3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC - THỨ BA CN5MC-A

 

  •  
    nguyenthi leyen
    Mon, Mar 30 at 8:48 PM
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng

     
    5 PHÚT LỜI CHÚA   

    31/03/20 THỨ BA TUẦN 5 MC
    Ga 8,21-30

    THẬP GIÁ TÌNH YÊU

         BỮA TIỆC LỜI CHÚA

    “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ nhận biết là Tôi Hằng Hữu.” (Ga 8,28)

    SỐNG THẬP GIÁ: “Thập giá là cửa sổ sâu thẳm nhất, thật sự nhất, chắc chắn nhất trong trái tim và tính cách của Thiên Chúa hằng sống và yêu thương” (Nhà thần học N. Wright).

    -Thập giá là địa điểm và cũng là phương cách Đức Giê-su cho thấy Ngài yêu con người cho đến tận cùng, ở mức độ cao nhất: yêu thương đến độ sẵn lòng hiến sự sống mình cho họ. Ngài đã chẳng từng bảo các môn đệ rằng mình có thể xin Cha sai 12 đạo binh thiên thần đến cứu mình sao? (x. Mt 26,53).

    -Thập giá cũng là cung cách cho thấy Cha sẵn sàng ban tặng cho nhân loại Người Con Một của mình vì yêu thương. Khi Đức Giê-su bị giương cao trên cây thập giá, con người sẽ nhận ra căn tính đích thực của Ngài:

    Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống, là Đấng Hằng Hữu. Đấng Hằng Hữu ấy sẽ kéo mọi người ra khỏi nơi diệt vong, đưa vào Nước Trời hạnh phúc.

    Mời Bạn CHIA SẺ: “Hãy nhìn vào thập giá và bạn sẽ biết một linh hồn có ý nghĩa thế nào với Chúa Giê-su” (Mẹ Têrêxa Calcutta).

    *Bạn đừng ảo tưởng đi theo Chúa Giê-su mà không phải vác thập giá, hy sinh từ bỏ, chiến đấu can trường.

    *Linh hồn bạn được cứu chuộc bằng giá Máu Thánh Ngài, bạn hãy nỗ lực sống cho xứng đáng.

    Sống Lời Chúa: Tôi thay đổi cái nhìn về thập giá, không coi thập giá là điều phải tránh, nhưng sẵn sàng đón nhận. NHỜ THÁNH THẦN THÚC ĐẨY  con LUÔN vui vẻ vác thập giá ơn gọi, đời mình theo Chúa, vì muốn trở nên giống Chúa. Amen.

    GPCANTHO
     

 

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC- THỨ HAI CN5MC-A

  •  
    Tinh Cao
     
    Sun, Mar 29 at 3:42 PM
     
     

    Thứ Hai CN5MC-A

     

    THAM DỰ BỮA TIỆC Lời Chúa

                                                                         

    Bài Ðọc I: Ðn 13, 1-9. 15-17. 19-30. 33-62 (Bài dài)

    "Ðây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi".

    Trích sách Tiên tri Ðaniel.

    Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa, vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.

    Năm đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về những kẻ ấy rằng: "Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ lão, là những người xem ra như cai quản dân chúng". Các ông năng lui tới nhà ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Ðến trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ trong vườn của chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong vườn, thì phải lửa dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn muốn đưa mắt nhìn lên trời và không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.

    Hai ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm trước nữa, bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: "Hãy mang dầu và thuốc thơm cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm".

    Khi hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà Susanna và nói: "Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn".

    Bà Susanna thở dài và nói: "Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!" Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.

    Ngày hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna, hai vị kỳ lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: "Các người hãy đi tìm bà Susanna, con ông Helcia, vợ của ông Gioakim". Người ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.

    Khi hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà Susanna thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa. Hai vị kỳ lão nói: "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng". Dân chúng tin lời hai ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và là thẩm phán, nên họ lên án tử hình cho bà.

    Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".

    Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà này". Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa gì?" Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà".

    Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: "Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão". Ðaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho".

    Khi hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: "Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính". Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây chò". Ðaniel liền nói: "Ðúng là ông nói dối. Ðây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông". Ðaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Ðaniel nói với ông này rằng: "Hỡi dòng giống Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Ðaniel liền nói: "Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông".

    Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan.

    Ðó là lời Chúa.

     Hoặc đọc bài vắn này: Ðn 13, 41c-62 từ chỗ "họ lên án tử hình cho bà"

     

    Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

    Ðáp: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 5ab).

    Xướng: 1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

    2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

    3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

    4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

     

    Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b

    Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

     

    Phúc Âm: Ga 8, 1-11

    "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

    Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Image result for john 8, 1-11

     

    SỐNG VÀ CHIA SẺ

        

    nếu chính Chúa Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến

    thì Người không phải là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng Cứu Thế của nhân loại    

     

    Ngày Thứ Hai trong Tuần V Mùa Chay vẫn tiếp tục với bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, bài Phúc Âm chất chứa lời Chúa Giêsu tự làm chứng về Người.

    Nếu bài Phúc Âm tuần trước cả dân chúng lẫn thành phần lãnh đạo đều chia rẽ nhau về nguồn gốc của Chúa Kitô thì tuần này Người tự mình chính thức làm sáng tỏ nguồn gốc thần linh của Ngưòi. Nếu tuần trước Người nói Người không tự làm chứng về mình thì tuần này Người không thể không tự làm chứng về Người bởi không ai biết Người bằng chính Người.

     

    Thật vậy, tuần trước, các bài Phúc Âm nói chung theo Thánh ký Gioan, cách riêng bài Phúc Âm cho Thứ Năm của tuần trước ấy, Chúa Giêsu đã không tự chứng hay chưa tự làm chứng về Người: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà là minh chứng về mình bằng 3 chứng từ khác nhau liên quan đến bản thân và nguồn gốc của Người: 
     
    1- Chứng từ thần linh liên quan đến Cha là Đấng đã sai Người: "Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực"; 
     
    2- Chứng từ nhân loại liên quan đến Tiền Hô Gioan Tẩy Giả: "Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật"; 
     
    3- Chứng từ Thánh Kinh liên quan đến mạc khải thần linh: "Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống".
     
    Tuần này, ngay ở bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần, Chúa Giêsu bắt đầu chính thức và công khai tự làm chứng về Người và cho Người, vì tự Người và chính Người là "chân lý", là "sự thật" (Gioan 14:6), một chân lý tỏ mình ra như ánh sáng không thể nào không soi chiếu, nên ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay Người đã ngang nhiên và trịnh trọng tuyên bố: "với những người biệt phái rằng: 'Tôi là sự sáng thế gian. Ai theo Tôi sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".
     
    Tất nhiên, khi Người xưng mình ra như thế, đối với trần gian thì có vẻ như Người khoe khoang, ngạo mạn, nên một giòng điện dương khi chạm phải cùng một giòng điện dương chắc chắn không thể nào không tóe lửa, nghĩa là vì cho Người tỏ ra khoe khoang ngạo mạn như thế mà thành phần bản chất vốn khoe khoang ngạo mạn thính giả của Người bấy giờ là "những người biệt phái" đã không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố của Người: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".
     
    Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã biện minh cho việc Người tự làm chứng về Người và cho Người là những gì hoàn toàn chân thực và chính xác, qua chính câu Người trả lời cho thành phần không tin Người và không chấp nhận lời tuyên bố của Người: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".
     
    Thật vậy, nếu chính Chúa Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến thì Người không phải là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng Cứu Thế của nhân loại, mà chỉ là một trong thành phần con người thuần túy chúng ta, thành phần thuần nhân cho tới chết cũng chưa hoàn toàn biết mình, bởi thế vẫn liên tục sa ngã phạm tội là những gì sai lạc, không đúng sự thật về bản thân họ cũng như không đúng sự thật Thiên Chúa muốn nơi họ và cho họ, và chính vì thế họ chỉ được giải phóng cho đến khi họ nhận biết sự thật mà thôi (xem Gioan 8:32).
     
    Muốn biết mình thực sự là ai thì con người cần phải biết mình "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu", chứ không phải chỉ biết mình "từ đâu tới" song chẳng biết mình sẽ "đi đâu" là đủ biết mình một cách chân thực và chính xác. Chẳng hạn, theo đức tin của mình, Kitô hữu chúng ta tin rằng, về nguyên ủy, hay nguồn gốc, "từ đâu tới" chúng ta được dựng nên từ hư vô, bởi được Thiên Chúa yêu thương, nhưng trong cuộc sống, về cùng đích "đi đâu" là nơi chúng ta sẽ tới và cần phạt đạt tới, chúng ta lại sống như thể không có đời sau, không có Thiên Chúa, chỉ luôn tìm kiếm và theo đuổi những gì thuộc về hạ giới hợp với xác thịt của chúng ta hơn là Nước Trời và thay vì vĩnh phúc trường sinh bất diệt.
     
    Chúa Giêsu thật sự biết được Người "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu": Người từ Thiên Chúa mà tới, Đấng đã sai Người tới: "Thày từ Cha mà đến và đã đến trong thế gian(Gioan 16:28), và vì thế nơi Người "đi đâu" không còn chỗ nào khác ngoài chính nơi Cha của Người muốn Người tới, nghĩa là Người được sai đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, chứ không phải làm theo ý của Người, đúng như Người đã tuyên bố với người Do Thái: "Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai tôi" (Gioan 6:38). 
     
    Mà ý của Cha là nơi Người phải tới, mà Người phải làm theo và chu toàn đây là gì, chính Người cũng biết rõ ràng và chắc chắn Người mới có thể làm theo đúng và đáp ứng thật: "Ý muốn của Đấng đã sai Tôi đó là Tôi không được làm mất một sự gì Ngài đã ban cho Tôi, trái lại, Tôi phải làm cho nó sống lại trong ngày sau hết" (Gioan 6:39). 
     
    "Ngày sau hết", trong câu Chúa Giêsu nói đến ở đây, chúng ta thường hiểu về ngày tận thế, nhưng ở đây có thể hiểu là chính thời điểm của Người, một thời điểm "viên trọn" (Galata 4:4), thời điểm "sau hết" Thiên Chúa đã tỏ mình ra nơi chính Người là Con của Ngài theo giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái là lịch sử mà mạc khải thần linh đã được Thiên Chúa từ từ tỏ hiện cho đến tột đỉnh nơi Chúa Giêsu Kitô vào thời "sau hết" như Thánh Phaolô viết ở ngày đầu Thư Do Thái của thánh nhân (xem Do Thái 1:1-3).
     
    "Sống lại", cũng trong lời Chúa Giêsu nói ở đây, là "sống lạivào "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) tức là vào "ngày sau hết", một "sống lại" trước hết và trên hết về phần hồn của con người đã bị hư đi theo nguyên tội và từ nguyên tội, một "sống lại" bởi cuộc Vượt Qua của Người, khi Người tỏ hết mình ra để bằng cuộc phục sinh của mình, Người chẳng những chiến thắng tội lỗi và sự chết mà còn thông ban sự sống và Thánh Linh cho chung nhân loại qua Giáo Hội của Người mà đầu tiên ở nơi các tông đồ của Người (xem Gioan 20:21-23).
     
    Về nguồn gốc của Chúa Kitô, tức về xuất xứ của Người "từ đâu đến", đã trở thành sự kiện then chốt và đã từng làm cho dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo của họ nói riêng chia rẽ hết sức trầm trọng, như trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần vừa rồi cho thấy, thì về nơi "đi đâu" của Người hay về việc Người "đi đâu" lại càng là một mầu nhiệm vô cùng bí ẩn, họ làm sao biết được và cũng không thể nào biết được. 
     
    Cho dù Người có nói ra chăng nữa, như Người đã từng tiết lộ cho các môn đệ thân tín của Người ba lần, mà các vị vẫn "không thể nào đến được", hiểu được, đúng như Người đã quả quyết với các vị như đã quả quyết với dân Do Thái (xem Gioan 13:33), chứ chưa nói gì đến chuyện các vị có thể đến được nơi Người "đi đâu", cho đến khi Người đi dọn chỗ cho các vị trở về đón các vị đi với Người (xem Gioan 14:2-3). 
     
    Đó là lý do Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thành phần thính giả của Người biết lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người về chính bản thân Người là Đấng đã biết rõ về mình, "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", chỉ vì: 
     
    "Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".
     
    Trong câu này, Chúa Giêsu chẳng những cho thính giả của Người bấy giờ thấy được lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người là vì họ "xét đoán theo xác thịt" chứ không theo chân lý, mà còn cho họ thấy rằng chứng từ của Người là đúng, vì theo nguyên tắc thì chứng của hai người là chứng thật, và vì thế chứng từ của Người là xác thực bởi cả có 2 người làm chứng là chính bản thân Người lẫn Cha của Người là Đấng đã sai Người làm chứng cùng một điều về Người. 
     
    Và chính vì Chúa Giêsu nại đến Cha của Người là một trong hai người làm chứng về Người nên Người đã được thành phần thính giả của Người thách thức đặt vấn đề: "Cha của ông đâu?", Đấng mà Người đến "để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) qua bản thân Người, đến độ "ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9), nên Người đã cho thành phần thính giả chất vấn Người về Cha của Người rằng: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".
     
    Bài Đọc 1 hôm nay được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên về câu chuyện của bà Suzanna công chính nhưng bị mang đi ném đá chết bởi bà bị kết án theo luật căn cứ vào chứng từ của 2 người chứng, một chứng từ gian dối nhưng hoàn toàn lấn át lời tự chứng của người phụ nữ nạn nhân đáng thương này, chẳng khác nào như Chúa Giêsu tự làm chứng cho mình mà chẳng ai tin vào Người vậy.
     
    Trước hết là lời chứng của hai nhân chứng, tức là của hai lão già đang giữ vai trò làm thẩm phán trong dân thường sử dụng ngôi nhà rộng rãi sang trọng của vợ chồng bà để xử các vụ kiện cáo của dân chúng, đã âm mưu chiếm hưởng thân xác kiều mỹ hấp dẫn của bà khi bà đang tắm kín đáo một mình trong vườn nhà của bà vào một buổi trưa nóng bức:
     
    "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng".
     
    Sau nữa là lời chứng của chính đương sự bị tố cáo là bà Suzanna, như Bài Đọc 1 cho biết, "bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa", và khi bị hai tên "thẩm phán kỳ lão" ở Babylon "phải lửa dục mê đắm... mất lương tâm" rình mò bà và bất ngờ tấn công tình dục bà, nhưng bà đã cương quyết chống trả bất chấp số mệnh ra sao thì ra
     
    "Bà Susanna thở dài và nói: 'Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!' Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà".
     
    Thế nhưng, chỉ cần căn cứ vào chứng của hai người, mà hai chứng nhân này lại là hai vị thẩm phán đáng kính có tuổi và có thế trong dân thì người vợ thủy chung với chồng và kính sợ Thiên Chúa chỉ có chết, đến độ dân chúng mù quáng cả tin cả nể chẳng cần nghe bà thanh minh gì cả đã "lên án tử hình cho bà"
     
    Khi bị lên án tử rồi, người đàn bà đáng kính đáng phục này chỉ còn biết kêu đến trời và phó thác mọi sự trong tay Ngài là Đấng bà kính sợ và tin tưởng, Đấng bà đã không sợ chết mà xúc phạm đến Ngài, nhất định không chịu chiều theo ý muốn nhục dục của hai lão già gian ác tồi bại, Đấng duy nhất có thể thấy được tất cả sự thật: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".
     
    Nếu bên đối phương tấn công bà có hai nhân chứng, và như Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay cũng có 2 nhân chứng về Người là chính bản thân Người và Cha của Người, thì người đàn bà nạn nhân vô tội bị oan ức này cũng có đủ 2 nhân chứng, đó là chính bản thân bà, vì bà biết bà hơn tất cả mọi người khác biết về bà, một sự thật về bà đúng như Thiên Chúa là nhân chứng thứ hai biết về bà. Bởi thế, Thiên Chúa cũng đã nhúng tay vào làm chứng về bà, như Bài Đọc 1 cho biết tiếp như sau:
     
    "Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: 'Còn tôi, tôi không vấy máu bà này'. Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: 'Lời mi nói có ý nghĩa gì?' Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: 'Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà'".
     
    Phải, Thiên Chúa đã sử dụng một trang thiếu niên trẻ trung đứng ra xét sử hai lão già thẩm phán trong dân, để chẳng những chứng tỏ cho dân của Ngài thấy rằng: 1- ai tin vào Ngài sẽ được Ngài chở che bênh đỡ, và 2- "bóng tối không thể nào át được ánh sáng" (Gioan 1:5): 
     
    "Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan".
     
    Không biết khi được Thiên Chúa minh oan cho, bà Suzanna đã cảm thấy ra sao, nhưng chắc chắn tâm can của bà đã trải qua một cảm nghiệm thần linh rất sâu xa lạ lùng: "Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương", và từ đó tấm lòng tri ân cảm tạ của bà đã trào dâng lên những tâm tình càng tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa hơn: "dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con", đúng như trong Bài Đáp Ca hôm nay:
     
    1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. 
     
    2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. 
     
    3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
     
    4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. 

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

    MC.V-2.mp3  

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHry_d988afAZqVom46D-ONxT7OcpE%2BndQF8D6_thW7L5Q%40mail.gmail.com.
     
     

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC - THỨ BẢY CN4MC-A

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Sat, Mar 28 at 5:04 AM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng

     
    5 PHÚT LỚI CHÚA 

    28/03/20 THỨ BẢY TUẦN 4 MC
    Ga 7,40-53

     BẠN CÓ THÁI ĐỘ NÀO?

    THAM DỰ BỮA TIỆC LỜI CHÚA

    “Sau đó, ai nấy trở về nhà mình.” (Ga 7,53)

    TẤM BÁNH LỜI CHÚA BẺ RAĐứng trước Đức Giê-su, người ta có nhiều cách đáp lại khác nhau. Nghe lời giảng của Ngài, có nhiều người nhìn nhận Ngài là Đấng Ki-tô, hay là một ngôn sứ.

    Nhưng cũng có lắm kẻ không tin vì định kiến về dòng tộc, quê quán của Ngài, thậm chí đã có người định bắt Người. “Dấu hiệu chống đối” Đức Giê-su (x. Lc 2,34) đặc biệt nổi bật trong hàng ngũ các thượng tế và người Pha-ri-sêu. Những người lính được lệnh bắt Ngài đã trở về tay không, do say mê lời giảng của Ngài, chấp nhận bị  thượng cấp khiển trách, thậm chí bị kỷ luật nữa.

    Ông Ni-cô-đê-mô đã can đảm đứng lên biện hộ cho Đức Giê-su, cho dù tiếng nói của ông chỉ là thiểu số không đủ để thuyết phục phe chống đối Ngài.

    Mời Bạn CHIA SẺ: Ngày nay Thầy Giê-su vẫn còn mang thân phận ngôn sứ nơi những người bị bách hại, bị loại trừ. Họ là những người đấu tranh cho tự do và công lý, các tín hữu bị bách hại vì niềm tin, những vị chủ chăn bị bách hại vì bênh vực quyền sống của con người, cũng như các giá trị Tin Mừng.

    Họ là những người dám nói lên sự thật như bác sĩ Li Wenliang để cảnh báo sự lây lan của dịch bệnh do Covid-19 gây ra.Còn bạn, bạn thuôc nhóm người nào: tin nhận hay chối bỏ Thầy Giê-su?

    Bạn có dám sống theo lương tâm và bênh vực công lý, can đảm lội ngược dòng để đứng về phía người cô thế bị hàm oan?

    Sống Lời ChúaTập lắng nghe và tìm hiểu kỹ về tha nhân trước khi nhận xét họ như Lời Chúa dạy.

    Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con một tâm hồn khôn ngoan và nhạy bén, để đón nhận chân lý mạc khải, những dấu chỉ thời đại, và yêu thương anh chị em của con. Amen.

     gpcantho
     

 

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC - SỰ SỐNG LẠI -CN5MC-A

 

  •  
    nguyenthi leyen
    Sat, Mar 28 at 9:30 PM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng

     
    5 PHÚT LỜI CHÚA

    29/03/20 chúa nhật tuần 5 mc – a
    Ga 11,1-45

    Sẽ không bao giờ phải chết!
    THAM DỰ BỮA TIỆC LỜI CHÚA

    Thầy là sự sống lại và là sự sống… Chị có tin thế không?” (Ga 11,26)

    Suy niệm/SỐNG: Chúa Giê-su làm cho anh La-da-rô. Tất cả câu chuyện rất phong phú về tình tiết và súc tích về nội dung này kết tinh ở sứ điệp mà Đức Giê-su trao cho cô Mác-ta:Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.”

    Mời Bạn ĂN-NHAI VÀ NUỐT LỜI CHÚA: Nếu bạn đã từng bàng hoàng trước cái chết của một người thân, và đã từng có lúc xao xuyến trước cái chết nhất định sẽ xảy đến với chính mình ở cuối đường đời này, thì sứ điệp trên kia dành cho bạn đó. Đức Giê-su là sự sống lại và là sự sống.

    Sẽ thật vô nghĩa nếu đó chỉ là chuyện riêng của Ngài, mặc kệ Ngài, cùng lắm là từ xa ta gửi cho Ngài ‘tấm thiệp’ chúc mừng (hằng năm, khi kết thúc Tuần Thánh, có lẽ?) – còn ta, ta cứ an phận mà chết trong vô vọng, thậm chí chết ngay khi còn đi, đứng, khóc, cuời trên cõi đời này! Không,

    Đức Giê-su là sự sống lại và là sự sống, đó là chân lý có liên quan đến khát vọng sống vĩnh cửu của mỗi người chúng ta. Bởi vì Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.” 

    Vâng, đối với người tin vào Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi, và cái chết chấm dứt cuộc sống này chỉ là cánh cổng họ bước qua để đi vào đời sống vĩnh cửu. Vấn đề duy nhất là: Bạn có tin thế không?

    Sống Lời Chúa: Hôm nay, bạn thỉnh thoảng thầm thĩ – như một lời nguyện tắt – câu thưa của cô Mácta sau đây:

    Cầu nguyện: Lạy Thầy Giê-su, con tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian. (Ga 11,27)

     gpcantho
     

 

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC - NỘI NGUYỄN - CN5MC-A

  •  
    Jerome Nguyen Van
     
    Fri, Mar 27 at 5:30 PM
     
     

    SỐNG VÀ CHIA SẺ BỮA TIỆC LỜI CHÚA

    ----oooOooo----

    CHÚA NHẬT V MÙA CHAY NĂM A (29/03/2020)

     

    CHÚA GIÊ-SU LÀM CHO LA-DA-RÔ SỐNG LẠI

    VÌ CHÚA LÀ SỰ SỐNG

    "Ta là sự sống lại và là sự sống,

    ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống.

    Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ "

     

    I. DẨN VÀO LỜI CHÚA

    Cơn dịch cúm corona virus đang hòanh hành khắp thế giới giúp nhân loại cảm nghiệm được sự mong manh của mạng sống con người. Một con virus bé tẻo teo làm cho cả thế giới phải điên đảo. Loài người nhận ra rằng mình không phải là chủ của sự sống....

    Trải nghiệm quý báu này giúp các Ki-tô hữu hiều hơn về ý nghĩa phép lạ Chúa Giê-su làm cho ông La-da-rô sống lại tại Bê-ta-ni-a cách đây hơn hai ngàn năm.

    II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 11,1-45:  Khi ấy, có một người đau liệt tên là La-da-rô, ở Bê-ta-ni-a, làng quê của Ma-ri-a và Mar-tha. (Ma-ri-a này chính là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Em trai bà là La-da-rô lâm bệnh). Vậy hai chị sai người đến thưa Chúa Giê-su rằng: "Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt". Nghe tin ấy, Chúa Giê-su liền bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển".

    Chúa Giê-su thương Mar-tha và em là Ma-ri-a và La-da-rô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: "Chúng ta hãy trở lại xứ Giu-đê-a". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?" Chúa Giê-su đáp: "Một ngày lại chẳng có mười hai giờ sao? Nếu ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì người ta thấy ánh sáng mặt trời; nhưng kẻ đi ban đêm sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng". Người nói thế, rồi lại bảo họ: "La-da-rô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức ông". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, nếu ông ta ngủ, ông sẽ khoẻ lại". Chúa Giê-su có ý nói về cái chết của La-da-rô, nhưng môn đệ lại nghĩ Người nói về giấc ngủ. Bấy giờ Chúa Giê-su mới nói rõ: "La-da-rô đã chết. Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông". Lúc đó Tô-ma, cũng có tên là Đi-đi-mô, nói với đồng bạn: "Chúng ta cũng đi để cùng chết với Người".

    Đến nơi, Chúa Giê-su thấy La-da-rô đã được an táng bốn ngày rồi. (Bê-ta-ni-a chỉ cách Giê-ru-sa-lem chừng mười lăm dặm). Nhiều người Do-thái đến nhà Mar-tha và Ma-ri-a để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giê-su đến, Mar-tha đi đón Người, còn Ma-ri-a vẫn ngồi nhà. Mar-tha thưa Chúa Giê-su: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy". Chúa Giê-su nói: "Em con sẽ sống lại". Martha thưa: "Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại". Chúa Giê-su nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Bà thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian".

    Nói xong bà về gọi Ma-ri-a em gái bà và nói thầm với em rằng: "Thầy ở ngoài kia, Thầy gọi em". Nghe vậy, Ma-ri-a vội vàng đứng dậy và đi đến cùng Chúa. Vì lúc đó Chúa Giê-su chưa vào trong làng, Người còn đang đứng ở nơi Mar-tha đã gặp Người. Những người Do-thái cùng ở trong nhà với Ma-ri-a và an ủi bà, khi thấy bà vội vã đứng dậy ra đi, họ cũng đi theo bà, tưởng rằng bà đi ra khóc ngoài mộ. Vậy khi Ma-ri-a đến chỗ Chúa Giê-su đứng, thấy Người, bà liền sấp mình xuống dưới chân Người và nói: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây, thì em con không chết". Khi thấy bà khóc nức nở và những người Do-thái theo bà cũng khóc, Chúa Giê-su thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Đã an táng La-da-rô ở đâu?" Họ thưa: "Thưa Thầy, xin đến mà xem". Chúa Giê-su rơi lệ. Người Do-thái liền nói: "Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!" Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: "Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?" Chúa Giê-su lại xúc động; Người đi đến mộ. Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giê-su bảo: "Hãy đẩy tảng đá ra". Mar-tha là chị người chết, thưa: "Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày". Chúa Giê-su lại nói: "Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giê-su ngước nhìn lên và nói: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con". Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: "La-da-rô! Hãy ra đây!" Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giê-su bảo: "Hãy cởi ra cho anh ấy đi".

    Một số người Do-thái đến thăm Ma-ri-a, khi được chứng kiến những việc Chúa Giê-su làm, thì đã tin vào Người.


    III. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 9,1-41:

    3.1 Chúa Giê-su rất thân thiết với ba chị em nhà Mát-ta, Ma-ri-a, và La-da-rô: Đó là nết nổi bật đàu tiên của tường thuất phép lạ. Chúa Giê-su thường ghé thăm gia đình này trong hành trình truyền giáo của mình, Chúa Giê-su luôn được đón tiếp ân cần và trọng thị bởi hai người phụ nữ tên Mát-ta và Ma-ri-a. Chúa Giê-su thực sự là người bạn thân thiết của cả ba chị em nhà Mát-ta, Ma-ri-a và La-da-rô.

    3.2 Phép lạ Chúa Giê-su làm cho ông La-da-rô sống lại chứng tỏ quyền năng của Người trên sự sống của con người. Cũng nhờ phép lạ ấy mà nhiều người Do-thái tin vào Chúa Giê-su.  

    3.3 Trong câu truyện này có một nét độc đáo về văn hóa của người Do-thái mà không phải người giáo dân nào cũng biết. Đó là theo quan niệm của người It-ra-en thời Chúa Giê-su, người phụ nữ Do-thái chỉ có tư thế xã hội khi có một người đàn ông bên cạnh. Người đó có thể là cha, chồng, anh hay em trai hay con trai. Khi La-da-rô qua đời thì hai người chị là Mát-ta và Ma-ri-a chẳng những mất một người em trai thân yêu nhất mà hai người phụ nữ ấy mất luôn cả tư thế xã hội của mình. Trong bối cảnh văn hóa xã hội như thế thì việc Chúa Giê-su làm cho ông La-da-rô sống lại chẳng những là Chúa làm cho La-da-rô sống lại mà còn có nghĩa là Chúa Giê-su phục hỗi tư thế xã hội cho hai chị em Mát-ta và Ma-ri-a. (Tương tự như thế khi Chúa Giê-su làm cho con trai bà góa thánh Na-im sống lai và khi Chúa Giê-su trao phó Mẹ Người là Đức Ma-ri-a cho thánh Gio-an, cũng mang ý nghĩa phục hồi tư thế xã hội cho các bà mẹ).

     

    IV. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 9,1-41:

    4.1 Chúng ta hãy kết bạn Chúa Giê-su: Chúa Giê-su đến trần gian để cứu độ  hết mọi người chúng ta bằng cách làm cho mỗi người trở nên người thân thiết, bạn hữu với Người, sống giáo huấn của Người, nên giống Người. Vì thế chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Người mà kết bạn với Người.

    4.2 Bạn bè thân thiết thì hiểu về nhau, kính trọng nhau và yêu quý nhau, vui buốn có nhau. Chúng ta hãy thường xuyên trò chuyện với Chúa Giê-su, chạy đến Chúa khi gặp khó khăn trắc trở trong cuộc sống, cậy trông phó thác vào sự can thiệp kịp thời của Chúa Giê-su.

      

    V. LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN [VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 9,1-41:

    KHAI MỞ:  

    Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ Cha vì Chúa Giê-su, Con Cha, đã biểu lô cho chúng con biết quyền phép và lòng thương đầy tính nhân văn và tinh tế của Người. Chúng con xin dâng lên Cha lời cầu xin tha thiết của chúng con.  

     

    Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN:

    1.- «Chúa Giê-su thương Mat-ta và em là Ma-ri-a và La-da-rô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: "Chúng ta hãy trở lại xứ Giu-đê-a»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các gia đình có người bị nhiễm corona virus biết chạy đến cầu cứu với Chúa Giê-su.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!  Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

    2.-«Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và cho các Tu Sĩ Nam Nữ để các thành phần ấy của Dân Chúa mạnh tin vào quyền phép của Chúa Giê-su Ki-tô cẩu bầu cho những người đau khổ  và mất mát vì cái chết.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

    3.-«Khi thấy bà khóc nức nở và những người Do-thái theo bà cũng khóc, Chúa Giê-su thổn thức và xúc động»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác để mọi người có được tấm lòng thông cảm trước nỗi khổ của đồng bào.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

    4.- «Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người đang bị khổ sở vì nạn dịch cúm corina virus, để họ được Thiên Chúa đoái thương cứu chữa.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

     

    LỜI KẾT:

    Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Con Cha là Chúa Giê-su Ki-tô đã cho chúng con thấy Người quyền phép và tinh tế như thế nào trong việc làm cho ông La-da-rô sống lại và phục hồi tư thế xã hội cho hai người phụ nữ là Mát-ta và Ma-ri-a.

    Chúng con cảm tạ Cha và hết sức ngưỡng mộ tình bạn cao quý mà Chúa Giê-su đã thiêt lập được với ba chị em nhà Mát-ta Ma-ri-a và La-da-rô.

    Chúng  con quyết tâm xây dựng tình bạn thân thiết với Chúa Giê-su, Con Cha Chúa chúng con.

    Chúng con cầu xin, nhờ công nghiệp Chúa Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con.

     

    Sài-gòn ngày 28 tháng 03 năm 2020

    Giêrônimô Nguyễn Văn Nội  

     

     

     

    --
    Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "SLCHN".
    Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    Để xem cuộc thảo luận này trên web, hãy truy cập https://groups.google.com/d/msgid/slchn/CAMfwAgrzijrMeDjLvv37PdgiW1Js6RYttt%3Da7yZegDk1fojuyQ%40mail.gmail.com
     
     

Subcategories