM
     

    Sứ điệp quan trọng từ Ðức Mẹ Lộ Ðức là khiêm nhường

    1.

    Lourdes là một thành phố nhỏ thuộc dãy núi Pyrénées của Pháp. Nay trở thành nơi hành hương nổi tiếng, do sự kiện Ðức Mẹ đã hiện ra ở đó. Kẻ được Ðức Mẹ chọn để hiện ra là cô Bernadette. Sự kiện bắt đầu xảy ra từ ngày thứ năm 11.2.1858.

    Sự kiện lạ lùng đó được dịch ra tiếng Việt thường gọi là Ðức Mẹ Lộ Ðức.

    2.

    Tôi đã tới Lourdes nhiều lần để cầu nguyện. Ðức Mẹ đã ban cho tôi nhiều ơn ở đó. Nhưng một ơn trọng đại, mà tôi thấy nên nói ra ở đây, để tôn vinh Ðức Mẹ Lộ Ðức, đó là ơn khiêm nhường. Tôi coi đó là sứ điệp hết sức quan trọng Ðức Mẹ gởi cho tôi và cũng cho tất cả mọi con cái Ðức Mẹ.

    Xin được vắn tắt trình bày.

    3.

    Khiêm nhường được đề cao ở sự Ðức Mẹ chọn cô Bernadette.

    Bernadette là người con gái thuộc một gia đình nghèo, chuyên làm thuê làm mướn.

    Bản thân Bernadette lại là đứa trẻ ít học. Chính em cũng nhận mình là đứa trẻ ngu dốt nhất lớp.

    4.

    Khiêm nhường được đề cao ở sự Ðức Mẹ đã chọn một chỗ nghèo nàn để hiện ra.

    Ðức Mẹ đã hiện ra ở một hang đá đơn giản, hoang sơ, thinh lặng, vắng vẻ, nơi chỉ là chốn mấy mục đồng lùa đàn chiên của mình vào để kiếm cỏ và uống nước suối.

    5.

    Khiêm nhường được đề cao ở sự Ðức Mẹ dạy Bernadette hãy mở lòng mình ra cho việc cầu nguyện và suy ngẫm (19-23, 02) cho sự khiêm nhường và đơn sơ (202, 01-03).

    6.

    Khiêm nhường được đề cao ở sự Ðức Mẹ kêu gọi nên có ở nơi đó một nhà nguyện, để hành hương với mục đích cổ võ tình yêu thương với nhau và sự trở về với Chúa.

    7.

    Khiêm nhường được đề cao ở cách Ðức Mẹ nói với Bernadette. Mẹ nói luôn khiêm tốn, nhã nhặn, không có vẻ truyền dạy, mà chỉ là xin vui lòng làm ơn.

    8.

    Khiêm nhường được đề cao ở y phục Ðức Mẹ mặc lúc hiện ra. Lúc nào cũng chỉ là một y phục của một phụ nữ đơn sơ, kín đáo, đoan trang, bình dân, e lệ.

    9.

    Khiêm nhường mà Ðức Mẹ Lộ Ðức dạy tôi đã và đang giúp tôi cảnh giác với thói tự mãn, tự hào thường hay đẩy tôi vào lối sống  ham hư danh, tự cao tự đại.

    10.

    Hơn bao giờ hết, tôi nhớ lại giá trị của khiêm nhường là giá trị nền tảng của đạo đức.

    Luxiphe bị đuổi ra khỏi thiên đàng, phải sa hỏa ngục, vì kiêu ngạo.

    Tổ tông loài người bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, cũng vì kiêu ngạo.

    11.

    Hơn bao giờ hết, tôi rất nhớ lời thánh Phêrô nói“Chúa ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Người chống lại kẻ kiêu ngạo” (1Pr 5, 5).

    12.

    Chúa Giêsu đề cao tình yêu. Tình yêu đó, phải là khiêm nhường, như Chúa đã nêu gương.

    Ðức Kitô đã cứu loài người khỏi tội, nhờ sự khiêm nhường.

    “Ðức Giêsu Kitô,

    Vốn dĩ là Thiên Chúa,

    Mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa

    Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.

    Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2, 6-8).

    13.

    Khiêm nhường, khiêm nhường và khiêm nhường, đó là bài học quan trọng Ðức Mẹ Lộ Ðức đã dạy tôi. Khiêm nhường đem lại cho tôi sự bình an. Xin hết lòng tạ ơn Mẹ.

    14.

    Bài học khiêm nhường là một bài học khó thực hiện, nhất là trong thế giới hiện nay đề cao cái tôi. Xin Mẹ thương giúp tôi và mọi con cái Mẹ biết vượt qua mọi khó khăn, để thực hiện sự khiêm nhường như Ðức Mẹ dạy và đã nêu gương.

    15.

    Có khiêm nhường mới có giá trị nền tảng, để đời sống mỗi người con cái Mẹ sẽ là được Chúa sai đi đem Tin Mừng đến cho kẻ nghèo hèn, khốn khổ.

    16.

    Một điều quan trọng sau cùng tôi muốn nói về sự khiêm nhường của Ðức Mẹ Lộ Ðức, đó là:

    Mẹ không muốn tôi ở lại mãi bên Mẹ, nhưng Mẹ muốn tôi cùng với Mẹ đi về với Chúa trong tinh thần con thảo vâng phục Thánh Ý Chúa.

    17.

    Giáo hội vừa cử hành lễ kính Ðức Mẹ Lộ Ðức, tôi mạo muội nói ra chút tấm lòng đơn sơ chân thành của tôi. Xin cộng đoàn thương cầu nguyện cho tôi là kẻ tội lỗi, hèn mọn. 

    ĐGM GB Bùi Tuần
     “Theo Báo Công giáo và Dân tộc, website: cgvdt.vn”.
     
     

NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC ME - HỘI MÂN CÔI

Hội Mân Côi <This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.>
Bcc:This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
 
 
Feb 25 at 9:30 AM
 

 

Xin kính chuyển nội san SỐNG TIN MỪNG VỚI MẸ - số tháng 3.2019 (hoặc vào đây để tải về máy).

Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta. 

 

Tu viện thánh Martin, ngày 25.2.2019

Đặc trách 

Linh mục FX. Trần Kim Ngọc, OP.

 

 

 
--
-- 
+
Ave Maria.
 
Tổng Đặc trách 
Linh mục FX. Trần Kim Ngọc, OP.
 
Địa chỉ liên lạc
KINH MÂN CÔI DÒNG ĐA MINH VIỆT NAM
Tu viện thánh Martin
1/4 Kp.10 - Tân Biên - Biên Hòa - Đồng Nai
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
điện thoại di động: 0988560042
 
 
 
* ** *** ** *
HÃY SIÊNG NĂNG LẦN HẠT MÂN CÔI 
(Sứ điệp của Mẹ Maria tại Fatima năm 1917)
 
Lạy Mẹ Maria, Nữ Vương Truyền Phép Rất Thánh Mân Côi
Xin Cầu Cho Chúng Con
 

Download all attachments as a zip file

  • THANG 3_2019.docx
    751.4kB
  •  

 

THANG 3_2019.pdf
--------------------------------------

NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ- LỄ TRUYỀN TIN

LỄ TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MẸ

Hienco Tran chuyển

 

Mỗi khi đọc kinh Kính Mừng, tôi lặp lại lời sứ thần Gabriel chào Ðức Maria khi mở đầu cuộc truyền tin: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Ðức Chúa Trời ở cùng Bà.  Mừng vui lên hỡi Ðấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà.”  Ðây chính là lời chúc phúc có ý nghĩa nhất và cũng là lời chúc phúc có giá trị nhất của con người.

 

Quả thế, không có mối phúc nào lớn hơn mối phúc của người được Thiên Chúa ở cùng, của người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa.  Theo sau lời chúc phúc cũng là lời loan báo cho Ðức Maria biết tình trạng ân sủng tuyệt vời của Mẹ.  Sứ thần cho Mẹ biết là Mẹ sẽ thụ thai Con Thiên Chúa. 

 

Ðây quả là một tin hết sức trọng đại khiến Mẹ phải bối rối.  Hơn nữa, Mẹ sẽ thụ thai thế nào đây khi mà Mẹ chưa hề chung chăn gối với ai.  Thắc mắc của Ðức Maria được sứ thần giải đáp bằng một câu trả lời đầy thuyết phục một cách tuyệt đối nhân danh quyền năng của Ðấng Tối Cao, kèm theo là một chứng cớ cụ thể đang xảy ra cho người chị họ của Mẹ. 

Ðối chiếu với các câu Thiên Chúa trả lời cho tổ phụ Abraham, cho ông Môisen hay cho thánh Giuse, chúng ta thấy Thiên Chúa rất tế nhị khi giao tiếp với từng đối tượng để giải đáp thắc mắc của người thiếu nữ.  Người đã chọn cách trả lời giản dị mà có hiệu quả nhất.  Câu trả lời này mang lại cho Ðức Maria sự bình an sâu thẳm.  Mẹ đã sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa trao phó cho Mẹ.  Mẹ đã tiếp nhận được điều chính yếu trong sứ điệp Truyền Tin, Mẹ đã tin tưởng tuyệt đối vào sứ điệp đó và Mẹ sẽ cống hiến hết mình cho điều mình xác tín.

 

Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa gởi sứ điệp có liên quan đến công cuộc cứu độ của Người.  Trong cái đại dương thông tin mênh mông đang ùa tới với chúng ta mỗi ngày, Thiên Chúa vẫn không ngừng nói với chúng ta bằng tiếng nói của con người hôm nay, cung cách giao tiếp của Thiên Chúa vẫn luôn tế nhị, thích ứng với từng đối tượng mà Người muốn ngỏ lời.  Nếu chịu khó lắng nghe, chúng ta sẽ thấy sứ điệp mà Thiên Chúa gửi đến cho mình cũng có những nét tương tự như sứ điệp Truyền Tin cho Ðức Maria.

 

Thay cho lời chào của sứ thần, chúng ta có thể cảm thấy có một cái gì đó lay động linh hồn chúng ta và tạo cho chúng ta một cảm giác thiêng liêng huyền nhiệm.  Trước cảm giác linh thiêng này, có thể chúng ta sẽ bối rối xao xuyến vì không biết chuyện gì đang xảy ra cho tâm hồn mình, chúng ta có thể lờ đi không lưu tâm đến nó nữa.  Và trong trường hợp này, chúng ta sẽ không nhận được phần tiếp theo của sứ điệp. 

 

Nhưng nếu chúng ta để ý lắng nghe, chúng ta sẽ nhận được những sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta.  Ða số các sứ mạng này là những công việc bình lặng trong cuộc sống thường ngày với mục đích đem ơn cứu độ đến cho những người khác.  Nhưng cũng có lúc đó là những công việc có tầm ảnh hưởng lớn hơn, khó thực hiện hơn, và đôi khi vượt quá khả năng của chúng ta.  Những lúc ấy, chúng ta sẽ cảm thấy e ngại vì không biết mình sẽ làm sao để thực hiện lời Thiên Chúa gợi ý.

  Nhưng nếu chúng ta tin tưởng và tiếp tục đối thoại với Thiên Chúa, thì Người sẽ đưa ra cho ta lời giải đáp, và có thể Người sẽ đưa ra cho ta một vài bằng chứng cụ thể để củng cố lòng tin.  Ðến đây, Thiên Chúa chờ đợi lời thưa "Xin Vâng" của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa "Xin Vâng" của Mẹ Maria ngày xưa.

 

*SUY TƯ VÀ HÀNH ĐỘNG: Lạy Mẹ Maria, có những lúc con đã nghe được tiếng Chúa gọi gợi ý cho biết những công việc phải làm, nhưng khi nhìn lại bản thân, con thấy mình chỉ là một con người bé nhỏ, bình thường như bao nhiêu người khác, vì thế, con ngần ngại không dám tiến thân. 

Hôm nay, khi suy niệm về biến cố Truyền Tin, con hiểu ra rằng đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, cũng không có gì là bé nhỏ tầm thường vô giá trị.  NHỜ ƠN  CHÚA GIÚP  từ nay TÔI biết lắng nghe và thực hiện ý Chúa với tâm tình đơn sơ phó thác như Mẹ ngày xưa.

 

Đài Phát Thanh Chân Lý Á Châu

 

20 - Annunciation 3.jpg

NHỮNG BÀI VỀ ĐỨC MẸ - MẸ TẠI TIỆC CƯỚI CANA

Đức Ma-ri-a tại tiệc cưới Ca-na  trong Tin Mừng Gio-an

Đức Ma-ri-a xuất hiện trong Tin Mừng Gio-an hai lần: lần đầu tại tiệc cưới Ca-na (Ga 2,1-12), lần sau tại đồi Cal-vê, dưới chân thập giá Chúa Giê-su (Ga 19,25-27). Đức Ma-ri-a trong Phúc âm thứ tư không được gọi tên như trong Tin Mừng nhất lãm: thay vì gọi đích danh Ma-ri-a, thì tác giả gọi Người là Mẹ Chúa Giê-su. Có lẽ, đó là điểm nổi bật có tính thần học trong Phúc âm Gio-an.

 Đức Ma-ri-a tại tiệc cưới Ca-na

20070227022923!The_Marriage_at_Cana_-_DecaniBối cảnh tiệc cưới xảy ra tại vùng quê Ca-na miền Ga-li-lê (phân biệt với Ca-na miền Coelo-Syria), có sự hiên diện của Đức Ma-ri-a, Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài. Có lẽ Đức Ma-ri-a là một khách mời đặc biệt hoặc có liên quan đến việc tổ chức lễ cưới nên xem ra Đức Ma-ri-a rất lo lắng khi thấy thiếu rượu. Thật vậy, theo phong tục truyền thống Do-thái, đám cưới là một lễ hội rất long trọng và được tổ chức nhiều ngày. Khách mời và gia chủ cùng chia sẻ những ngày tiệc tùng vui vẻ là một cơ hội quan trọng trong đời. Đặc biệt, rượu là một thứ không thể thiếu trong đám cưới vì nó làm tăng niềm vui của khách mời và việc thết đãi rượu thịnh soạn dồi dào là một vinh dự của gia chủ. Hơn nữa, theo văn hóa Đông phương, đãi khách là một nhiệm vụ thiêng liêng, vì thế thiếu thức ăn, nước uống và rượu là một điều xấu hổ cho cô dâu, chú rể. Các Rab-bi thường nói: “Không rượu thì không vui”. Tuy nhiên, say rượu cũng là sự khiếm nhã nên khách mời cũng cần phải chừng mực. Tiếc thay, sự cố không vui đã xảy đến trong tiệc cưới tại Ca-na này: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Đức Ma-ri-a đã nhận ra điều đó và Mẹ đã can thiệp để điều tồi tệ nhất không xảy ra.

1. Sự can thiệp của Đức Ma-ri-a

Rượu là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên niềm vui trong tiệc cưới, nhưng tiếc thay, tiệc cưới Ca-na chưa tàn đã hết rượu. Đức Ma-ri-a đã nhận ra tình hình tồi tệ ấy và đã can thiệp cách chủ động. Tuy nhiên, thái độ và cung cách của Đức Ma-ri-a cho thấy Mẹ thực sự quan tâm đến nhu cầu của người khác và Đức Ma-ri-a đã không yêu cầu cách trực tiếp nhưng bằng một thái độ đức tin và có sự tín thác.

a. Đức Ma-ri-a luôn quan tâm đến nhu cầu của người khác

Đức Ma-ri-a hiện diện trong tiệc cưới Ca-na được tác giả Phúc âm thứ tư diễn tả như một vị khách đặc biệt. Đức Ma-ri-a sát cánh bên Chúa Giê-su và dường như điều ấy làm cho các nhân vật khác trong tiệc cưới trở thành thứ yếu. Tuy Đức Ma-ri-a không tỏ ra là một nhân vật chủ chốt, nhưng điều Mẹ lưu tâm là một công việc quan trọng và cấp thiết, công việc của một ông quản tiệc. Đức Ma-ri-a đã lên tiếng với Chúa Giê-su về tình hình nghiêm trọng xắp xảy đến: thiếu rượu.

Có thể nói, Gio-an đã đặt sự quan tâm của Đức Ma-ri-a về việc thiếu rượu trong tiệc cưới như một dấu chỉ khởi sự dấu lạ đầu tiên của Chúa Giê-su, Đấng được Thiên Chúa sai đến. Vì thế, theo ý định của Gio-an, việc can thiệp của Đức Ma-ri-a hay việc biến nước thành rượu không phải là trọng tâm của biến cố cho bằng việc giới thiệu và minh chứng về Đấng Thiên Sai muôn dân đang mong đợi. Ngài đến để đem ơn cứu độ và đổi mới mọi sự.

Chúng ta sẽ thấy Gio-an thường trình bày các dấu lạ nhắm mục đích thay thế các luật lệ cũ của người Do-thái. Thêm vào đó, khi Chúa Giê-su đến, giáo lý và hệ thống tôn giáo cũ có thể trở nên vô nghĩa nên không thể tồn tại. Do vậy, sự lưu ý của Đức Ma-ri-a về việc thiếu rượu có thể được hiểu theo một nghĩa tượng trưng về tình trạng của dân Do-thái. Trước hết, thiếu rượu được diễn tả như thể “họ đang trở nên trống rỗng và là nạn nhân của những luật lệ vô nghĩa của nhóm biệt phái”[1]

 

. Tiếp đến, nước để dùng trong nghi lễ thanh tẩy theo luật cũ tại tiệc cưới Ca-na không còn cần thiết nữa nhưng giờ đây, nó được thay thế bằng rượu mới thượng hạng là chính Chúa Giê-su. Cuối cùng, khung cảnh tiệc cưới là hình ảnh sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân Người (x. Is 54,4-8; 62,4-5); hình ảnh bữa tiệc cánh chung của Đấng Mê-si-a; và rượu là hình ảnh quen thuộc của tình yêu Thiên Chúa và loài người (x. Is 25,6-9). Chúa Giê-su cũng đã nói về những giáo huấn của Ngài như rượu mới không thể chứa đựng trong bầu da cũ (x. Mt 9,17). Đây chính là lúc cần phải thay thế rượu cũ bằng một thứ rượu mới hoàn hảo hơn.

b. Đức Ma-ri-a luôn tín thác vào quyền năng Thiên Chúa

Wedding-at-Cana-of-GalileeMặc dù trong trình thuật không nói gì đến lý do tại sao thiếu rượu, và dường như người ta cũng thờ ơ về việc đó. Sự thiếu sót trong việc thiếu rượu thuộc trách nhiệm của ông quản tiệc: “Người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu mà không biết từ đâu ra” (Ga 2,9). Tuy nhiên, Đức Ma-ri-a đã nhận ra điều đó. Vai trò của Đức Ma-ri-a lúc này trở nên rất quan trọng, Mẹ đã can thiệp để làm cho tiệc cưới được thêm vui, để cho cô dâu và chú rể không bị bẽ mặt. Cách can thiệp của Đức Ma-ri-a thật nhẹ nhàng thể hiện sự tín thác vào quyền năng Thiên Chúa. Nếu đem so sánh, chúng ta có thể nhận ra hai hình ảnh tương phản: Đức Ma-ri-a đối thoại với Chúa Giê-su (x. Ga 2,3); và lời phàn nàn của ông quản gia với vị tân lang của mình (x. Ga 2,10). Trong khi ông quản tiệc trách cứ tân lang thì lời của Đức Ma-ri-a là một lời “cầu xin”, vừa kín đáo, nhẹ nhàng, vừa thể hiện một niềm cậy trông tín thác. Có thể nói, hình ảnh của Đức Ma-ri-a lúc này thật tuyệt vời, vì Đức Ma-ri-a không đứng ở vị thế của một người Mẹ uy quyền mà ra lệnh và quyết định. Trái lại, Đức Ma-ri-a chỉ gợi ý về hoàn cảnh của gia chủ và để Chúa Giê-su hoàn toàn tự do định liệu. Có lẽ, đó là giờ của Đức Ma-ri-a, giờ Mẹ hiểu rằng đây chính là thời điểm ý Chúa được tôn vinh, và quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện.

Từ giờ phút này, Đức Ma-ri-a được mời gọi vượt lên trên tương quan với Chúa Giê-su như một người Mẹ dẫn dắt con thơ trong tình Mẫu Tử tự nhiên để xuất hiện như người môn đệ. Dù không nói, nhưng cách thức của Đức Ma-ri-a như lời của Gio-an Tẩy giả: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30).

2. Đức Ma-ri-a, người môn đệ đầu tiên

Chúng ta có thể gọi Đức Ma-ri-a là môn đệ đầu tiên và hoàn hảo của Chúa Giê-su không chỉ do chính lòng tin của Mẹ vào Thiên Chúa mà do Đức Ma-ri-a còn làm cho các môn đệ Chúa Giê-su tin vào Người: “Các môn đệ đã tin vào Người” (Ga 2,11). Thật vậy, ngay từ biến cố truyền tin, Đức Ma-ri-a đã tin rằng những điều Chúa phán với Mẹ sẽ thành hiện thực (x. Lc 1,26-38). Đức Ma-ri-a trở thành môn đệ hoàn hảo của Chúa Giê-su ngang qua sự hiện diện âm thầm và luôn lắng nghe tiếng Chúa.

a. Đức Ma-ri-a luôn hiện diện trong âm thầm

Người môn đệ không phải là người đi trước, nhưng luôn theo sau Thầy mình. Chúng ta có lý do để nói rằng sự hiện diện của Đức Ma-ri-a trong tiệc cưới Ca-na như một vị khách độc đáo và danh dự. Có lẽ ở đây, Đức Ma-ri-a là khách mời chính, còn Chúa Giê-su và các môn đệ cùng tháp tùng Mẹ. Tuy thế, Đức Ma-ri-a đã thể hiện sự khiêm tốn và đúng vai trò của mình khi lui lại đằng sau Chúa Giê-su, để qua Chúa Giê-su, vinh quang của Chúa Cha được tỏ hiện và để giờ của Chúa được khởi sự.

Nói cách khác, trong tiệc cưới Ca-na, Đức Ma-ri-a đã thể hiện tư cách mẫu mực của người môn đệ. Từ đó, Mẹ bắt đầu theo Chúa Giê-su trong hành trình rao giảng của Người. Tuy nhiên, Đức Ma-ri-a hiện diện bên Chúa cách âm thầm và gắn bó. Thực ra, không ai có thể chối bỏ mối tương quan khắng khít giữa Chúa Giê-su và Mẹ Ngài. Chúa Giê-su và Đức Ma-ri-a sát cánh như hình với bóng và điều đó nâng đỡ hành trình rao giảng của Chúa Giê-su và hoàn tất sứ mạng Từ Mẫu Con Thiên Chúa của Mẹ. Thánh Phao-lô nói: “Hãy mặc lấy Chúa Ki-tô” (Rm 13,14). Đức Ma-ri-a đã mặc lấy Chúa Ki-tô ngay từ giây phút Mẹ thưa tiếng “xin vâng” (x. Lc 1,38), và Đức Ma-ri-a vẫn còn mặc lấy Chúa trong suốt quãng đường còn lại của đời Mẹ.

Hơn nữa, chính sự hiện diện tuy âm thầm nhưng khăng khít của Đức Ma-ri-a bên Chúa Giê-su là một mẫu gương cho căn tính Ki-tô hữu của chúng ta. Quả thế, “Đức Ma-ri-a nhắc lại cho chúng ta nguồn gốc và căn tính của chúng ta. Cùng với Đức Ma-ri-a, các Ki-tô hữu đã khởi sự hiện hữu như cộng đoàn của những kẻ tin và những kẻ dõi theo bước Chúa Giê-su. Ngoài ra, Đức Ma-ri-a cũng được ca tụng là thành phần tuyệt hảo, là kiểu mẫu đầu tiên và mẫu gương trổi vượt nhất của đức tin và đức ái”[2]

Tóm lại, hình ảnh Đức Ma-ri-a điềm tĩnh trước lời xem ra từ chối của Chúa Giê-su là một minh chứng rõ ràng cho việc Đức Ma-ri-a lắng nghe lời Chúa trong sự xin vâng và tín thác. Đức Ma-ri-a đã gác lại tư cách làm Mẹ qua một bên để cùng Con Mẹ hướng về mục đích phụng sự sứ mạng của Chúa. Theo A. Vanhoye; “Đức Ma-ri-a hoàn toàn chấp nhận định hướng Chúa Giê-su đã tỏ ra khi Mẹ nói chuyện với Chúa. Đức Ma-ri-a đã từ bỏ cấp độ quan hệ với Con Mẹ trước kia và nhận một cấp độ khác vô cùng tích cực. Ảnh hưởng của Đức Ma-ri-a không còn áp đặt lên Chúa Giê-su nhưng được quy hướng về việc phụng sự Ngài”[3]

b. Đức Ma-ri-a luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa

“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5), là lời nói cuối cùng của Đức Ma-ri-a trong Phúc âm Gio-an. Lời nói ấy không chỉ cho thấy Đức Ma-ri-a hiểu rõ Con mình, nhưng còn thể hiện một thái độ tin tưởng và vâng phục như người tôi tớ. Thái độ âm thầm, điềm tĩnh của Đức Ma-ri-a không phải là một sự hụt hẫng thụ động, nhưng là một niềm tin đang thúc bách hành động. Đức Ma-ri-a chờ đợi trong tin tưởng, vì thế phép lạ đã xảy ra.

Thật vậy, Chúa Giê-su chỉ rời gia đình khi Ngài ba mươi tuổi. Trong thời gian trước đó, Ngài sống gắn bó với gia đình, với Mẹ Ngài một cách khắng khít. Chắc chắn giữa Mẹ và Con có nhiều niềm vui, nhiều nỗi lo lắng vất vả chia sẻ với nhau. Vì thế, khi Đức Ma-ri-a mở lời với Chúa Giê-su, dù Mẹ không hiểu Chúa sẽ làm gì, thậm chí còn gặp một phản ứng có vẻ như khước từ thẳng thắn của Chúa (2,4), nhưng Đức Ma-ri-a vẫn hoàn toàn tin tưởng và dặn người giúp việc làm theo ý Chúa. Tin tưởng hoàn toàn ngay cả khi không hiểu, xem ra là một sự liều lĩnh, nhưng thực sự cũng là một kinh nghiệm và hiểu biết chín chắn. Đức Ma-ri-a biết Mẹ tin vào ai và kết quả sẽ như thế nào. Lòng tin của Đức Ma-ri-a là một bài học cho chúng ta. Trong đời sống có khi đen tối không lối thoát, nếu chúng ta biết đặt trọn tin tưởng nơi Chúa, dù không biết Chúa sẽ làm gì, nhưng chắc chắn Chúa sẽ thực hiện những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta.

Bên cạnh đó, thái độ của Đức Ma-ri-a không chỉ diễn tả một niềm tin tuyệt đối nhưng còn biểu lộ sự vâng phục hoàn toàn ý muốn của Thiên Chúa. Lời nhắn nhủ cuối cùng của Đức Ma-ri-a thật ngắn gọn nhưng là một kinh nghiệm dấn thân cả đời Mẹ. Đức Ma-ri-a đã không ngần ngại ban tặng cho chúng ta bí quyết sống của Mẹ. Hãy vâng nghe lời Chúa thì mọi sự tốt đẹp sẽ xảy ra. Trong thực tế, vâng phục ý Thiên Chúa không phải luôn luôn là một đòi hỏi đáp lại những ý định rõ ràng dễ hiểu, nhưng có khi mọi sự ấy chìm trong bóng đêm của những lo lắng và ngờ vực. Vì thế, sự vâng phục đòi hỏi một niềm tin vững vàng và một tâm hồn bén nhạy để lắng nghe những biến cố trong đời và suy đi nghĩ lại trong lòng. “Đức Ma-ri-a đã lắng nghe và đón nhận sứ điệp của tất cả, và trong lúc phục tùng, Đức Ma-ri-a đã trở nên người tớ nữ của Nước Thiên Chúa”[4]

Tóm lại, với tư cách của người môn đệ theo sát chân Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a đã sống một cuộc đời của người nữ tỳ trung tín luôn lắng nghe và thực thi ý Chúa. Sứ điệp về nước Thiên Chúa là sứ điệp của sự hiệp nhất, yêu thương và phục vụ lẫn nhau. Việc làm cho “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,10) là kim chỉ nam hướng dẫn mọi suy nghĩ và hành động của Mẹ. Vì thế, đã có lần Đức Ma-ri-a không chỉ được tuyên dương như một người Mẹ diễm phúc nhưng còn được đề cao với tư cách của người môn đệ hoàn hảo luôn trung tín trong việc lắng nghe và thực thi lời Chúa: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là Mẹ tôi” (Mc 3,35).

 

-----------------------------------