8. Đời Sống Tâm Linh

DO BỞI MỘT NGƯỜI, MÀ MỌI NGƯỜI SẼ…

 

Cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính (Rm 5,19). Do bởi sự bất tuân của Ađam mà tội lỗi đã vào thế gian khiến loài người phải chết, và do bởi sự vâng lời của Đức Giêsu mà sự sống đời đời được ban cho nhân loại. 

Sự không vâng phục của một người có ảnh hưởng lớn đến toàn thể nhân loại, đó là một sự thật hiển nhiên. Ngày xưa, khi quân đội của Giôsuê chinh phục thành Giêrikhô để vào đất Canaan: Do bởi một người phạm tội, là Akhan, mà dân Ítraen đã bại trong trận chiến chiếm thành Ai, và con đường đánh chiếm Canaan đã tạm thời bị tắc lại (x. Gs 7,1-26). Lịch sử này là chứng cứ xác thực, làm thức tỉnh chúng ta rằng: sự vâng phục của một người là quan trọng biết chừng nào. 

Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người (Hr 5,8-9). Qua sự vâng phục của Đức Giêsu, Người đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai vâng phục Người. Chúng ta luôn được mời gọi: bước theo Đức Kitô (sequela Christi), bắt chước Đức Kitô (imitatio Christi), để trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, trở thành một “Đấng Kitô khác” (Alter Christus). Sứ mạng (Missio) của Đức Giêsu đến trần gian là để cứu độ nhân loại, và bằng thái độ vâng phục tuyệt đối thánh ý Chúa Cha, Người đã hoàn tất sứ mạng của mình. Chúng ta cũng được mời gọi mang lấy cùng một sứ mạng của Đức Giêsu để ơn cứu độ được thành toàn cho mình và cho toàn thể nhân loại. Chúng ta là một “Đấng Kitô khác”, vì thế, chúng ta phải ý thức rằng: chỉ một mình tôi vâng phục tuyệt đối ý muốn của Thiên Chúa, thì tất cả sẽ được đưa vào con đường sự sống, và ngược lại, chỉ một mình tôi không vâng phục, thì tất cả sẽ rơi vào con đường sự chết. Ai cũng nghĩ được như vậy, và nỗ lực cố gắng hoàn thành sứ mạng vâng phục của mình, thì chắc chắn, ơn cứu độ của Chúa sẽ sớm thành toàn nơi tất cả mọi người. 

Bằng hành vi vâng phục tuyệt đối thánh ý Chúa Cha, như Đức Giêsu, chúng ta sẽ trở thành vị cứu tinh của nhân loại, một “Đấng Kitô khác” (Alter Christus). Bằng ngược lại, nếu chúng ta nghĩ: Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ, chúng ta làm trái ý Người một số điều, thì cũng đâu có sao. Một khi có những ý tưởng như thế, thì chúng ta sẽ không thể vâng phục Thiên Chúa được, và sự bất tuân đó, không chỉ kéo một mình chúng ta, nhưng sẽ kéo toàn thể nhân loại đi vào con đường sự chết. Lúc bấy giờ, chúng ta không phải là một “Đấng Kitô khác” (Alter Christus): vị cứu tinh của nhân loại, mà là, một “Ađam khác” (Alter Adam), một tên phản Kitô (Antichristus): kẻ hủy diệt nhân loại này. 

Thiên Chúa truyền dạy chúng ta phải vâng phục Người. Điều đó, không có nghĩa là, Người độc tài độc đoán. Tất cả những gì Thiên Chúa dạy dỗ đều vì ơn cứu độ của chúng ta. Dân Ítraen không nghe theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, nên đã phải gánh chịu hậu quả đau thương. Tất cả những sự việc đã qua, được ghi chép lại trong Thánh Kinh, để làm thức tỉnh chúng ta rằng: mọi bất hạnh là do hậu quả của việc không vâng phục, còn mọi phúc lành là hoa trái của việc vâng phục.  Những người được cứu độ là những người luôn vâng lời Thiên Chúa. Nếu cứ làm theo ý riêng, thì chúng ta sẽ rơi vào chước cám dỗ của Satan: mắt ta sẽ thấy những điều sai trái thành những điều đúng đắn, tai ta sẽ nghe những điều xấu xa thành những điều tốt đẹp, như ông bà nguyên tổ xưa.

Chúa dẫn chúng ta đi trên những nẻo đường, mà chúng ta không bao giờ nghĩ tới: Con đường mà Chúa dẫn dắt trông có vẻ thiệt thòi với chúng ta lúc này, nhưng, nếu chúng ta vâng phục Người, là Đấng biết trước tương lai chúng ta, và vì lợi ích chúng ta, thì sau này, phúc lành dư dật sẽ đến với chúng ta. Nhưng Người thề với ai: Sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Người, nếu không phải là với những kẻ bất tuân? (Hr 3,18): Những kẻ không vâng phục, không được vào Đất Hứa, những người không vâng phục không thể vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta ý thức được tầm quan trọng của mình trong việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa: chỉ một mình tôi vâng lời Thiên Chúa đến cùng, thì tất cả sẽ được hưởng ơn cứu độ.  Ước gì mỗi người chúng ta đều trở thành một “Đấng Kitô khác” (Alter Christus), một vị cứu tinh của nhân loại như lòng Chúa ước mong.

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.

ĐỜI SỐNG ĐẠO HẠNH VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT THA NHÂN

Một ngày nọ, cách đây rất lâu, vào khoảng năm 400, có người đã nói mỉa mai với Thánh Augustinô thành Hippo: “Tôi không muốn thừa hưởng Nước Trời; đối với tôi chỉ cần tôi không bị trầm luân đời đời là đủ.” Đây là đoạn văn trong Kinh thánh mà người hoài nghi vừa thảo luận với vị giám mục của mình:

Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Galát 5:19-21).

Lời khuyên của Thánh Phaolô trong Galát chương 5 nghe rất khác với những lời của Chúa chúng ta hôm nay trong Mátthêu chương 25. Trong câu chuyện của Phaolô, thánh nhân nhấn mạnh rằng tội xác thịt, tội đam mê, cảm xúc và khoái lạc thể xác đã cắt đứt người ta khỏi Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong phần trình bày của Chúa về Cuộc Phán xét Cuối cùng, Ngài nói với chúng ta rằng bỏ bê các công việc thương xác bảy mối sẽ khiến chúng ta không được thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho chúng ta ngay từ thuở tạo thiên lập địa: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không choăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25: 41-43).

Đôi khi hai cách nói này có vẻ như rất khác nhau về giọng điệu, nhưng sự khác nhau này lại bị nhiều người phóng đại và hiểu lầm. Chúng ta hãy xem xét.

Ví dụ, trong giáo xứ của tôi, khi tôi giảng về Lễ Trọng Chúa Kitô Vua, tôi đã nói với mọi người rằng tội phạm đến sự trong sạch hoặc các quan niệm tôn giáo sai lầm hầu như là những nguyên nhân dẫn linh hồn xuống địa ngục. Tôi thậm chí nói thêm rằng đây là điều Đức Mẹ đã nói tại Fatima với ba trẻ được diễm phúc. Bạn có thể tưởng tượng rằng sau đó tôi nhận được một số phản hồi từ vị Giám đốc phụ trách giáo dục tôn giáo (DRE: director of religeous education) hoặc từ các giáo hữu ngay trước cửa nhà thờ, vì nói những điều khá là không hợp thời. Tuy nhiên, khi tôi nói với mọi người rằng nếu họ bỏ bê người nghèo và người túng thiếu thì họ có nguy cơ mất đi linh hồn, và tôi thậm chí còn thêm một số lời của Đức Thánh Cha Phanxicô về việc phục vụ người nghèo, thì rõ ràng rằng sẽ chẳng có ai phản đối những gì tôi nói, bạn có thể hình dung ra chuyện đó.

Ngày nay, tội xác thịt không bị coi là xấu xa như thế, và việc nhấn mạnh tính hiểm độc của chúng đến mức cảnh báo rằng chúng sẽ dẫn người ta đến lửa hỏa ngục thường bị coi là suy nghĩ thấp kém hoặc quá khắc nghiệt. Nhưng việc nhấn mạnh nghĩa vụ xã hội của chúng ta đối với những người bất hạnh lại được coi là rất đáng trân trọng.

Vì vậy, người ta có thể dễ dàng tưởng tượng một phiên bản hiện đại của người phản đối Thánh Augustinô nói với vị linh mục: “Này Cha, tôi không cần thừa kế vương quốc dành riêng cho người trong trắng và khắc khổ. Tôi sẽ chỉ đóng góp cho người nghèo và người thiếu thốn, và điều đó sẽ đưa tôi vào thiên đàng. Tôi không cần một nước trời nào khác.”

Tuy vậy, thực tế là có mối liên hệ sâu sắc giữa việc chúng ta tận hưởng những cảm xúc và ham muốn khoái lạc của mình với cách chúng ta đối đãi những người gặp hoạn nạn. Một xã hội chìm đắm trong những cảm xúc và ham muốn khoái lạc sẽ không mấy quan tâm đến việc đối đãi những người túng thiếu.

Đây là cách Thánh Augustinô trả lời người phản đối trong bài giảng về việc sám hối (Bài giảng 351). Ngay sau dòng nói về việc không cần Nước Trời, vị tiến sĩ ân sủng vĩ đại giải thích cho kẻ tội lỗi bất chấp đạo lý này:

  • Chúa đã phán: “Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24: 12-13), Ngài hứa sự cứu rỗi cho những ai kiên trì trong lòng bác ái, chứ không phải cho những ai cố lỳ trong sự suy đồi trái ngược đạo lý. Ở đâu có lòng bác ái, thì những việc xấu xa vốn ở ngoài vương quốc Thiên Chúa không thể tồn tại, vì “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Galát 5: 14).

Quan điểm của Thánh Augustinô có thể dễ dàng hiểu được nếu chúng ta tự hỏi mình câu hỏi này: tại sao những con dê, những kẻ ở bên trái, sẵn sàng chịu ném vào lửa hỏa ngục, lại bỏ bê việc làm của lòng thương xót? Điều gì ở họ đã khiến họ không để ý đến hoạn nạn của người khác? Rõ ràng là họ ích kỷ theo đuổi khoái lạc và thỏa mãn cảm xúc của chính họ. Một loạt tội lỗi mà Thánh Phaolô mô tả ở trên: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, đã dẫn đến việc xao lãng những việc lành: Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han, mà Chúa chúng ta khen ngợi và tưởng thưởng.

Không có sự phân ly giữa nhân đức cá nhân và tình yêu thương người lân cận; thực sự cả hai là một và như nhau. Suy cho cùng, “Vương quyền của Thiên Chúa” có nghĩa là quan tâm đến hạnh phúc của người khác, và vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Chúa Kitô, nên chúng ta nhất định phải yêu mến Ngài, yêu người khác như chính mình và như Chúa yêu họ: “Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22: 37-39). Vì vậy, cách yêu bản thân tốt nhất chính là trở nên giống Chúa Kitô và thực hành tình yêu thương người lân cận, và điều này trái ngược với tính xác thịt. Ai cũng thấy dâm đãng, say sưa khiến con người trở nên hèn hạ, sao nhãng bổn phận đối với người lân cận, nên ai muốn “bền chí đến cùng” trong việc yêu thương người lân cận cũng phải kiềm chế những đam mê, ham muốn của mình.

Thánh Tôma nói điều đó rất hay – ở đây chúng ta thấy ngài viện dẫn, ít nhiều,  Thánh Augustinô – khi ngài nói với chúng ta:

  • Một người yêu bản thân mình hơn khi người ấy nhiệt thành vì hạnh phúc và chăm sóc người khác, và người ấy dành phần tốt hơn cho mình, vì người ấy giống Chúa hơn khi trở thành duyên do làm điều tốt cho người khác hơn là cho chỉ bản thân mình.

Xin cho tình yêu tha nhân làm cho chúng ta trở nên giống Chúa Kitô, Vua của chúng ta. Rồi thì, Ngài sẽ coi việc chúng ta phục vụ người khác như đã làm cho chính Ngài và chúng ta sẽ cùng Ngài thừa kế Nước trời. Amen.

 

Phêrô Phạm Văn Trung,

(phỏng theo Lm Hugh Barbour, catholic.com)

CON NHÌN CHÚA. CHÚA NHÌN CON

Mỗi khi đến trước Chúa như chầu hoặc rước Thánh Thể, thông thường là chúng ta đọc kinh, hát thánh ca, hoặc dâng lời nguyện cộng đồng. Nhưng đối với các thánh, những tâm hồn suy niệm, các ngài thường chỉ “im lặng” và “nhìn” Chúa.

Im lặng và nhìn Chúa là một lối biểu lộ tình cảm thân mật, tâm giao nhất mà một linh hồn có thể làm khi ở trước Chúa, trước Thánh Thể, hay một mình trước Nhà Tạm. Chúa Giêsu cũng có một trái tim, nên Ngài cũng biết rung động và thổn thức. Ngài cũng muốn được chia sẻ và tâm sự với những bạn hữu của Ngài. Nhu cầu chia sẻ của Ngài đòi hỏi những người bạn biết lắng nghe. Linh đạo này chúng ta có thể nhận ra khi suy niệm Phúc Âm của Thánh Luca.

“Trong khi Thầy trò đi đường, Ðức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mátta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mátta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” Chúa đáp: “Mátta! Mátta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (10:38-42). 

Maria đã chọn ngồi lắng nghe Chúa nói và tâm sự với Ngài, và hành động của cô được Chúa khen. Điều này cũng phải, vì quanh Chúa có bao tiếng ồn ào, thở than, năn nỷ, và phàn nàn. Vậy Chúa cần ai đây để có thể thoải mái, có thể nhẹ nhàng trút bỏ những phiền toái ấy? Ngoài ra, Chúa cũng cần một người biết lắng nghe, một người hiểu để chia sẻ những gì mà Ngài đang ưu tư trong lòng: Ơn cứu độ, sự thánh thiện và phần rỗi nhân loại, cũng như phần rỗi từng linh hồn.

Truyện kể là hôm đó cả dân thành sốt sắng tổ chức cung nghinh Thánh Thể khắp đường phố, có hồng y chủ sự, các giám mục, nhiều linh mục, nam nữ tu sỹ, và đông đảo giáo dân tham dự. Cùng lúc đó, một tia sáng nhỏ lách qua kẽ hở của khung cửa thánh đường, chiếu thẳng vào Nhà Tạm. Điều làm cho ánh sáng sửng sốt là từ trong Nhà Tạm phát ra những tiếng than thở “Ta cô đơn quá!”.

-Lạy Chúa, cả một đoàn rước đông đảo, trang nghiêm, và sốt sắng ngoài kia không đủ làm Chúa vui sao. Tại sao Chúa cô đơn? Tia sáng nhỏ hỏi lại. Nhưng tiếng “Ta cô đơn quá” vẫn tiếp tục vang ra từ trong Nhà Tạm.

Rồi bỗng nhiên, tiếng than cô đơn im bặt. Tia sáng lấy làm lạ và hỏi Chúa:

-Lạy Chúa, giờ này sao Chúa hết cô đơn?

Và khi tia sáng nhìn về phía cuối thánh đường, nơi đó bắt gặp một bà lão vừa từ ngoài bước vào. Bà im lặng và nhìn lên Nhà Tạm. *

Mệt và đói khi đến nhà của chị em Mátta và Maria, cô đơn trong Nhà Tạm, và ngủ vùi trên thuyền của các Tông Đồ. Giấc ngủ say sưa đến nỗi bão tố nổi lên muốn chìm thuyền mà Ngài không biết: “Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng biết sao?” (Mc 4: 38).

Vâng. Chúa cũng có những nhu cầu như ăn, uống, ngủ, nghỉ như mọi người chúng ta. Sự mệt mỏi thân xác, suy tư về tinh thần còn dẫn đến nhu cầu tâm lý và tinh thần của Ngài nữa. Và đó là lý do tại sao Chúa hài lòng với sự đón tiếp của Maria, cần một giấc ngủ. Và đó cũng là lý do Ngài hết cô đơn khi có bạn tâm giáo đến nghe và tâm sự với Ngài.   

Ngồi bên Chúa, lắng nghe và tâm sự với Chúa, và nhìn lên Chúa. Đây là cách cầu nguyện bằng hình thức suy niệm của các linh hồn đã tiến cao trên đường tu đức. Theo Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, cầu nguyện là một phút hướng tâm lên với Thiên Chúa. Không cần nói nhiều, không cần kể lể nhiều. “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt 6:7). Ngôn ngữ không chỉ được biểu lộ bằng lời, ngôn ngữ còn được biểu lộ bằng cử chỉ (body language). Trong tình yêu, chỉ một cái nhìn, một ánh mắt cũng đủ để hai kẻ yêu nhau hiểu được ý của nhau.

Phút hướng tâm đối với Maria là sự thân mật, ngồi nghe Chúa. Maria cũng nhìn lên Chúa để hiểu và để cảm được sự mệt mỏi của Ngài sau những ngày dài trên cánh đồng truyền giáo.

Phút hướng tâm đối với bà lão là sự đơn sơ, thành kính trước Nhà Tạm. Bà kết hợp với Chúa bằng tâm tình nhỏ bé, đơn sơ, và khiêm nhường. Có lẽ vì bà già nên không theo được với đoàn rước. Và cũng có thể vì bà không chen lấn được giữa đoàn người đông đảo.

Phút hướng tâm của Mátta có hơi khác. Mátta tìm đến Chúa bằng thái độ hờn dỗi, trách móc. Nếu Maria hiểu Chúa, và chia sẻ với Chúa, thì ngược lại, Mátta muốn Chúa hiểu và chia sẻ với mình. Khi thưa với Chúa: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (40), có lẽ Mátta đã tự cho mình là thân tình, là yêu mến Thầy, và hiểu Thầy nên mới có những lời “hờn dỗi” với Chúa. Nhưng Ngài, Chúa Giêsu đã không quan tâm đến những chuyện ăn uống, mà Ngài thật sự đang cần được nghỉ ngơi. Do đó Chúa đã vui khi có Maria trò truyện, đã hết cô đơn khi có cái nhìn của một bà lão. Đối với Chúa Giêsu, thái độ nũng nịu của Mátta không làm Chúa vui, và những tiếng đàn hát, câu kinh, và việc làm đạo đức của đoàn người cũng đã không an ủi được Trái Tim cô đơn của Ngài. Ngài cần một ai đó biết lắng nghe và tâm sự với Ngài.   

Nhưng dù phút hướng tâm mang mầu sắc nào, thì nhu cầu gần gũi và hiện diện là đòi hỏi cần thiết. Chúa đã dạy Thánh nữ Catarina (1347-1380) lập một gian phòng trống trong tâm hồn để có thể vào đó mà tâm sự với Ngài, và cũng để làm nơi nghỉ ngơi giữa muôn ồn ào, náo nhiệt đang vây quanh Ngài.

Con nhìn Chúa. Chúa nhìn con.

Lạy Chúa Giêsu mến yêu. Linh hồn con nhỏ bé, nghèo nàn, và không đầy đủ tiện nghi cho một Thiên Chúa đến trú ngụ. Nhưng trên hành trình truyền giáo, nếu Chúa thấy mỏi mệt, và cần một nơi để nghỉ ngơi như căn nhà ở Bêthania xưa, thì lạy Chúa, xin Chúa hãy cứ ghé thăm. Con đang ở đây để tiếp đón và trò truyện với Chúa mặc dù con bất xứng. Vì lạy Chúa Giêsu. Con yêu mến Chúa.  

________

*Câu truyện được ghi lại theo trí nhớ của tác giả. Có thể tác giả đọc được đâu đó trong cuốn Tin Cậy Chúa Quan Phòng của Thánh Elizabeth Chúa Ba Ngôi (1880-1906).

Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt