12. Ngày Trở Về Nhà Cha

NGÀY TRỞ VỀ NHÀ CHA - SAU KHI CHẾT

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Sun, Mar 22 at 2:10 AM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng

    CẢM GIÁC SAU KHI CHẾT SẼ THẾ NÀO
    ( Rất đáng đọc )

    - Vào một ngày, khi hơi thở ta không còn nữa, thân xác đang nguội lạnh, cứng đờ, lúc này TA chẳng còn quan tâm Người ghét ta, hay người thương ta,
    - Ngày động quan...
    Thân thể ta nằm sâu dưới lòng đất. Người ghét ta, nhìn nấm mộ niềm vui hiện rõ. Người thương ta, chẳng nỡ quay đầu nhìn lần cuối.
    - Ba tháng sau...
    Thân xác ta đang dần trương sình, bốc mùi hôi thối, giờ này chẳng còn ai dám nghĩ sẽ gần gũi ta.
    - Một năm sau...
    Thân thể của ta đã rã tan…nấm mộ của ta mưa bay gió thổi...ngày giỗ ta, họ vui như trẩy hội, mở tiệc hội họp ca nhạc, ăn uống linh đình. Người ghét ta, lâu lâu trong buổi trà dư tửu hậu nhắc đến tên ta...họ vẫn còn bực tức. Người thương ta, khi đêm khuya vắng lặng, khóc thầm rơi lệ tìm ai bày tỏ.
    - Vài năm sau...
    Ta không còn thân thể nữa, chỉ còn lại một ít xương tàn. Người ghét ta, chỉ nhớ mơ hồ tên ta, họ đã quên mất gương mặt của ta. Người yêu thương ta, khi nhớ về ta có chút trầm lặng. Cuộc sống xô bồ dần dần làm phai mờ đi tất cả.
    - Vài chục năm sau...
    Nấm mộ của ta hoang tàn không người nhang khói, quan tài nơi ta nằm đã mục nát, chỉ còn một mảng hoang vu. Người ghét ta, đã già lú cũng quên ta rồi. Người yêu thương ta, cũng tiếp bước ta đi vào nấm mộ.
    Rồi một ngày. , , ,
    Ta đã hoàn toàn trở thành hư vô, không ai biết ta từng tồn tại, và những gì ta dùng đã mất, những gì ta dành dụm để lại, rơi vào tay kẻ khác.
    Ta phấn đấu, hơn thua, tranh giành cả đời, cũng không mang theo được nhành cây ngọn cỏ. Tiền tài, gia sản mà ta cố giữ, cố tìm cũng chẳng còn gì thuộc về ta. Cái ta mang theo được, chính là cái ta đã cho đi là công đức, là sự lương thiện.
    Người đời nhìn nấm mộ ta chỉ bảo:
    Bao nhiêu phồn hoa, thoáng qua phút chốc.
    Trăm năm sau, chỉ còn lại một nắm nấm mộ vô danh.

    P/s : Đã biết chốn này là quán trọ...
    Hơn thua hờn oán để mà chi...
    Thử ra ngồi xuống bên phần mộ.
    Hỏi họ mang theo được những gì...

    Nguồn: st
     

NGÀY TRỞ VẾ NHÀ CHA - QUA ĐỜI

 

  •  
    Chi Tran
    Nov 26 at 12:18 AM
     
     
     
    Ảnh cùng dòng

     
    QUA ĐỜI
     

    Có nhiều tiếng để chỉ cái chết của một người; nhưng động từ “QUA ĐỜI” có một ý nghĩa đặc biệt đối với những người có niềm tin vào cuộc sống đời sau, tin con người khác các con vật khác, vì con người vừa có phần xác, vừa có phần linh hồn. Đối với loài vật, chết là hết không còn gì nữa; nhưng đối với con người, chết chỉ là qua cuộc đời này để sang một cuộc đời khác.

    Trong tiếng Anh cũng thường dùng từ “Pass Away” và trong Kinh Tiền Tụng về Lễ Cầu Hồn cho những người đã qua đời, có câu “Nơi Chúa Kitô, niềm hy vọng sống lại vinh phúc đã chiếu tỏa trên chúng tôi, để những ai buồn sầu về số phận chắc chắn phải chết, cũng được an ủi, vì Chúa đã hứa ban phúc trường sinh bất diệt sau này. Đối với các tín hữu của Chúa, sự sống thay đổi, chứ không mất đi, và khi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan, thì lại được một chổ cư ngụ vĩnh viễn trên trời.”

    Trong sách Kinh Thánh Cựu Ước, có câu “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Đối với những người không hiểu biết, thì hình như các Ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta là đi vào chỗ tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an…Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các Ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏa ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau… (Sách Khôn Ngoan 3: 1-9). Trong Phúc Âm Chúa Giêsu nói; “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống…” (Phúc Âm Gioan  11: 25…)

    Sự sống lại trong nước Chúa của chúng ta sau cái chết là nhờ vào cuộc Khổ Nạn, Phục Sinh và Lên Trời vinh hiển của Chúa Kitô. Trong Thánh Lễ an táng, trước khi rước quan tài người quá cố lên gần Cung Thánh, có nghi thức làm phép xác ở cuối nhà thờ, vị chủ tế rẩy nước thánh trên quan tài và đọc : “Xin Chúa làm phép thi thể của…. Với nước thánh nhắc nhở Bí Tích Rửa Tội, như Thánh Phaolô viết: tất cả chúng ta đã được rửa tội trong Chúa Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người… Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hiệp nhất với Người trong sự sống lại giống như vậy.” Các Bài Đọc Sách Thánh trong ba Lễ ngày lễ các linh hồn đều lưu ý chúng ta về chủ điểm: “Sự sống thay đổi chứ không mất đi” nhờ vào cuộc Tử Nạn, sự Sống Lại và Lên Trời vinh hiển của Chúa Giêsu Kitô.

    Khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chính là lúc chúng ta cũng chết đi với tội lỗi và sống lại với Chúa Kitô trong cuộc sống mới, một cuộc sống không còn nô lệ với tội lỗi, với đam mê xác thịt, nhưng được sống trong tự do của con cái Thiên Chúa.

    Vậy trong tháng 11 là tháng cuối cùng của Niên Lịch Phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta đặc biệt nhớ đến các vị đã qua đời. Trong đó, có những vị đã được nên Thánh và chúng ta kính chung vào ngày 1/11 hằng năm (Tất cả các vị đã được lên Nước Chúa đều là Thánh, dù mỗi ngày trong suốt năm phụng vụ của Giáo Hội đều có lễ kính một vị thánh đặc biệt nào đó để chúng ta có dịp suy ngẫm về cuộc sống tuyệt vời của các Ngài nơi trần gian, mà tạ ơn Chúa cho các Ngài, và noi theo đời sống hy sinh, bác ái, thánh thiện của các Ngài, nhất là cái chết anh hùng của các Thánh Tử Đạo - Như các Thánh Tử Đạo Việt Nam cha ông của chúng ta).

     Còn có những vị đã qua đời mà chưa được lên Nước Chúa, vì chưa được thanh luyện xứng đáng, chưa đền bù xứng đáng những lỗi phạm về phép công bằng, và phải thanh luyện nơi luyện tội, thì Giáo Hội cầu nguyện chung vào ngày 2/11 và khuyến khích chúng ta cầu nguyện nhiều cho các vị trong suốt tháng Linh Hồn; dù chúng ta vẫn cầu nguyện hằng ngày cho các linh hồn, và trong mỗi Thánh lễ đều có phần kinh đọc cầu cho các Linh Hồn trong các Kinh nguyện Thánh Thể.

    Việc dâng lễ Kinh các Thánh và cầu cho các Linh Hồn nơi luyện tội là thuộc mầu nhiệm liên kết giữa Giáo Hội trên Thiên Quốc (Giáo Hội Chiến Thắng), Giáo Hội nơi Luyện Tội (Giáo Hội đau khổ) và Giáo Hội Trần Thế (Giáo Hội chiến đấu).

    Vậy sự chết dù là điều chắc chắn xẩy ra cho mọi người chúng ta và thường xẩy ra lúc chúng ta không ngờ. Dẫu vậy, chúng ta không bi quan, sợ hãi, nhưng đặt tin tưởng nơi Chúa Phục Sinh. Miễn là chúng ta hãy luôn sống sẵn sàng: thánh hóa bản thân, tôn thờ Chúa và hết lòng phục vụ Chúa qua những người nghèo khó, bịnh tật, những người cần sự giúp đỡ của chúng ta.

    Ngày phán xét, Chúa sẽ phân xử chúng ta theo những việc bác ái, yêu thương mà chúng ta đã làm trong suốt cuộc đời chúng ta: “ Khi Cha đói, các con đã cho Cha ăn; khi Cha khát, các con đã cho Cha uống; khi Cha mình trần, các con đã cho Cha áo mặc…” (Matthêu 25:31-46).

    Lm. Anphong Trần Đức Phương


 

NGÀY TRỞ VỀ NHÀ CHA - HỌ KHÔNG PHẢI CHẾT NỮA

  •  
    Tinh Cao
    Nov 8 at 10:34 PM
     
     

    Chúa Nhật 32TN-C

     

     Lời Chúa : HỌ KHÔNG PHẢI CHẾT NỮA

     

    Bài Ðọc I: 2 Mcb 7, 1-2. 9-14

    "Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi được sống lại trong cuộc sống đời đời".

    Trích sách Macabê quyển thứ hai.

    Trong những ngày ấy, có bảy anh em bị bắt làm một với mẹ mình, và bị vua cho đánh bằng roi da và roi gân bò, bắt ép ăn thịt heo mà lề luật đã cấm. Nhưng người anh cả của chúng tâu vua rằng: "Bệ hạ còn hỏi han và muốn dò xét chúng tôi làm chi? Chúng tôi sẵn sàng chịu chết hơn là phạm đến lề luật Thiên Chúa đã truyền cho tổ phụ chúng tôi".

    Khi sắp thở hơi cuối cùng, người con thứ hai tâu vua rằng: "Hỡi vua độc ác kia, vua chỉ cất mất mạng sống chúng tôi ở đời này, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi, là những kẻ đã chết vì lề luật của Người, được sống lại trong cuộc sống đời đời".

    Sau khi người con thứ hai chết, thì đến người con thứ ba chịu cực hình, tên lý hình bảo cậu le lưỡi, cậu liền le lưỡi, dõng dạc giang hai tay ra và nói một cách tin tưởng rằng: "Tôi được Trời ban cho các phần thân thể này, nhưng giờ đây vì lề luật của Thiên Chúa, tôi khinh chê chúng, bởi tôi trông cậy rằng Người sẽ ban lại cho tôi các phần thân thể ấy". Nhà vua và những kẻ tuỳ tùng của ông lấy làm bỡ ngỡ thấy lòng mạnh bạo của cậu trẻ coi các cực hình như không.

    Người con thứ ba chết rồi, thì người ta bắt người con thứ tư chịu cùng một cực hình. Lúc sắp chết, cậu nói rằng: "Thà chịu chết do tay người đời mà trông cậy Thiên Chúa sẽ cho sống lại thì hơn: Phần vua, vua sẽ không được sống lại để sống đời đời đâu".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 16, 1. 5-6. 8b và 15

    Ðáp: Lạy Chúa, khi thức giấc, con no thỏa nhìn chân dung Chúa (c. 15b).

    Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra tự cặp môi chân thành. - Ðáp.

    2) Bước con đi bám chặt đường lối của Ngài, chân con đã không hề xiêu té. Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. - Ðáp.

    3) Xin che chở con trong bóng cánh của Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan, khi thức giấc, con no thỏa nhìn chân dung Chúa. - Ðáp.

     

    Bài Ðọc II: 2 Tx 2, 15 - 3, 5

    "Chúa làm cho lòng anh em bền vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành".

    Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

    Anh em thân mến, nguyện xin Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ðấng đã thương yêu chúng ta và dùng ân sủng của Người mà ban cho chúng ta sự an ủi đời đời và lòng cậy trông tốt lành, xin Người khuyên bảo và làm cho lòng anh em bền vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành.

    Anh em thân mến, ngoài ra, xin anh em hãy cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Thiên Chúa chóng lan tràn và được vinh hiển như việc đã thể hiện nơi anh em, và để chúng tôi thoát khỏi tay những kẻ lầm lạc và xấu xa: vì không phải hết mọi người đều có lòng tin. Nhưng Thiên Chúa là Ðấng trung thành, Người sẽ làm cho anh em được kiên vững và gìn giữ anh em khỏi sự dữ. Chúng tôi tin tưởng anh em trong Chúa: những điều chúng tôi truyền dạy, anh em hiện đang thi hành và sẽ còn thi hành. Nguyện xin Chúa hướng lòng anh em đến tình yêu Thiên Chúa và lòng kiên nhẫn của Ðức Kitô.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Alleluia: Lc 21, 36

    Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 20, 27-38

    "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: Nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ goá đó, để cho anh mình có kẻ nối giòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào; sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy? vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ".

    Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa".

    Ðó là lời Chúa.

    Image result for Lc 20, 27-38

     

    Suy Nghiệm Lời Chúa: THIÊN CHÚA CỦA KẺ SỐNG

     

    Phục sinh rõ ràng là chủ đề cho Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm C hôm nay, một thời điểm gần áp cuối của toàn thể phụng niên bao gồm 34 tuần lễ. Niềm tin tưởng vào sự phục sinh của thân xác con người chỉ có ở nơi Do Thái giáo ngay trước khi Chúa Kitô giáng sinh. Bài Đọc 1 hôm nay, được Giáo Hội trích từ Sách Macabê quyển thứ hai ở chương 7, về sự kiện người mẹ anh hùng tận mắt chứng kiến và phấn khích cả 7 người con trai của mình hiên ngang tử đạo, thà chết chứ cương quyết không chịu "ăn thịt heo mà lề luật đã cấm". Những câu trả lời khẳng khái của 3 trong 7 người anh em cùng mẹ góa này đã chất chứa niềm tin vào sự phục sinh của Do Thái giáo trước quyền lực của dân ngoại vô thần:

    "Hỡi vua độc ác kia, vua chỉ cất mất mạng sống chúng tôi ở đời này, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi, là những kẻ đã chết vì lề luật của Người, được sống lại trong cuộc sống đời đời" (lời của người con thứ 2); "Tôi được Trời ban cho các phần thân thể này, nhưng giờ đây vì lề luật của Thiên Chúa, tôi khinh chê chúng, bởi tôi trông cậy rằng Người sẽ ban lại cho tôi các phần thân thể ấy" (lời của người con thứ 3); "Thà chịu chết do tay người đời mà trông cậy Thiên Chúa sẽ cho sống lại thì hơn: Phần vua, vua sẽ không được sống lại để sống đời đời đâu" (lời của người con thứ 4).

    Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Luca thuật lại về những gì liên quan đến phục sinh trong câu trả lời của Chúa Giêsu cho thành phần Sađóc vốn không tin có chuyện phục sinh, qua trường hợp giả tưởng họ đặt ra để chất vấn Chúa Giêsu về một người đàn bà làm vợ của cả 7 anh em ruột. Căn cứ vào trường hợp giả tưởng về hôn nhân được họ tự đặt ra này mà thành phần Sađốc mới quan niệm rằng không thể nào có chuyện sống lại một cách hoang đường về thân xác như thế. Tuy nhiên, phục sinh về thân xác chẳng những là một mạc khải thần linh, mà còn là một mầu nhiệm siêu nhiên, vượt trên tầm hiểu biết hạn hẹp của tâm trí con người trần gian. Chính vì chưa được mạc khải về phục sinh nên mới có chuyện đầu thai luân hồi.

    Trong bài Phúc Âm hôm nay, lợi dụng câu chất vấn của những người thuộc phát Sađốc, Chúa Giêsu đã mạc khải thêm một số chi tiết quan trọng liên quan đến sự kiện hay sự thật phục sinh của con người khi hoàn tất mầu nhiệm Cánh chung như sau:

    1- Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng.

    2- Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần.

    3- Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại.

    4- Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa".

    Trong 4 chi tiết trên đây từ câu trả lời của Chúa Giêsu về vấn đề sống lại của con người, 2 chi tiết đầu tiên quan đến sự kiện phục sinh của thân xác, và 2 chi tiết cuối liên quan đến sự kiện phục sinh của linh hồn. Trước hết, căn cứ vào 2 chi tiết đầu thì thân xác của con người khi sống lại sẽ nên giống như các thần trời, nghĩa là không còn hữu hình nữa, mà là được biến thể, trở thành thiêng liêng vô hình như các thần trời, không lệ thuộc thời không (thời gian và không gian) như khi còn sống trên thế gian này nữa, và nhờ biến thể như thế, thân xác mới có thể nên một với hồn thiêng mà trở thành bất tử.

    Sau nữa, 2 chi tiết sau liên quan đến sự kiện phục sinh của linh hồn. Thật ra linh hồn thiêng liêng vô hình như các thần trời, nghĩa là bất tử, không chết như thân xác, một cái chết nơi thân xác của con người gây ra bởi nguyên tội và xẩy ra sau nguyên tội. Tuy linh hồn bất tử nhưng không phải vì thế mà tự nhiên có sự sống đời đời, sự sống thần linh, một sự sống đã bị mất đi bởi nguyên tội sau khi hai nguyên tổ bất tuân lệnh cấm của Thiên Chúa là Đấng dựng nên mình, trong việc dám động chạm đến cây biết lành biết dữ ở ngay giữa vườn địa đường (xem Khởi Nguyên 2:17), nhưng cũng là sự sống đã được Chúa Kitô phục hồi bằng cuộc Vượt Qua của Người.

    Tuy nhiên, linh hồn của con người muốn được tái sinh trong Chúa Kitô và bởi Chúa Kitô, nghĩa là muốn được sống đời đời phải tin vào Chúa Kitô Phục Sinh: "Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại". Chính vì họ tin vào Chúa Kitô mà họ đã "được vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24; Ephêsô 2:6), và nhờ đó: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa", "Đấng", được Thánh Phaolô tuyên xưng trong Bài Đọc 2 hôm nay là: "đã thương yêu chúng ta và dùng ân sủng của Người mà ban cho chúng ta sự an ủi đời đời và lòng cậy trông tốt lành".

    Nếu Thiên Chúa, trong Chúa Kitô và qua Chúa Kitô, đã cứu chuộc con người cả hồn lẫn xác, thì như Người đã "Vượt Qua" từ cõi chết sang cõi sống thế nào, thì, nơi Người, theo nguyên tắc, nhân tính của con người cũng đã được "vượt qua" như vậy, nghĩa là đã được vượt qua tội lỗi và sự chết mà vào sự sống, nhất là đối với những ai tin vào Người qua Phép rửa: "Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới" (Roma 6:3-4).

    Thế nhưng, cho dù có được lãnh nhận Phép rửa, và có được thông phần vào sự sống thần linh với Thiên Chúa và của Thiên Chúa, Kitô hữu còn phải tiếp tục sống xứng đáng với ơn gọi thần linh làm con Thiên Chúa của mình, nghĩa là còn phải sống trung thực với đức tin của mình cho đến cùng nữa họ mới được cứu độ (xem Mathêu 24:13), mới được phục sinh cùng với thân xác của mình trong ngày Chúa Kitô vinh quang tái giáng. Hình ảnh của con người được phục sinh vào lần tái giáng của Chúa Kitô dường như đã được tiên báo trong Thánh Vịnh 16 ở Bài Đáp Ca hôm nay: "nhờ công chính (ám chỉ sống đức tin trên đời này) con sẽ được thấy thiên nhan, khi thức giấc (ám chỉ phục sinh), con no thỏa nhìn chân dung Chúa (ám chỉ được hoan hưởng sự sống đời đời là được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa trong cõi vĩnh phúc)"!

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

     

    TN.CNXXXII-C.mp3  

     

     

     

     

    Thánh Lêô cả có lẽ sinh tại Etrurie nước Ý khoảng năm 400. Ngài là phụ tá của giáo đoàn Rôma. Ðó là một chức vụ quan trọng đại diện Ðức Thánh Cha trong các công việc tài chính... Tháng 8 năm 440, ngài được cử lên ngôi Giáo Hoàng lấy hiệu là Lêô I.

    Công việc chính của ngài là lo tẩy trừ các đồi phong bại tục trong Giáo Hội. Ngài để ý đến việc gìn giữ Giáo Hội khi những lầm lạc do các bè rối đem lại, nhất là lạc giáo Nestoriô và Eutyches có khuynh hướng muốn tách biệt nhân tính ra khỏi Thiên tính của Chúa Giêsu và gán cho Ngài hai ngôi vị. Ðể chấm dứt các hậu quả tai hại do các bè rối gây nên, ngài đã triệu tập công đồng năm 451 tại Chalcédoine với sự tham dự của hơn 630 Giám Mục. Nhờ đức khôn ngoan, tài ngoại giao và ảnh hưởng lớn lao của ngài đối với các hoàng đế, công đồng đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp.

    Ngài có tài hùng biện và ngoại giao đặc biệt, có thể thuyết phục được những người hung dữ. Ðiển hình là tháng 8 năm 452, Attila chúa rợ Hung (Huns) dẫn quân xâm chiếm Âu Châu, gieo rắc kinh hoàng cho mọi người. Attila kéo quân về Rôma, cả kinh thành run sợ. Nhưng nhờ có Chúa và nhờ tài đức, ngài đã khắc phục được vị tướng đó rút quân trở lại theo đường cũ. Năm 455, lại có Gensérie nổi lên đốt phá, hãm hiếp và tàn sát dân lành, chính nhờ ngài mà loạn quân không còn gieo tai họa nữa.

    Thêm vào đó, ngài còn lo chấn hưng tinh thần đạo đức của giáo dân đã sa sút. Các bài giảng của ngài tuy đơn sơ, nhưng luôn bao hàm nhiều tính chất thần học. Ngài cũng đã viết nhiều sách vở để bênh vực Giáo Hội, chống lại tà thuyết. Ngài chết ngày 10/11/461, sau gần 22 năm điều khiển Giáo Hội.

     

    ĐTC Biển Đức XVI:

    Thứ Tư 5/3/2008 - Bài Giáo Lý 68 - Thánh Giáo Phụ Lêô Cả

     

NGÀY TRỞ VỀ NHÀ CHA - ĐỐI DIỆN VỚI CÁI CHẾT

  •  
    Chi TranNov 17 at 6:18 AM
     
     
     
     
    ---------- Forwarded message ---------
    From: nguyenthi leyen <This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.>
    Date: Sun, Nov 17, 2019, 1:05 AM
    Subject: Fw: ĐỐI DIỆN VỚI CÁI CHẾT
    To:


     
     
     
     

    ĐỐI DIỆN VỚI CÁI CHẾT

     

    “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1, 21)

     

     

    Chết là cuộc sống này chấm hết, và mọi cái ta sở hữu cũng chấm dứt. Không ai chết hai lần và cũng không ai chết thay ai, mỗi người đều phải chết cho cái chết của riêng mình, chẳng ai tránh khỏi định mệnh đó: “Hodie mihi, cras tibi” - Nay người, mai ta. Thật là điều “cay đắng đối với ai đang an hưởng tài sản của mình, đối với người không phải âu lo, người thành công trong hết mọi việc, người còn khỏe mạnh để hưởng thú vui” (Hc 41,1).

     

    Công Đồng Vat. II đã nói lên như sau: “Trước cái chết, bí ẩn về thân phận con người lên cao tới tột độ. Con người không những bị hành hạ bởi đau khổ và sự tiến dần đến tan rã của thân xác, mà hơn thế nữa, còn bị dày vò bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời. Theo bản năng của lòng mình, con người có lý để ghê sợ cũng như từ chối sự hủy hoại hoàn toàn và sự tiêu diệt vĩnh viễn của bản thân. Mầm sống vĩnh cửu mà con người mang trong mình không thể giản lược vào nguyên vật chất, nên nó nổi lên chống lại sự chết. Mọi cố gắng của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể làm nguôi được nỗi lo âu của con người: bởi vì đời sống sinh vật, dù có được kéo dài thêm đi nữa, cũng không thể thỏa mãn được khát vọng một cuộc sống mai hậu đã được in sâu trong lòng con người” (GS 18).

     

    1/ Ý nghĩa về sự chết trong Kitô giáo

     

    Đứng trước cái chết, thấy mình mất hết, mất cả đời mình, nên dễ có một cái nhìn sầu thảm, sinh ra thất vọng chán chường (x. Sm 12, 23). Tuy nhiên, sự khôn ngoan đích thực thì vượt xa cái nhìn ấy, nhất là khi nhận biết thân phận mình cũng như vạn vật nằm trong vòng chuyển hóa, hết đời con sâu thì chào đời cánh bướm. Chết chỉ là một cách thuận theo lẽ Trời (Thuận Thiên giả tồn). J.L.Mc Creery cũng đã xác tín: “Chẳng có gì mất cả! Những vì sao lặn xuống để rồi mọc lên sáng hơn ở bờ bên kia”.

     

    Hơn nữa, dưới cái nhìn đức tin, chết là một viễn tượng đáng khát vọng, là “một mối lợi” cho những người sống lầm than cơ cực vì lẽ ngay chính, vì lòng ngay thật, vì tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân (x. Pl 1, 21).

     

    Chết là hậu quả của tội lỗi, bởi vì mọi người đã phạm tội (x. Rm 5, 12-21). Để cứu chúng ta khỏi quyền lực Thần chết, trước tiên Đức Kitô đã đến để nhận lấy cho mình số phận tử vong của chúng ta. Ngài nếm cái chết dưới mọi khía cạnh: thất bại, bị đe dọa (x. Mc 3,6), bị coi như tử tù (x. Mt 22, 66), bị dân từ chối (x. Mt 27,25), và cảm thấy Cha cũng bỏ rơi mình (x. Mt 5,34). Ngài lo sợ nhưng tình nguyện chết như một sứ mệnh (x. Ga 10,11.17-18), và biết Cha có quyền giải thoát mình khỏi chết (x. Lc 24,22; Ga 12,27).

     

    Để giải thoát con người khỏi cái chết muôn đời, Đức Kitô đã chết “vì chúng ta” (1 Tx 5,10), “cho tội chúng ta” (1Cr 15, 3) để làm hy tế xá tội (x. Dt 9). Nhờ cái chết của Ngài, chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa (x. Rm 5,10), hầu có thể lãnh nhận gia nghiệp muôn đời (x. Dt 9, 15). Ngài đã chiến thắng tử thần bằng sự phục sinh vinh hiển (x. 1Cr 15, 4), nên quyền lực của Thần chết từ đó đã bị vô hiệu hóa (x. Rm 6, 9).

     

    Qua việc phục sinh, Đức Kitô đã trở nên thủ lãnh của một nhân loại mới (x. 1Cr 15, 45), vì đã mang tất cả chúng ta vào cái chết và sự phục sinh của Ngài. Từ đó, tương quan của con người với sự chết đã thay đổi, vì Đức Kitô sẽ luôn chiếu soi “những người ngồi trong bóng sự chết” (Lc 1,79). Vì vậy, Chết là sự sống thay đổi chứ không mất đi. Từ đó mà thánh Phaolô gọi chết là nhà dưới đất này bị đổ nát (x. 2Cr 5,1) để về ở cùng Chúa (x. Pl 1, 23). Thư gửi Do Thái gọi chết là vào nơi an nghỉ của Chúa (x. 4,10-11).

     

    Tuy nhiên, thần chết vẫn còn là một quyền lực đáng sợ (x. 1Cr 3, 32), liên hệ với Satan (x. Ga 8, 84; 1Cr 5, 5) hoạt động suốt đời con người, và ngày sau sẽ nắm giữ một đế quốc tối tăm ở âm phủ (x. Mt 16,18; Rm 10,7; Kh 1,18). Vì vậy Chúa Giêsu dạy ta phải luôn tỉnh thức, luôn chuẩn bị chết, vì giây lát ấy sẽ quyết định số phận đời đời của ta (x. Lc 12,20).

     

    Tuy nhiên, việc chết đi để được phục sinh phải là một thực tại hiện hữu cho mỗi cá nhân, vì không ai có thể bước vào cõi sống mà không chết đi cho chính mình từng ngày trong cái chết của Đức Kitô, để được sống lại như Ngài (x. 2Tm 2,11).

     

    2/ Những bài học sâu xa từ sự chết

     

    - Nhận thức về cái chết

    Nếu ta coi hiện hữu là sở hữu, thì cái chết thật đáng sợ và tuyệt vọng, vì nó lấy đi khỏi ta mọi sự. Sự tước đoạt đó đúng là một sự huỷ diệt. Suy cho cùng, tội tầy đình luôn luôn là tội chiếm hữu bản ngã và chiếm hữu thế gian với bất cứ giá nào. Sự chiếm hữu đó ngăn cản con người và loại trừ nó khỏi cuộc sống vốn là một quà tặng. Đây là cái chết thứ hai. Nhưng đối với người đã từ bỏ thái độ chiếm hữu đối với của cải và với chính mình, thì sự chết xảy đến hoàn toàn khác. Nó không còn là kẻ thù và cũng không còn là sự hủy diệt nữa. Nó xuất hiện như một bước quyết định trong hành trình tiến đến hiện hữu. Sự chết là hành động tột cùng của sự từ bỏ chính mình để hướng tới sự huy hoàng của hữu thể và sự sống.

     

    Đứng trước cái chết, thánh Phanxicô Assisis dạy ta: “Đừng giữ gì cho mình, để Đấng đã phó dâng tất cả vì anh em có thể đón nhận con người toàn vẹn của anh em”. Theo gương Chúa Giêsu, thánh Phanxicô biến sự chết thành một biểu hiện của tình yêu trọn vẹn và một sự tin tưởng tuyệt đối. Đó là lý do ngài ca ngợi cái chết, vì dưới cái nhìn về nó, ngài thấy mọi thứ đều sáng rực. Ánh sáng này là bí mật tối hậu của cuộc đời. Đó là ánh sáng của Agape: một sự hiệp thông vĩnh viễn với Đức Kitô

     

    - Tỉnh thức trước sự chết

     

    Chúa Giêsu nói nhiều về việc sống tỉnh thức, nghĩa là trong tâm thế sẵn sàng, “vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24, 44; Mt 25,13). Không ai biết được giờ phút đó, “Vì, như chớp lóe ra từ phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy” (Mt 24, 27). Chúa Giêsu cho ta biết phải sống tỉnh thức như thế nào qua các dụ ngôn: Quản gia trung tín (x. Mt 24, 45-51); Mười cô trinh nữ (x. Mt 25,1-13); Cuộc phán xét chung (x. 25, 31-46), v.v.

     

    Ai cũng muốn lo cho được sống no thỏa và dư giả, nên không ngừng chiếm hữu, nhưng Chúa Giêsu cảnh giác: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12,15). Ngài còn cảnh cáo: “Ai tìm cách giữ mạng sống mình thì sẽ mất”, đồng thời Ngài cũng đưa ra một phương cách hữu hiệu “còn ai liều mất mạng sống mình thì sẽ bảo toàn được mạng sống” (Lc 17, 33).

     

    Nhạc sĩ Văn Cao có những vần thơ nói về vấn đề sống-chết nghe như âm hưởng của Lời Chúa vừa nói trên: “Giữa sự sống và sự chết, tôi chọn sự sống. Để bảo vệ sự sống, tôi chọn sự chết”.


    Sự sống là cái gì quý giá nhất trong cuộc đời, đáng cho ta nâng niu, bảo toàn. Thế nhưng đừng cố níu lấy sự sống tạm bợ này, vì ta chỉ chết cái chết của hình hài thể lý chứ không phải cái chết của tâm hồn linh thiêng bất tử. Chính thái độ tham sống sợ chết đến độ bấn loạn tâm thần mới làm ta chết cách não nề, khốn đốn và u ám nhất.

     

    Tolstoy đã cho thấy cái tâm lý tham sinh uý tử của con người qua một truyện ngắn nổi tiếng: “Cái chết của Ivan Ilych”. Tolstoy thương cho nhân vật chính của ông, một kẻ chịu nhiều đau khổ mà không nhận ra sự thật, vẫn bám víu vào những hy vọng mong manh trên đời, vẫn còn mơ tưởng hoặc tiếc nuối vu vơ. Phải chăng những kẻ chỉ lo sống theo tiêu chuẩn xã hội, hay chỉ lo chạy theo sự thành công bề ngoài, thì cuối cùng không còn khả năng tỉnh thức trước sự chết?

     

    Hơn nữa, đừng quên rằng, sự chết nấp dưới vỏ bọc sự sống, có sức hấp dẫn ghê gớm. Chẳng hạn sự chết của rượu chè say sưa, của phim ảnh đồi trụy, của sự buông thả vô luân, của đời sống gian tà, của thú vui nhục dục, của lợi lộc vinh hoa, v.v. Người ta cứ tưởng thế là mình đang sống mạnh mẽ và sống dồi dào, nhưng thực ra là đang chết và chết dần mòn. Đức Gioan Phaolô II đã gọi đích danh những điều đó là “nền văn minh sự chết”.

     

    Trái lại, để có được sống thật, thì phải dám chấp nhận chết: chết cho những thói hư tật xấu, chết cho một lối sống tiêu cực, chết cho những ham muốn riêng tư, chết cho những mong mỏi được người đời ca tụng, ngay cả mong ước được danh thơm tiếng tốt. Chính nơi cái chết hằng ngày đã bắt đầu chiếu sáng một đời sống khác, một đời sống mới, chính thực và bất tử.

     

    Nhưng tiếc thay, những cơn mê đời dễ làm con người mê muội và dìm mình trong sự chết, nên thánh Phaolô đã căn dặn: “Chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ” (1Tx 5, 6). Thánh Phêrô cũng cho thấy phải tỉnh thức để chiến đấu: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5, 8).

     

    Đức Đạt-Lai Lạt-Ma cũng viết như sau: “Nếu bạn có một sự tỉnh thức hoàn hảo về sự chết thì bạn sẽ nỗ lực tự tháo gỡ mình ra khỏi các đối tượng trói buộc bằng cách vất bỏ những thứ sở hữu và coi mọi sự thành công thế tục như không có bất kỳ bản chất hay ý nghĩa nào. Đức Milarepa cho thấy chẳng sớm thì muộn bạn phải bỏ lại mọi sự sau lưng, thì tại sao không từ bỏ nó ngay bây giờ? Tỉnh thức về sự chết cho ta khám phá ra ý nghĩa cuộc đời, và cảm thấy hoan hỉ khi giờ chết tới gần mà không chút hối tiếc. Nếu ta cứ tránh né nỗi sợ chết thì khi chết, chúng ta sẽ bị trói chặt bởi nỗi sân hận”.

     

    Tuy nhiên, sống tỉnh thức là điều không dễ, tự sức ta không thể được. Chúa Giêsu cho thấy tỉnh thức phải luôn đi đôi với cầu nguyện, “Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41). Sống thân thiết với Chúa là cách sống tỉnh thức tốt nhất. Chính Chúa đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5).

     

    - Hãy sống trọn vẹn

     

    Leo Buscaglia, một chuyên viên dạy về tình yêu và cuộc sống, chia sẻ tâm trạng của ông về sự chết như sau:

    “Chúng ta phải bắt tay làm hòa với sự chết để chọn lấy sự sống, vì sự chết là một người bạn thân thiết với chúng ta. Nó cho biết những gì chúng ta không thể giữ lại được mãi cho mình. Và nếu bạn muốn sống, thì nên sống trọn vẹn ngay từ bây giờ...

    Nếu bạn đã sống mọi khoảnh khắc mà Chúa ban cho bạn, thì bạn sẽ không than van khóc lóc khi cái chết đến... Những người đã chết một cách hạnh phúc là những người từng nỗ lực để sống.
    Sự chết là một thách đố. Nó nhắc nhở chúng ta đừng bỏ phí thời giờ. Nó chỉ cho chúng ta phải lớn lên và phải trở nên như thế nào. Nó dạy cho chúng ta biết yêu thương nhau, và phải biết dâng hiến chính mình ngay từ bây giờ...

    Dầu chúng ta không hiểu gì về sự chết, nhưng điều đó cũng chẳng cần thiết gì. Điều thiết yếu là phải sống bức thông điệp mà sự chết nhắn gởi cho chúng ta”.

     

    Bronnie Ware là một nữ y tá người Australia, đã nhiều năm làm việc ở khu chăm sóc, chuyên chăm lo cho những bệnh nhân trong 12 tuần cuối đời họ. Ware đã ghi lại những điều mà những người sắp chết thường hối tiếc nhất. Cô đã nêu ra tất cả những gì quan sát được vào một cuốn sách có tên “5 điều hối tiếc nhất của những người đang hấp hối”, đó là:

     

    - Tôi ước gì mình đủ dũng cảm để sống một cuộc sống thật với bản thân, chứ không phải cuộc sống theo người ta mong muốn.

    - Tôi ước gì mình đừng quá lo làm việc như vậy.

    - Tôi ước có đủ dũng cảm để bày tỏ cảm xúc.

    - Tôi ước luôn giữ quan hệ thân hữu với bạn bè.

    - Tôi ước gì biết để bản thân được hạnh phúc hơn.

     

    Có những hối tiếc vì sớm nhận ra nên còn thời gian bù lấp được, nhưng có những hối tiếc quá muộn màng vì thấy mình đã đứng trước cái chết. Chung qui cũng vì đã không sống trọn vẹn: sống thật tình, sống hết mình. Chết là chấm hết, mọi sự sẽ qua đi tất cả, chỉ có tình yêu là ở lại. Nhưng nếu từ xưa đến nay tình yêu đã trống vắng, thì cái chết sẽ hoang vắng biết chừng nào...

     

    - Ý thức mình sẽ chết

     

    Chuyện kể rằng, vị đan tu tên là Mésique, khi hấp hối sắp chết, ông đã thều thào nói những lời cuối cùng với các anh em như sau: “Tôi chỉ khuyên anh em một bài học mà tôi đã cảm nghiệm và rút ra được sau 12 năm thinh lặng để sám hối trong căn phòng kín này là: ai luôn ý thức mình sẽ chết thì sẽ không còn cố tình phạm tội nữa”.

     

    Thường xuyên suy gẫm về sự chết là cách thế hữu hiệu để sống thật đẹp đời mình. Cha Charles de Foucault khuyên ta: “Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”.

    Blanchecotte đã đưa ra một câu châm ngôn rất hữu ích cho đời sống mỗi người chúng ta: “Hãy suy nghĩ như mình sắp chết, nhưng hãy hành động như mình bất tử”.

     

    - “Suy nghĩ như mình sắp chết”: giúp chúng ta dễ xóa bỏ những tham, sân, si; dễ buông bỏ những danh, lợi, thú; dễ từ bỏ những vương vấn và thái độ bám níu vào cuộc đời tạm bợ này.

    - “Hành động như mình bất tử”: coi như mình chẳng bao giờ chết, vì mọi hành động đều có giá trị vĩnh cửu. Điều quan trọng không phải là suy nghĩ nhiều, mà làm thế nào để yêu mến nhiều.

    Ta cần phải khẳng định về chính mình như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1, 21). Lợi là vì Chúa Kitô chính là sự sống mới của ta; lợi là vì cái hư hoại trong ta sẽ trở nên bất hoại, cái khả tử sẽ nên bất tử nhờ Đức Kitô (x. 1Cr 15,53).

    Quả thật, ý nghĩa và giá trị cuộc sống của ta chỉ ở nơi Chúa mà thôi. Đừng bao giờ đặt vấn đề để qui hướng về bản thân mình như Nguyễn Du: “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”. (Không biết 300 năm về sau, thiên hạ ai người khóc Tố Như). Thánh Vịnh 103,15-16 trả lời cho Nguyễn Du rằng: “Kiếp phù sinh tháng ngày vắn vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình”.

     

    Cho dù bao nhiêu năm sau, người đời có nhớ ta, có khóc ta, thì ở dưới tuyền đài ta được gì? Người đời có khen ta, mà Chúa không thưởng ta thì có nghĩa gì? Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống mình thì ích gì? Thật là ảo vọng khi chỉ biết hy vọng vào người đời và những gì mình làm nên để tô vẽ cho bản thân mình. Bởi vậy không lạ gì khi thánh Phaolô tuyên bố: “Tôi coi mọi sự là rơm rác, để được Đức Kitô” (Pl 3, 8).

     

    Trong lá thư gởi cho một người bạn đề ngày 04.04.1786, nhạc sĩ Mozart tâm sự: “Hình ảnh sự Chết chẳng còn gì đáng khiếp sợ đối với tôi, ngược lại, đó lại là một niềm thanh thản rất an ủi cho tôi. Và tôi cảm ơn Thiên Chúa của tôi, Ngài đã cho tôi cái diễm phúc có được cơ hội để học biết và nhìn nhận sự Chết như là chìa khóa mở cửa hạnh phúc cho chúng ta”.

     

    - Sống đức tin

     

    Không có một đức tin sâu xa, thì cái chết quả là điều rất đáng lo sợ, vì không biết cuộc đời mình sẽ đi đâu, về đâu? Do đó, nhiều người không muốn nghe hoặc không muốn nói đến sự chết. Còn chúng ta, chúng ta tin rằng: “Trong một giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên, những kẻ chết sẽ trỗi dậy không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cr 15, 52).

     

    Nhưng phẩm chất của sự biến đổi ấy là gì? Thánh Phaolô nói rõ: đó là “cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (1Cr 15,53). Nhưng những ai được hưởng ơn biến đổi sau này thì ngay bây giờ họ cần chết đi cho tội lỗi để được nên người công chính. “Hạnh phúc thay và thánh thiện dường nào kẻ được dự phần vào cuộc phục sinh thứ nhất này!” (Kh 20, 6a). Cuối cùng, nhờ ơn phục sinh thân xác, người công chính sẽ đạt tới mức thập toàn, nghĩa là được vinh quang trọn vẹn và vĩnh cửu, vì “Cái chết thứ hai không có quyền gì trên họ” (Kh 20, 6b).

    Chính đức tin (qua phép Rửa và đời sống thánh thiện) đã đem lại cho ta sự sống mới ở đời này, nghĩa là được tham dự vào cái chết và sự sống lại của Đức Kitô. Tuy nhiên, ta còn phải tin trong sự chờ mong từ cơn đau quằn quại để sinh hạ chính mình, cũng như toàn thể tạo vật đang rên siết để chờ ngày cứu độ (x. Rm 8, 22).


    Có biết bao đau khổ trong đời, nhưng chẳng đáng là gì so với vinh quang Chúa sẽ dành cho ta trong cõi vĩnh hằng (x. Rm 8,18), và đau khổ cũng là một cách thanh luyện rất cần để góp phần khai sinh sự sống mới.

    Với bản năng sinh tồn, người ta thường yêu sự sống và ghét sự chết, nhưng sự chết xảy ra trong từng giây phút để làm cho sự sống có mặt. Cái chết thể lý là chuyện đương nhiên, chẳng có gì đáng sợ, vì “Nó không phải là tiếng nói cuối cùng, bởi chúng ta được dựng nên cho sự sống” (Zundel). Điều đáng sợ là cái chết tinh thần: chết phẩm chất làm người, chết tình thương mến, chết niềm tin yêu hy vọng mà Đức Kitô đã mang lại cho ta. Đó mới là cái chết thực sự, chết mãi trong bóng tối cô độc và trong bóng đêm vô tận. Bằng tất cả lòng tin, ta nương tựa vào sự soi sáng và sức mạnh của Thánh Linh để chống lại sức bành trướng của sự chết đang ngự trị trong thế giới dưới nhiều hình thức tai ác,và đang len lỏi trong ta dưới nhiều quan niệm lầm lạc và lối sống lệch lạc.

     

    Kết luận

    Khi sinh ra, con người đã là một bản thể phải chết, nhưng khi chết thì con người sống mãi. Con người là bất diệt, không chỉ vì linh hồn không thể bị phân hủy, nhưng vì chết là được mời gọi đến sự hiệp thông trong tình yêu muôn đời với Chúa Ba Ngôi. Đó là ấn tích đã được khắc sâu vào bản thể con người khi được tạo dựng, nên tính bất diệt của con người đã có trong tự bản chất. Hơn nữa, nhờ ơn cứu độ của Đức Kitô, tất cả những ai tin vào Ngài thì sẽ không chết bao giờ (x. Ga 11, 26).

     

    Như vậy, theo kế hoạch của Thiên Chúa, cái chết của con người không mang tính hủy diệt, nhưng là một định hướng cho cuộc sống mới. Tin vào Đức Kitô thì chẳng hề sợ chết, vì ngày Chúa đến với chúng ta không phải là ngày kinh hoàng, nhưng là ngày cứu độ. Là người Kitô hữu, chúng ta “chết cho Chúa” như đã sống cho Chúa (x. Rm 14,7). Nhờ cái chết, chúng ta “tôn vinh Thiên Chúa” (Ga 21,19) để đáng hưởng triều thiên sự sống (x. Kh 2,10).

     

    Từ nỗi khắc khoải không thể tránh được, sự chết trở nên một đối tượng của toàn phúc: “Phúc thay những kẻ chết trong Chúa” (Kh 14,13). Trong niềm vui mừng khôn tả đó, thánh Têrêsa hài đồng đã xác quyết trong giờ hấp hối: “Tôi đâu có chết, tôi bước vào sự sống”, đó là sự sống vinh phúc muôn đời trong chính Thiên Chúa Hằng Sống.

    Lm. Thái Nguyên

     

     
     
     

NGÀY TRỞ VỀ NHÀ CHA - ĐTC GIẢNG LỄ CẦU HỒN

  •  
    Tinh Cao
    Nov 4 at 1:58 PM
     
     

    ĐTC PHANXICÔ GIẢNG LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN

    NGÀY 2/11/2019 Ở HẦM MỘ PRISCILLA ROMA

      

    Vào lúc 4 giờ chiều Thứ Bảy ngày 2/11/2019, Lễ Các Đẳng Linh Hồn, ĐTC Phanxicô đã dâng lễ ở ngôi Đền Thờ nhỏ San Silvestro Papa, và có các nữ tu Dòng Biển Đức và khoảng 100 người tham dự.

    Catacombs of Priscilla. Credit: Vatican News.

     Việc cử hành lễ cho tất cả người chết ở trong một hầm mộ - đối với tôi thì đây là lần đầu tiên trong đời tôi vào một hầm mộ như thế này, thật là ngỡ ngàng - nói với chúng ta nhiều điều. Chúng ta có thể nghĩ về đời sống của những con người ấy, những người đã phải ẩn nấp, những người đã thực hiện văn hóa chôn xác kẻ chết này và cử hành Thánh Thể ở nơi đây... Đó là một thời khắc tồi tệ của lịch sử, thế nhưng nó vẫn chưa được khắc phục, cho dù đến tận ngày nay. Vẫn còn nhiều. Nhiều hầm mộ ở các xứ sở khác, nơi họ thậm chí phải giả bộ mở tiệc tùng hay mừng sinh nhật để có thể cử hành Thánh Thể, vì ở nơi đó bị cấm cử hành Thánh Thể. Ngay cả hôm nay đây vẫn còn có những Kitô hữu bị bách hại, còn nhiều hơn cả các thế kỷ đầu tiên nữa. Những thứ hầm mộ này, cuộc bách hại ấy, các Kitô hữu kia, cùng với những Bài Đọc đây khiến tôi nghĩ đến 3 chữ: căn tính, nơi chốn và hy vọng.

    Căn tính của những người qui tụ lại ở nơi đây để cử hành Thánh Thể cũng như để chúc tụng Chúa, thì giống như căn tính của anh chị em chúng ta ngày nay ở rất nhiều, rất nhiều xứ sở, nơi làm Kitô hữu là một tội ác, bị cấm đoán, họ chẳng có quyền lợi gì hết. Giống nhau. Căn tính này là ở chỗ như chúng ta đã nghe thấy rằng họ là những Phúc ĐứcCăn tính của Kitô hữu là những Phúc Đức. Không có một căn tính nào khác. Nếu anh chị em thực hiện như thế, nếu anh chị em sống như vậy, thì anh chị em là Kitô hữu. "Không phải vậy, này nhé, tôi thuộc về hội đoàn này, hội đoàn kia mà..., tôi thuộc về phong trào nọ mà...". Đúng thế, đúng vậy, tất cả đều tốt; thế nhưng những cái ấy chỉ là bóng dáng trước thực tại này thôi. Thẻ căn cước của anh chị em là thực tại ấy, mà nếu anh chị em thiếu vắng thì các thứ phong trào hay những gì là thuộc về khác đều vô dụng. Một là anh chị em sống như vậy hoặc anh chị em không phải là Kitô hữu. Thế thôi. Chúa đã nói như vậy. "Vâng, nhưng không phải là chuyện dễ, tôi không biết làm sao để sống như vậy..." Có một đoạn Phúc Âm khác giúp chúng ta hiểu điều này hơn, và đoạn Phúc Âm này cũng sẽ là "một thủ tục quan trọng" để căn cứ vào đó chúng ta sẽ bị luận phán. Đó là đoàn Phúc Âm 25 của Thánh Mathêu. Với 2 đoạn Phúc Âm này, đoạn về Những Phúc Đức và đoạn về thủ tục quan trọng này, chúng ta sẽ chứng tỏ, bằng việc sống như thế, căn tính là Kitô hữu của chúng ta. Không sống như vậy thì cũng chẳng có căn tính nào hết. Chỉ có thứ Kitô hữu hư cấu chứ không có Kitô hữu căn tính.

    Đó là căn tính của Kitô hữu. Chữ thứ hai là nơi chốn. Những người đến đây để ẩn náu, để an toàn, thậm chí để chôn xác kẻ chết; và những người bí mật cử hành Thánh Thể ngày nay, ở những xứ sở bị cấm đoán... Tôi nghĩ đến vị nữ tu ở Albania, người đã ở trong một trại cải tạo, vào thời cộng sản, và các vị linh mục bị cấm không được ban các phép bí tích, và nữ tu này đã bí mật làm phép rửa ở đó. Dân chúng, các Kitô hữu biết rằng vị nữ tu này đã làm phép rửa và các bà mẹ bế con mình đến với sơ; thế nhưng sơ này không có ly để đựng nước... Sơ rửa tội nhờ những chiếc giầy, bằng cách lấy nước sông và rửa tội nhờ các chiếc giầy. Nơi chốn của các Kitô hữu thì ở khắp mọi nơi, chúng ta không có một nơi đặc biệt nào trong đời. Có một số mong muốn một nơi chốn đặc biệt như thế, họ là những Kitô hữu "có hạng". Thế nhưng thành phần Kitô hữu này có nguy cơ tiếp tục là "Kitô hữu" "có hạng" lẫn vô loài. Đâu là nơi chốn của Kitô hữu? "Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa" (Sap 3:1): nơi chốn của Kitô thì ở trong tay Thiên Chúa, nơi Ngài muốn. Bàn tay của Thiên Chúa, những bàn tay bị hoạn nạn, những bàn tay này là chính bàn tay của Con Ngài, Đấng muốn mang các thương tích để giơ ra cho Cha thấy và để chuyển cầu cho chúng ta. Nơi chốn của Kitô hữu ở nơi việc chuyển cầu của Chúa Giêsu trước nhan Cha của Người. Trong bàn tay của Thiên Chúa. Chúng ta tin tưởng ở đó, bất chấp xẩy ra điều gì, cho dù là thập tự giá. Căn tính của chúng ta nói rằng chúng ta sẽ được chúc phúc nếu họ bách hại chúng ta, nếu họ nói phạm đến chúng ta; thế nhưng nếu chúng ta ở trong bàn tay của Thiên Chúa, trong ước nguyện yêu thương, thì chúng ta vững tâm. Đó là nơi chốn của chúng ta. Hôm nay chúng ta hãy tự vấn xem thế nhưng tôi cảm thấy an toàn nhất là ở nơi nào? Ở trong bàn tay của Thiên Chúa hay ở những cái khác, ở những loại bảo toàn khác được chúng ta "thuê mướn" nhưng lại là những gì dần dần bị sụp đổ, không có tính chất vững chắc?

    Thành phần Kitô hữu này, với tấm thẻ căn cuớc ấy, thành phần đã sống và đang sống trong tay của Thiên Chúa, là những con người nam nữ của niềm hy vọng. Đó là chữ thứ ba đến với tôi hôm nay: niềm hy vọng. Chúng ta đã nghe thấy chữ này ở bài đọc 2, nơi thị kiến cuối cùng cho thấy hết mọi sự được tái tác, hết mọi sự được tái tạo, xứ sở mà tất cả chúng ta đều tiến tới. Và để tiến vào đó, chúng ta không cần những điều lạ, chúng ta không cần đến những thái độ khôn khéo, chúng ta chỉ cần trình thẻ căn cước: "Được, cứ vào". Niềm hy vọng của chúng ta ở trên Trời, niềm hy vọng của chúng ta được cắm neo ở đó, và chúng ta, nắm trong tay sợi giây thừng, hỗ trợ bản thân mình bằng việc nhìn đến bến bờ chúng ta cần phải băng qua.

    Căn tính: những Mối Phúc Đức và Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 25. Nơi chốn: nơi an toàn nhất, ở trong bàn tay của Thiên Chúa, một bàn tay bị hoạn nạn bởi yêu thương. Niềm hy vọng, tương lai, đó là cái neo, ở đó, ở bờ bên kia, thế nhưng chúng ta phải nắm chặt sợi giây thừng. Đó là điều quan trọng, bao giờ cũng phải nắm cho chặt lấy sợi giây thừng này! Nhiều lần chúng ta chỉ thấy sợi giây thừng, chứ không phải thậm chí là cái neo, chứ không phải ngay cả bờ bên kia; thế nhưng, hỡi anh chị em, hãy nắm lấy sợi giây thừng để nhờ đó anh chị em an toàn đạt tới bến bờ.

    https://zenit.org/articles/all-souls-pope-francis-celebrates-mass-in-catacombs-of-priscilla/

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và các chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu  

     

    Sau lễ và trước khi trở về Vatican vào lúc 5:30 pm, ngài đã xuống viếng thăm các hầm mộ ở bên đưới và âm thầm cầu nguyện. Trên đường về Vatican, ngài còn ghé kính viếng các Động của Đền Thờ Thánh Phêrô để cầu nguyện cho các vị giáo hoàng tiền nhiệm của mình được chôn táng ở đó, tuy ngài sẽ dâng lễ ở Đền Thờ Thánh Phêrô để cầu cho các vị vào Sáng Thứ Hai đầu tuần tới, ngày 4/11/2019 (xim xem bài giảng lễ của ngài sau).

    Xin mời nghe bài chia sẻ (2/11/2019 với Nhóm TĐCTT GP Orange CA) những gì liên quan đến Lễ Các Đẳng và Tháng Các Linh Hồn ở cái link audio mp3 dưới đây

    ChetChoc-ToiVa-AnPhat-ToanXa.mp3

     

    Xin đón đọc Bài Giảng của ĐTC Phanxicô cho Lễ Cầu Hồn Các Vị Tiền Nhiệm ở Đền Thờ Thánh Phêrô hôm này Thứ Hai ngày 4/11/2019

     

    --