CAC BÀI ĐỘC GIẢ GỞI TỚI - TÀ DÂM GỚI CẦM
- Details
- Category: 21. Các Bài Độc Giả Gửi Tới
TÔI KHÔNG NHƯ THỨ NGƯỜI NÀY
Trần Mỹ Duyệt
Những thứ người này là ai? Tại sao lại bị khinh bỉ?
Dụ ngôn mà Chúa Giêsu nói đến lần này cũng liên quan đến cầu nguyện, cách sống và cách đối xử với những người khác. Trong khi tuần trước Ngài đưa ra một mẫu người kiên trì và lỳ lợm khi cầu nguyện, qua dụ ngôn lần này (Luca 18:9-14),
Chúa lại đưa ra một lối nhìn khác về cầu nguyện: cầu nguyện với lòng khiêm nhường khi so sánh một ông Pharisiêu và một người thu thuế. Cả hai đều cầu nguyện, nhưng kết quả rất khác nhau mà yếu tố chính là sự khiêm nhượng.
Đứng ra là thái độ khi cầu nguyện của người Pharisiêu. Những người này luôn tự cho mình là đạo đức, tốt lành, chăm chỉ giữ nghiêm ngặt các lề luật. Còn người thu thuế đại diện cho những tâm hồn đơn sơ, nghèo nàn, mang hơi hướm tội lỗi, bê bối, khô khan và nguội lạnh. Tuy vậy, mà trong kết luận câu truyện, Chúa Giêsu lại bảo, người thu thuế về nhà được tha, được khỏi tội, được sạch, còn ông Pharisiêu thì không. Tại sao? Hai người này cùng lên đền thờ, cùng cầu nguyện mà một người khiến Thiên Chúa hài lòng, còn người kia thì không, mà người được Chúa hài lòng ấy lại là người thu thuế tội lỗi.
Điều này bắt đầu bằng hai khía cạnh về dụ ngôn: 1) Tự cho mình là công chính, và 2) coi người khác là tội lỗi. Đối với cái nhìn và suy nghĩ của một người Pharisiêu thì không chỉ có người thu thế sau ông mới là những thứ tội lỗi, xấu xa, mà ngay cả Chúa Giêsu cũng không gì hơn. Người cũng bị bọn họ xoi mói, chê bai, và coi thường: “Thầy các anh ăn uống cùng bọn phần thu và tội lỗi….” (Mt 9:11; Mk 2:16)
Trở lại dụ ngôn hai người cầu nguyện, bắt đầu là cả hai cùng lên đền thờ để cầu nguyện. Nhìn thấy hình ảnh này, thoạt nghĩ hai người họ đều sẽ nhận lãnh những kết quả tốt, những phúc lành của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ưa thích việc cầu nguyện, và tỏ lòng xót thương những ai đến kêu cầu Ngài. Nhưng khi vừa mở đầu, thái độ của người Pharisiêu và người thu thuế đã khác nhau. Từ thái độ này dẫn đến những ý thức khi cầu nguyện khác nhau và kết quả cũng khác nhau.
Người Pharisiêu với thái độ đứng thẳng người như họ vẫn thường làm mỗi khi họ cầu nguyện ở trong đền thờ cũng như ngoài phố chợ. Và họ tự cho mình thuộc thành phần công chính, những người tuân thủ cặn kẽ lề luật Maisen. Họ rất coi thường, khinh bỉ những người thu thuế mà họ cho là tội lỗi (Luca 5:30). Chúng ta thấy ở những phần tiếp theo của Phúc Âm, Simon cũng là Pharisiêu đã coi thường người phụ nữ rửa chân và lau chân Chúa. (Luca 7:36-39).
Trong lúc, người thu thuế với tâm tình một người tự nhận mình tội lỗi, không xứng đáng ngửa mặt nhìn lên Thiên Chúa, và dĩ nhiên, cũng không nhìn sang người khác để phê phán, nhòm ngó. Ông tự nhìn mình, đấm ngực mình và chỉ thưa được một câu mà câu ấy thật với lòng mình, và cũng là câu mà Thiên Chúa muốn nghe từ những tội nhân: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ có tội.” (Luca 18:13)
Từ ngữ người thu thế, trong toàn bộ Phúc Âm của Luca, tượng trưng cho thành phần tội lỗi. Hình ảnh xấu xa, tầm thường, thấp cổ bé miệng, buôn thúng bán mẹt, lao động tay chân và trí não, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ, chê bai và khinh thường. Nhưng phải chăng họ không phải là đối tượng của Tin Mừng, đối tượng của ơn cứu độ? Họ chính là những con chiên lạc mà người chăn chiên sẵn sàng bỏ lại 99 con trong đàn để đi tìm cho được. Và khi tìm được thì vác trên vai đem về mở tiệc ăn mừng. Sự trở về của họ còn khiến cả thiên đàng vui mừng: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” (Luca 15:7)
Nếu ông Pharisiêu kia không nhìn xuống người thu thuế bằng ánh mắt kiêu căng, bằng ý nghĩ tự phụ coi mình hơn người, để rồi có lời phê bình, và thái độ chê bai người thu thuế, ông chắc chắn sẽ trọn lành hơn người thu thuế, vì ông đã tuân giữ mọi giới răn và luật lệ một cách hết sức tỷ mỷ. Chẳng những thế mà ông lại còn không “tham lam, gian dối, ngoại tình…”
Dầu vậy qua thái độ của người Pharisiêu cũng dạy chúng ta một điều, nếu ông ta đã chi tiết, tỷ mỷ và tuân thủ các luật Maisen, thì chúng ta cũng phải cố gắng hết sức mình trong đời sống tâm linh, trong cách sống, và trong cách cư xử với người khác. Không được ỷ lại, và tự nghĩ mình không cần phải sửa sai gì. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta về những việc mình phải chu toàn, và những gì tốt đẹp nhất mình có thể làm thì không được bỏ qua.
Hãy về và được chữa lành, được rửa sạch, được tha thứ, được công chính. Đó là những gì Chúa Giêsu cũng sẽ nói với chúng ta, những người biết nhận mình là tội nhân, khuyết điểm mỗi khi đến với Ngài trong tòa cáo giải, mỗi khi đấm ngực tự nhận trong Kinh Cáo Mình: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em. Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót,” trong khi tham dự Thánh Lễ, và mỗi tối xét mình trước khi đi ngủ.
“Lạy Chúa xin thương xót con, vì con là kẻ có tội”. Chúa nghe, Chúa thương xót, và tha thứ. Nhưng như lời Chúa Giêsu đã nói với người thiếu phụ ngoại tình, Ngài cũng muốn nhắc nhở chúng ta: “Hãy đi mà đừng phạm tội nữa.” ( Gioan 8:11)
5 lời kinh được mặc khải ở Fatima mà
người Công giáo nên biết
Phép lạ nổi tiếng nhất trong Giáo hội Công giáo đầu thế kỷ XX chính là những lần hiện ra của Thiên thần và Mẹ Maria với ba đứa trẻ tại Fatima, Bồ Đào Nha. Mẹ đã nhắn nhở các em nhiều thông điệp về sự hoán cải bản thân, cầu nguyện và thêm đó là 5 lời kinh mới.
Lời cầu nguyện đầu tiên thì khá quen thuộc nhưng bốn lời nguyện sau vẫn chưa được biết đến nhiều.
Dưới đây là 5 lời kinh mà ba đứa trẻ được ban cho ở Fatima:
1. Lời kinh Fatima
“Lạy Chúa Giê-su, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn. Amen”.
Đức Maria đã nói với các em rằng mọi người nên đọc thêm lời kinh này sau mỗi chục chuỗi Mân Côi.
2. Lời kinh xin ơn tha thứ
“Lạy Thiên Chúa của con, con tin tưởng, con tôn thờ, con yêu mến và hy vọng nơi Ngài! Con xin Chúa hãy tha thứ cho tất cả những ai không tin tưởng, không tôn thờ, không yêu mến và hy vọng nơi Ngài”.
Lời kinh này được thiên thần truyền cho các em năm 1916, một năm trước khi Đức mẹ hiện ra với các em.
3. Lời kinh của Thiên Thần
“Ôi Chúa Ba ngôi chí Thánh, Cha, Con và Thánh Thần, con tôn thờ Ngài sâu thẳm. Con xin dâng lên Ngài Máu cực thánh, Thân mình, Linh hồn và Thần tính của Chúa Giê-su Ki-tô, đang hiện diện trong tất cả các nhà tạm trên thế giới, để đền bù cho những xúc phạm, báng bổ và thờ ơ đã làm buồn lòng Chúa. Nhờ công đức vô hạn của Thánh Tâm Chúa Giê-su và Trái Tim Vô nhiễm Mẹ Maria, con cầu xin cho các tội nhân được ăn năn trở lại.”
Đây là một lời kinh khác mà thiên thần nói cho các em. Lúc ấy trên không có một Bánh Thánh và Chén Thánh lơ lửng. Thiên thần nói các em quỳ xuống trước hiện tượng ấy và đọc lời kinh này.
4. Lời kinh Thánh Thể
“Lạy Chúa Ba Ngôi chí thánh, con tôn thờ Ngài! Lạy Thiên Chúa của con, Thiên Chúa của con, con yêu mến Ngài trong Bí tích Thánh Thể”. Khi Mẹ hiện ra với các em lần đầu tiên vào ngày 13 tháng 5 năm 1917, Mẹ nói “các con sẽ chịu nhiều đau khổ, nhưng ân sủng Thiên Chúa sẽ là niềm an ủi cho các con”.Theo lời của nữ tu Lucia, một trong ba trẻ thấy Đức Mẹ, một ánh sáng rực rỡ bao quanh họ. Không chần chừ, các em bắt đầu đọc kinh này.
5. Lời kinh Hy sinh
“Lạy Chúa Giê-su, con xin làm việc hy sinh này vì lòng mến Chúa, và để đền đáp tội lỗi xúc phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ và để các tội nhân được hoán cải.”
Các em đã nhận lời kinh này từ Mẹ vào ngày 13 tháng 6 năm 1917. Khi bạn muốn dâng những nỗi khổ đau của mình cho Thiên Chúa, hãy đọc lời kinh này.
-----------------------------------------