16. Sống Tình Thức

SỐNG TỈNH THỨC - TGM HANOI


  •  
    Hong Nguyen CHUYỂN
     

    SUY NIỆM MÙA CHAY CHÚA NHẬT THỨ  IV –  Đức TGM Vũ Văn Thiên

    Để hiểu rõ dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được đọc trong Chúa nhật IV Mùa Chay, cần liên kết với hai dụ ngôn khác cùng được ghi lại ở chương 15 của Tin Mừng theo thánh Luca, tức là dụ ngôn con chiên lạc và dụ ngôn đồng bạc của bà goá bị mất. Cả ba dụ ngôn này đều có một điểm chung. Đó là mất và tìm thấy. Con chiên, đồng bạc và người con thứ, cả ba đều bị mất và đã được tìm thấy. Ba hình ảnh này diễn tả ba lãnh vực: đồ vật, sinh vật và con người. Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều quý giá và được Ngài yêu thương.

    Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là một trong những áng văn chương tuyệt vời của Kinh Thánh. Nó diễn tả thân phận nghèo hèn tột cùng của tội nhân. Hơn thế nữa, nó diễn tả gương mặt nhân hậu giàu lòng bao dung thương xót của Thiên Chúa. Khi người con thứ hối hận trở về, đó không chỉ là một con người trở lại, mà còn tình yêu đã đánh mất cũng được hồi phục, mối liên hệ thân tình cha – con được tái lập. Tình thương của Thiên Chúa mênh mông và toả sáng, mỗi khi tội nhân sám hối quay về. Niềm vui vỡ oà, khi con người sám hối ăn năn. Thiên đàng sẽ tràn ngập niềm vui. Thiên Chúa thết tiệc để đón những người trở về.

    “Khi nó còn ở đàng xa, người cha đã thấy và chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để”. Không còn từ nào hay hơn để diễn tả tâm trạng một người cha đã nhiều năm trông ngóng con trở về, dù đó lại là một đứa bất hiếu bỏ nhà ra đi. Người cha này cũng tôn trọng tự do của con, khi nó đòi chia gia tài để đi làm ăn với nhiều tham vọng và ảo tưởng hão huyền. Giờ đây, khi nó trở về với thân xác tàn tạ, cũng người cha ấy lại đón chào với tình thương còn lớn hơn lúc nó bỏ nhà đi hoang.

    Khi nghĩ mình đã đủ lông đủ cánh để bay vào đời, người con thứ muốn ra đi, vì nó nghĩ cha và anh sẽ là những chướng ngại cho hành trình vào đời. Sau những tháng năm xa nhà, bôn ba bon chen giữa chợ đời, thực tế làm anh ta mở mắt. Cuộc đời không phải lúc nào cũng màu hồng. Lương tâm đã làm anh tỉnh ngộ. Dẫu biết rằng cuộc trở về sẽ gặp rất nhiều trở ngại và lời đàm tiếu của hàng xóm láng giềng, anh ta vẫn quyết định lên đường. Thiên Chúa là người Cha. Ngài luôn muốn chia sẻ cho chúng ta hạnh phúc và niềm vui của Ngài. Chúng ta nhiều khi lại không nghĩ thế, vì cho rằng Ngài kiểm soát và ràng buộc chúng ta. Nhiều người đã muốn bứt mình ra khỏi vòng tay yêu thương của Chúa, nghĩ rằng không có Chúa sẽ thoải mái và sung sướng hơn. Hơn một lần cuộc đời nghiệt ngã đã làm chúng ta vỡ mộng.

    Câu chuyện dụ ngôn tạo nên những tình huống đối lập, để cho thấy những bất hạnh của con người khi họ muốn xa lìa Thiên Chúa. Người con thứ vội vàng thu góp tất cả tài sản được chia rồi trảy đi phương xa, sống phóng đãng phung phí tài sản của mình. Anh không sai khi nghĩ rằng anh có quyền sử dụng tài sản được chia. Nhưng nghĩ rằng anh thực sự hạnh phúc khi tự do, thì đó lại là một ảo tưởng hão huyền. Và, kết quả hoàn toàn khác: anh sa cơ lỡ vận đến nỗi muốn xin đậu muồng là thứ người ta dùng để nuôi heo cũng chẳng ai cho.

    “Biết bao người làm công cho cha ta…”. Người con hoang đàng hồi tưởng về tuổi thơ của mình. Nhà cha đâu có thiếu thốn. Đó là anh tự bỏ nhà ra đi với những ảo tưởng tham vọng. Khi trở về trong tâm tình Mùa Chay, chúng ta nhớ lại những điều tốt đẹp Chúa đã làm cho mình, đồng thời nhận ra những vô ơn, bất kính đối với Chúa, qua lời nói, tư tưởng và việc làm của chúng ta: tại sao Chúa tốt với tôi như thế, mà tôi lại không vâng lời Ngài?

    Trở về là một quyết tâm. Trở về cũng đòi can đảm mạnh mẽ, để dứt mình ra khỏi mọi ràng buộc và mặc cảm đang tìm cách níu kéo chúng ta. Quyết định trở về là chiến thắng bản thân, để thoát ra khỏi bóng tối, vươn mình ra ánh sáng, với xác tín Chúa đang chờ đợi và Ngài sẵn sàng giang rộng vòng tay để ôm lấy chúng ta.

    Người Do thái, sau 40 năm hành trình sa mạc đã đến đất hứa. Họ đã trở về nơi mà Chúa hứa cho cha ông họ. Về đất hứa là chấm dứt cảnh tha hương để từ nay định cư bền vững. Mọi cuộc trở về đều có một đích điểm, đó là quê hương, là về với gia đình.

    Thánh Phaolô năn nỉ chúng ta: “Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa!”. Mỗi người trong chúng ta hãy tự vấn lương tâm: tôi là người con cả hay người con thứ trong câu chuyện cuộc đời? Người cha trong câu chuyện dụ ngôn một lúc mất cả hai người con: đứa thì bỏ nhà đi hoang, đứa thì sống với cha mà lòng nó xa lắc xa lơ, đầy ghen tỵ, bon chen tính toán. Là người con nào, chúng ta cũng phải trở về để đón nhận ơn tha thứ của Chúa, cùng với niềm vui và an bình. Khi trở về, chúng ta như đã bị lạc mất và nay được Chúa tìm thấy chúng ta.

    +TGM Giuse Vũ Văn Thiên

    Kính chuyển:
    Hồng
     

SỐNG TỈNH THỨC - VIỆC TRUYỀN BÁ VÔ THẦN

 

  •  
    BBT CGVN


    Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới

    Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity  

    (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39)

    www.conggiaovietnam.net       This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

     

     

    CÁCH ĐỐI PHÓ VỚI VIỆC TRUYỀN BÁ VÔ THẦN

     

     
     

     

    Tác giả: Đức Cha ROBERT BARRON

    Sandy Vũ chuyển ngữ và lồng tiếng.

     

     Kính mời theo dõi video tại đây:

    https://bit.ly/34UyBeu

     

    Kính thưa Quý Cha và Quý Vị,

    Giáo Sư Triết Học tại Mỹ - Peter Boghossian đã cho xuất bản cuốn sách với nhan đề: “A Manual for Creating Atheists” – tạm dịch là “Cẩm Nang Đào Tạo Người Vô Thần” – đây là một cuốn sách thuộc loại best seller và đang gây rất nhiều lo âu cho các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục cũng như những người có trách nhiệm chăm lo cho đời sống đức tin của Dân Chúa và Dân Chúng.

     

     

     

     

    Vô thần không còn xa lạ gì với người Kitô hữu, nhưng vấn đề ở chỗ, dường như ngày càng có nhiều bạn trẻ rơi vào cạm bẫy của những người đang chủ trương “truyền bá tư tưởng vô thần” như một phương tiện để công khai chống lại Thiên Chúa. Chúng ta phải làm gì và nên làm gì? Thưa hãy: “Dĩ độc trị độc”, hãy dùng lại chính những lý luận và cách làm của họ để vô hiệu hóa chính họ bằng tất cả sự hiểu biết sâu xa về đức tin của chúng ta – một đức tin có nền tảng, tràn đầy lý trí và ân sủng.

    Chúng con xin giới thiệu một vài ý kiến của Đức Cha ROBERT BARRON – Giáo Sư Thần Học, Giám Mục Phụ Tá TGP Los Angeles về nội dung cuốn sách này qua một video phỏng vấn trực tuyến, do Cô Sandy Vũ chuyển ngữ và lồng tiếng. Theo Wikipedia, Đức Cha đã có trên 1.000 videos trực tuyến trên các kênh CatholicTV , EWTN, Telecare , NET TV và Salt + Light Television... Chúng con xin hết lòng cảm ơn Đức Cha vì những tư liệu vô giá này.

     

     
     

      

    Kính mời theo dõi video tại đây:

    https://bit.ly/34UyBeu

     

    Xin chân thành cảm ơn.

    BBT CGVN

     

     

     



 

SỐNG TỈNH THỰC - BẠN MƠ - CN3MC-C

 

  •  
    Mo Nguyen
     

    CN 3 C  Mùa Chay

    Hai bài học từ hai bài đọc

     

    Hôm nay ta sẽ rút ra hai bài học từ hai bài đọc.

    Bài học một từ bài đọc một.

    Bài học hai từ bài đọc ba, tức bài Tin Mừng.

     

    1. Bài học một.

    Bài đọc I trong 5 Chúa nhật Mùa Chay cứ tuần tự thuật lại 5 giai đoạn trong lịch sử cứu độ, hay còn được hiểu là 5 giai đoạn trong cuộc hành trình loài người tìm gặp Chúa (1). Hôm nay tới giai đoạn của Môsê.  Bài đọc I kể chuyện Chúa hiện ra với Môsê, điều đáng để ý là Chúa không hiện ra với ông trong Đền thờ mà là trong sa mạc (thật ra thời dân ở Ai Cập làm gì có đền thờ, nhưng chí ít cũng chọn một nơi “ngon” hơn một chút); và hay ho hơn nữa, Chúa hiện ra không phải khi Môsê đang cầu nguyện mà trong lúc ông đang chăn cừu. Vậy là, Chúa hiện ra cho Môsê ở một nơi “phàm trần” và trong một sinh hoạt “phàm trần.”

    Chúng ta có biết đặc điểm của người giáo dân được CĐ Vatican 2 kể ra là gì không? Hãy mở Hiến chế tín lý về Giáo Hội, chương 4, bàn về giáo dân, số 31, thấy ngay: “tính cách phàm trần (trần thế) là tính cách riêng biệt và đặc thù của người giáo dân” mà người giáo dân chiếm 99,99% Dân Chúa.

    Vậy là, Chúa không bắt người giáo dân phải vào đền thờ mới gặp được Chúa. Sẽ có lúc Chúa đòi như thế, như hôm nay Chúa nhật ta đến Nhà Thờ (nhưng đó không phải là bài học ta rút từ bài đọc 1 hôm nay). Chúa cũng không đòi chúng ta phải ngưng công việc thường ngày, rồi quỳ đọc kinh cầu nguyện, bấy giờ Chúa mới hiện ra. Không. Ngài đã gặp Mose đang khi ông chăn cừu, trong sa mạc đất phàm.

    Khi ở Chicago, ghé thăm văn phòng của một bà giáo dân làm việc cho giáo xứ, tôi ngạc nhiên thấy trong phòng bà lúc nào cũng có ngọn nến. Bà tới nơi làm việc, việc đầu tiên là đốt ngọn nến. Hỏi bà lý do, bà có sẵn ngay: nơi làm việc là nơi thánh

    Ta thử đọc lại câu chuyện Mô-sê: Hãy cởi dép ra vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh. Dù Môsê đang đứng tại một nơi phàm trần giữa hoang địa, nhưng Chúa bảo ông rằng đó là nơi thánh. Điều gì đã khiến nơi đó thành nơi thánh ? Thưa chính là sự hiện diện của Chúa. Mà Chúa chẳng ngại gì hiện diện giữa nơi phàm trần, nơi mà người giáo dân sống và làm việc. Ta nghe thêm Công Đồng nói: “Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả dệt thành đời sống của họ. Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ, (…) để họ thánh hoá thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình: tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác.”

              Ta nhắc lại những điều đó của Công Đồng, để cho thấy ta được gọi và được gặp Chúa ngay tại nơi ta ở là chốn phàm trần, tại nơi ta làm việc là nơi trần thế. Không cần thắp lên ngọn nến bằng sáp như bà kia khi đến nơi làm việc, nhưng cứ buôn bán lương thiện, chạy xe (ôm, xích lô, taxi, tải…) không ép giá, thi cử không quay cóp, dạy học theo lương tâm, làm các nghề sự nghiệp hành chánh công minh chánh trực… ắt sẽ là những ngọn nến có khi còn sáng hơn ngọn nến sáp kia nhiều, vì được đốt bằng tim gan, xương máu của ta. Làm việc tận tuỵ sao không tiêu hao xương máu được !

              Vậy là bài học một rút từ bài đọc một là ta hãy biến nơi phàm trần ta ở, chốn trần thế ta làm việc trở thành nơi thánh bằng cách để Chúa đến ở với ta.

             

    2. Bài học hai

                Bài học hai rút ra từ bài Tin Mừng. Bài Tin Mừng nhắc đến 2 biến cố đẫm máu, tuy thua xa bom nổ đạn rơi chết người do cuộc xâm lược của Nga tại Ucraina đang diễn ra…, nhưng cũng gây kinh hãi: “Khi ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.”  Vậy là họ bị giết ngay trong khu vực đền thờ, mới có máu chiên bò sát sinh hoà lẫn với máu của người bị giết. Đó là chuyện người ta kể cho Chúa nghe.

    Đáp lại, Chúa kể cho họ nghe chuyện mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Nhà thờ Ngọc Lâm, tỉnh Thái Nguyên sáng 17-1-13 sập mái, chết mấy người, bị thương trên 5 chục. Cũng ghê ! Ta thử theo chân các nhà lịch sử Kinh Thánh để hiểu hơn một chút hai cuộc chết chóc mà Tin Mừng nhắc đến. (2)

    Lúc đó Phi-la-tô, tên rất quen thuộc, vì ta có nhắc đến tên ông này trong kinh Tin Kính, Philatô có một quyết định rất tốt rằng Giê-ru-sa-lem cần có một hệ thống dẫn nước mới và tân tiến hơn. Ông quyết định xây cất hệ thống đó, và để đài thọ cho việc này, ông đề nghị dùng một phần tiền của Đền Thờ. Nghe đến ý tưởng sử dụng tiền của Đền Thờ vào việc không phải đền thờ (trần thế) cũng đủ khiến dân Do-thái cầm vũ khí chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại thì Phi-la-tô cho lính của ông cải trang trà trộn với họ. Lính được lệnh mang gậy thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu, lính xông vào dân chúng và phân tán họ. Việc đó đã diễn ra đúng nhưng vì bọn lính đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh trên, gây thiệt mạng cho một số thường dân người Galilê.

    Còn về phần mười tám người bị tháp Si-lô-ê đổ xuống đè chết, cho đến nay vẫn còn là một sự kiện bí mật. Nhưng có người cho rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước của Phi-la-tô, một công việc mà dân chúng ghét. Vì số tiền công họ lãnh đều là tiền của Chúa và đáng lẽ họ phải tình nguyện trả lại vì tiền đó từ đền thờ, tức là một cách lấy trộm của Chúa. Khi tháp Si-lô-ê đổ xuống trên họ thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm công việc đó, cho nên Chúa phạt nhãn tiền.  Người Do-thái đã nghiêm khắc kết buộc “đau khổ” và “tội lỗi” với nhau. Trước đó rất lâu, Êlipha đã nói với Gióp rằng: "Có ai vô tội mà bị tiêu diệt đâu?" (G 4,7) Đây là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp đã biết rõ. Chúa Giê-su đã bác bỏ thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân. Như người mù thủa mới sinh : “chẳng phải lỗi nó, chẳng phải tội cha mẹ nó.”

    Mà thường những thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều nhất. Thánh vịnh nói: «Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân». Các Ki-tô hữu thời sơ khai, các thánh tử đạo, thường là những người hiền đức nhưng cuộc đời của họ nhiều khi gặp toàn nghịch cảnh, và có khi phải chết một cách thảm thiết. Chẳng hạn rất nhiều Ki-tô hữu bị Nê-rô cho sư tử xé xác và bị thiêu sống tập thể. Chính thánh Tê-rê-xa A-vi-la cũng gặp rất nhiều thử thách, đến nỗi bà phải than với Chúa: «Bây giờ con mới hiểu tại sao Chúa lại quá ít bạn như thế, vì Chúa thường đối xử với bạn thân thiết của Chúa như thế này đây!».

    Cho nên khi nói về hai cuộc chết chóc trên, Chúa Giêsu muốn nói ngay, chẳng phải họ có tội mà họ chết đâu. Chúa Giê-su còn đi xa hơn nữa và nói rằng nếu các thính giả của Ngài không chịu nhìn vào chết chóc đó mà ăn năn thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt.

    Trong thời Chúa Giêsu cũng như thời chúng ta, chúng ta dễ bị cám dỗ giải thích các biến cố cách thiếu bác ái đối với người khác. Biết bao lần người ta đã nghe những lối giải thích bộc phát như sau: Trời phạt nó. Đó là án phạt của Chúa, hoặc chúng ta dẽ lạm dụng kiểu nói “trời có mắt” để biện minh cho ý của chúng ta, để tạo cho mình mối quan tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác.

    Và rồi chúng ta cũng dễ có cám dỗ ngược lại và gán ép cho Chúa những biến cố bất lợi xảy đến cho chính chúng ta: Trời bỏ tôiChúa làm ngơ giả điếc. Ngài trả thù mà... Đôi khi những biến cố đó chỉ là do những nguyên nhân thiên nhiên vô hồn (thời tiết, bệnh truyền nhiễm, tai biến tự nhiên...). Cần phải hết sức thận trọng khi giải thích những gì xảy đến cho ta.

    Người khôn ngoan nhất là người -như Chúa Giêsu dạy- biết lợi dụng tất cả những gì xảy đến để hoán cải không ngừng, để tạ ơn Chúa khi gặp những biến cố may mắn, để xin cho tâm hồn vững mạnh và biết tùng phục ý Chúa khi gặp các biến cố xui xẻo. Như thế lời Kinh thánh sau đây sẽ nên trọn cho chúng ta: “Mọi sự đều góp phần sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa ” (Rm 8,28). Amen.

    Anphong Nguyễn Công Minh

    --------------------------------------------------

    (1) Bài đọc I các Chúa nhật Mùa Chay có một bố trí đặc biệt, không liên quan tới bài Tin Mừng, như các CN Thường Niên.  Nó diễn đạt lại 5 giai đoạn của lịch sử cứu độ,  CN I : Thời nguyên thủy ; CN II : Thời Abraham ; CN III : Thời Mô-sê ; CN IV : Thời Đất Hứa ; CN V : Thời các ngôn sứ.

    (2) theo giải thích trong bài chia sẻ của cha Hàm

     

     

     

 

SỐNG TỈNH THỨC - LM MINH ANH

  • LM MINH ANH


     
     

    KHIÊM TỐN, MÁNG THÔNG ƠN KHÔNG THỂ THIẾU

    “Thật tôi biết, không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel!”.

    Một nhà tu đức nói, “Cánh cửa cuộc đời là cánh cửa của mầu nhiệm; nó trở nên thấp hơn một chút so với người muốn đi qua nó. Chỉ ai biết cúi mình, mới có thể bước qua ngưỡng của nó! ‘Khiêm tốn, máng thông ơn không thể thiếu’, điều kiện để hứng nhận ân huệ của Thiên Chúa!”.

    Kính thưa Anh Chị em,

    Một lần nữa, Lời Chúa hôm nay minh hoạ cho ý tưởng của nhà tu đức trên, “‘Khiêm tốn, máng thông ơn không thể thiếu’, điều kiện để hứng nhận ân huệ của Thiên Chúa!”. Thái độ của tướng quân Naaman trong bài đọc thứ nhất và những người Do Thái thời Chúa Giêsu là một điển hình.

    Thời Êlisê, Naaman, một dũng tướng của Syria; tuy nhiên, cùng với danh vọng, quyền lực và danh dự, ông buộc phải sống trong một hoàn cảnh bi đát: bệnh phong cùi! Bộ giáp của ông, thứ đã giúp ông nổi tiếng, trên thực tế, bao phủ một con người yếu ớt, tổn thương và bệnh tật! Chúng ta thường thấy mâu thuẫn này trong cuộc sống mình; đôi khi, những món quà tuyệt vời lại là tấm giáp che chắn những yếu đuối lớn lao. Naaman phải làm theo lời một đứa trẻ, tìm gặp người của Thiên Chúa; và ông phải khiêm tốn đến hai lần. Gặp một sứ giả ‘tầm thường’, qua một cách thức ‘lạ thường’, bởi một bé gái ‘khác thường’ mà lại được một phép lạ ‘phi thường’. Ông đã thốt lên lời tuyên xưng, “Thật tôi biết, không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel!”. Rõ ràng, ‘khiêm tốn, máng thông ơn không thể thiếu’ đối với Naaman!

    Cũng thế, trong Tin Mừng hôm nay, dân thành Nazareth không thể tin một Đấng Thiên Sai làm thợ mộc, nghèo hèn; vì thế, họ khó chịu với Chúa Giêsu, nhất là khi Ngài cho biết, trong lịch sử, Thiên Chúa từng tỏ ra ưu ái với người ngoại chứ không chỉ với người Do Thái. Họ khó chịu vì đã đặt sự bảo đảm của họ vào di sản và lời hứa của Thiên Chúa qua các tổ phụ; họ nghĩ rằng, vì là Do Thái, nên cách nào đó, Thiên Chúa phải chiếu cố họ hơn những người ngoại. Thiếu khiêm tốn, họ đánh mất ân huệ của Chúa Giêsu; tệ hơn, họ còn muốn xô Ngài xuống vực thẳm!

    Cả chúng ta, chúng ta cũng có thể mắc phải sai lầm này khi quên rằng, ‘khiêm tốn, máng thông ơn không thể thiếu’ của mọi ân phúc! Chúng ta nghĩ, tôi thuộc nhóm này, nhóm kia; hoặc tôi có chức vụ này, chức vụ nọ… nên cách nào đó, Chúa phải quan tâm tôi nhiều hơn, với lắm đặc ân hơn! Đây chẳng phải là nguyên nhân gây ra sự phẫn nộ trong cuộc sống tôi sao? Chúng ta rất khó chịu khi không được ưu đãi. Chúng ta nghĩ rằng, tôi xứng đáng nhận được nhiều hơn thế!

    Anh Chị em,

    “Thật tôi biết, không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel!”; vậy mà, khi Con Thiên Chúa vào trần gian, thì Vị ấy quá nghèo hèn, bé nhỏ đến nỗi chính người Israel không thể chấp nhận được! Thật trái khoáy, chính qua con đường nghèo hèn, Thiên Chúa cứu độ con người! Thật là một chướng ngại quá lớn cho những ai không biết cúi đầu! Cũng thế, nếu chúng ta nghĩ, tôi làm cái này, tôi dâng cái kia… thì Chúa phải đáp ứng điều tôi xin. Không phải thế, Chúa yêu thương và cứu độ chúng ta theo cách của Ngài. Vì thế, cần thiết biết bao, để nhận thức rằng, ‘khiêm tốn, máng thông ơn không thể thiếu’, điều kiện để hứng nhận ân huệ của Ngài! Mùa Chay, mùa lắng lòng để nghe Lời Chúa, ngắm nhìn thật kỹ cách thức hành động của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, Đấng huỷ mình ra không để cứu chúng ta. Mùa Chay, còn là mùa khát khao Giêsu. Thật ý nghĩa với Thánh Vịnh đáp ca, “Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống!”. Chúa Giêsu Hằng Sống đang ước mong chúng ta trở nên khiêm tốn như Ngài; qua đó, chúng ta cũng trở thành những máng thông ơn cho tha nhân!

    Chúng ta có thể cầu nguyện,

    “Lạy Chúa, xin thanh tẩy con khỏi mọi ích kỷ, nhục dục, phù phiếm và kiêu căng; cho con ý thức rằng, ‘khiêm tốn, máng thông ơn không thể thiếu’ trong cuộc đời môn đệ của con!”, Amen.

     

    (Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

    Kính chuyển:

    Hồng

     

    --
    .
     

 

SỐNG TỈNH THỨC - LM MINH ANH - CN3MC-C

 

LM MINH ANH

 

ĐỦ LỚN ĐỂ MẠO HIỂM ĐÁNH CƯỢC

“Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa!”.

Pliny the Elder, nhà văn Rôma cùng thời Chúa Giêsu, viết về việc xây một đài tưởng niệm cao hơn 30m. Hai vạn công nhân sẽ kéo dây và cần cẩu. Trách nhiệm và rủi ro thật lớn! Chỉ một sai sót, tháp sẽ đổ, huỷ hoại hàng năm trời làm việc. Nhà vua ra lệnh trói con trai của người kỹ sư vào đỉnh tháp; vua nghĩ, nó ‘đủ lớn để mạo hiểm đánh cược’ cho trách nhiệm của người kỹ sư!

Kính thưa Anh Chị em,

“Đánh cược”, cũng là một trong những chủ đề của Lời Chúa hôm nay! Ông chủ, người đã mua đất, và tự mình canh tác, xây dựng một vườn nho trước khi giao nó cho tá điền. Khi giao nó cho họ, ông không chỉ đơn giản là tìm lợi nhuận, nhưng còn muốn một người nào đó quản lý vườn nho của ông. Ông đánh giá nó ‘đủ lớn để mạo hiểm đánh cược’ mạng sống của con trai mình!

Thiên Chúa đã thiết lập vườn nho của Ngài là nhà Israel, hình ảnh báo trước của Hội Thánh mà Ngài đang đặt vào tay chúng ta; cùng lúc, Ngài ban Thánh Thần để hướng dẫn, trợ giúp. Ngài không chỉ giao cho chúng ta một công việc để làm, nhưng còn đặt vào tay chúng ta sự cứu rỗi đời đời linh hồn của những người khác một cách bí ẩn! Vườn nho Hội Thánh không đơn giản chỉ là một vật sở hữu; nhưng nó còn là một phần của những môn đệ Chúa Kitô. Nó là thành quả từ mồ hôi và máu của chúng ta khi chúng ta có bổn phận vun xới, chăm sóc và bảo vệ.

Với tất cả tình thương, ông chủ đã dành cho khu vườn nhà mình những gì tốt đẹp nhất. Ông rào dậu bên ngoài, xây bồn ép bên trong, và đặt tháp canh ở giữa. Ông không ở lại để giám sát chặt chẽ các tá điền; thậm chí, không đặt ra các quy tắc hay chỉ định các phương pháp canh tác; ông để các tá điền tự làm công việc khi họ thấy phù hợp. Cũng thế, Thiên Chúa giao vườn nho Hội Thánh cho chúng ta. Ngài biết, làm việc vườn nho của Ngài là một việc vô cùng khó khăn, và Ngài kiên nhẫn với những thất bại của chúng ta. Còn hơn thế, vào mùa thu hoạch, Ngài gửi sứ giả này, sứ giả khác đến và không trở nên giận dữ hay lên án chúng ta khi biết những kẻ Ngài sai đến đã bị ngược đãi. Thay vào đó, Ngài gửi đến Con Một và làm mọi thứ có thể để chống lại chủ nghĩa ích kỷ và truyền cảm hứng bằng sự hiểu biết và lòng thương xót. Lòng nhân ái của Thiên Chúa là vô bờ, nó ‘đủ lớn để mạo hiểm đánh cược’ với tội lỗi con người!

Thật thú vị, bài đọc Sáng Thế hôm nay cũng cho thấy thế nào là tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa, một tình yêu đầy quyền năng, ‘đủ lớn để mạo hiểm đánh cược’ cậu út Giuse, người bị bán sang Ai Cập do lòng dạ xấu xa của những con trai ông Giacóp. Để rồi, chính Giuse, sẽ là người được sai đi trước, chuẩn bị cho việc cứu sống cả một dân tộc. Thánh Vịnh đáp ca xác nhận bí nhiệm này khi nói, “Hãy nhớ lại những kỳ công Chúa thực hiện!”. Giuse chính là hình ảnh báo trước Con Thiên Chúa sẽ cứu sống cả một nhân loại, cứu sống đời đời!

Anh Chị em,

“Ông cho tá điền canh tác”. Chúng ta, những tá điền được giao vườn nho để canh tác. Hội Thánh là của Chúa; các cộng đoàn lớn nhỏ là của Chúa, cũng như thân xác và linh hồn mỗi người là của Chúa! Nó được trao cho chúng ta, dù là một giáo hội địa phương, một cộng đoàn hay một gia đình… thì Thiên Chúa vẫn là chủ, chứ không phải chúng ta. Đúng thế, những gì Ngài trao vào tay chúng ta thật quá vĩ đại; tình yêu và sự tín nhiệm của Ngài dành cho mỗi người ‘đủ lớn để mạo hiểm đánh cược’ với tất cả sự vĩ đại đó. Thiên Chúa đang kỳ vọng vào từng người chúng ta. Vì thế, đừng làm Ngài thất vọng; trái lại, chúng ta hãy cộng tác với ân sủng mà trổ sinh hoa trái thiêng liêng trong chính bản thân và giúp người khác trổ sinh hoa trái!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, sứ mạng xây dựng Giáo Hội của con thật lớn lao; cho con xác tín rằng, sứ mạng đó ‘đủ lớn để con mạo hiểm đánh cược’ cả cuộc sống con, những hy sinh lớn nhỏ của con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Kính chuyển:

Hồng

---------------------------------------