16. Sống Tình Thức

SỐNG TỈNH THỨC - NHÂN QUẢ

LẼ  NHÂN  QUẢ  TRONG  “ TÁM  MỐI  PHÚC  THẬT”

          Có một nghịch lý xảy ra trong đời sống đó là ai cũng muốn hạnh phúc  nhưng rồi lại cứ phá hỏng nó bằng những thói hư tật xấu. Một người biết hút thuốc có hại cho sức khỏe nhưng vẫn không thể bỏ. Một người muốn gia đình thuận hòa, êm ấm nhưng lại không giữ lòng chung thủy vợ chồng. Một người biết bị giam cầm, tù đày là khổ nhưng vẫn không kiềm chế được cơn tức giận đến nỗi gây thương tích cho người. Mong mỏi  hạnh phúc mà không từ bỏ hành  động xấu thì cũng giống như cho tay vào lửa mà hy vọng không bị bỏng rát…

          Gây nhân nào sẽ lãnh quả đó, định luật này không bao giờ sai chạy mảy may nhưng người đời vì u mê nên không nhận  biết. Bài giảng đầu tiên của Chúa Giê Su nói về lẽ nhân quả trong “ Tám Mối Phúc Thật”.

          1/. “ Ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật vì chưng Nước ĐCT là của mình vậy.

          2/. Ai hiền lành ấy là phúc thật vì chưng Đất ĐCT là của mình vậy.

          3/. Ai khóc lóc ấy là phúc thật vì chưng mình sẽ được thương xót vậy.

          4/. Ai khao khát nhân đức trọn lành ấy là phúc thật vì chưng mình sẽ được no đủ vậy.

          5/. Ai thương xót người ấy là phúc thật vì chưng mình sẽ được thương xót vậy.

          6/. Ai giữ lòng sạch sẽ ấy là phúc thật vì chưng mình sẽ thấy mặt ĐCT vậy.

          7/. Ai làm cho người hòa thuận ấy là phúc thật vì chưng sẽ được gọi là Con  ĐCT  vậy.

          8/-  Ai khốn nạn vì Đạo Ngay ấy là phúc thật vì chưng Nước ĐCT là của mình vậy.

          Bài “ Tám Mối Phúc Thật” còn được gọi là Bài Giảng Trên Núi đã hấp dẫn được không ít những danh nhân thế giới như Thánh Gandhi của Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng v.v…Sở dĩ bài giảng mang tính hấp dẫn như thế là vì đã nói lên được tính chất Nhân Quả trong việc tìm kiếm hạnh phúc.

          Thế gian ai cũng mong mỏi hạnh phúc nhưng đều không đạt được như ý sở nguyện. Lý do là vì đã không nhận ra  lẽ nhân quả báo ứng. Mặt khác trong việc gây nhân tạo quả này Chúa Giê Su còn dạy chúng ta cần gây  một cái Nhân Xuất Thế  và chính cái nhân xuất thế ấy  đã khiến cho Đạo Chúa trở thành một thứ chánh đạo tức con đường về với Đấng Cha: “ Ta là đường là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ).

          Đấng Cha đây chỉ có thể là Đấng Cha…nội tại ( Deus Abconsditus ) cũng chính là Bản Tâm mỗi người. Bản Tâm ấy là một Thực Tại không thể nói, không thể gọi tên  bởi hễ nói được, gọi tên ra được thì nó đã trở thành một thứ khái niệm. Lão Tử cho Thực Tại ấy là Đạo:

         “ Đạo khả đạo phi thường Đạo

          Danh khả danh phi thường Danh

          Vô danh thiên địa chi thỉ

          Hữu danh vạn vật chi mẫu” ( ĐĐK chương một ).

          Đạo thường ở đây là Đạo Thường Hằng Bất Biến. Chúa Giê Su có khi gọi Đạo Thường ấy là Nước Trời, khi khác gọi là Đấng Cha tùy từng các đối tượng khác nhau. Bởi vì Nước Trời hay Nước ĐCT là một thực tại không thể diễn tả bằng ngôn ngữ  thế nên khi rao giảng về Thực Tại mầu nhiệm ấy cho đám đông Ngài chỉ dùng dụ ngôn. “ Môn đồ bèn đến cùng Ngài mà hỏi rằng: Sao Thầy phán cùng chúng bằng thí dụ như vậy ? Ngài đáp: Đã ban cho các ngươi được biết những sự mầu nhiệm của Nước Trời. Song không ban cho họ, vì hễ ai có thì cho thêm thì người ấy được dư dật. Còn hễ ai không có dẫu điều họ  đã có cũng sẽ bị cất luôn nữa” ( Mt 13, 10 -12 ).

          Đối với đam đông, Chúa Giê Su rao giảng Nước Trời bằng  những dụ ngôn xem ra rất khó hiểu chẳng hạn như  lưới quét dưới biển như ngọc báu chôn trong ruộng như cỏ lùng trong ruộng lúa. Lý do của  sự khó hiểu  này là vì Nước Trời chỉ có thể được nhận biết qua sự thực hành chứ không phải bằng lời nói xuông.

          Việc thực hành đó diễn ra ở mối phúc thứ nhất: Ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật. Lòng khó khăn ở đây ám chỉ cho cái Tâm không còn chấp trước vào gia sản, sự nghiệp mình có bởi tất cả chỉ là phù vân, hư ảo có đấy rồi lại mất đấy. Còn chấp vào tài sản  thì không bao giờ có thể nhận biết Nước Trời như một thực tại mầu nhiệm: “ Ta lại nói cùng các ngươi, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước ĐCT” ( Mt 19, 24 ).

          Về mối phúc thứ hai: “ Ai hiền lành ấy là phúc thật…Có người nói cuộc đời là một trường tranh đấu, mạnh được yếu thua. Thực tế có thể là như vậy nhưng kết quả là con người luôn phải sống trong lo âu, sợ sệt. Đối với mỗi cá nhân đã vậy, còn trong trường quốc tế cũng không khác, chiến tranh xảy ra hết đợt này đến đợt kia. Hòa bình chỉ là giai đoạn tạm thời để sửa soạn chiến tranh.

          Có thể nói lo âu là tâm trạng thường trực của con người và nguyên nhân của mọi nỗi âu lo đó chung quy chỉ vì người ta ai cũng chấp vào một “ Cái Tôi”  và những cái của tôi. Để có thể hưởng hạnh phúc bình an đích thực thì  cần học theo gương Chúa Giê Su: “ Hết thảy những ai đương lao khổ  vì gồng gánh nặng nề hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho các ngươi được nghỉ ngơi vì Ta có lòng nhu mì và khiêm nhường nên hãy mang lấy ách của Ta, học theo Ta thì linh hồn các ngươi sẽ được nghỉ ngơi vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng” ( Mt 11, 28 -30 ).

          Ách của Chúa thì êm ái bởi vì…cái ách ấy chính là  sự…Bỏ Mình. Bao lâu còn thấy…có mình  thì bấy lâu không thể sống hiền lành nhu hòa được. Như lời Chúa nói những ai sống hiền lành sẽ được Đất ĐCT làm của mình vậy. Đất cũng không khác với Nước Trời  nhưng Đất ở đây còn ám chỉ sự chịu đựng nhẫn nhục. Ai sống hiền mà không nhẫn nhục được sao ?

          Về mối phúc thứ tư: “ Ai khao khát nhân đức trọn lành ấy là phúc thật…Con đường trọn lành  là đường rất khó theo nếu người ta không thật sự khao khát nó. Gã trai trẻ dù là người đã tuân giữ các giới răn trong đạo rất tốt được Chúa khen ngợi nhưng Ngài còn muốn anh tiến bước xa hơn: “ Nếu ngươi muốn nên trọn lành thì hãy về bán hết gia sản  ngươi cho kẻ nghèo thì ngươi sẽ có của báu trên trời rồi hãy đến theo Ta” ( Mt 19, 21 ).

          Theo Chúa để bước đi trên con đường trọn lành. Được như gã thanh niên giàu có kia, tuân giữ các giới răn của Chúa đã khó nhưng chưa đủ mà còn phải khao khát bước vào con đường trọn lành tức …bỏ mình đi ( Lc 9, 23 ).

          Có bỏ được mình thì mới có thể theo Chúa nhưng để bỏ được mình lại rất khó nếu không có Ơn Chúa và lòng khát khao Nên Thánh thoát vòng trói buộc của sinh tử. Các Thánh Nam Nữ là những tấm gương sáng ngơi cho ta dù cho các ngài cũng đã từng nhiều phen vấp ngã và trỗi dậy. Có câu nói rất chi là an ủi: Không vị Thánh nào không có quá khứ  cũng như không có tội nhân nào không có tương lai…

          Về mối phúc thứ năm: Ai có lòng thương xót sẽ được xót thương…Người đời sống ích kỷ, chỉ biết đến mình, gia đình mình  mà không nghĩ đến ai. Thế nhưng cuộc sống ích kỷ ấy khiến cho tâm hồn  ngày càng sơ cứng không thể nhận biết Ơn Chúa đã dành cho mình, chẳng phải từng mỗi hơi thở của ta đã được Thiên Chúa ban cho  cách nhưng không hay sao ?

          Nhân loại hôm nay đang trên bờ vực của thế chiến thứ ba và cuộc chiến này nếu xảy ra sẽ tiêu diệt toàn bộ nền văn minh, kỹ thuật của nhân loại. Đây là  hệ quả của một cái nhân rất xấu  do con người không có lòng xót thương mà Lòng Xót Thương ấy chỉ có thể đến từ  Đấng Cha Nhân Lành, Từ Bi hay thương xót.

          Đức Mẹ nói với Thánh Nữ Faustina: “ Mẹ đã ban Đấng Cứu Độ cho  thế giới. Còn con, con phải nói cho thế giới  biết về Lòng Thương Xót bao la của Người và chuẩn bị  cho thế giới tiếp đón Người đến lần thứ hai. Người không đến trong tư cách Đấng Cứu Độ nhưng trong tư cách của một Thẩm Phán Chí Công” ( NK 635 ).

          Về mối phúc thứ sáu: Ai giữ lòng trong sạch ấy là phúc thật…Thông thường  lòng trong sạch ở đây được hiểu là nhân đức khiết tịnh không bị dục vọng nam nữ làm  cho vẩn đục. Tuy nhiên trong một ý nghĩa sâu xa hơn thì lòng trong sạch ấy chính là Tâm Vô Phân Biệt. Khi Tâm không còn phân biệt thiện, ác  thì Nước Trời cũng gọi là Bản Lai Diện Mục ( Bộ mặt xưa nay ) sẽ thể hiện. Chính vì lòng trong sạch hiểu theo nghĩa đó  mà Chúa Giê Su khuyên dạy chúng ta thay vì chỉ yêu thương những kẻ thân cận thì hãy yêu thương cả kẻ thù nghịch cùng mình.

          Rốt ráo của con đường tu tập  chính là làm sao bỏ được cái Tâm Phân Biệt hầu vào được Nước Trời. Cũng vì Tâm Phân Biệt ấy, nguyên tổ đã bị đuổi khỏi Vườn Địa Đàng và sẽ chẳng có ngày trở lại nếu không có Người Nữ Maria đạp giập đầu rắn Sa Tan.

          Về mối phúc thứ bảy: Ai làm cho người hòa thuận ấy là phúc thật…Chưa có thời nào con người lại chia rẽ, chứa chấp lòng  thù hận như thời này. Chỉ vì mấy mét đất mà người anh có thể ra tay chém chết cả nhà người em ruột của mình. Chỉ vì va chạm trên đường giao thông, người ta có thể  xông vào ẩu đả, rút mã tấu chém nhau chí tử để rồi người thì gục ngã máu me be bét, người thì vào tù chẳng biết đến ngày nào ra !!!

          Nhìn xa hơn trên thế giới cũng chỉ vì tham vọng của một nhóm người mà người ta có thể xua quân  đến chiếm đoạt nước người, gây ra biết bao thảm cảnh đau thương, đổ nát cho cả một dân tộc. Tất cả nguyên nhân đưa đến những xung đột bạo tàn ấy là do con người không nhận biết Thiên Chúa là Đấng Cha nhân Lành của mình. Chẳng những người đời mà ngay cả người…có đạo cũng chẳng nhận ra nhau là anh em cùng một Cha là Thiên Chúa.

          Sứ mạng của tôn giáo là đem sự hòa ái giữa con người với nhau nhưng hòa sao được nếu không làm hòa với Đấng Thiên Chúa ở nơi chính mình nhờ  Đức Giê Su Ki Tô ?: “ Ấy là ĐCT vốn ở trong Đức Ki Tô, khiến cho thế gian hòa lại với Ngài” ( 2C 5, 19 ).

          Về mối phúc thứ tám: Ai chịu khốn nạn vì đạo ngay ấy là phúc thật…Chúa Ki Tô trước khi về trời  đã truyền cho các Tông Đồ: “ Các ngươi sẽ làm chứng nhân về mọi việc đó” ( Lc 24, 48 ). Mọi việc cần làm chứng đó là Chúa đã chết và sống lại. Làm chứng về việc Chúa tử nạn và phục sinh  là điều rất khó bởi vì người thế gian không sao có thể tin được việc ấy. Thế nhưng trong lịch sử Hội Thánh  đã có biết bao Thánh Tử Đạo đã vui lòng chịu chết để chứng minh cho đức tin của mình.

          Thánh Tertuliano nói: “ Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống sinh  nhiều giáo hữu” ( Sanguis Martyrum semen Chritianorum ). Tin và làm chứng cho đức tin ấy đến nỗi hy sinh cả tính mạng đó quả là một cái Nhân vô cùng cao cả và phần thưởng của nó thật  xứng đáng. Xưa kia đã thế, ngày nay cũng vậy cũng còn nhiều dịp để chứng minh cho đức tin của mình  bằng những việc hy sinh thầm lặng, cầu nguyện, ăn chay, làm việc tông đồ bác ái v.v…Chính những việc âm thầm nhỏ nhặt ấy sẽ đem lại vô vàn công đức nếu  được làm với lòng yêu mến Chúa Ki Tô…

          Con người có thể…chết cho niềm tin của mình nhưng vấn đề ở chỗ cái chết ấy có xứng đáng và đem lại ơn ích thực sự hay không ? Cứ xem Nhân thì biết Quả. Cái Nhân của Đạo Chúa  là cái Nhân Xuất Thế Gian: “ Con chẳng xin Cha  cất họ khỏi thế gian nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi sự ác. Họ không thuộc về thế gian cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên Thánh. Đạo Cha là  đạo thật” ( Ga 17, 15 -17 ).

          Là  con cái Chúa, chúng ta có thể bị ganh ghét, đố kỵ, hiểu lầm, thiệt thòi nhiều nỗi về tinh thần cũng như vật chất nhưng hãy vững tin vào Chúa Ki Tô, Ngài đã  chịu khổ nhục, đã chết nhưng Ngài đã thắng thế gian. Chúa xin Cha không cất chúng ta khỏi thế gian nhưng xin gìn giữ khỏi sự ác tức những cám dỗ và đam mê vật dục của đời này.

          Làm sao có thể tin và sống đời sống đó ? Xin thưa tất cả là nhờ ở nơi Đức Maria, Người Mẹ Tâm Linh của mỗi người. Thánh Benado nói: “ Theo Mẹ sẽ không sợ lạc đường. Cầu nguyện với Mẹ sẽ không sợ thất vọng. Nghĩ về Mẹ sẽ không sợ lầm lẫn” ./.

Phùng  Văn  Hóa

Chia sẻ Bài này:
 

FacebookTwitterLinkedInPinterestViber

Related posts

 

n

 
00:00
 
04:47
 
 
 

Bài Giảng Chúa Nhật 2 Phục Sinh

Video Player
 
00:00
 
54:52
 
 
 

 

 
 
 

Chuyên Mục

 
 
 
 

SỐNG TỈNH THỨC - THIÊN THẦN BẢN MẠNH

  •  
    Chi Tran
     
    Thiên Thần Bản Mệnh
    by Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

     

    Linh Mục Công Giáo tên Lamy kể lại. 
    Một phụ nữ Công Giáo đạo đức xin tôi đến ban bí tích Xức Dầu Thánh cho chồng bà. Ông đau nặng, nhưng chưa hẳn ở vào giai đoạn cuối đời. Dầu vậy, bà ước ao cho chồng được lãnh nhận Bí Tích Bệnh Nhân khi còn tỉnh táo. Bà tự nhủ:
    "Đâu ai biết được giờ chết sẽ xảy đến thình lình như thế nào!".

    Tôi nhận lời đến ngay, nhưng không mang theo dầu thánh, sợ gây hoảng sợ cho người bệnh. Lúc đến thăm, tôi ngạc nhiên khi thấy chính ông chồng ngỏ lời xin tôi ban phép bí tích sau cùng cho ông. Tôi vội vàng ra về và hứa sẽ trở lại ngay, mang theo Dầu Thánh. 
    Bà vợ nói với tôi:
    - "Thưa cha, con khép hờ cánh cửa ra vào. Khi nào đến, xin cha cứ tự tiện đẩy cửa vào nhà".
    Nhà hai ông bà ở trong một chung cư nơi lầu 6. Vào thời kỳ đó, các chung cư chưa có thang máy.

     

    Một giờ sau, tôi bước vội lên cầu thang nhưng vô ý không tính xem mình đang ở lầu mấy. Bất ngờ tôi thấy trước mặt một cánh cửa khép hờ. Tôi đẩy nhẹ cửa bước vào. Một người đàn ông đang nằm trên giường, không giống người đàn ông lúc nãy, nhưng tình trạng bệnh hoạn lộ vẽ trầm trọng rõ ràng. Tôi lúng túng xin lỗi và chào thăm ông. Không ngờ, người bệnh như tỏ dấu hài lòng trông thấy một linh mục Công Giáo. Ông nói ngay:

    - "Cha có biết không? Từ một tuần nay, con nài nĩ nhà con mời một linh mục đến cho con gặp. Nhưng nhà con cương quyết từ chối. Bởi lẽ cả hai vợ chồng chúng con đều là kẻ vô thần. Riêng con, ý nghĩ biết mình sắp chết khiến con kinh hoàng. Con liền tìm cách trở về với đức tin con nhận lãnh trong thời thơ ấu. Nhà con không đồng ý với con". 
    Nhà con nói:
    - "Hễ là kẻ vô thần thì phải vô thần cho đến chết! Không có chuyện 'tôn giáo nhảm nhí' vài giây phút cuối đời!". Thấy nhà con một mực từ chối, con liền quay sang khẩn khoản nài van Thiên Thần Bản Mệnh con cứu giúp. Con nhớ lại bài học giáo lý ngày con còn nhỏ về sự trợ giúp của Thiên Thần Hộ Thủ".

     

    Và Thiên Thần Bản Mệnh đã ra tay cứu giúp. Bà vợ của ông vừa ra khỏi nhà, nhưng quên đóng cửa lại. Còn tôi, tôi lại đi lộn cửa, vào nhằm nhà của ông. Tôi vui mừng nghe câu chuyện ông vô thần vừa kể. Tôi giúp ông dọn mình nhận lãnh các bí tích sau cùng. Tôi trao cho ông Mình Thánh Chúa làm của ăn đàng.

    Xong xuôi đâu đó, tôi cẩn thận khép kín cửa lại và tiếp tục leo cầu thang lên lầu 6, nơi người bệnh thứ nhất đang chờ đợi tôi. Vừa đi tôi vừa đọc kinh cầu cùng Thánh Thiên Thần Bản Mệnh:
    - "Lạy Thiên-Thần Chúa là đấng gìn giữ con. Xin Thiên-Thần soi sáng tâm trí con, gìn giữ trái tim con, nâng đỡ thân xác con và hướng dẫn con, vì con được Tình Yêu Thiên Quốc giao phó cho Thiên-Thần chăm sóc. Amen".

     

    (René Lejeune "Les Anges: Armée secrète du Ciel", Éditions du Parvis, 1998, trang 91-93).

    ------------------------------------------------------

    TẤT CẢ HƯỚNG VỀ CHÚA

    -----------------------------------------------------

     
     

SỐNG TỈNH THỨC - NHỮNG CÁI KHÔNG CỦA CHÚA

  •  
    Chi Tran

     
     
     
     
     
     


    Những cái KHÔNG của Chúa GIÊSU THÁNH THỂ.
    THEO LỜI CHÚA/KINH THÁNH DẪN CHỨNG SAU:
    1. KHÔNG NÓI DỐI – “Thiên Chúa muốn chứng minh rõ hơn cho những người thừa hưởng lời hứa được biết về ý định bất di bất dịch của Người, nên Người đã dùng lời thề mà bảo đảm điều Người đã hứa. Như vậy, cả lời hứa lẫn lời thề đều bất di bất dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể nói dối được (Dt 6:18).
    2. KHÔNG BỎ MẶC – “Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta hoàn thành điều Ta đã phán với ngươi” (St 28:15). Đó là lời Thiên Chúa hứa với Gia-cóp.
    3. KHÔNG RUỒNG BỎ – “Trong cách ăn nết ở, anh em đừng có ham tiền, hãy coi những gì mình đang có là đủ, vì Thiên Chúa đã phán: Ta sẽ không bỏ rơi ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi! (Dt 13:5).
    4. KHÔNG KHINH MIỆT – “Tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 51:19).
    5. KHÔNG NGỦ QUÊN – “Đấng gìn giữ Ít-ra-en, lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành!” (Tv 121:4).
    6. KHÔNG NGỪNG YÊU THƯƠNG – “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31:3).
    7. KHÔNG BỊ LÀM NGƠ – “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19:2).
    8. KHÔNG CHỊU NỔI TỘI LỖI – “Chính lỗi lầm của các ngươi đã phân cách các ngươi với Thiên Chúa các ngươi; chính tội lỗi các ngươi đã khiến Người ẩn mặt để khỏi nhìn, khỏi nghe các ngươi” (Is 59:2).
    9. KHÔNG BỎ DỞ CÔNG VIỆC – “Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Kitô Giêsu quang lâm” (Pl 1:6).
    10. KHÔNG LÃNG QUÊN – “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49:15).
    11. KHÔNG MỆT MỎI – “Đức Chúa là Thiên Chúa vĩnh cửu, là Đấng sáng tạo toàn cõi đất. Người không mệt mỏi, chẳng nhọc nhằn, trí thông minh của Người khôn dò thấu” (Is 40:28).
    12. KHÔNG TẠO NÊN NGƯỜI THUA CUỘC – “Tạ ơn Thiên Chúa, Đấng hằng cho chúng tôi tham dự cuộc khải hoàn trong Đức Kitô, tạ ơn Người là Đấng đã dùng chúng tôi mà làm cho sự nhận biết Đức Kitô, như hương thơm, lan toả khắp nơi” (2 Cr 2:14).
    13. KHÔNG IM LẶNG – “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mt 24:35).
    14. KHÔNG BẤT TOÀN – “Hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
    15. KHÔNG LÀ THỨ CẤP – “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (Xh 20:3).
    16.KHÔNG THỂ PHÂN CHIA – “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10:30).
    17. KHÔNG THAY ĐỔI – “Chính Ta là Đức Chúa, Ta không hề thay đổi” (Mlk 3:6).
    18. KHÔNG BỊ HỦY DIỆT – “Triều đại Ngài: thiên niên vĩnh cửu, vương quyền Ngài vạn đại trường tồn.
    Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm” (Tv 145:13).
    19. KHÔNG THẤT HỨA – “Ta quyết chẳng đoạn tình dứt nghĩa, quyết không hề bội tín thất trung” (Tv 89:34).
    20. KHÔNG ÍCH KỶ – “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8:32).
    TRẦM THIÊN THU
    Không có mô tả ảnh.
     
     
     
    12.727
    Số người tiếp cận được
    1.030
    Lượt tương tác
     
    Cao hơn +56,2x
    Điểm phân phối
    Quảng cáo bài viết
     
     

    Log in or sign up to view

    See posts, photos and more on Facebook.

     
     
    60Bạn và 59 người khác
     
     
    38 lượt chia sẻ
    Yêu thích
    Yêu thích
     
     
     
    Bình luận
     
     
    Chia sẻ
     
     
     

SỐNG TỈNH THỨC - TỘI NHÂN TRƯỚC TÒA CHÚA

  •  
    Chi Tran

     
     
     
     


    THEO LỜI CHÚA / KINH THÁNH

    Chúng ta hãy nhìn xem cuộc phán-xét: “Pháp-đình an tọa và sách được mở ra.” (Đa-ni-en 7 : 10 )

    Ở đó đặt hai sách: Một sách Phúc-âm và một sách lương-tâm. Sách Phúc-âm nói lên những điều bị-cáo phải làm và Sách Lương-tâm chứng-minh những gì bị-cáo đã làm.

    Bàn cân Thiên Chúa không cân của-cải giàu có, chức-quyền, mà chỉ cân những việc bị-cáo đã làm, như Tiên-tri Daniel đã nói với vua Ban-ta-gia (Bathassar):“Ngài đã phải cân trên bàn cân và thấy thiếu hụt.” (Đa-ni-en 5 : 27 ) 

    Lần lượt những người tố cáo ra trình bày. Trước tiên ma quỷ xuất hiện. Thánh Au-gus-ti-nô nói: “Trước toà Thiên-Chúa, ma quỷ kể rành-mạch những gì chúng ta hứa mà không làm, những tội chúng ta phạm với chứng-cớ rành mạch và ngày giờ hẳn hoi. Chúng thưa với Chúa rằng tội-nhân đã tự ý bỏ Chúa, để trở thành nô-lệ của chúng. Vì vậy, tội nhân thuộc quyền chúng.”

    Theo O-ri-gen, các Thiên-Thần Bản-mệnh cũng đứng lên làm chứng những năm tháng mà Thiên-Thần đã giúp-đỡ, khuyến-khích, cảnh-cáo tội-nhân, nhưng tội-nhân giả điếc làm ngơ.

    Cả đám bạn bè đều phản-bội, và trở thành kẻ thù.” (Ai-Ca 1: 2 )

    Vách tường cũng đứng lên tố-cáo tội-nhân. Lương-tâm hắn cũng đứng lên tố-cáo hắn: “Chứng-cớ là họ có lương-tâm phán đoán.” (Rô-ma 2:15).

    Theo Thánh Bê-na-đô, chính các tội-lỗi hắn cũng đứng lên tố-cáo: "Chúng tôi là những hậu-quả xấu xa của hắn và chúng tôi không bao giờ rời xa hắn.”

    Chúa phán: “Ta sẽ cầm đèn lục-soát Giê-ru-sa-lem. Ta sẽ hỏi tội những kẻ ngổi lì bên cặn rượu của chúng.” ( Xô-phô-ni-a 1:12 )

    Thánh Cô-nê-li-ô ở La-pi-đơ giải thích chữ ”Cầm đèn” tức là Chúa đặt tội-nhân trước gương các thánh, trước ánh sáng mà Người đã ban cho tội-nhân trong suốt cuộc đời, và những năm tháng mà Người khuyến-khích tội-nhân hãy bỏ đàng tội-lỗi và làm việc lành phúc đức:“Vào thời Ta định, Ta sẽ phân-xử công-minh.” (Thánh Vịnh 75 :3 ) 

    Chúa phán: “Hãy ban cho nàng hoa quả của bàn tay nàng.” (Cách-ngôn 31:31)

    “Gieo giống nào thì gặt giống ấy.”

    LỜI NGUYỆN CẬY TRÔNG

    Lạy Chúa Giêsu, Chúa sẽ thưởng hay phạt con theo việc lành hay việc dữ con đã làm. Đã bao phen con đã tự tay viết bản án kết tội con. Bây giờ con xin trở lại với Chúa.

    Con cảm ơn Chúa đã kiên-nhẫn chờ đợi con đến nay. Nếu ngay bây giờ con phải ra trước toà Chúa, để tính sổ cuộc đời con, số phận đời đời con sẽ ra sao?

    Lạy Chúa, xin Chúa chờ đợi con một chút nữa thôi, để con kịp thống-hối lỗi-lầm của con. Con ăn-năn các tội đã phạm. Con xin yêu Chúa trên hết mọi sự. Lạy Chúa Cha hằng có đời đời, xin thứ tha các tội-lỗi con đã phạm vì công nghiệp Chúa Giêsu.

     Lạy Mẹ Maria, con đặt hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Xin Mẹ là Đấng bầu-cử ghé mắt thương con. Xin thương đến những nỗi thống-hối của con và thương xót con.
    (Thánh An-Phong Ligouri do Phêrô Bùi Đắc Hữu chuyển ngữ)
    ---------------------------------------------------

SỐNG TỈNH THỨC - NHẬN RA CHÚA

  •  
    Chi Tran

    ĐỂ NHẬN RA CHÚA PHỤC SINH Ở GIỮA CHÚNG TA

     

    Làm sao chúng ta lại có thể không vui mừng, cất cao lời ngợi khen và cảm tạ khi cử hành sự khải hoàn tuyệt vời của Chúa Kitô Phục sinh? 

     

    Được xây trên nền ngôi nhà của thầy cả thượng phẩm Caipha ở Giêrusalem, nhà thờ Thánh Phêrô Gallicantu nhằm tưởng nhớ việc Simon Phêrô đã chối Chúa Giêsu trong sân vào đêm Người bị bắt. Bên dưới nhà thờ là “cái Hố”, một căn phòng nhỏ bằng đá, nơi Chúa Giêsu bị tống giam vào buổi tối hôm đó, vài giờ trước khi bị kết án và đem đi giết. Đứng ở trong nơi tối tăm, lạnh lẽo đó, nhìn cái lỗ, người ta thấy được nơi mà Thiên Chúa của chúng ta ngã xuống trên một nền đá cứng, đồng thời nghĩ đến việc Người nằm đó trơ trọi một mình, đương đầu với Thứ Sáu Tuần Thánh, khiến người ta phải rơi lệ. Khi đến thăm nơi đó, tôi đã suy ngẫm về Thánh vịnh 88[1], vốn là lời kêu than với Thiên Chúa trong đau khổ và đơn độc của một người cảm thấy bị bỏ rơi hoàn toàn.

     

    Tất cả chúng ta đều đã từng ở trong cái hố, chống chọi với những đêm tối của tâm hồn; cảm giác không được yêu thương, bị xem là thừa thãi, bị hiểu lầm, bị cô đơn mà không nhận được bất kỳ sự an ủi nào từ Thiên Chúa hoặc người khác. Tin Mừng mà chúng ta đã cử hành và công bố vào Thứ Sáu Tuần Thánh là sự thật đáng kinh ngạc rằng Đức Chúa đã ở trong cái hố trước chúng ta, đã nếm trải một sự bỏ rơi thẳm sâu không thể suy thấu, và đã chấp nhận một cái chết kinh hoàng. Đức Chúa đã đón nhận tất cả những điều ấy để chúng ta đừng bao giờ mất hy vọng, ngay cả trong những đêm tối tăm nhất.

     

    Chúa Nhật Phục sinh là sự khải hoàn của Chúa Giêsu trước thế lực của tội lỗi và sự chết, là sự xác minh cho toàn bộ sứ mệnh của Người, là sự chiến thắng của tình yêu trước hận thù, của ân sủng trước sự dữ, của sự cảm thông trước nỗi cô đơn và của sự sống vĩnh cửu trước quyền lực của bóng tối. Tuy nhiên, sự phục sinh của Chúa Kitô không xóa bỏ một cách thần diệu những vết thương và giới hạn của bản tính nhân loại yếu đuối của chúng ta. Chúng ta sẽ vẫn luôn cảm thấy bị hiểu lầm, phải chịu đựng những nỗi đau, và cuối cùng phải cô đơn đối diện với cái chết, nhưng Đức Chúa đã mở ra một con đường cho chúng ta; ánh sáng chiếu rọi ở cuối đường hầm. Đức Chúa muốn chúng ta kêu cầu quyền năng của Người, tận hưởng sự hiện diện thân thương của Người qua các bí tích, nghe giọng nói dịu dàng của Người qua Lời Chúa, và khám phá vẻ đẹp trên khuôn mặt của Người nơi những người bên cạnh chúng ta.

     

    Chúng ta vẫn sẽ thấy mình trong cái hố, nhưng khi mắt chúng ta quen dần với bóng tối, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu ở đó với chúng ta, mang đến sự an ủi, lòng thương xót và hy vọng. Đức Chúa mời gọi chúng ta sống trong thế giới phục sinh tươi đẹp và bao la của Người, một thế giới đã có đó, ngay lúc này trong cuộc đời của chúng ta. Chúng ta không cần phải đợi đến khi mình chết thì mới có thể nhận ra vinh quang Thiên Chúa và nếm trải niềm vui Phục sinh. Cũng như trong các Tin Mừng, Chúa Phục Sinh hiện ra tại những nơi bất ngờ nhất, với những dáng vẻ bên ngoài khó nhận diện và dễ gây ngạc nhiên nhất, nhưng nếu tinh mắt, chúng ta sẽ nhận ra Người.

     

    Trong Mùa Chay, chúng ta đã cùng đồng hành với Chúa Giêsu trong hoang địa suốt 40 ngày; đã chiêm ngắm Người biến hình vinh quang trên Núi Tabor; đã cảm nhận sự hoán cải sâu sắc của người con Hoang đàng; đã gặp người phụ nữ ngoại tình nhận được sự tha thứ đầy lòng thương xót; và đã cùng với Đức Kitô hân hoan tiến vào thành Giêrusalem của tâm hồn chúng ta. Khi thực hành đều đặn việc cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái, chúng ta đã khai quang một nơi trong tâm trí và trái tim mình để Nước Hằng Sống, Ánh sáng Thế gian, Sự sống lại và Sự sống tràn vào và lưu lại với chúng ta một cách sâu đậm hơn.

     

    Trong tất cả những lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra như được các sách Phúc âm kể lại, thì những người đi theo Chúa Giêsu không bao giờ nhận ra Người ngay lập tức. Maria Madalena thì nghĩ rằng Người là người làm vườn. Các Tông đồ thì cho rằng Người là một bóng ma. Hai môn đệ trên đường Emmau lại coi Người như một người bạn đồng hành thú vị. Chỉ khi Chúa Giêsu gọi tên của bà Maria; bày tỏ vết thương cho các tông đồ; và bẻ bánh trong cử chỉ Thánh Thể đặc trưng thì mắt của họ mới được mở ra để nhận ra Chúa Phục sinh đến với họ trong sự sống sung mãn!

     

    Có thể là sự thất bại của thập giá đã che khuất tầm nhìn của họ, hoặc diện mạo Chúa Giêsu phục sinh khác với dáng vẻ của Người trước đó, nhưng có một điều vẫn rất rõ ràng: Khi Đức Chúa hành động và lên tiếng, họ liền nhận ra Người, và họ rất đỗi vui mừng.

     

    Vậy thì, Chúa Phục sinh đang hành động và lên tiếng ra sao trong cuộc đời của chúng ta?

     

    Khi Chúa Giêsu dịu dàng gọi tên chúng ta trong cầu nguyện; khi chúng ta nhìn thấy những thương tích của Người trong đau khổ của người khác; khi chúng ta lãnh nhận Thánh Thể…, chúng ta nhận ra Chúa Phục sinh, và lòng chúng ta hân hoan trước sự gần gũi thân thương và vẻ đẹp kỳ diệu của Người.

     

    Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, sức mạnh của Sách Thánh và hiệu năng của các Bí tích trong Giáo Hội, Chúa Kitô phục sinh vẫn luôn hiện diện cách gần gũi bên cạnh chúng ta. Sự phục sinh của Người là sự kết hợp trọn vẹn vẻ sáng ngời của Chân, Thiện, Mỹ nơi Thiên Chúa. Vì Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết, chúng ta nhận được ơn tha thứ tội lỗi, lời hứa về sự sống đời đời, sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi khoảnh khắc và sự kết hợp với Đức Chúa.

     

    Làm sao chúng ta lại có thể không vui mừng, cất cao lời ngợi khen và cảm tạ khi cử hành sự khải hoàn tuyệt vời của Chúa Kitô Phục sinh? 

     

    Tình yêu đã chiến thắng hận thù; ân sủng đã chiến thắng tội lỗi; lòng nhân từ đã diệt trừ cái ác, và sự sống là tiếng nói cuối cùng trên sự chết.

     

    Xin cho trái tim của chúng ta rung nhịp với quyền năng và sự sống của Đức Chúa, Đấng bị đóng đinh và sống lại, đang đồng hành với chúng ta trên lộ trình Emmau riêng của mỗi chúng ta.

     

    Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
    Dòng Đa Minh Thánh Tâm
    Chuyển ngữ từ: 
    simplycatholic.com

    Gm. Donald J. Hying