1. Hôn Nhân & Gia Đình

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - GIÁO HỘI NHỎ-CẢM NGHIỆM SỐNG # 57

  GIÁO HỘI TẠI GIA - HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

                        Cha mẹ là Linh mục Tại Gia hay Linh Mục Gia Đình

                                 (Cảm nghiệm Sống # 57)

                                         -----*****-----

      Từ sau Công đồng Vatican II , Giáo hội đã rất quan tâm đến Gia đình một cách đặc biệt và gọi Gia đình là Giáo hội tại gia hay Giáo hội nhỏ. Đến đời ĐTC Phaolô VI, ngài gọi các cha mẹ, gia trưởng hay anh chị lớn là Linh mục Gia đình hay Linh mục tại gia.

  1- Linh mục tại gia: danh từ này vẫn còn xa lạ với nhiều Kitô hữu, vì họ chưa được học hỏi, nhất là các bậc cha mẹ, vì bận kế sinh nhai nên chưa có giờ suy nghĩ về nhiệm vụ thật quan trọng này.

   2- Theo hiến chế về Giáo hội hôm nay thì Giáo hội là mỗi người Kitô hữu, mỗi Gia đình, mỗi Cộng đoàn Giáo xứ, Giáo phận chúng ta là Giáo hội, chứ không phải Giáo hội chỉ ở bên Rôma.

  3- Giáo hội tai gia hay Gia đình là Giáo hội nhỏ. Vậy ai là người có trách nhiệm trong Giáo hội này? Chính là các cha mẹ hay anh chị lớn, họ có một chức năng và trách nhiệm như là môt Linh mục phụ trách một Giáo xứ. Đó là “Linh mục tại gia hay Linh mục Gia đình.”

   4- Họ có trách nhiệm dạy bảo con em về đời sống đạo đức nhân bản đối với mỗi người trong Gia đình và ngoài Xã hội. Họ có bổn phận dạy Giáo lý và dẫn giải Lời Chúa cho con em qua bài bài giảng của Cha sở, Phó tế hay những kinh nghiệm về sống đạo của mình.

   5- Giờ kinh tối Gia đình: Mỗi buổi tối trong ngày hoặc ít mỗi tuần một lần, Gia trưởng nên xếp thì giờ thuận tiện tập hợp mọi người lại, chính cha mẹ hay anh chị đốt nến trên bàn thờ, rồi nói ý cầu nguyện chung. Phân công người đọc Lời Chúa, dẫn ý suy niệm xem ý Chúa muốn dạy điều gì và áp dụng bài Phúc âm vừa đọc vào đời sống. Có thể suy niệm một chục kinh Mân côi, rồi Cám ơn trông cậy, Sau cùng, cha mẹ, con em cùng chia sẻ những vui buồn và nhắc nhở những điều cần thiết.

   6- Giành thì giờ cho con em: Nhiều vị Gia trưởng hay cha mẹ kêu rằng đời sống hôm nay nhiều cực nhọc, vất vả, về đến nhà thì qúa mệt, còn thì giờ đâu mà lo cho việc đạo đức cho con cái, đã có các Linh mục, Phó tế, các Dì, Sơ lo việc đó. Nghĩ như thế, qúi vị đã khoán trắng cho các ngài, mà quên rằng từ sau khi chịu phép Rửa tội mỗi Tín hữu đã đã lãnh nhận ba chức vụ Tư tế, Tiên tri và Vương đế, nhất là từ sau Công Đồng Vatican II, Giáo hội đã trả lại ba chức vụ này cho các Tín hữu rồi.

   7- Nhiệm vụ quan trọng: Trong thực tế, hàng tuần các Cha xứ, Phó tế hay các Sơ chỉ dạy cho con em tôi được một giờ và hai giờ học Giáo lý là nhiều. Các ngài không thể làm thay tôi bẩy ngày được. Do đó chức vụ Linh mục Gia đình hay tại gia của tôi thật là quan trọng.

   8- Chu toàn trách nhiệm: Chỉ khi nào các bậc phụ huynh quan tâm đến “Giáo hội tại gia” cùng với các Linh mục, Phó tế, Tu sĩ thì mới thực sự đáp lại Lời mời gọi của Chúa Kitô để thực hiện một Giáo hội tai gia hay Gia đình là Giáo hội nhỏ, trong thân thể là Giáo hội Mẹ được. Lúc ấy, các cha mẹ đã làm tròn chức vụ Linh mục Gia đình của mình.

   Thánh Phaolô đã gọi các Tín hữu là dân thánh, hàng tư tế thánh của Chúa, thật qúi trọng biết bao !

   Mới đây nhất ngày 09-07-06, trong bài diễn văn của ĐTC Biển Đức XVI,  ngài đọc ngày Đại hội lần thứ V về Gia đình, tại Valencia Tây Ban Nha, tôi xin tóm tắt vài điểm chính như sau:

   Gia đình được gọi là Giáo hội tại gia vì hiệp thông với Giáo hội.

   Gia đình là trường học huấn luyện công cuộc phát triển nhân bản.

   Gia đình là môi trường ưu tiên Một cho việc học hỏi sống đạo.

   Gia đình là cơ chế trung gian giữa cá nhân, Xã hội và  Dân tộc.

   Gia đình là nơi vun trồng tình yêu với sự trợ giúp của Thiên Chúa.

   Gia đình là điều thiện hảo, là nền tảng không thể thiếu cho Xã hội.

   Gia đình là nơi cha mẹ hứa trước mặt Thiên Chúa chấp nhận nhau.

   Cuối cùng ĐTC nói đây là chủ đề trách nhiệm “Thông Truyền Đức Tin trong Gia đình”. Giáo hội có trách nhiệm Mục vụ giảng dạy, nâng đỡ, khích lệ sự gắn chặt giữa cha mẹ, con cái trong Gia đình.

  Tôi muốn ngỏ lời với các ông bà Nội Ngoại, những thành phần rất quan trọng trong Gia đình; những người bảo đảm cho tình thương và sự dịu dàng mà mọi người cần cho đi và lãnh nhận. Ông bà Nội Ngoại cống hiến cho các cháu một ký ức và sự phong phú của Gia đình. Và là một kho tàng không thể  nào quên lãng trong thế hệ mới này, khi làm chứng về đức tin cho con cháu, lúc cái chết gần bên.

   *SUY TƯ VÀ HÀNH ĐỘNG: Từ hôm nay, là một Gia trưởng, tôi dành thì giờ tìm hiểu trách nhiệm về Linh mục Gia đình, Giáo hội tại gia, để thực hiện sứ mạng mà tôi đã lãnh nhận. Tôi không chờ đợi hay khoán trắng cho ai, để Gia đình tôi xứng đáng là Giáo hội nhỏ.

Phó tế GB Huyền Đồng/Nguyễn Văn Định – This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

-----------------------------

 

 

CẢM NGHIỆM SỐNG LC- THỨ HAI CN14TN-C

Chạm đến.

08/07 – Thứ Hai tuần 14 thường niên.

"Con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến, nó sẽ sống lại".

 

Lời Chúa: Mt 9, 18-26

Khi ấy, Chúa Giêsu đang nói, thì có một vị kỳ mục kia đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên nó, thì nó sẽ sống lại".

Chúa Giêsu chỗi dậy, và cùng với các môn đệ, đi theo ông ấy.

Và này có người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm, tiến lại đàng sau Người và chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người thôi, thì tôi sẽ được khỏi. Chúa Giêsu ngoảnh lại, trông thấy bà ta, liền phán rằng: "Này con, hãy vững lòng. Đức tin của con đã cứu thoát con". Và người đàn bà được khỏi bệnh.

Khi Chúa Giêsu đến nhà vị kỳ mục, và thấy những người thổi kèn và đám đông đang xôn xao, thì bảo rằng: "Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ đó thôi". Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy. Tin này đồn đi khắp cả miền ấy.

 

 

Suy Niệm 1: Thiên Chúa yêu thương con người

Với tựa đề: "Nơi Chúa, họ tin tưởng", tuần báo Kinh Tế Viễn Ðông số tháng 6/1996 dành hai trang để nói về sự hồi sinh tôn giáo tại Việt Nam. Tựa đề của bài báo lấy lại dòng chữ mà người Mỹ vốn cho in trên đồng tiền của họ: "Nơi Chúa, chúng tôi đặt tin tưởng".

 

Nếu với người Mỹ, Chúa là một ngôi vị cá biệt, thì Chúa theo tạp chí Kinh Tế Viễn Ðông lại là thể hiện của một nhu cầu tôn giáo cơ bản nhất của con người, không gì có thể dập tắt nổi.

Con người khao khát Thiên Chúa, hay đúng hơn Thiên Chúa đã tạo dựng con người, với nỗi khao khát vô biên ấy. Con người không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, hay đúng hơn chính Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với Ngài. Thiên Chúa yêu thương con người, tình yêu của Ngài vượt trên mọi thước đo, mọi dự đoán, mọi tưởng tượng của con người, đó là tất cả những gì Chúa Giêsu đã đến để mạc khải cho con người.

Tin Mừng hôm nay ghi lại một vài cử chỉ của Chúa Giêsu đối với con người: một vị kỳ mục đến xin Ngài cứu đứa con vừa chết, người đàn bà mắc bệnh loạn huyết chi khấn thầm và sờ đến gấu áo của Ngài, cả hai đại diện của đủ mọi tầng lớp mà Chúa Giêsu gặp gỡ hàng ngày. Ngài không loại trừ bất cứ hạng người nào, bất cứ giai cấp nào trong xã hội, bởi vì tất cả đều là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Vị kỳ mục đã tìm đến với Chúa, người đàn bà đã len lỏi giữa đám đông để sờ vào Ngài, đó là hình ảnh của sự tìm kiếm mà con người không ngừng thực hiện để đến với Chúa. Nhưng thật ra, chính Thiên Chúa mới là Ðấng đi bước trước để đến với con người. Phép lạ đã diễn ra như một kết quả của lòng tin: "Ðức tin của con đã cứu chữa con", nhưng cũng chính niềm tin đã giúp con người khám phá ra phép lạ Thiên Chúa không ngừng thực hiện vì yêu thương con người.

 

Qua một cơn hải trình cam go, những người có niềm tin đã nhìn vào sự sống sót của mình như một phép lạ của tình thương. Những giờ phút hãi hùng trong cuộc sống, những thử thách phải trải qua, những đau khổ phải gánh chịu, đó là những phách mạnh trong bản trường ca về tình yêu Thiên Chúa. Có trải qua những giờ phút ấy, chúng ta mới nhận ra được cánh tay đỡ nâng của Chúa.

Xin Chúa cho chúng ta một đức tin sáng suốt để chúng ta không ngừng nhận ra tình yêu của Chúa và dâng lời cảm tạ Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

-------------------------------

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC - MÔN ĐỆ CHÂN CHÍNH

Người môn đệ chân chính

   ĐẠO BINH ĐỨC MẸ

“Các ngươi hãy đi! Này Ta sai phái các ngươi như chiên vào giữa sói. Đừng mang ví tiền, bao bị, giày dép; cũng đừng chào hỏi dọc đường. Hễ vào nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này”. (Lc 10,3)

Đọc qua đoạn Kinh thánh trên đây không ít người cảm thấy dường như Lời Chúa chẳng dính dấp gì đến cuộc sống của mình. Những lời nhắn nhủ “đừng mang gì đi đường, không mang bánh mang bị, không mang tiền mang dép” có lẽ chỉ dành riêng cho các môn đệ Đức Kitô trước khi họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Thế nên có thích hợp hay chăng chỉ là thích hợp cho các nhà thừa sai truyền giáo, chứ như dân thường thì e lệnh truyền trên đây không có một chút ý nghĩa nào!

Cũng có người thắc mắc: “Tại sao khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không nghĩ rằng nếu không được đón tiếp thì họ sẽ lấy của gì để ăn, lấy nhà đâu để ở? Thế nên cần phải có chút ít tiền để phòng thân chứ. Rồi nếu như phải ngủ bờ ngủ bụi, mà có chiếc áo che thân thì tốt biết mấy. Tại sao Đức Giêsu lại bảo đừng mang tiền, mang bị, hay mang bánh, mang áo? Tại sao Chúa không phòng xa để giải quyết những trường hợp bất ngờ?”

Nhưng đâu phải Chúa Giêsu không biết nghĩ xa. Ngài dư biết sẽ có thành đón tiếp và cũng có thành chối từ. Chính Ngài đã từng căn dặn thành nào không đón tiếp thì hãy rũ bụi chân lại để tố các chúng đã hẹp lòng và bất cập với Tin Mừng đấy chứ.

Chúa Giêsu biết sẽ có những người đóng cửa lòng, không đón nhận các môn đệ của Ngài. Nhưng ý tưởng chính toát lên từ lời căn dặn của Chúa Giêsu chính là sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời – sứ mạng đưa bình an đến cho các xóm làng – là một điều cấp bách. Đây là việc chung mà cộng đoàn các tông đồ phải khẩn trương thi hành chứ không được chậm trễ vì lỉnh kỉnh các vật dụng cá nhân.

Nói cách khác, ý của Chúa Giêsu là các môn đệ phải biết đặt sự nghiệp chung, lợi ích của Nước Trời trên bao bị, giầy dép, tiền bạc, áo xống. Việc rao giảng Tin mừng phải là công tác quan trọng, cần thiết và cấp bách hơn tất cả mọi lợi ích riêng tư.

Sống trong một tập thể hay cộng đoàn, nếu người ta chỉ biết đòi hỏi được đáp ứng các nhu cầu hay lợi ích cá nhân, tập thể hay cộng đoàn đó sẽ bị tổn thương nếu không muốn nói là có nguy cơ sụp đổ. Người hay đòi hỏi chắc chắn sẽ chẳng bao giờ tìm được niềm vui và hạnh phúc chân thật.

Kẻ gặp được niềm vui và hạnh phúc trong một cộng đoàn không phải là người được cộng đoàn dành cho nhiều ưu đãi, lợi lộc, hay địa vị, song là người biết sống dấn thân với cộng đoàn và cho cộng đoàn.

Người biết nghĩ đến ích chung, tha thiết với việc công sẽ là người đáng được tôn trọng và dễ dàng hoà hợp với tha nhân. Trái lại kẻ chỉ tìm ích riêng sẽ gây nên tình cảnh “khó sống” cho mọi người chung quanh. Họ không thể là môn đệ đích thật của Đức Kitô. Bởi vì người môn đệ đích thật sẽ không cứ lo tìm kiếm, bao bọc, chở che cho sự sống riêng mình, nhưng là dám đánh mất sự sống mình vì Nước Trời và vì tha nhân.

Người ta kể trong thời Chiến Quốc, khi quân nước Tề sang đánh nước Lỗ, lúc đến chỗ biên giới, bỗng thấy một người đàn bà, tay bồng một đứa bé, tay kia đang dắt đứa khác lớn hơn. Thấy quân giặc kéo tới, bà ta vội vàng bỏ đứa đang bồng trên tay xuống và bồng đứa bé kia lên, rồi chạy trốn vào núi.

Viên tướng nước Tề thấy lạ bèn cho lính đuổi theo bắt lại và hỏi: “Tại sao bà lại ẳm thằng lớn mà bỏ thằng nhỏ?” Người đàn bà thưa: “Đức nhỏ là con tôi, còn đứa lớn là con anh tôi. Vì quân lính kéo tới nhanh quá, lượng sức không thể bảo toàn được cả hai đứa, cho nên tôi đành phải bỏ con tôi lại.”

Tướng nước Tề ngạc nhiên: “Con với mẹ là tình máu mủ ruột thịt rất gần. Nay bỏ con mình thì như cắt ruột mà cứu lấy con anh thì nghĩa là sao?” Người đàn bà trả lời: “Con tôi là tình riêng, con anh tôi là nghĩa công. Con đẻ tuy đau xót thật, nhưng đối với việc nghĩa thì biết tính làm sao. Tôi không thể nào sống mà chịu mang tiếng vô nghĩa giữa làng giữa xóm được.

Viên tướng nước Tề vội cho dừng quân lại và sai người về tâu với vua: “Nước Lỗ chưa thể đánh được. Vì quân ta vừa mới đến chỗ biên cương đã thấy con mụ đàn bà nơi xó rừng còn biết đặt tình riêng trên nghĩa công, thì huống chi là những bậc quan lại sĩ phu trong nước. Nên xin vua cho rút quân về.” Vua Tề cho là đúng và đồng ý lui quân.

Thế đó, một quốc gia, một cộng đoàn hay một gia đình sẽ rất vững chắc khi có những con người biết nghĩa đến kẻ khác, dám hy sinh quyền lợi riêng tư cho sứ mạnh và sự nghiệp chung. Không một sức mạnh nào của kẻ thù mà lại không chùn bước trước sức mạnh của đoàn kết yêu thương.

Hình ảnh của người mẹ bỏ rơi đứa con mang nặng đẻ đau của mình để cứu đứa con của người anh nhắc tôi về hình ảnh của một người Cha “bỏ rơi” người Con yêu dấu của mình để cứu vớt kẻ khác: Hình ảnh của một Thiên Cbúa đã dứt lòng hy sinh mạng Con, đến nỗi người Con đó phải thốt lên trong đau đớn tột cùng: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con,” một tiếng kêu xé lòng Cha. Nhưng chính nhờ sự hy sinh đó mà nhân loại đã được ơn giải thoát.

Thiên Chúa đã dâng hiến chính tình yêu giữa Cha và Con vì sự sống và hạnh phúc chung của toàn nhân loại. Thiết tưởng không có một tình yêu hay sự hy sinh nào lớn hơn tình yêu và hy sinh của Thiên Chúa.

Và tình yêu mời gọi đáp trả tình yêu. Thiên Chúa gọi mời bạn và tôi đáp trả tình yêu bằng cách sống như Ngài trong sự hiến dâng chính mình cho lợi ích của tha nhân và cộng đoàn.

Cách cụ thể, ta hãy cùng tự vấn: “Tôi có vì nghĩa công mà hy sinh ích riêng chưa? Tôi đã làm được gì cho giáo xứ? Tôi sẽ làm những gì cho cộng đoàn? Tôi đã dấn thân cho ích lợi của đất nước và dân tộc chưa?

Trả lời bằng những quyết tâm chân thành là ta đang trở nên những người môn đệ chân chính của Đức Kitô rồi đó.

Lm. Bùi Quang Tuấn

------------------------

Chia sẻ Bài này:
 

HẠNH PHÚ HÔN NHÂN - VỢ CHỒNG HÒA THUẬN

VỢ CHỒNG HÒA THUẬN: SỨC MẠNH LÀM NÊN GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC

 

Chúng ta đều biết rằng sự hòa thuận trong đời sống vợ chồng là điều quý giá và đáng mơ ước vô cùng. Nó là một điều kiện không thể thiếu được trong việc kiến tạo một đời sống hôn nhân hạnh phúc và một gia đình êm ấm.

 

 

Ông bà ta có câu, “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Điều đó có nghĩa là khi vợ chồng thuận hòa với nhau thì họ có thể làm được những việc lớn lao, phi thường, họ có thể vượt qua mọi khó khăn, có thể chịu đựng mọi vất vả để giúp nhau tận hưởng hạnh phúc hôn nhân gia đình.

 

Tuy nhiên, trên thực tế, việc duy trì được sự hòa thuận lâu dài giữa hai vợ chồng là điều rất khó khăn, có những trường hợp tưởng chừng như không thể được. Chúng ta nên biết rằng, trên đời này không có cuộc hôn nhân lý tưởng giữa hai vị thánh, mà chỉ có những cuộc hôn nhân giữa hai con người nam và nữ, giữa hai cá thể khác biệt, giữa hai tính cách có thể là rất tương khắc nhau…

 

Do đó, một cuộc hôn nhân thành công không phải là một cuộc hôn nhân không có sóng gió. Nghĩa là không có những căng thẳng và cãi vã giữa hai người. “Nên một” trong thể xác và tinh thần không có nghĩa là xóa bỏ những khác biệt giữa hai người. Mãi mãi người khác vẫn là người khác, có những nét cá biệt của họ. Mỗi người đều có những nhịp sống riêng của mình. Chàng có thói quen ăn nhanh, nàng thì trái lại ăn uống một cách từ tốn. Chàng thì điềm nhiên đến lạnh lùng. Nàng thì luôn luôn nhiệt tình đến nóng nảy. Nàng thích nghe nhạc, chàng lại thích thinh lặng để suy tư…

 

Một tâm lý gia nổi tiếng đã nêu ý kiến như sau: “Xét trên phương diện trí não, tinh thần và thể lý, thiên nhiên đã tạo nên một sự khác biệt to tát giữa người đàn ông và người đàn bà. Đến độ người đàn ông luôn nhìn thấy người đàn bà như đối thủ của mình và ngược lại. Đó chính là điều gây nên căng thẳng giữa hai phái. Nếu người đàn ông và người đàn bà bình đẳng với nhau thì có lẽ tất cả đều rơi vào trạng thái tĩnh và trái đất này sẽ trở nên khô cằn”. [1]

 

Quả thực, hôn nhân không phải là một dịch vụ sắp đặt hai con người cạnh nhau như hai pho tượng, mà không có một tương tác nào. Trái lại, hôn nhân là một chọn lựa của những con người có tự do và tình yêu, họ cam kết sống chung với nhau, chứ không chỉ là ngồi cạnh nhau. Họ đều theo đuổi mục đích đem lại sự nâng đỡ ủi an, chia sẻ vui buồn, cố gắng đem lại hạnh phúc cho nhau đồng thời hợp tác với nhau trong việc sinh sản, dưỡng nuôi và giáo dục con cái.

 

Tuy nhiên trong quá trình hợp tác với nhau, không phải lúc nào mối quan hệ vợ chồng cũng êm ả, xuôi chèo mát mái cả đâu, vì có mưa thì cũng có nắng, có lạnh thì cũng có nóng, có nụ cười thì cũng có nước mắt. Như một danh nhân đã nói: “Trong hôn nhân, nụ cười và nước mắt làm nên bản nhạc cuộc sống” (David Sarnoff). Những lúc căng thẳng, có khi mâu thuẫn cao độ, thì nguy cơ tan vỡ là điều có thực. Lúc đó nếu cái kiểu “ông nói gà bà nói vịt” hay “trống đánh xuôi kèn thổi ngược” cứ tiếp diễn đi tiếp diễn lại thì tình hình sẽ không ổn. Hai bên phải biết tự kiềm chế và dừng lại đúng lúc. Đó là thời điểm mà hai bên cùng nhường nhịn nhau, cùng nhượng bộ nhau. Một sự nhịn chín sự lành.

 

Thực vậy, sau nhiều năm nghiên cứu, các chuyên gia về gia đình đã tổng kết nên các nguyên tắc sau đây trong cuộc sống gia đình: Chấp Nhận – Chịu Đựng – Điều Chỉnh – Thích Ứng. Theo họ, nếu các cặp vợ chồng thực hiện đúng theo các nguyên tắc thì nhất định sẽ có một gia đình bền vững. [2]   

 

Chắc chắn những nguyên tắc “Sống chung” trên sẽ giúp các đôi vợ chồng hóa giải được những mâu thuẫn thường ngày, tránh khỏi những va chạm, đổ vỡ đáng tiếc và giúp họ kiến tạo một cuộc hôn nhân bền vững và một gia đình êm ấm. Đó được coi là những điều kiện tâm lý cần có để hai vợ có thể sống hòa thuận lâu dài.     

 

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA SỰ HÒA THUẬN VỢ CHỒNG

 

Chúng ta cũng lưu ý một điều là, hòa thuận không có nghĩa là hai người “hòa tan” vào nhau, đến nỗi không ai còn cá tính, cá vị riêng của mình nữa. Bởi vì, “Ta với mình tuy hai mà một / Mình với ta tuy một mà hai”. Trong “hòa thuận” vừa có hòa hợp, hòa đồng lại vừa có tự do, tự ý ưng thuận nữa.

 

Xét về mặt thực tiễn, hòa thuận có những đặc điểm sau:

 

* Cùng hợp tác song phương

 

Tục ngữ VN có câu: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấy”. Đang khi người đàn ông xây nhà mà người phụ nữ “ngồi chơi xơi nước”, thì đó là điều không chấp nhận được. Hôn nhân là hôn ước trong đó hai người cùng thỏa thuận chia sẻ trách nhiệm với nhau, và đảm nhận bổn phận cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình. Có người đã nói, “Trong hôn nhân, gặp nhau là bước đầu, sống chung là bước kế tiếp, làm việc chung với nhau mới làm nên một gia đình êm ấm” (James Thurber).

 

Sự hợp tác song phương giữa đôi bạn trong cuộc sống lứa đôi là yếu tố cực kỳ quan trọng nhờ đó hạnh phúc gia đình được đảm bảo chắc chắn. Khi nhìn vào một gia đình nào mà thấy hai vợ chồng biết hòa hợp, gắn bó để chăm lo việc nhà việc cửa, việc trong việc ngoài, thì biết ngay gia đình ấy đang hạnh phúc. Bởi “Họ là hai tâm hồn nhưng một ý nghĩ, là hai quả tim nhưng một nhịp đập” (Maria Lowell).

 

* Cùng chung chí hướng

 

Một văn hào Pháp đã nói, “Yêu nhau không là ngồi đó nhìn nhau, mà cùng nhau hướng về một lý tưởng” (Antoine de St Exupéry). Vợ chồng phải ngồi lại với nhau, cùng nhau xây dựng một mục tiêu chung cho cuộc sống hôn nhân và cho gia đình mình. Một gia đình mà trong đó “Ông nói gà, bà nói vịt”, hay “Trống đánh xuôi kèn thổi ngược” thì đó là biểu hiện của sự phân hóa, chia rẽ, bất đồng.

 

Hai người phải dành thời gian để thảo luận, có thể là tranh luận, về những mục tiêu phải theo đuổi. Chẳng hạn, trong vấn đề giáo dục con cái, trong việc quản lý và sử dụng tài chánh, trong việc giải quyết những nhu cầu vật chất, tinh thần trong gia đình vv. Trong gia đình dường như lúc nào cũng có nhiều vấn đề phải giải quyết và đối phó, nếu hai bạn cùng hiệp lực, đồng tâm nhất trí nắm tay nhau thực hiện thì việc gì cũng xong. “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” hay “Một cây làm chẳng nên non / ba cây chụm lại thành hòn núi cao”.       

 

* Cùng quan tâm đến nhau và đến những nhu cầu của đời sống chung

 

“Hãy thường xuyên quan tâm đến nhau”, đó là mệnh lệnh của tình yêu.

 

Khi yêu, người ta có thể làm tất cả vì nhau và cho nhau. Việc quan tâm đến nhau phải được coi là một trong những “hạng mục ưu tiên” hàng đầu để giữ cho cuộc hôn nhân bền vững, hạnh phúc.

 

Quan tâm từ việc nhỏ đến việc lớn. Mỗi người coi nhau như đối tượng chăm sóc thường xuyên. Không phải chỉ có kiểu lãng mạn “nâng khăn sửa túi” lúc ban đầu, mà suốt cả cuộc hành trình đời sống lứa đôi, hai bạn phải chăm sóc, nâng đỡ, hỗ trợ nhau cách tận tình và chu đáo. Nhiều khi chỉ một việc nhỏ thôi cũng đủ hâm nóng tình yêu, vốn rất mong manh, nhờ đó hai bạn vững vàng yên tâm đi tới đích. Có một ý kiến thế này: “Sẽ bớt đi những vụ li dị nếu quý bà tân thời ngày nay chăm lo cho chồng con hơn là chăm sóc các món hàng hạ giá ở siêu thị”.

 

Bên cạnh đó, nhiều bà vợ than phiền rằng họ rất buồn tủi và cô đơn vì hầu như ông chồng chẳng tỏ ra quan tâm gì tới họ. Sau một ngày làm việc bên ngoài về nhà, chồng chỉ kịp ăn uống vội vàng rồi chui vào phòng xem TV hoặc chơi game. Nếu sự việc cứ tái diễn lâu dài như thế này, thì chắc chắn cuộc hôn nhân sẽ sớm rơi vào tình trạng tan vỡ… 

 

* Hợp sức giải quyết những khó khăn trong đời sống

 

Người ta đã ví hôn nhân như bãi chiến trường chứ không phải là luống hoa hồng. Và hôn nhân nhìn xa cứ ngỡ như hạt kim cương nhưng khi lại gần thì đó chỉ là giọt lệ. Điều đó cho thấy khi bước vào đời sống hôn nhân, người ta sẽ khám phá ra rằng không có cuộc hôn nhân nào hoàn hảo, êm ái cả.

 

Rất nhiều người khi mới kết hôn thì hồ hởi, vui sướng nhưng chỉ sau một thời gian ngắn chung sống, họ thất vọng. Có người than thở, “Hôn nhân là một pháo đài, kẻ ở bên trong thì muốn thoát ra, còn kẻ ở bên ngoài thì muốn chui vào ”. Đối với những người “bên trong” này, thì hôn nhân không còn thơ mộng như lâu đài cổ tích, hay đẹp như một túp-lều-tranh-hai-trái-tim-vàng nữa, nhưng là “ngục tù” chôn vùi tình yêu. Người ta nói, “Người phụ nữ khóc trước khi lấy chồng, còn người đàn ông khóc sau khi cưới vợ”. Cả hai cùng khóc, bởi cái viễn cảnh “hợp hợp tan tan” cứ ám ảnh họ. 

 

Tuy nhiên có nhiều cặp vợ chồng đã vượt qua được những khó khăn thử thách trong đời sống hôn nhân, vì họ đã biết từ bỏ tính ích kỷ để cùng hợp sức với nhau giải quyết những vấn đề của mình.

 

Người ta đã ví hôn nhân là một chiến trường, vợ chồng là chiến binh, họ phải chiến đấu không mệt mỏi. Có người đã nói, “Trận chiến dũng cảm nhất, tôi chưa từng thấy ở đâu trên bản đồ thế giới, mà tôi chỉ gặp giữa hai vợ chồng” (Joaquin Miller). Thực vậy, cuộc sống gia đình đầy những khó khăn, vất vả, cực nhọc. Khó khăn về kinh tế, vất vả trong công việc làm ăn, cực nhọc để giải quyết những vấn đề gia đình vv.

 

Từ thực tế khó khăn, phức tạp này, đã phát sinh biết bao hệ lụy. Có người bi quan đã nói, “Hôn nhân là một pháo đài, người ở trong muốn thoát ra, còn người ở ngoài lại muốn đi vào”. Gánh nặng của hôn nhân không chỉ là giải quyết vấn đề “cơm, áo, gạo, tiền”, mà còn bao gồm tất cả những rắc rối phức tạp trong đời sống vợ chồng. Chẳng hạn, chuyện xung đột nảy sinh do tính tình khác biệt, do sở thích không đồng bộ, do nền giáo dục hấp thu không tương xứng, do trục trặc trong sinh hoạt tình dục vợ chồng vv. Những bất đồng này xói mòn tình yêu đôi bạn, khiến họ không thể chịu đựng nhau được nữa, lúc đó phát sinh hậu quả ly hôn ly dị. Vì lý do đó mà có một danh nhân đã nói, “Hãy cầu nguyện một lần trước khi ra trận, hai lần trước khi ra khơi, nhưng ba lần trước khi kết hôn”.

 

* Thực hành nghệ thuật nhượng bộ nhau

 

Trong tương quan vợ chồng, sự hòa hợp để “nên một” luôn đòi hỏi người này nhường nhịn người kia và cả hai cùng chấp nhận sự “bỏ mình” vì bạn đời. Ngày nay người ta nói nhiều đến “Nghệ thuật nhượng bộ”. Chuyện kể có một đôi vợ chồng già đã ngoài tám mươi tuổi. Con cháu đầy đàn. Trong ngày lễ kỷ niệm năm mươi năm thành hôn, con cháu tụ họp chúc thọ và chúc mừng hai cụ. Dịp vui này, các con cháu đồng thanh hỏi thăm bí quyết nào hai ông bà giữ được hạnh phúc bền vững cho đến ngày nay? Các cụ trả lời ngay, không có bí quyết nào bí mật cả, mà đơn giản đó chỉ là sự nhượng bộ nhau.

 

Nhượng bộ là hy sinh một phần cái gì đó của mình vì ích lợi chung và vì lợi ích của người khác. Trong một cuộc cãi vã bất phân thắng bại, sự nhượng bộ tốt nhất chính là im lặng. Người ta nói, “Phân nửa những vấn đề trong hôn nhân được giải quyết bằng cách giữ im lặng”. Trong cuộc sống chung, hằng ngày có vô vàn những điều trái ý nhau, từ những chuyện nhỏ nhất như ăn uống, sinh hoạt, giải trí, giờ giấc...đến những vấn đề lớn như việc chi tiêu trong gia đình, việc dạy dỗ con cái, việc ứng xử với cha mẹ (chồng/ vợ), với họ hàng hai bên...nếu cả hai bạn chỉ biết bảo lưu ý kiến riêng của mình thì sớm muộn cũng sẽ xảy ra mâu thuẫn, xung đột. Thực ra, không nhất thiết hai người phải “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, nhưng ít nhất họ cần bàn tính sao để cuối cùng có tiếng nói chung, vừa lòng cả đôi bên... 

 

Tóm lại, để có được sự hòa thuận lâu dài trong đời sống vợ chồng, chúng ta nên dõi theo và thực hành lời khuyên thiết thực sau đây của thánh Phao-lô: Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thông cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo...” (Cl 3,12-14)./.

 

Aug. Trần Cao Khải  

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH -

SỬA LẠI MÀ DÙNG

Tâm lý ứng dụng trong Hôn Nhân

Trần Mỹ Duyệt

 

 

Bạn hỏi tôi: “Có nên ly dị không? Nếu không may lấy phải anh chồng hoặc cô vợ cà chớn thì sao?”Với kinh nghiệm cá nhân cùng với những hiểu biết trong lãnh vực chuyên môn, câu trả lời là “không nên”. Tại sao? Xã hội hôm nay đã mặc nhiên cho phép ly dị, và ly dị được coi như một cái quyền. Nếu tôi nói “nên” ly dị nữa thì cũng chẳng thêm bớt gì cho hiện tượng hôn nhân ngày nay mà còn bị gán cho tội “vẽ đường cho hươu chạy”. Do đó, nói không nên ly dị là một câu trả lời mà tôi cho là hợp tình, hợp lý nhất.

 

Trước khi đi vào những phân tích của vấn đề, tôi muốn nhắc lại một câu truyện mà tôi cho là nền tảng cho triết lý sống của tôi, triết lý “sửa lại mà dùng” trong hôn nhân. Câu truyện được bắt đầu:

 

Hôm đó, chúng tôi đang ngồi nói chuyện linh tinh với nhau về đề tài hôn nhân gia đình, giáo dục, xã hội, một chị trong số các bạn của tôi đã phát biểu: “Tại sao lại phải bỏ đi người mà mình đã lấy làm chồng. Đó chẳng phải là tự mình đã chọn sao? Bây giờ nó hư thì “sửa đi mà dùng” chứ.” Rồi chị giải thích thêm: “Cả một thời gian theo đuổi, tìm hiểu, nhớ thương, giận hờn. Cả năm năm, mười năm, hai mươi năm, có khi hơn nữa sống với nhau mình biết rõ người ta như thế nào, cá tính, tập quán, và cả những suy nghĩ nữa bỗng dưng vì vài bất đồng hay bất hòa mà bỏ thì có phải là một quyết định trưởng thành và khôn ngoan không? Ca dao Việt Nam chẳng nói sao: “Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”. 

 

Câu chuyện hôm đó đã đưa tôi đến một suy nghĩ thực tế mà theo tôi, nó cũng đúng trong ứng dụng tâm lý sống. Theo tâm lý đó, và cũng dựa vào khảo cứu, một người đã ly dị một lần thường có khuynh hướng ly dị những lần kế tiếp. Kết quả là cuộc sống người đó rất bất ổn, phần lớn dựa trên những phán đoán cảm tình, những suy nghĩ thiếu trưởng thành. Vui buồn lẫn lộn, sống đó mà cứ nuôi trong lòng ý tưởng, “hễ không hợp thì bỏ”. Nhưng thế nào mới hợp, thì chính người đó cũng không có câu trả lời. Tìm đâu ra được người lúc nào cũng phải hiểu, phải chiều, và phải như ý mình. Ngay bản thân của chúng ta rất nhiều lúc cũng tự cảm thấy không hài lòng với chính mình, như vậy đòi hỏi người chồng hoặc người vợ lúc nào cũng như ý mình là một đòi hỏi không thực tế và vô lý.

 

Trở lại lý thuyết “sửa để xài” ứng dụng trong đời sống hôn nhân nghe như khôi hài nhưng là một ý nghĩ thực tế và tích cực. Thí dụ, nếu chồng hoặc vợ có những hành động, lời nói, lối suy nghĩ không phù hợp với mình thì việc đầu tiên là chính ta phải đặt mình vào trường hợp vợ hoặc chồng mình để suy nghĩ, tìm hiểu trước khi kết luận hoặc phê phán. Làm như vậy sẽ giúp ta hiểu được vợ hoặc chồng, đồng thời không tự cho phép mình phán đoán, phê bình người phối ngẫu một cách vô tội vạ, vô căn cứ. Biết đâu hành động ấy, lời nói ấy chẳng phát xuất từ tấm lòng yêu thương mà người đó dành cho mình sao? Trong thực tế, chúng ta phải chấp nhận sự thật này là có quá nhiều lần mình trách móc, khó chịu hoặc giận dỗi vợ hay chồng, mà thực ra những việc không hài lòng ấy phát xuất từ chính ta chứ không vì những lỗi lầm của vợ hoặc chồng.    

 

Nhưng nếu người vợ hoặc chồng có khuyết điểm nào đó thì chúng ta phải làm gì? Cần phải biết phân biệt con người và cử chỉ hoặc thái độ của người ấy. Con người của chồng hay vợ là con người toàn diện mà mình đã chọn, đã lấy, chỉ có cử chỉ, thái độ là cái mà chúng ta cần phải phân biệt và chấp nhận. Thí dụ, chồng là người hướng nội, ưa trầm tĩnh và suy tư, nhưng nếu gần đây anh hay cáu gắt, khó chịu, thì cái cáu gắt và khó chịu ấy không phải là chồng mình, và đó là cái mà người vợ phải tìm hiểu. Biết đâu vì mình đã tạo nên lý do cáu gắt và khó chịu ấy, hoặc biết đâu chồng hay vợ có những chuyện buồn và khó lòng chia sẻ. Trong trường hợp ấy, và hầu như trong nhiều trường hợp tương tự, chúng ta phải sửa lại, phải tìm cách sửa sai để không rơi vào một kết luận rất mơ hồ và dễ gây đổ vỡ hạnh phúc, đó là: “Người hiền thì hay cộc!” Tâm tính hiền và cử chỉ cộc cằn không liên quan gì với nhau.  

 

Nhưng câu hỏi quan trọng có thể được nêu lên là nếu những khác biệt, những sai sót quá không thể thay thế được, không thể sửa sai được liệu có cần phải tiếp tục cuộc hôn nhân nữa hay không?

 

Không. Nhưng cái không đó phải có đủ những lý do chính đáng và khách quan. Nó không dựa vào những cảm xúc hoặc lỗi lầm chủ quan của cả hai người trong cuộc. Thánh Kinh đã ghi rõ: “Từ đầu đã không xẩy ra như vậy. Nhưng do sự cứng lòng mà Maisen đã cho phép làm tờ ly dị” (Mt 19:8).

 

Cái cứng lòng đó hiển nhiên là sự cứng lòng không muốn thay đổi quan niệm và lối sống. Sự cứng lòng này không liên quan gì đến tâm tính hướng nội, hướng ngoại của một người. Tâm lý gọi là “những khác biệt không thể hàn gắn” - irreconcilable differences.

 

Tiếp đến là những cứng lòng có chủ ý: Gồm gian dối khi bước vào hôn nhân, lường gạt thể xác, tinh thần, và tài chánh của nạn nhân, dấu giếm những khuyết điểm thể lý, tâm lý, tinh thần dẫn đến một hôn nhân què cụt, cưỡng bức, hoặc lầm lỡ cho nạn nhân là chồng hay vợ.

 

Trong đời sống hôn nhân, và qua những kinh nghiệm thường ngày con số những người bước vào hôn nhân với những thứ “cứng lòng” trên chắc không nhiều. Nhưng có thể là do cả hai cái tôi được thể hiện qua lối sống đã tạo nên những nguyên nhân đưa đến đổ vỡ. Hoặc do sự thiếu hiểu biết, thông cảm và chia sẻ. Trong những nguyên nhân ấy còn có tâm lý nhàm chán, tâm lý buông xuôi và bỏ cuộc, tâm lý “cỏ nhà hàng xóm xanh hơn cỏ nhà mình”. Những thứ này đều có thể sửa được vì nó không phải là con người của chồng hoặc vợ, nhưng là những thái độ sống, lối sống biểu hiện cần được chấp nhận, uốn nắn và sửa đổi.

 

Con người của mỗi người bao gồm toàn bộ thể lý, tâm lý, tâm linh, nhưng thái độ là những lối diễn tả của mỗi người. Nó có thể bị ảnh hưởng bởi gia đình, giáo dục, và hoàn cảnh xã hội. Nó có thể đôi khi không được như ý ta, không hài lòng ta. Vậy nên phải sửa để dùng.

 

Sửa đi mà dùng. Đồ dùng trong nhà, xe cộ, máy móc hư thì sửa để dùng, người chồng, người vợ nếu làm mất lòng ta thì sửa cho họ, sửa cả cho mình. Mua một chiết xe, mua một ngôi nhà còn khó huống hồ “mua” được người chồng hoặc người vợ mà mình đã sống với họ cả chục năm, hầu như cả đời ngu gì mà bỏ. 

 

 -------------------------------