25. Chương Trình Phát Thanh Liên Tôn

CT PHAT THANH LÊN TÔN - CAC THẦN HỌC TIN LÀNH

Các nhà thần học Tin Lành viết 16 tiểu luận ca ngợi Thần học của Đức Bênêđíctô thứ 16
 
J.B. Đặng Minh An dịch
11/Jan/2020


Các nhà thần học Tin Lành nổi danh trên thế giới đã viết 16 tiểu luận đánh giá cao Thần học của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16. Các tiểu luận này được Tim Perry, một mục sư Anh giáo và cũng là một giáo sư Đại Học biên tập lại thành cuốn “The Theology of Benedict XVI: A Protestant Appreciation” - “Thần học của Đức Bênêđíctô XVI: Một đánh giá cao của Tin Lành”. Cuốn sách được bán rộng rãi trên thế giới từ ngày 30 tháng 10, 2019.

Tác giả Thomas Carr có bài nhận định về cuốn sách này đăng trên Catholic Herald ngày 9 tháng Giêng với nhan đề “The Protestant thinkers who love Benedict XVI” – “Các nhà tư tưởng Tin Lành yêu mến Đức Bênêđíctô XVI”.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.


Thần học của Đức Bênêđíctô XVI: Một đánh giá cao của Tin Lành

Biên tập: Tim Perry

Nhà xuất bản Lexham Press, 272 trang, £20.99 / $25.89




Thần học của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 không phải là điều dễ dàng để thấu hiểu. Vấn đề trước hết là khối lượng quá lớn. Trong thời gian đảm nhận các chức vụ giáo sư thần học, tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, và Giáo Hoàng, Đức Bênêđíctô đã viết hơn 70 cuốn sách, ba thông điệp, ba tông huấn, và vô số bài báo, diễn từ và bài giảng. Thứ hai, có rất nhiều chủ đề được ngài đề cập đến, nhiều đến mức khó có thể (nếu không muốn nói là không thể) gắn kết thần học của Đức Bênêđíctô với một phạm trù truyền thống cụ thể nào. Phải chăng ngài là một nhà thần học Kinh thánh? Một nhà thần học chính trị? Một nhà đạo đức? Một chuyên gia về phụng vụ? Tất nhiên, ngài làm tất cả những công việc này và còn nhiều hơn nữa.

Cuốn “Thần học của Đức Bênêđíctô XVI” thực hiện tốt công việc trao cho chúng ta một số chìa khóa để có thể hiểu khái quát toàn bộ công việc của vị Giáo Hoàng đã nghỉ hưu. Cuốn sách được biên tập bởi Tim Perry, một mục sư Anh giáo và là một giáo sư, là người đã cho ra mắt các ấn phẩm như “The Legacy of John Paul II” – “Di sản của Đức Gioan Phaolô II”, và “Mary for Evangelicals” – “Đức Maria đối với người Tin Lành”, cho thấy sự quan tâm mạnh mẽ của ông đối với đạo Công Giáo. Cuốn sách mới này bao gồm 16 bài tiểu luận của các nhà tư tưởng Tin Lành, xen kẽ giữa những lời tựa và lời bạt được viết bởi các nhà thần học Công Giáo. Được chia thành hai phần chính là thần học tín lý và thần học phụng vụ, các bài tiểu luận đề cập đến các chủ đề như đức tin và lý trí, khoa chú giải Kinh thánh, nhân chủng học thần học, Kitô học, Chúa Ba Ngôi, Đức Maria, Bí tích Thánh Thể, cầu nguyện và phụng vụ. Phẩm chất các bài viết dao động từ những tiểu luận hết sức xuất sắc (như các chương về phương pháp thần học của Kinda Sonderegger, hay phụng vụ và Kinh thánh của Peter Leithart khiến cuốn sách đáng đồng tiền bát gạo) cho đến những tiểu luận hời hợt. Nhưng ngay cả những bài tiểu luận yếu hơn cũng truyền cảm hứng cho người đọc muốn quay lại đọc các tác phẩm của vị Giáo Hoàng đã nghỉ hưu.

Điều đáng ngạc nhiên là giai điệu tổng thể của các bài tiểu luận này là cảm tình dành cho Đức Bênêđíctô. Các tín lý đặc thù Công Giáo, như bản chất hy tế trong bí tích Thánh Thể và tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm, được giải thích, thậm chí còn được bảo vệ, theo quan điểm của Đức Bênêđíctô. Chỉ trích cũng có nhưng rất là hiếm. Chúng ta có thể thấy các tác giả thường xuyên ca ngợi Đức Bênêđíctô, đặc biệt là thần học đặt Chúa Kitô ở vị trí trung tâm của ngài và lòng trung thành với Kinh thánh. Độc giả thậm chí sẽ lưu ý đến sự ngỡ ngàng nhất định của một trong các tác giả khi ông đề cập đến “vẻ đẹp kỳ lạ của Công Giáo”.

Các tác giả xem ra cảm thấy đặc biệt hấp dẫn trước sự phụ thuộc của người Công Giáo vào Huấn Quyền như là có tiếng nói chung cuộc về tín lý. Người Tin Lành muốn Kinh Thánh và chỉ có Kinh Thánh đóng vai trò đó (sola Scriptura). Nhưng như Sonderegger than thở, điều này “khiến cho thẩm quyền trong các tín điều hiện đại trở nên một nhiệm vụ phức tạp và không thể hoàn thành”.

Hai chủ đề chính nổi lên từ cuốn sách này. Thứ nhất, “nhiệm vụ thần học cấp bách nhất” đối với Đức Bênêđíctô là việc phục hồi chức năng của lý trí như một điều cần thiết cho sự rành mạch của đức tin. Ngài dạy rằng đức tin không có lý trí là một đức tin không có sự thật. Cuốn sách chỉ ra rằng các nhà thần học Tin Lành như Karl Barth và Rudolf Bultmann, nối gót theo Kant, đặt ra những giới hạn cho lý trí, và muốn tách lý trí khỏi đức tin. Họ xem Tin Mừng như một cuộc gặp gỡ cá vị hơn là sự thật khách quan. Ngược lại, Đức Bênêđíctô cho rằng điều cần thiết không phải là giảm đi lý trí nhưng trái lại là “một sự mở rộng luận lý hơn nữa”, đến mức “tái Hy Lạp hoá” Tin Mừng Kitô giáo. Đối với ngài, lý trí là điều cần thiết cho đức tin vì lý trí đặt cơ sở cho niềm tin nơi “sự thật của bản thể”.

Chủ đề thứ hai là một câu hỏi được độc giả Công Giáo quan tâm, đặc biệt trong thời đại tranh luận kỹ thuật số này: Đức Giáo Hoàng danh dự là một nhà thần học cấp tiến hay một người theo chủ nghĩa truyền thống? Hầu hết các tác giả, hoàn toàn đúng, khi đặt Đức Bênêđíctô gần với đường biên bảo thủ hơn trong quang phổ đó. Điều này đặc biệt trở nên rõ ràng trong phản ứng của Đức Bênêđíctô đối với Công Đồng Vatican II. Theo Đức Bênêđíctô, các tài liệu của Công Đồng, đặt con người và cộng đồng nhân loại, chứ không phải là Chúa Kitô và Thiên Chúa Ba Ngôi, ở trung tâm những suy tư của Giáo Hội. Đức Bênêđíctô muốn đảo ngược ưu tiên đó. Giáo Hội, theo ngài, phải được hướng dẫn bởi mặc khải của Chúa Kitô như được trình bày trong Kinh Thánh, chứ không phải bởi các khoa học thế tục. Điểm bắt đầu của thần học không phải là các nhu cầu xã hội của con người nhưng phải là chính đời sống nội tại của Thiên Chúa; thần học phải bắt đầu với sự chiêm niệm về “bản thể Ba Ngôi” hơn là “công việc của Ba Ngôi” trong dòng lịch sử.

Đức Bênêđíctô như một nhà vô địch của chính thống tỏa sáng trong cuốn sách này. Ngài tấn công vào tất cả một chuỗi dài từ Hegel đến Marx rồi đến thần học giải phóng – mà ngài lập luận rằng đó “không phải là thần học giải phóng nhưng là thoát ly khỏi thần học”.

Đặc biệt thấm thía là các cuộc thảo luận về sự thất bại của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa tương đối nhằm vạch ra một sự hiểu biết thực sự về Kinh Thánh khi “con người không còn hứng thú trong việc khẳng định chân lý, nhưng chỉ quan tâm đến những gì có lợi cho chương trình nghị sự cụ thể của họ”.

Độc giả nào mong muốn tìm hiểu xem đâu là nguồn gốc những niềm đam mê thần học của Đức Bênêđíctô – triết học theo Thánh Augustinô của ngài, những mối quan hệ phức tạp của ngài đối với trường phái Thánh Tôma Aquina, ảnh hưởng của Thánh Phaolô thấm vào rất nhiều suy nghĩ của ngài – có lẽ sẽ thất vọng. Nhưng những người quan tâm đến một phác họa đại thể, và đặc biệt quan tâm đến sự tiếp nhận của người Tin Lành với toàn bộ công việc của ngài, sẽ thấy đáng đọc bộ sưu tập các bài tiểu luận tuyệt vời này của Tim Perry.


Source:Catholic Herald
 
 

© 2019 - VietCatholic Network - Designed by J.B. Đặng Minh An

CT PHÁT THANH LIÊN TÔN - VATICAN CHÍNH THỐNG GIÁO

Tiết lộ kinh ngạc: Nga quyết định xây dựng “Vatican của Chính Thống Giáo”
 
Đặng Tự Do
06/Jul/2019
 
Trong một quyết định gây kinh ngạc cho nhiều người Chính Thống Giáo Mạc Tư Khoa đã quyết định xây dựng một “Vatican của Chính Thống Giáo” tại khu vực Sergiyev Posad.

Nhật báo Vedomosti cho biết các quan chức Giáo Hội Chính Thống Giáo Mạc Tư Khoa đã có những tiếp xúc với chính quyền địa phương tỉnh Sergiyev Posad từ năm 2017 và phương án cuối cùng đã được chính phủ Nga thông qua.

Sergiyev Posad là nơi có tu viện Chúa Ba Ngôi Lavra do thánh Sergius xây dựng, và từ lâu đã được coi là trung tâm tâm linh của Chính Thống Giáo Nga.

Tu viện này được thành lập vào năm 1345 bởi Thánh Sergius thành Radonezh, là người đã từng xây dựng một nhà thờ bằng gỗ trên đồi Makovets để tôn vinh Chúa Ba Ngôi. Tu viện này đã được ban cấp tư cách Lavra nghĩa là tu viện cổ kính vào năm 1744.

Theo kế hoạch, Giáo hội Chính Thống Giáo Nga sẽ coi tu viện hiện nay như một kiểu Đền Thờ Thánh Phêrô và lên kế hoạch xây dựng các tòa nhà lớn bao quanh tu viện, theo mô hình của Vatican, nhưng có thêm một vài nét cảm hứng từ Giêrusalem của Do Thái Giáo và Mecca của Hồi Giáo.

Phương án này đòi hỏi tái cấu trúc lại thành phố Sergiyev Posad, chia nó thành các khu vực tâm linh, dân cư và hành chính.

Thị trưởng Mikhail Tokarev ước tính dự án sẽ tiêu tốn khoảng 140 tỷ rúp, tức là khoảng 2 tỷ đô la, và sẽ chiếm một phần ba trung tâm thành phố.


Source:Romfea News

PHAT THANH LIÊN TÔN - VẤN ĐỀ ĐẠI KẾT

ĐTC Phanxicô Tông Du Romania

trả lời phỏng vấn truyền thông

trên chuyến bay về Roma ngày 2/6/2019

 

 

Pope Francis answers questions during the inflight press conference as he returns from Romania

 

Pope Francis aboard the papal plane returning from Romania June 2, 2019. Credit: Andrea Gagliarducci/CNA.

 

 

Về ý nghĩa của đại kết:

Đại kết không tiến đến chỗ kết thúc cuộc chơi, cuộc bàn luận. Đại kết là việc cùng nhau bước đi, sánh vai tiến bước, cùng nhau nguyện cầu... Việc đại kết về nguyện cầu. Trong giòng lịch sử chúng ta có thứ đại kết máu huyết (the ecumenism of blood). Khi họ sát hại Kitô hữu họ đâu có hỏi Ngươi có phải là tín hữu Công giáo hay chăng? Ngươi có phải là tín đồ Chính Thống giáo hay chăng? Ngươi có phải là tín hữu Tin Lành hay chăng? Không, họ hỏi ngươi có phải là Kitô hữu hay chăng! Và máu huyết này đã được hòa lẫn với nhau. Đó là thứ đại kết về chứng từ (the ecumenism of witness). Việc đại kết khác, đại kết về cầu nguyện, đại kết về huyết nhục... tới đại kết về người nghèo, những việc đại kết đi với nhau.Chúng ta cần phải hoạt động để giúp đáp người đau yếu, người bệnh nạn, chẳng hạn, thành phần hèn mọn ở ngoài rìa, ở bên dưới cả mức nghèo khổ nữa, cần được giúp đỡ. "Mathêu đoạn 25" là một chương trình có tính cách đại kết, từ Chúa Giêsu mà có. Cùng nhau tiến bước thì đó đã là mối hiệp nhất Kitô giáo, chứ đừng đợi cho tới khi các thần học gia đồng ý tiến tới chỗ hiệp thông. Mối hiệp thông hằng ngày xẩy ra ở nơi việc cầu nguyện, ở nơi việc tưởng nhớ đến các vị tử đạo, ở các hoạt động bác ái xã hội, và thậm chí ở việc yêu thương nhau.

Về nạn chính trị băng hoại:

Chính trị ở nhiều nhiều xứ sở đang mắc phải cơn bệnh băng hoại. Khắp nơi. Khắp chốn.... Chúng ta cần giúp cho thành phần chính trị gia trở nên chân thành, không vận động bằng những lá cờ bất lương, vu khống, phỉ báng, gương mù..., và thường gieo rắc ghen ghét hận thù và lo âu sợ hãi. Đó là những gì khủng khiếp, một chính trị gia không bao giờ được, luôn gieo rắc hận thù ghen ghét và lo âu sợ hãi.

Về tính chất của Truyền Thống:

Mỗi lần tôi đến thăm ngài (ĐGH Biển Đức XVI) tôi đều cảm thấy thế (ngài là người ông trong gia đình), tôi cầm lấy tay của ngài và hỏi han ngài. Ngài nói chút ít, nói chầm chậm, thế nhưng bao giờ cũng sâu sắc, vì vấn đề của Đức Biển Đức là ở đầu gối của ngài, chứ không phải ở đầu. Ngài rất tỉnh táo, bao giờ cũng thế. Khi tôi nghe ngài nói tôi trở nên vững mạnh.

Truyền thống giống như một thứ cội rễ cống hiến cho chúng ta tinh túy để tăng trưởng và nhờ đó các bạn sẽ trở thành như những gốc rễ, không phải thế! Các bạn nẩy nở, các bạn tăng trưởng, các bạn sinh trái, và các bạn là những hạt giống để làm gốc rễ cho người khác. Truyền thống của Giáo Hội bao giờ cũng ở thể động.

Trong cuộc phỏng vấn do Andrea Monda thực hiện trong Tờ L'Osservatore Romano mấy ngày trước đây (các bạn có đọc Tờ L'Osservatore Romano không?), đã có một trường hợp liên quan đến nhạc sĩ Gustav Mahler tôi cảm thấy rất thích. Khi nói đến truyền thống, ông bảo rằng truyền thống là bảo đảm viên của tương lai chứ không phải là kẻ giữ nắm đống tro tànNó không phải là một bảo tàng viện. Truyền thống không bảo trì những thứ tro tàn; nỗi nhung nhớ của thành phần cực đoan đó là việc trở về với đống tro tàn. Không, truyền thống là những cội rễ bảo đảm cho cho việc cây cối tăng trưởng, nở hoa và sinh trái. Tôi xin lập lại câu nói của một thi sĩ Á Căn Đình mà tôi rất thích, đó là: "Tất cả những gì cây có được nơi sự nẩy nở đều xuất phát từ những gì nó có được dưới lòng đất".

https://www.catholicnewsagency.com/news/full-text-of-pope-francis-in-flight-press-conference-from-romania-53358

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tuyển dịch tóm gọn

PHAT THANH LIÊN TÔN - PHÁI ĐOÀN THƯỢNG PHỤ

Phái đoàn Tòa Thượng Phụ Constantinople sang Tòa Thánh dự lễ hai thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ
 
Đặng Tự Do
25/Jun/2019
Từ thời xa xưa Giáo Hội Roma đã có truyền thống cử hành lễ trọng kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô trong cùng một ngày. Tiếp tục truyền thống đó, lúc 9:30 sáng thứ Bẩy 29 tháng Sáu, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự thánh lễ tại quảng trường Thánh Phêrô. Dịp này, ngài cũng làm phép dây Pallium cho các vị Tổng Giám Mục chính tòa được bổ nhiệm trong 12 tháng qua.

Theo một truyền thống tốt đẹp giữa Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo, hàng năm Tòa Thượng Phụ Constantinople gởi một phái đoàn sang Rôma vào ngày 29 tháng Sáu để tham dự lễ hai thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, bổn mạng của Giáo Hội Công Giáo. Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo cũng gởi phái đoàn sang Istanbul vào ngày 30 tháng Mười Một để mừng lễ thánh Anrê, bổn mạng của Giáo Hội Chính Thống.

Năm nay, phái đoàn Tòa Thượng Phụ Constantinople được hướng dẫn bởi Ðức Tổng Giám mục Telmissos Job, đại diện Ðức Thượng Phụ Constantinople tại Hội đồng Ðại kết các Giáo Hội. Ngài cũng là Đồng chủ tịch Ủy ban hỗn hợp quốc tế về Ðối thoại thần học giữa Công Giáo và Chính Thống.

Sáng ngày 28 tháng Sáu, Ðức Thánh Cha sẽ tiếp kiến phái đoàn và ngày hôm sau, phái đoàn sẽ tham dự Thánh lễ do Ðức Thánh Cha chủ sự.

Không chỉ “tham dự” mà thôi, các vị trong phái đoàn Chính Thống Giáo đóng một vai trò quan trọng trong lễ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Chẳng hạn như trước khi bắt đầu thánh lễ vị trưởng phái đoàn Chính Thống Giáo sẽ đi cùng với Đức Thánh Cha xuống hầm mộ Thánh Phêrô. Hai vị sẽ cùng cầu nguyện tại đây trước khi các dây Pallium được đưa lên từ đây.

Trên toàn thế giới có khoảng 260 triệu tín hữu Chính Thống Giáo thuộc 15 Giáo Hội độc lập với nhau là các Giáo Hội Constantinople, Alexandria, Antiôkia, Giêrusalem, Georgia, Cyprus, Bảo Gia Lợi, Serbia, Nga, Hy Lạp, Ba Lan, Rumani, Albania, Cộng Hòa Tiệp và Slovakia, và Ukraine.

Giáo hội Chính Thống Constantinople là Giáo hội Chính thống lâu đời nhất và Ðức Thượng Phụ Constantinople là Giáo chủ danh dự của toàn thể 15 Giáo hội Chính Thống.

Cuộc Đại ly giáo đầu tiên trong Kitô giáo đã diễn ra hơn 900 năm trước. Sự lạnh nhạt ngày càng tăng từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 11 giữa Giáo hội Đông phương có trụ sở tại Constantinople và Giáo Hội Công Giáo có trụ sở tại Rôma đã dẫn đến cuộc Đại ly giáo năm 1054, chia rẽ những người theo Chúa Kitô thành Chính thống giáo Đông phương và Công Giáo Tây phương.

Mong muốn hàn gắn xuất phát từ Giáo Hội Công Giáo vào thế kỷ 20 với Công đồng Vatican II, diễn ra từ 1962 đến 1965. Tuy nhiên, cần phải có sự can đảm, cởi mở và tầm nhìn xa của hai nhà lãnh đạo vĩ đại từ cả hai phía để phá bỏ những xấu hổ và tai tiếng tích lũy hơn 900 năm. Sự kiện lịch sử này đã diễn ra vào ngày 5 tháng Giêng năm 1964, khi Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục và Đức Thượng Phụ Đại kết Athenagoras của Constantinople gặp gỡ và ôm hôn nhau ở Giêrusalem.

Kể từ đó, hai Giáo hội đã tham gia đối thoại để tiến đến hiệp thông hoàn toàn.


Source:Vatican News

CHƯƠNG TRÌNH LIÊN TÔN- ĐẠI KẾT

Đức Phanxicô tại Lỗ Ma Ni: Đại Kết, Kinh Lạy Cha và Thánh Mẫu
 
Vũ Văn An
31/May/2019
Theo tin CNA, ngay ngày đầu tiên tới Lỗ Ma Ni, cũng như Thánh Mẫu Maria mau mắn đi thăm người chị em họ Elizabeth, Đức Phanxicô đã vội vã đi thăm người anh em của ngài là Đức Thượng Phụ Daniel của Giáo Hội Chính Thống Lỗ Ma Ni.



Dịp này, ngài nói rằng người Công Giáo và người Chính Thống Giáo liên kết với nhau bằng “gia tài chung” cùng chịu đau khổ với Chúa Kitô từ thời các tông đồ tới thời các tử đạo ngày nay.

Ngài nói: “Biết bao vị tử đạo và người tuyên xưng đức tin! Trong những năm tháng gần đây, biết bao người, thuộc đủ các tín phái, đã đứng cạnh nhau trong các nhà tù để lần lượt hỗ trợ nhau”.

Ngài nói thêm: “Điều họ chịu đau khổ cho, thậm chí đến hy sinh mạng sống của họ cho, là một gia tài quá qúi giá không thể bỏ qua hay làm nhơ. Đó là gia tài chung và nó mời gọi chúng ta sống gần gũi các anh chị em cùng chia sẻ nó”.

Trong một cuộc gặp gỡ Đức Thượng Phụ Daniel và Thánh Công Đồng của Giáo Hội Lỗ Ma Ni ở Bucharest, Đức Phanxicô làm nổi bật việc các người Công Giáo và Chính Thống Giáo từng chịu đau khổ với nhau như thế nào dưới chế độ Cộng Sản Lỗ Ma Ni.

Trong 3 ngày viếng thăm nước này, Đức Phanxicô sẽ phong thánh cho 7 vị giám mục Công Giáo Hy Lạp của Lỗ Ma Ni bị Cộng Sản sát hại trong các năm từ 1950 tới 1970.

Ngài nói tại Tòa Thượng Phụ rằng “Các nối kết đức tin đang hợp nhất chúng ta có từ thời các Tông đồ, các nhân chứng của Chúa Giêsu phục sinh, và cách riêng từ dây liên kết giữa Thánh Phêrô và thánh Andrê, các vị mà theo truyền thống đã đem đức tin tới lãnh thổ này. Là anh em ruột, các vị cũng là anh em cách phi thường trong việc đổ máu ra vì Chúa.

“Các vị nhắc nhở chúng ta rằng có một tình anh em máu mủ đi trước chúng ta và, như một dòng suối ban sự sống tuôn tràn suốt nhiều thế kỷ, đã không bao giờ ngưng nuôi dưỡng và nâng đỡ chúng ta trong cuộc hành trình của mình”.

Đức Phanxicô lẽ dĩ nhiên không quên những đau khổ và thiệt thòi mà Giáo Công Giáo Hy Lạp của Lỗ Ma Ni vốn phải chịu dưới thời Cộng Sản và cả ngày nay nữa khi các tài sản của Giáo Hội bị tich thu và chưa được hoàn trả đầy đủ. Nhưng ngài vẫn khuyến khích “việc hành trình với nhau”, nhớ đến gốc rễ chứ không nhớ đến các thiệt thòi quá khứ.

Ngài nói “Việc nhớ đến các biện pháp đã đưa ra và cùng nhau hoàn tất sẽ khuyến khích chúng ta tiến về tương lai trong khi biết, chắc chắn như thế, các khác biệt của chúng ta, nhưng trên hết, trong lòng cảm tạ vì bầu khí gia đình lại tìm lại được và ký ức hiệp thông lại được phục sinh, một ký ức hiệp thông, giống một ngọn đèn, có thể soi sáng đường chúng ta đi”.

Ngài cầu xin “Chúa Thánh Thần đổi mới chúng ta, vì Người ghét sự độc dạng nhưng thích lên khuôn sự hợp nhất từ sự đa dạng hết sức tươi đẹp và hoà hợp. Xin Người, Đấng tạo nên sự mới mẻ, làm cho chúng ta được can đảm khi trải nghiệm những cách thế chia sẻ và truyền giáo chưa từng có”.



Kinh Lạy Cha tại Nhà Thờ Chính Tòa Chính Thống Bucharest

Từ Tòa Thượng Phụ, Đức Phanxicô đã tới viếng Nhà Thờ Chính Tòa mới của Giáo Hội Chính Thống tại Bucharest.
Theo VaticanNews, tại đó, ngài đã nói về Kinh Lạy Cha và cùng đọc kinh này với anh em Chính Thống Giáo. Ngài nhấn mạnh khi đọc “Lạy Cha chúng con” chúng ta luôn nối kết chữ “Cha” với chữ “chúng con”.

Ngài bảo chúng ta được mời gọi biến chữ “con” thành chữ “chúng con” khi chúng ta xin Chúa giúp chúng ta coi trọng đời sống của anh chị em chúng ta, biến lịch sử của họ thành lịch sử của chúng ta, không bao giờ phán xét họ vì các hành động và hạn chế của họ, nhưng chào đón họ như con trai con gái của Người: không bao giờ quên ơn phúc của người khác”.

Khi ta đọc “ở trên trời”, ta phải nghĩ tới trời như một nơi chào đón mọi người, trong đó, Chúa Cha cho mặt trời mọc trên người tốt và người xấu, trên người công chính và người bất chính”.

“Nguyện danh Cha cả sáng”, theo Đức Giáo Hoàng, có ý nói tới sự kiện chúng ta ước nguyện ‘làm sáng’ danh Cha bằng cách đặt danh này ở tâm điểm mọi điều chúng ta làm.

Đức Giáo Hoàng nói: xin cho danh Cha, lạy Cha, chứ không phải danh chúng con, trở thành Danh thúc đẩy và đánh thức trong chúng con việc thi hành bác ái. Vì, theo Đức Phanxicô, khi cầu nguyện, chúng ta vẫn thường xin ơn và liệt kê đủ thứ yêu cầu, mà quên rằng điều đầu tiên nên làm là ca ngợi Danh Người, thờ lạy Người, và nhìn nhận nơi anh chị em, những người Chúa đã đặt bên cạnh chúng ta, một hình ảnh sống động của chính Chúa.

Đức Giáo Hoàng nói rằng “giữa mọi điều chóng qua trong đó chúng con bị vướng víu này, lạy Cha, xin Cha giúp chúng con tìm kiếm điều thực sự bền lâu: sự hiện diện của Cha và sự hiện diện của anh chị em chúng con”.

Về câu “Nước Cha trị đến”, Đức Giáo Hoàng nói rằng chúng ta cầu mong nước Thiên Chúa ngự đến vì chúng ta thấy các việc làm của thế giới này không thuận lợi cho nước đó, vì chúng loay hoay với tiền bạc, lợi ích và quyền lực bản thân. Với lời cầu xin này, chúng ta xin Cha giúp chúng ta tin điều mình xin: từ bỏ sự an toàn êm ái của quyền lực, những rù quyến lừa đảo của tính thế gian, những cao ngạo phù phiếm của lòng tự mãn, sự giả hình trong việc chỉ vun xới vẻ bề ngoài.

Còn câu ‘ý Cha thể hiện’, theo Đức Giáo Hoàng, bao hàm việc chúng ta phải mở rộng các chân trời của mình, “kẻo chúng ta đặt chính các giới hạn riêng của chúng ta” lên “ý thương xót, cứu vớt muốn ôm lấy mọi người” của Thiên Chúa.

‘Bánh ăn hàng ngày’ chính là Thiên Chúa, Đấng vốn là bánh ban sự sống “bánh làm chúng ta hiểu ra rằng chúng ta là con trai con gái yêu qúi, và làm chúng ta cảm thấy không còn cô độc và mồ côi nữa”.
Người cũng là “bánh phục vụ, được bẻ ra để phục vụ chúng ta, và yêu cầu chúng ta phục vụ lẫn nhau”.

Chúng ta cũng xin được “bánh tưởng nhớ, tức ơn thánh biết chăm dưỡng các gốc rễ chung của bản sắc Kitô hữu của chúng ta”, một bản sắc mà Đức Giáo Hoàng cho là hết sức thiết yếu trong một thời đại trong đó, đặc biệt người trẻ, “có xu hướng cảm thấy không có gốc rễ giữa nhiều bất trắc của cuộc sống, và không có khả năng xây dựng cuộc sống của họ trên các nền tảng vững chắc”.

Xin cho bánh ấy, đang được gieo giống, vun xới và thu gặt, linh hứng cho chúng ta trở thành những người vun xới hiệp thông đầy kiên nhẫn “không ngờ vực hay dè dặt, không gây áp lực hay đòi phải độc dạng, trong niềm vui huynh đệ của tính đa dạng hòa giải”.

Đức Giáo Hoàng cũng nhắc nhớ rằng “bánh chúng ta xin hôm nay cũng là bánh mà rất nhiều người ngày nay đang thiếu thốn, trong khi một số ít có nhiều hơn cần thiết”.

Ngài còn cho rằng “Kinh Lạy Cha là lời kinh khiến chúng ta bất an và lên tiếng phản đối cơn đói tình yêu trong thời ta, phản đối chủ nghĩa duy cá nhân và lòng dửng dưng”.

‘Nợ, tha, sự dữ, cám dỗ’ được Đức Giáo Hoàng nhận định: phải can đảm mới có thể xin tha nợ vì điều này ngụ hàm ta phải tha nợ mà người khác mắc chúng ta.

Ở đây, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh, ta xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta chịu để quá khứ lại phía sau, không chiều theo sợ hãi, không coi cởi mở như một đe dọa.

Và ngài kết luận khi sự dữ trong lòng ta làm chúng ta bị cám dỗ muốn quay lưng khỏi người khác, chúng ta cầu xin Cha giúp chúng ta “nhận ra nơi mỗi người anh chị em chúng ta một nguồn hỗ trợ trong hành trình chung của chúng ta tiến về Người”.
Ngài nói, xin linh hứng trong chúng con lòng can đảm cùng đọc với nhau: Lạy Cha chúng con...

Đức Mẹ, mô hình gặp gỡ và hân hoan



Nói đến Đại Kết tại một đất nước đại đa số theo Chính Thống Giáo, không điều gì thích đáng hơn là nói về Đức Mẹ. May mắn thay, ngày đầu tiên trên Đất Lỗ Ma Ni Chính Thống Giáo rơi vào đúng Lễ Thăm Viếng, nên trong Thánh Lễ cử hành tại Nhà Thờ Chính Tòa Thánh Giuse ở Bucharest, Đức Phanxicô đã say sưa nói về Đức Mẹ như là mô hình lữ hành, gặp gỡ và hân hoan.

Theo VaticanNews, trước nhất Đức Phanxicô nói tới cuộc hành trình của Đức Mẹ tới nhà Elizabeth. Ngài bảo đó là cuộc hành trình thứ nhất, trong nhiều cuộc hành trình tiếp theo, sẽ dẫn Đức Mẹ tới đồi Canvariô. Mọi cuộc hành trình này đều có chung một điểm: “chúng không dễ dàng; chúng luôn đòi lòng can đảm và sự nhẫn nại”.

Đức Mẹ của chúng ta biết lên dốc khó khăn như thế nào. “Ngài biết cuốc bộ mỏi mệt xiết bao và ngài sẵn sàng nắm tay chúng ta trong những lúc khó khăn”. Chiêm ngưỡng Đức Mẹ giúp ta “hướng con mắt ta về phía rất nhiều phụ nữ, các người mẹ và các người bà của lãnh thổ này, những người, qua các hy sinh, tận tụy và bỏ mình âm thầm của họ, đang định hình cho hiện tại và chuẩn bị đường cho các giấc mơ ngày mai. Sự hy sinh của họ là một sự hy sinh lặng lẽ, kiên trì và không đươc ai ca ngợi”.

Mô hình thứ hai của Thánh Mẫu là gặp gỡ: Đức Mẹ gặp gỡ người chị em họ Elizabeth, một phụ nữ trẻ đi gặp một phụ nữ lớn tuổi hơn, một việc được Đức Phanxicô gọi là “đi tìm gốc rễ. Ở đây, người trẻ và người gìa gặp nhau, ôm hôn và đánh thức những điều tốt đẹp nhất của nhau”. Ngài bảo đây là “một phép lạ do nền văn hóa gặp gỡ đem lại, trong đó, không ai bị vứt bỏ hay bị kỳ thị, nhưng ai cũng được tìm kiếm, vì ai cũng cần thiết trong việc biểu lộ gương mặt của Chúa”.

Nền văn hóa gặp gỡ thúc giục Kitô hữu chúng ta “trải nghiệm chức làm mẹ lạ lùng của Giáo Hội, khi Giáo Hội tìm kiếm, che chở và qui tụ con cái mình. Trong Giáo Hội, khi các nghi lễ gặp nhau, khi điều quan trọng nhất không phải là sự thống thuộc của riêng mình, nhóm hay sắc tộc, mà là Dân cùng nhau ca ngợi Thiên Chúa, thì những điều kỳ diệu sẽ xẩy ra. Phúc cho những ai tin và có can đảm cổ vũ gặp gỡ và hiệp thông”.

Mô hình thứ ba: Đức Mẹ hân hoan vì ngài mang Chúa Giêsu trong lòng dạ ngài. Đức Phanxicô nói rằng “không có niềm vui, chúng ta sẽ mãi tê liệt, làm nô lệ cho sự bất hạnh của mình”.

Ngài bảo “Đức tin phất phơ khi chỉ biết trôi qua trong buồn bã và ngã lòng. Khi chúng ta sống trong bất tín, khép kín vào chính mình, chúng ta nói ngược nói ngạo với đức tin. Thay vì nhận ra rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa mà vì chúng ta Người thực hiện những điều kỳ diệu, chúng ta giản lược mọi điều vào các nan đề của chính chúng ta”.

Đức Giáo Hoàng nói rằng đó chính là nơi chúng ta tìm thấy bí quyết của niềm vui: “Đức Mẹ, thấp hèn và khiêm nhường, khởi từ sự cao cả của Thiên Chúa và bất chấp các nan đề của ngài, không ít đâu, ngài tràn đầy niềm vui, vì ngài phó thác cho Chúa trong mọi sự. Ngài nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa luôn có thể làm các kỳ công nếu chúng ta chịu mở lòng mình ra với Người và với các anh chị em của chúng ta”.

Đức Giáo Hoàng kết luận: “Đức Mẹ lữ hành, gặp gỡ và hân hoan vì ngài mang một điều lớn hơn chính ngài: ngài là người mang sự chúc phúc”.