8. Đời Sống Tâm Linh

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - Ý NGHĨA CHỮ XẢ - CƯ SĨ ANH DŨNG

  • Mon, Nov 21 at 6:27 PM
  • CƯ SỸ NGUYỄN ANH DŨNG

                      Tìm hiểu ý nghĩa chữ XẢ
  •                                     Đặc biệt, khi giải thích về “đức Xả” Ngài chỉ rõ: Xả là chẳng chấp một pháp nào trong thế gian, sẵn lòng lìa xa các nghiệp tiền trần, tha thứ hết thảy những ai tối tăm lầm lỗi, chẳng còn vướng víu chi với cuộc lợi danh, tài sắc, nhìn cõi đời chẳng bao giờ sanh lòng luyến ái.”            
  • Thông thường chúng sanh dễ hành được Từ, Bi, Hỉ. Nhưng Xả thì thật là khó. Vì tâm chúng sanh còn cố chấp, nên suy nghĩ mông lung đủ điều: Hơn, thua, cao, thấp, nên Xả không phải là dễ.            XẢ: Bố thí .- Buông thả ra.- Bỏ đi. Viết theo Phạn: (Ưu tất xoa). - Ngài đương làm Bồ tát trên cung Đâu suất, Ngài Xả (bỏ) các sự vui sướng nơi Thiên cung mà giáng sanh để cứu thế.            XẢ là một đức trong bốn đức vô lượng (Tứ vô lượng) Từ, Bi, Hỉ, Xả.            Tứ Xả : 1. Tài Xả, là đem của cải đồ vật thí Xả cho người ta.                        3. Vô úy Xả, là đem đức không sợ mà thí Xả, mà phổ cập cho người ta.            Thất Chủng Xả (Bảy thứ Xả):            2. Đối với chúng sanh, Xả bỏ, rời khỏi tất cả sư ngăn ngại kẻ thân, người thù.            4. Thấy sanh mạng được thoát ra, thì không còn lo nghĩ, tức là phóng Xả.            6. Tự mình bỏ những sự vui sướng của mình, đem thí cho người.            XẢ TƯỚNG. Cũng viết : Xả tướng là một trong ba tướng tu :            2. Huệ tướng (Phạn: Tỳ bà xá na),Xả tướng (Ưu tất xoa) gồm cả bốn nghĩa : 1. Bình đẳng, 2. Bất tranh (chẳng tranh giành cãi lẩy), 3. Bất quan (chẳng nhìn tới), 4. Bất hành (chẳng làm). Như Bồ Tát đã tu nhiều về Định tướng, thì nên tu Huệ tướng. Tu chứng Định và Huệ bằng nhau, thì kêu là Xả. Hàng Thinh Văn và Duyên giác, sức Định thì nhiều, mà sức Huệ thì ít, cho nên cũng chẳng thấy được Phật tánh được tỏ rõ.             Sau đây là những câu chuyện thể hiện lòng Từ, Bi, Hỉ, Xả của:            -  Đức Lục Tổ đối với Trần Huệ Minh.              Số là bà mẹ của ông Đề bà Đạt đa chẳng có thai, bèn đến các đền mà cầu khẩn với chư Thiên đặng sanh con. Nhơn cuộc cầu đảo mà được có thai, sanh ra con trai, đặt tên là Thiên thọ, Thiên dữ.            Đề bà Đạt đa vốn là một vị Vương tử đa văn, túc trí, nghề văn nghiệp võ song toàn, song tánh hay đố kỵ. Từ khi chưa xuất gia đã có dịp gây ác cảm với đức Phật rồi. Lúc ấy, các vị công tử đang chơi trong một vườn hoa. Có một bầy nhạn bay qua. Đề bà Đạt đa vốn cao tài, dương cung bắn sa một con nhạn. Nhạn ấy rớt vào vườn hoa của Thái tử. Ngài lượm con nhạn lên và rịt thuốc. Đề bà Đạt đa sai người qua đòi con nhạn do mình bắn sa. Thái tử chẳng khứng, vì lòng Từ Bi nên thả con nhạn bay đi.            Đối với những sự hại Phật, phá Tăng ấy, ở về người khác thì phải đọa nơi Địa ngục vô gián. Nhưng ông Đề bà Đạt đa vốn có công đức vô lượng từ các đời trước, nên không những Đức Phật Từ, Bi, Hỉ, Xả cho mà Phật lại còn thọ ký cho ông nữa.Đc Lc T đi vi Trn Hu Minh Sau khi truyền Y Bát cho Ngài Lục Tổ Huệ Năng.Một vị Tăng, họ thế tục là Trần, tên Huệ Minh, trước là hàng Tướng quân, bực Tứ phẩm, tánh hạnh rất thô tháo, hết lòng theo tìm, chạy trước mọi người đuổi kịp Ngài Huệ Năng. Ngài bèn ném Y Bát trên bàn thạch nói: “Cái Y nầy là biểu tín có thể gắng sức mà tranh sao?”. Ngài ẩn trong đám cỏ, Huệ Minh đến cầm Y lên nhưng không nhúc nhích mới gọi rằng:“Cư sĩ, cư sĩ ! Tôi vì Pháp đến chớ không phải vì Y”. Ngài Huệ Năng ở trong đám cỏ bước ra ngồi trên bàn thạch. Huệ Minh liền làm lễ thưa: “Mong cư sĩ vì tôi nói pháp”. Huệ Năng nói: “Ông đã vì pháp mà đến thì nên dứt sạch các duyên, chớ sanh một niệm, tôi vì ông nói”. Huệ Minh im lặng giây lâu, Huệ Năng nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh“. Ngài Huệ Minh ngay câu nói đó liền ngộ. Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Lục Tổ.Đc Thy đi vi v chng Anh BêThuở Đức Thầy độ tha hóa chúng càng lúc càng đông, do tài trí vượt hẳn mọi người của Ngài, khiến cho kẻ bán nước buôn dân sanh lòng ganh ghét, lúc nào chúng cũng coi Ngài là một chướng ngại không nhỏ cho sự bán giống buôn nòi của chúng. Muốn giữ câu “Tiên hạ thủ vi cường” nên họ tổ chức cuộc bí mật ám sát Đức Thầy để dể bề thao túng theo hành động bất lương.            - Anh đừng làm chuyện đó không nên. Ông Tư Hòa Hảo là người đức hạnh, hiền từ, cứu dân độ thế, lại là một nhà cách mạng chơn chánh, ích nước lợi dân. Mình ham chi tiền thưởng, dẫu lớn bao nhiêu thì cũng xài tiêu hết, chứ việc làm tội lỗi sẽ gây ảnh hưởng cho con cháu về sau.- Việc của tôi làm tôi biết, bổn phận đàn bà không nên xen vào việc của tôi.            Sáng ra, anh Bê thức sớm, lập tức mang súng đi thẳng lại khúc đường mà anh thấy Đức Thầy thường đi qua mỗi sáng sớm. Chờ khoảng 30 phút, bỗng thấy Đức Thầy từ xa đi tới chỉ có một mình. Giờ may đã đến, anh Bê chuẩn bị tư thế ra tay. Thầy vừa đến, nhìn anh Bê cười và khẻ nói:            Đoạn Thầy nói tiếp:            Anh Bê nãy giờ đứng thừ người ra như tượng gỗ, mặt tái xanh, vội đi nhanh về nhà. Vô buồng móc súng ra coi thì không có một viên đạn nào cả. Hỏi ra thì chị Bê mới chịu thiệt và khuyên chồng một lần nữa. Anh Bê nói:            Thấy chồng thức tỉnh chị Bê mừng vô hạn. Vợ chồng tìm đến Đức Thầy phát nguyện Qui Y.Qua ba câu chuyện kể trên chúng ta đã học được ít nhiều về hạnh Từ, Bi, Hỉ, Xả của Đức Phật, Đức Lục Tổ và Đức Thầy.Học câu Hỉ Xả đại từ,            Vì vậy, chúng ta cần phải biết rõ ràng bốn đại đức của Chư Phật và làm sao  để đắc được bốn đức ấy như lời Đức Thầy chỉ dạy. Đồng thời với việc ăn chay, niệm Phật thường ngày, chúng ta cũng nên Bố thí, Nhẫn nhục và Trì giới để độ được Tham, Sân, Si./.            Nam Mô A Di Đà Phật!--

  •                      Trương văn Thạo
  •                                                                        
  •                                                     Noi gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần.
  •             Thêm vào đó, Đức Thầy còn khuyên trong bài “Dặn dò bổn đạo”:
  •             Thuật theo lời của đồng Đạo Võ thị Đồng. (Trích: Chuyện Bên Thầy số 36)
  • -Thôi mình đừng nói nữa, tôi đã biết tội của tôi rồi. Vậy vợ chồng mình nên tìm tới ông Tư Hòa Hảo để quy y, vì chắc chắn Ngài là Phật rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.
  •            - Tôi có sứ mạng dạy Đạo cứu đời nên em không thể giết được đâu.
  •             - Mới 21 tuổi sao dám lãnh tiền đi giết mướn chi vậy? Không sợ quả báo sao? Nè! Cây súng không có đạn đâu, vợ em đã lấy ra hết hồi khuya rồi, đừng làm bậy sẽ bị họa lớn nghe! Tôi tuy đi một mình chớ lính Bình Xuyên lúc nào cũng theo hộ vệ mật rất đông. Làm không được việc mà còn mắc họa nữa à !.
  •             Chị cố khuyên mãi nhưng không thức tỉnh được chồng. Đêm đó chị cứ thao thức vì lo sợ cho việc làm tội ác của chồng sắp diễn ra ngày mai. Ngồi bên cạnh chiếc đèn, nhìn chồng đang ngủ say, chị lắc đầu sầu thảm. Đến canh ba chị chợt nghĩ, bất cứ giá nào cũng không để chồng mình giết hại ông Tư Hòa Hảo. Rồi chị lén lấy khẩu súng nhỏ của anh tháo hết đạn ra, xong rồi chị mới yên lòng đi ngủ.
  •             Chị tha thiết với chồng, nhưng anh Bê nhứt quyết, lại còn rầy vợ:
  • Một hôm chúng mướn anh Bê 21 tuổi, với số tiền khá lớn, bảo làm sao ám sát cho được Ngài. Anh Bê nhận lời và lấy khẩu súng nhỏ, hứa ngày mai sẽ thi hành. Khi về nhà anh lộ nét băn khoăn, lo nghĩ. Chị Bê vợ mới cưới của anh, thấy chồng có vẻ khác thường nên cứ theo han hỏi nguyên do. Ban đầu anh còn dấu, nhưng chị cứ hỏi nhiều lần, anh mới tỏ bày sự thật là định mai nầy ám sát Ông Tư Hòa Hảo. Vợ anh nghe rõ câu chuyện toát mồ hôi, lìền than thở với chồng:
  •  
  •  
  •             Ngũ tổ trở về, mấy ngày không thượng đường, tức là không ra dạy chúng, chúng nghi đến hỏi: Hòa Thượng có ít bịnh, ít não chăng? Tổ bảo: Bệnh thì không mà Y Pháp đã về phương Nam rồi. Chúng hỏi rằng: ai là người được truyền? Tổ bảo: Năng đó thì được. Chúng biết vậy. Vì họ đã được đọc bài kệ của Ngài Huệ Năng nên khi nghe Ngũ Tổ nói họ liền biết là Ngài. Biết rồi họ có tha không? Khi đó có vài trăm người đuổi theo muốn cướp lại Y Bát.
  •  
  •  
  •             Về sau, thấy Thái tử tu thành Phật, Đề bà Đạt đa đi theo mấy vị Thích tử mà xuất gia đầu Phật. Nhưng thường hay đố kỵ ngạo mạn, tự cho mình chẳng kém Phật. Chính Đề bà Đạt đa đứng ra phá sự hòa hiệp nơi Giáo hội Tăng già, phân rẽ Tăng chúng, tách mình ra toan lập một Giáo hội khác. Ông lại xúi Thái tử A xà thế giết vua cha mà soán ngôi. Ông phái người đến toan giết Phật, song đến nơi thì người ấy quy y đầu Phật. Ông lại thả tượng dữ ra để hại Phật, song tượng cũng cảm sức lành của Phật mà đảnh lễ, lui về. Sau rốt, ông đứng dưới núi quăng đá lên, trúng chơn Phật chảy máu.
  •             Lại một nghĩa nữa: Hồi ông Đề bà Đạt đa sắp ra khỏi lòng mẹ, thì chư Thiên lấy làm nóng nảy, bứt rứt, vì biết trước rằng sau nầy ông sẽ làm hại Phật, phá Tăng. Nhơn biết như vậy, nên các ông Thầy đoán số khiến cha của ông là Bạch Phạn Vương đặt tên là Thiên nhiệt.
  •             Một vị đệ tử của Phật, dòng họ Thích, con nhà chú đối với đức Thế tôn, anh ruột của A nan đà (Ananda), tên là Đề bà. Cũng kêu: Điều Bà Đạt, Điều Bà Đạt Đa.
  • Đức Phật đối với Đ Bà Đt Đa. (Devadatta).
  •             -  Đức Thầy đối với vợ chồng Anh BÊ.
  •              - Đức Phật đối với Đề Bà Đạt Đa.
  • Chư Phật Thế tôn, Định và Huệ bằng nhau, cho nên thấy Phật Tánh môt cách tỏ rõ, dường như người ta nhìn trái Am-ma-lặc trong lòng bàn tay. Sự thấy Phật tánh tức là Xả tướng.
  • Hàng Thập trụ Bồ tát, sức Huệ thì nhiều, mà sức Định thì ít, cho nên chẳng thấy tánh được tỏ rõ.
  • Như đã tu nhiều về Huệ tướng, thì phải tu Định tướng.
  • Niết Bàn Kinh, quyển 31 :
  •             3. Xả tướng (Phạn : Ưu tất xoa).
  •             1. Định tướng (Phạn: Xa ma tha),
  •             7. Việc chi có lợi cho chúng sanh, thì để cho họ hưởng, mình đừng trông mong.
  •             5. Chứng được lý chơn không, bình đẳng, rời khỏi các Tướng.
  •             3. Xả bỏ tất cả sự lầm lổi do nơi Tham, Sân, Si.
  •             1. Tâm tánh bình đẳng, không đem lòng nhớ mong, tình không giữ lấy, không mắc lấy.
  •                         4. Phiền nảo Xả, là tự mình Xả bỏ các mối phiền não.
  •                         2. Pháp Xả, là đem pháp lý mà thí Xả cho người ta.
  •             Xả có bốn thứ : Tứ Xả; bảy thứ : Thất chủng Xả.
  • - Lại trong khi làm Đông cung, Thái tử sắp lên ngôi vua, Ngài Xả tất cả: Đền đài, cung viện, châu báu, vợ đẹp, hầu xinh… một mình ra đi, mặc áo già, ngồi trên núi Tuyết mà tu khổ hạnh.
  • Như trong các tiền thân của đức Phật, Ngài từng Xả (bỏ) thân mạng mà cứu giúp chúng sanh.
  •             Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu xem trong Kinh Phật bàn thế nào về chữ XẢ.
  • Vậy Xả là buông bỏ hết tất cả những gì đã chấp.
  •             Trong bài “Chư PHẬT có bốn Đại Đức”, Đức Thầy cho biết bốn đức ấy là : 1. Đức từ. 2. Đức bi. 3. Đức hỉ. 4. Đức xả.
  • -------------------------------------------------------

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - QUÝ VÂN

  •  
    Quyvan Vu
    Mon, Nov 21 at 3:36 AM
     
    LỜI CHÚA TRONG ĐỜI BẠN
     

    Hãy để Chúa Giê-xu ở vị trí trung tâm của cuộc đời bạn, thì Ngài sẽ bạn cho sự ổn định, kiểm soát và sức mạnh mà bạn cần cho cuộc đời mình. Kinh Thánh chép:  “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” – Ma-thi-ơ 6:33 (BTT).

    Đừng lo lắng về việc đặt Chúa Giê-xu ở vị trí trước nhất trong cuộc sống bạn. Hãy đặt Ngài ở vị trí trung tâm của cuộc đời bạn. Hãy để Ngài hướng dẫn cuộc đời bạn, ảnh hưởng nó, bạn sức lực cho nó, và ban cho nó sự bình ổn.

    Như vậy thì tất cả mọi phần khác trong cuộc sống của bạn – từ gia đình cho đến công việc, các mục tiêu – sẽ tìm thấy sự thăng bằng trong Chúa Giê-xu.

    Nếu xem cuộc đời bạn như là một chiếc bánh xe thì điều gì ở phần trung tâm? Những mối phân tâm lớn nhất để bạn có được một đời sống cân bằng là gì? Bạn nghĩ điều  gì là chướng ngại vật lớn nhất trong việc đặt Chúa Giê-xu ở vị trí trung tâm của cuộc đời mình?

    Hãy cầu nguyện cùng tôi VÀ SỐNG CẦU NGUYỆN: 

    “Cảm tạ ơn Chúa vì Ngài giúp con nhận biết rằng con không thể tự mình cố gắng nắm giữ và kiểm soát tất cả .

    Xin Chúa hướng lại sự tập trung của con về Chúa. Xin Thánh Linh Chúa nhắc nhở con nếu con có bao giờ ưu tiên bất kì điều gì hơn Ngài. Xin nhắc nhớ con rằng chỉ duy Ngài là nguồn sức mạnh của con khi con đang bị vấp ngã và yếu sức.  Chúa xsẽ luôn luôn là niềm trông cậy của con, là vầng đá muôn đời để con được nương tựa.

    NHỜ ƠN CHÚA THÁNH LINH THUC ĐẨY, CON QUYẾT TÂM đầu phục và giao phó mọi điều cho Ngài. Trong danh Chúa Giê-xu con cầu nguyện. Amen!”



     
     

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - THÔNG BÁO TIN VUI # 342

  • THÔNG BÁO TIN VUI # 342 - www.ChiaseLoiChua.org - Pt Định Nguyễn
    -

     *NƯỚC THIÊN CHÚA Ở GIỮA CAC ANH

    - Lời Chúa: TIN MỪNG LUCA ĐỌAN 17, CÂU 20-21

    Khi ấy, những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu "Khi nào nước Thiên Chúa đến", thì Người đáp lại rằng: "Nước Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không nói được: "Này nước trời ở đây hay ở kia". Vì nước Thiên Chúa ở giữa các ông".

    *BẠN VÀ TÔI CÙNG VUI SỐNG VÀ CHIA SẺ

    1/ Từ sau khi dân Israel định cư ở đất Canaan,

    Thiên Chúa được họ coi như một vị Vua cai trị mọi dân tộc.

    Họ tin Đấng ấy sẽ khai mở Nước Thiên Chúa.

    “Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (câu. 21).

    2/ Đức Giêsu đã nói với các ông Pharisêu như vậy.

    Nước ấy không đến một cách lộ liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20).

    Người Pharisêu không nhận ra Nước ấy đang ở giữa họ.

    Chỉ ai biết nhìn, mới nhận ra Nước ấy đang có CHÚA hiện diện và hoạt động.

    3/ Hai ngàn năm trôi qua, Nước Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt.

    để Nước đó được nhìn nhận bởi gần 7 tỷ người trên trái đất,

    Ngày nào trên thế giới còn chiến tranh, bạo động, còn áp bức, bất công,

    ngày nào nhân loại còn bệnh tật nghèo đói, còn nô lệ cho vật chất,

    ngày ấy Nước Thiên Chúa chưa ngự trị trên địa cầu.

    4/ Nơi nào công lý và hòa bình, khoan dung và nhân hậu,

    chi phối trái tim và cách hành xử giữa người với người,

    nơi đó Nước Thiên Chúa đã đến gần hơn.

    Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Cha trị đến (TIN MỪNG MAT-THÊU 6, CÂU 10).

    Chúng ta biết mình được mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian.

    *BẠN VÀ TÔI CÙNG CẦU NGUYỆN VÀ SỐNG CẦU NGUYỆN:

    Để chuẩn bị cho Ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang,

    Nhưng trước hết Ngài phải có chỗ trong lòng chúng ta.

    Xin được đón lấy Nước Thiên Chúa như trẻ thơ, như người nghèo tay trắng.

    Xin được chia sẻ cho Giêsu nơi những người anh em ĐAU KHỔ bé nhỏ nhất.

    Vì Nước Thiên Chúa là một tiệc vui, quy tụ mọi người từ bốn phương,

    Đầy tớ Định Nguyễn - Mời thăm www.ChiaseLoiChua.org, để Sống và Chia sẻ Lời Chúa.
     

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - THÔNG BÁO TIN VUI # 343 - MỞ CỬA CHO CHÚA



  • THÔNG BÁO TIN VUI # 343: www.ChiaseLoiChua.org - Phó tế Định Nguyễn
    TÔI VUI MỞ CỬA CHO CHÚA VÀO NGAY!
    ����Lời Chúa nói: "NÀY ĐÂY TA ĐỨNG TRƯỚC CỬA VÀ GÕ. AI NGHE TIẾNG TA VÀ MỞ CỬA, TA SẼ VÀO NHÀ NGƯỜI ẤY, VÀ SẼ DÙNG BỮA VỚI NGƯỜI ẤY, VÀ NGƯỜI ẤY SẼ DÙNG BỮA VỚI TA". (KHẢI HUYỀN ĐOẠN 3, CÂU 20)
    ��Khi bạn vấp ngã, Chúa đỡ nâng. Bạn buồn chán, Chúa ủi an. Bạn nản lòng, Chúa khích lệ. Bạn kiệt sức, Chúa ban ơn. Bạn bối rối, Chúa ban bình an. Bạn đau bệnh, Chúa chữa lành. Bạn phạm tội và biết ăn năn, Chúa nhân từ và tha thứ dồi dào. Khi bạn lê từng bước rã rời trên dương thế, thì Chúa sẽ nâng bạn lên, cho bạn bay cao như chim đại bàng.
    ��Khi tôi gặp cuồng phong giông bão cuộc đời, thì Chúa vác bạn trên vai như “Người chăn hiền lành” rồi Chúa âu yếm ẵm bồng bạn vào lòng, dấu chân trên cát giờ chỉ còn là của Chúa. “Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện, đến ở nơi chân trời góc biển phương tây, tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn, cánh tay hùng mạnh giữ lấy con”. (Thánh vinh đoạn 139, câu 9-10).
    ��Khi bạn phiêu du rong ruổi trong biển đời đầy ảo mộng và tăm tối, thì ánh sáng của Chúa vẫn là ngọn hải đăng soi đường chỉ lối. Khi bạn hồ hải giông dài như đứa con hoang đàng bỏ nhà ra đi, thì Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi bạn về. Khi bạn lâm vào bế tắc thì Chúa lại mở đường. Khi cánh cửa này bị đóng lại, thì Chúa sẽ mở cánh cửa khác thênh thang hơn hơn cho bạn sải bước.
    ��Trên từng cột mốc, trên mỗi ngã rẽ, trên từng bước chân bạn đặt xuống, dẫu phía trước bạn là con đường tươi sáng hay tăm tối, xin bạn hãy nhớ một điều: Chúa của bạn là Alpha và Ômêga, là Khởi Nguyên và là Tận Cùng, là Đấng Tự Hữu và Hiện Hữu. Bạn cần nhận biết Chúa là vị khách vô hình đang ngồi cùng bàn với bạn mỗi bữa ăn, đang yên lặng lắng nghe mọi lời bạn nói, kễ cả lời thì thầm khẽ khàng nhất.
    ��Đừng sợ, hãy mở cửa, để Chúa bước vào tâm hồn mình, vào cõi lòng mình, vào cuộc đời mình, bạn nhé! Vì Chúa yêu bạn, yêu rất nhiều!
    Đầy tớ Định Nguyễn - Mời thăm www.ChiaseLoiChua.org, để Sống và Chia sẻ Lời Chúa.
     
     

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - LỄ CAC THÁNH - TS DUYỆT

  •  
    DM Tran
    Wed, Nov 9 at 6:02 AM
     
     

     

     

    CÒ CHA, CÒ ME, CÒ CON CÁY

    Suy niệm Lễ Các Thánh

     

    Trần Mỹ Duyệt

     

     

    Câu truyện được nghe kể từ hồi còn rất nhỏ nhưng cho đến hôm nay nó vẫn còn âm vang trong tâm trí tôi mỗi lần suy niệm về ngày Lễ Các Thánh.

     

    Ở vào những giai đoạn đầu khi ánh sáng Tin Mừng được truyền vào Việt Nam, phần đông các cố Tây – những nhà truyền giáo người Tây Phương như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, và Pháp – đến với đất nước mình rao giảng Phúc Âm, và truyền bá đạo Công Giáo. Vốn liếng ngoại ngữ hạn hẹp, lại thêm tiếng Việt Nam với vần, với dấu, nói và đọc rất khó. Nhưng một hôm vào dịp Lễ Các Thánh, vị cố Tây nọ lên tòa giảng, bằng với tất cả khả năng và kiến thức ngôn ngữ, ngài giảng về ý nghĩa buổi lễ, về sự xum họp của các linh hồn lành thánh trên Thiên Đàng bằng một câu truyện mang hình ảnh thực tế. Đại khái, ngài nói rằng trên Thiên Đàng sau này ở trên đó sẽ có cha, có mẹ và con cái. Nhưng qua phát âm, bổn đạo nghe rằng: “cò cha, cò me, cò con cáy”.  Cố Tây dĩ nhiên biết mình nói gì, còn con chiên bổn đạo thì đành phải ngồi chờ xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng cho mà hiểu.

     

    Tuy nhiên, những lời đơn sơ trên đã bao hàm một giáo lý rất quan trọng về việc “các thánh cùng thông công”. Về việc các linh hồn lành thánh được hưởng thiên đàng, và cũng trở thành những thánh nhân của Thiên Chúa. Thật ra nếu tính đến các vị mà ta gọi là “thánh” thì từ ngày có Giáo Hội đến nay đã có bao nhiêu vị được phong thánh? Không lẽ trên Thiên Đàng chỉ có mấy thánh tổ tông, tiên tri, và một số vị đã được tuyên phong trong thời Tân Ước này sao? Và đó là lý do Giáo Hội đã mừng chung tất cả các linh hồn đã chết trong ơn nghĩa Chúa nay đang hưởng phúc trường sinh mà ta gọi là các thánh nhân của Thiên Chúa. Và các ngài là những ai?

     

    Chúa Giêsu đã gọi các ngài là những người được chúc phúc (Matthêu 5: 1-12a), vì các ngài:

     

    Có tinh thần nghèo khó,

    Ăn ở hiền lành,

    Chấp nhận đau khổ,  

    Khao khát điều công chính,

    Biết thương xót người,

    Giữ lòng trí trong sạch,

    Ăn ở thuận hoà,

    Bị bách hại vì lẽ công chính,  

    Những người mà bởi vì ghét Chúa, họ bị vu khống cho mọi điều gian ác… 

     

    Bằng ngôn ngữ Khải Huyền, các thánh chính là những người“từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”. (Khải Huyền 7:14)

     

    Con người tất cả đều được sinh ra vào đời, nhưng khác biệt giữa một thánh nhân và một phàm nhân là tuy cả hai cùng đến từ những đau khổ lớn lao, mang trên mình những chiếc áo đẵm mồ hôi với những thử thách, thăng trầm, vất vả, và đắng đót của cuộc đời. Nhưng một người biết giặt cái áo đau khổ ấy và tẩy nó trong máu Con Chiên. Nói cách khác, là biết lợi dụng đời sống này để thánh hóa nó, để nên trọn lành nhờ vào cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Kitô – con chiên Thiên Chúa. Ngược lại là những người phủ nhận giá trị đời sống tâm linh, chối bỏ và trốn chạy cuộc sống để sống theo những ham muốn, đam mê và lạc thú trần gian.

     

    Thánh Gioan trong Khải Huyền đã cho biết con dân số “các thánh” - những công dân của nước trời - là một con số hết sức đông đảo, đếm không được: “Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế.” (7:9)

     

    Đọc những điều này, nhiều người không khỏi thắc mắc: Với một con số quá lớn như vậy, với thời gian sống chết cách nhau và đôi khi người sống cũng không có cơ hội nhìn mặt người chết thì làm sao tổ tiên, ông bà, cha mẹ con cháu, anh chị em, chú bác, cô dì, bạn bè, người thân có thể tìm được nhau, nhận ra nhau khi về thiên đàng? Đối với con người thì không nhưng đối với Thiên Chúa thì có gì mà Ngài không làm được. Nhờ mấy ông Sadducees thách thức và hoài nghi về sự sống lại (Matthew 22: 23-33; Luke 20: 27-40; Mark 12: 18-27), mà chúng ta biết được điều này. Họ lấy một trường hợp cá biệt để thách đố Chúa Giêsu, trong đó có 7 người anh em trai theo luật Maisen lần lượt đã cưới một người phụ nữ. Họ hỏi Chúa vậy khi sống lại, người phụ nữ này là vợ của ai? Trong câu trả lời, Chúa đã nói với họ: “Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. (Mt 22: 29-30)

     

    Một cách tương tự, trong Luca, Chúa đã bảo họ: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.”  (Lc 20: 34-36)

     

    Sau cùng câu trả lời của Ngài đã được thánh Marco ghi lại như sau:Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao? Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên.” (Mk 12: 24-25)

     

    Tóm lại, cả ba thánh ký đều ghi lại một cách tương tự, đó là khi sống lại, trên nơi cao xanh kia, con người sẽ không còn lấy vợ, lấy chồng, sinh con, đẻ cái nữa. Các ngài sống với nhau như các thiên thần. Khi không còn thuộc về thế giới vật chất, thế giới kẻ chết thì những ngăn trở về thể lý không ảnh hưởng gì đến con người. Và như bản tính các thiên thần, chúng ta liên lạc, trao đổi với nhau bằng sự thấu hiểu thiêng liêng, phi thường. Như vậy, những người thân lúc này dù đã qua đời trước khi ta được sinh ra, hoặc đã bị mất tích… tất cả đều hiện diện trước mắt chúng ta qua một tầm nhìn siêu hình và với sự kết hợp rất mật thiết trong tình thương của con cái sự sống lại. Chỉ có một điều khiến đôi khi chúng ta phải băn khoăn lo lắng, đó là khoảng cách giữa những người thân trên thiên đàng và dưới hỏa ngục.

     

    Đặt trường hợp có ai đó trong gia đình, họ hàng không may mà phải rơi vào hỏa ngục, có nghĩa là số phận đời đời của người ấy hoàn toàn khác biệt với số phận đời đời của mình. Ta thì ở một nơi hạnh phúc vĩnh viễn, còn người ấy phải trầm luân đời đời, như vậy hoàn cảnh này có tạo nên sự khác biệt, thù ghé, hoặc đau đớn cho người hưởng phúc thiên đàng không? Có ảnh hưởng gì đến hạnh phúc mà mình đang có không?

     

    Câu trả lời đã được thánh ký Luca ghi lại trong cuộc đối thọai giữa người giầu có bị trầm luân và Tổ Phụ Abraham: “Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn từ đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ bên đó qua đây được.” (Luca 16: 26).

     

    Một khoảng cách do sự lựa chọn của mỗi người. Bởi vì thiên đàng hay địa ngục là một chọn lựa rất tự do và riêng tư. Thiên Chúa không cưỡng bức ai phải lên Thiên Đàng, và Ngài cũng không bắt ai để bỏ xuống hỏa ngục khi người đó không muốn xuống. Như vậy, người trên hay người dưới không có lý do phiền trách hoặc phải hối hận thay cho nhau.

     

    ***

     

    Cám ơn cố Tây đã nhắc nhở con về hạnh phúc thiên đàng, về nơi chốn mà mọi người chúng con đều mong mỏi đến cũng như mong gặp nhau trên đó.

     

    Chớ gì trong gia đình mọi người hãy sống tốt và hết lòng yêu thương nhau, cùng nhau chung vui, sẻ sầu giúp chia sớt thánh giá, đau khổ, và cùng giúp nhau thánh hóa cuộc đời, thánh hóa bản thân để một ngày không xa, tất cả đều họp nhau trên nước trời. Nơi đó “có cha, có mẹ và con cái”.  Và cả cố Tây nữa để nói lời “merci beaucoup” với ngài bằng chính ngôn ngữ mẹ đẻ của ngài.

     

     

    Lễ Các Thánh

    1 tháng 11, 2022