16. Sống Tình Thức

SỐNG TỈNH THỨC- BS NGUYỄN TIẾN CẢNH - BBT CGVN

 

  •  
    BBT CGVN
     
     


    Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới

    Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity  

    (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39)

    www.conggiaovietnam.net       This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

      

     

    Chuyên mục:

    “Huế - Sàigòn – Hànội”

     

    TÌNH TRẠNG NGA XÂM LĂNG UKRAINE

    Bác Sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD.

     

     

     

     

    Kính mời theo dõi video tại đây:

    https://bit.ly/3JcyJEV

     

     

    I* Thành phố “Mẹ Maria” bị biến thành nghĩa địa

    Một vị lãnh đạo Công Giáo ở Ukraine tuyên bố hôm thứ 5 (10-3-22) là thành phố Mariupol mang tên Mẹ Maria đã bị bom đạn của Nga thiêu hủy biến thành một nghĩa địa trong khi họ bao vây.

    Trong một video đưa ra lời tuyên bố được phát đi hôm 10-3-2022, TGM Sviatoslay Shevchuk đã đau thương than khóc về thảm họa “tàn sát tập thể” người dân Ukrania do Nga xâm chiếm Ukraine.

    Ngài nói: “Hôm nay, lương tâm tôi và lương tâm mọi  Kito hữu buộc chúng ta phải lên tiếng nói cho toàn thể thế giới biết, và nói thật lớn tiếng ‘KHÔNG’, để nói lên sự phản đối mãnh liệt chống lại cuộc tàn sát tập thể người dân ở Ukraine”

    “Đặc biệt trong những giờ phút cuối cùng này, chúng tôi đã chứng kiến cuộc tàn sát tập thể tai thành phố Mariupol đang bị bao vây. Thành phố này đã được thiết lập bởi cộng đồng Hy Lạp là Thành Phố của Mẹ Maria’, hiện đang bị biến thành một nghĩa địa chôn cà hàng 10 ngàn người dân.”

    Ngài tiếp tục nói: “Hôm qua chúng tôi đã chứng kiến những quang cảnh kinh hồn: bom nổ đạn rơi vào một bảo sanh viện, cũng như những nấm mồ vĩ đại, những đám tang tập thể, ở đó hàng trăm xác người chết được cho nằm an nghỉ.”

     

     

    “Hôm nay chúng tôi buộc phải lên tiếng cho toàn thể thế giới là: KHỐNG giết! Hãy NGỪNG giết người tập thể ở Ukraine! Thời chế độ Nazy Đức quốc Xã và thời Stalin đàn áp, Ukraine chưa bao giờ thấy cảnh chôn tập thể và mồ tập thể như thế này mà không kinh hãi, khiến người Kito hữu phải cất tiếng cầu xin Thiên Chúa.”

    Văn phòng Nhân Quyền LHQ báo cáo hôm 9-3-2022 là họ đã ghi nhận 1,424 dân thường bị tổn thương ở Ukraine, trong đó 516 người chết và 908 bị thương. Bản báo cáo còn nói là con số thực sự còn “cao hơn thế rất nhiều.”

    Một linh mục thoát khỏi Mariupol là thành phố hải cảng thuộc biển Azov ở phía Đông Nam Ukraine, đã nói với Cơ Quan Bác Ái Công Giáo là thành phố đã trở thành một “hỏa ngục.”

    Linh mục này là Cha Pavlo đã nói: “Mariupol giống như Armageddon. Là một hỏa ngục. Xin mọi người lên tiếng cho thế giới biết: Đây là một thảm cảnh! Súng nổ bất cứ lúc nào. Cứ tự nhiên bắn. Toàn thể thành thành phố là một bãi chiến trường vĩ đại. Bom rơi mọi nơi. Ở đâu bạn cũng nghe thấy tiếng súng nổ. Mariupol là thành phố đang bị quân Nga bao vây. Dân chúng chỉ biết trốn dưới hầm nhà.”

    Dân số Mariupol có chừng 400,000 người.

    TGM Sviatoslay Shevchuk của Mariupol đã tường thuật như sau: “Gần hai tuần nay, thành phố đã bị bao vây hoàn toàn. Dân chúng đang chết vì đói khát, vì lạnh rét. Bom đạn, rocket... rơi xuống đầu họ bất cứ lúc nào.”

    “Hôm nay, chúng ta cần phải nhớ đến họ, và nhân danh họ để nói với lương tâm thế giới. Chúng tôi cầu khẩn van xin quí vị: Hãy mở rộng lòng nhân đạo! Hãy để cho đàn bà, trẻ con và những người già cả cơ hội thoát khỏi cảnh đói rét, khỏi thành phố bị bao vây này. Hãy cho chúng tôi cơ hội để đem thức ăn và thuốc men đến cho họ. Cho chúng tôi cơ hội để cứu người dân.”

    “Nhân danh thành phố Mariupol, hãy để cho chúng tôi cầu khẩn thế giới: Xin hãy cứu bầu trời Ukraine! Xin hãy làm tất cả những gì có thể đóng bầu trời Ukraine lại, để máy bay Nga khí giới bom đạn Nga khỏi đổ xuống đầu dân chúng hiền hòa muốn sống an bình.”  

    Bộ trưởng ngoại giao Vatican Pietro Parolin đã bày tỏ nỗi thất vọng ghê gớm hôm thứ Tư về việc ném bom vào nhà thương ở Mariupol. Ngài nói với phóng viên hôm 9-3-22 tại Rome: “Đây là điều không thể chấp nhận được.”   

    “Không một lý do nào, một thúc đẩy nào có thể khiến hành động như vậy được”.

    Trong khi Tổng Giám Mục thủ đô Belarus (Giáo Quyền) đã yêu cầu người Công Giáo mở tuần cửu nhật cầu nguyện cho hòa bình, Tổng Giám Mục Iosif Staneuski kêu gọi giáo sĩ và giáo dân thuộc tổng giáo phận Minsk-Mohilev làm tuần cửu nhật cầu cùng thánh cả Giuse, quan thầy của Giáo Hội thì Chánh phủ Belarus  do TT Alexander Lukashenko (Chính Quyền) lại liên minh chặt chẽ với Nga Sô.

    Trong một video, Shevchuk yêu cầu các Linh mục và Giám mục của cộng đồng Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp chia sẻ “sự thật về việc giệt chủng dân Ukraine.”

    “Trong tất cả các nhà thờ của chúng tôi, -ngài nói- tôi yêu cầu cử hành nghi thức tưởng nhớ tất cả những người đã nằm xuống và chôn chung một nấm mồ mà không có cầu kinh và tang l Kito giáo.”

     

    II* Cuộc xâm lăng Ukraine của Nga biến thành cuộc chiến chống lại dân lành

    Một vị lãnh đạo Công Giáo hôm thứ sáu đã nói cuộc xâm lăng của Nga vào Ukraine “đã chính thức trở thành cuộc chiến chống lại dân lành hiền hòa và sống an bình”

    Trong một video phát ra hôm 11-3, Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk đã nhấn mạnh đến nỗi đau thương của con trẻ Ukraine vào ngày thứ 16 của cuộc chiến. “Thực tế rất rõ ràng -ngài nói- là cuộc chiến này đang trở thành cuộc chiến chống lại dân thường hiền hòa và an bình.”

    “Theo thống kê chính thức, trong những ngày này số người chết thì dân thường -gồm trẻ em và đàn bà- nhiều hơn là quân lính. Chúng tôi thương tiếc những trẻ em Ukraine là những nạn nhân vô tội của loại chiến tranh này.”

     

     

     

    Văn phòng nhân quyền LHQ ngày 11-3 cho biết từ ngày 24-2 có 1,546 người bị tổn thương ở Ukraine, trong số đó có 564 người chết và 982 bị thương. Bản tin còn cho biết con số chính thức có thể “cao hơn rất nhiều.”

    Vị lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp ở Ukraine đã tuyên bố: “Đa số dân Ukraine tin rằng Ukraine sẽ thắng trận chiến với Nga, là nước có quân đội lớn mạnh hơn nhiều.

    Ngài nói: “Nói với những binh sĩ của chúng tôi mà chúng tôi đang đặc biệt lo lắng, tôi cương quyết chỉ nghe một đòi hỏi này là: Hãy cầu nguyện cho chúng tôi!’”

    “Tôi muốn chuyển đòi hỏi này đến quân đội Ukraine là những người mà số phận của đất nước Ukraine hiện đang nằm trong tay họ, đến tất cả mọi người đang nghe tôi. Xin hãy cầu nguyện! Hãy cầu nguyện cho quân đội Ukraine của chúng tôi hiện đang chiến đấu để bảo vệ hòa bình của Ukraine, của Âu Châu và của toàn thể thế giới.”

    Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk hôm 11-3-22 đã đưa ra một sứ điệp qua video (news.ugcc.ua)

    Nhà lãnh đạo 51 tuổi của Giáo Hội Công Giáo Đông Phương lớn nhất hiệp thông với Roma đã bày tỏ quan ngại về tình trạng ở Slavutych, một thành phố ở phía Bắc Ukraine được thiết lập cho nhân viên được di chuyển từ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl.

    Ngài nói: “Nơi này hiện không có điện. Rất nguy hiểm vì có thể bị phóng xạ từ nhà máy Chernobyl, nhưng vị Linh mục của chúng tôi cùng với vợ đang hoàn toàn bị bao vây, phải ở lại đó với giáo dân.”

    Người Công Giáo Hy Lạp Ukraine đã được phép lập gia đình trước khi chịu chức linh mục.

    Tổng Giám Mục Shevchuk cám ơn các Kito hữu Chính Thống Giáo (orthodox) Tây Âu đã giúp người tỵ nạn Ukraine và yêu cầu các vị lãnh đạo Chính Thống Giáo Nga giúp để ngừng chiến tranh.

    “Tôi cám ơn Công Đồng Thế Giới các Giáo Hội, đã làm tất cả mọi sự để ngăn cản loại chiến tranh này, cũng như Công Đồng Đại Kết thế giới được thiết lập năm 1948.”

    “Tôi cám ơn những người Công Giáo và Tin Lành Pháp, đã có những cố gắng đặc biệt, để làm chấm dứt máu chảy trên đất nước chúng tôi.”

    Tổng Giám Mục Eric de Moulins-Beaufort, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp; Mục Sư Francois Clavairoly, chủ tch Liên Hiệp Tin Lành Pháp, đã gặp vị lãnh đạo Chính Thống Giáo Nga ở Paris ngày 10-3 để trao thư tận tay cho Thương Phụ Giáo Chủ Kirill ở Moscow.

    Kết thúc sứ điệp này, Tổng Giám Mục Shevchuk đã phát biểu: “Chúng ta hãy cầu nguyện cho Ukraine! Hãy là tiếng nói của Ukraine trên khắp thê giới! Chớ gì Lòng Thương Xót của Chúa đổ xuống giúp đỡ cho tan cơn cùng quẫn này!”

     

    III* Các Giám Mục Âu Châu yêu cầu Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Giáo can thiệp để hòa giải những bất đồng ở Ukraine

    Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Âu Châu đã yêu cầu Thượng Phụ Kirill, Giáo Chủ Chính Thống Giáo can thiệp để hòa giải những bất đồng về Ukraine để kiến tạo hòa bình.

    Thưa Đức Thượng Phụ đáng kính: “Trong những lúc đen tối đang bao trùm lên nhân loại cùng với những cảm giác tuyệt vọng và sợ hãi, rất nhiều người nghĩ đến ngài như một nhân vật có thể mang lại một dấu hiệu hy vọng cho giải pháp hòa bình về mối tranh chấp này,” Hồng Y Jean-Claude Hollerich viết trong một bức thư đề ngày 8-3-2022 gửi cho Đức Thượng Phụ của Moscow và toàn nước Nga.

    Đức Giám Mục Hollerich nói: “Chia sẻ những cảm giác lo lắng và áy náy của Đức Thánh Cha Francis đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần về ‘những suối máu và nước mắt’ đang chảy dài trên đất Ukraine, tôi mạo muội xin Đức Thượng Phụ vì tình huynh đệ, hãy đưa ra một yêu cầu khẩn cấp với nhà cầm quyền Nga xin ngừng ngay những hận thù đối với người dân Ukraine và bày tỏ thiện chí tìm một giải pháp chính trị cho sự bất đồng và tranh chấp, dựa trên đối thoại, theo lẽ thường và tôn trọng luật lệ quốc tế, trong khi cho phép một hành lang nhân đạo cũng như không giới hạn trợ giúp nhân đạo.”

    Thượng Phụ Kirill là lãnh đạo của Giáo Hội Chính Thống Giáo Nga, thủ lãnh Giáo Hội Chính Thống Giáo Đông Phương với chng 150 triệu giáo dân, hơn một nửa số Kito hữu Chính Thống Giáo trên thế giới.

     

     

     

    Cac Giám Mục Công Giáo Âu Châu đã khẩn khoản yêu cầu Đức Thượng Phụ tìm kiếm giải pháp để Nga ngừng chiến tranh ở Ukraine gồm có: Các Giám Mục Ái Nhĩ Lan, Tổng Giám Mục Stanislaw Gadecki của Ba Lan, Hồng Y Reinhard Marx của Đức, và bây giờ là Giám Mục Hollerich, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Âu Châu.

    Tổng trưởng ngoại giao của Vatican cũng đã có nhận xét về đáp ứng của Đức Thượng Phụ Kirill về những tranh chấp.

    Hồng Y Pietro Parolin đã nói với báo chí Ý tuần này là những nhận xét của Đức Thượng Phụ Chính Thống Giáo Nga có thể khiến tình trạng căng thẳng trở nên xấu hơn.

    Cuối cùng ở Rome hôm 9-3-22 Hồng Y Parolin đã phát biểu: “Những lời nói của Đức Thượng Phụ Chính Thống Giáo Nga Kirill không lợi mà cũng không thúc đẩy được hiểu biết. Trái lại, còn làm cho tình trạng trở nên trầm trọng, đi đến leo thang chiến tranh và không giải quyết được khủng khoảng một cách hòa bình.”

    Đức Thượng Phụ Kirill đã nói về việc xung khắc trong hai bài giảng gần đây. Bài thứ nhất, ngài biểu lộ tán thành việc phân chia vùng Donbas ở phía Đông Ukraine. Bài thứ hai, ngài kêu gọi dân Nga và dân Ukraine hợp lại thành “một dân tộc”, đồng thời tố cáo Tây Phương yểm trợ khí giới cho Ukraine để làm suy yếu sức mạnh của Nga.

    Hồng Y Parolin hôm 9-3-22 cũng hồ nghi không biết cuộc họp vào mùa hè này -lần thứ hai- có xẩy ra được không như đã thông báo vào tháng 2.

    “Vấn đề quả là rất phức tạp, cũng vì những căng thẳng đã có giữa các Giáo Hội, vì vậy ngay lúc này thì xem ra không có thể,”

     Hồng Y Parolin nói với báo chí như vậy.

    Nói về mt cuộc họp ở bất cứ thời điểm nào trong tương lai, Hồng Y lại nói: “Tình trạng này thì phức tạp. Chúng ta hãy đợi xem.”

    Trong bức thư gửi cho Đức Thượng Phụ Kirill, Giám Mục Hollerich có nói về tuyên bố chung giữa Đức Thượng PhụĐức Giáo Hoàng Francis ký tại buổi họp tại Havana, Cuba năm 2016.

    “Năm 2016, ngài đã tỏ ra ân hận cùng với Đức Thánh Cha Francis về sự thù nghịch ở Ukraine đã gây ra nhiều nạn nhân, làm bị thương biết bao nhiêu là dân lành vô tội, khiến khủng hoảng kinh tế và nhân đạo, đòi hỏi phải có hành động tái thiết hòa bình và tình đoàn kết xã hội. Xin đừng để cho những lời nói uy quyền đó trở thành vô ích”, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Âu Châu nói vậy.

    Ngài cũng nói là các Giám Mục trong Liên Hiệp Âu Châu đã “đau lòng” khi nghe tiếng than khốn khổ của người dân bị kẹt trong làn đạn của loại “chiến tranh điên cuồng tại Ukraine.”

    “Hàng ngàn người -cả quân nhân lẫn dân sự- đã bị mất mạng và hơn cả triệu người đã phải thay đổi chỗ và rời bỏ quê hương, mà đa số là đàn bà và con trẻ khốn khổ.”

    “Vì những cuộc tấn công tàn bạo vào Ukraine, vào người dân của họ mỗi ngày một dữ dội, thì nhu cầu giúp đỡ nhân đạo càng tăng lên từng giờ. Trong khi đó những cố gắng ngoại giao cho đến giờ vẫn không đem lại kết quả. Thêm vào đó, những lời nói và hành động cứ tiếp tục leo thang thì khả năng tranh chấp bất đồng ở Âu Châu và cả thế giới càng mở rộng, đưa tới những hậu quả tàn khốc thì không thể không nghĩ đến được.”

    Fleming Island, Florida - Mar 11, 2022                                                                                                              

    Viết theo tin CNA – 

    NTC - Hẹn gặp lại

     


 

SỐNG TỈNH THỨC - TÀU TITANIC 1912

 

  •  
    Kim Vu CHUYỂN 


    Subject: BÀI HỌC TITANIC: BAO GIỜ NGƯỜI VIỆT LẠI CÓ LÒNG VỊ THA? & QÚA HAY ! THÂM THÚY Và SÂU SẮC
    To:


     
     
     

    BÀI HỌC TITANIC: BAO GIỜ NGƯỜI VIỆT LẠI CÓ LÒNG VỊ THA?

     
     

    Thuyền phó tàu Titanic tiết lộ bí mật vĩ đại giấu kín nửa đời người, phương Tây họ văn minh hơn chúng ta từ rất lâu! Đêm ngày 14/4/1912, một vụ tai nạn kinh hoàng đã xảy ra. Con tàu mang phong hiệu “không thể chìm” có tên Titanic đã đâm sầm vào một tảng băng trôi khổng lồ. Kết quả của vụ va chạm ấy là những con số và nỗi đau mà người ta không bao giờ muốn nhắc lại.

     

    514 người đã thiệt mạng trong vụ đắm tàu kinh hoàng năm ấy. Nỗi đau đã khép lại hơn 100 năm, ngày nay, những gì người ta lưu lại về tên  “Titanic” có thể là: Vụ đắm tàu, thảm họa hàng hải nghiêm trọng nhất mọi thời đại hay mối tình lãng mạn của Jack và Rose, cũng có thể là tình ca bất hủ My Heart Will Go On qua chất giọng cao vút của Celine Dion.

     

    Tuy nhiên, hầu như tất cả đều không nhận ra, đằng sau bức màn đen tối của những nỗi đau và mất mát ấy là một kiệt tác vĩ đại của "Lòng Vị Tha".

     

    Charles Lightoller, khi ấy 38 tuổi, thuyền phó thứ 2 trên con tàu Titanic, ông là người cuối cùng được kéo lên trên thuyền cứu hộ, cũng là người còn sống sót có chức vị cao nhất trên thuyền lúc đó.

     

    Trở về từ cõi chết, sau rất nhiều năm giấu kín và im lặng, cuối cùng Charles quyết định viết 17 trang hồi ức, kể lại chi tiết vụ tai nạn kinh hoàng mà ông chứng kiến. Từng câu từng chữ của ông chưa bao giờ sống động và dồn dập đến vậy. “Chỉ cần tôi còn sống, tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng đêm đó!”

     

    “Phụ nữ và trẻ em lên trước!”

     

    Khi mệnh lệnh vừa vang lên, nhiều người rời thuyền cứu hộ, họ lặng lẽ bước ra phía sau châm điếu thuốc và hút. Charles không thấy bất kỳ một phụ nữ hay trẻ em có ý định bỏ lại những người đàn ông thân yêu của họ. Tất cả mọi người dường như rất bình tĩnh… trước cái chết… dù đó là một thương nhân nổi tiếng hay người hầu.

     

    Khi chiếc thuyền cứu hộ đầu tiên được đưa xuống mặt nước, Charles đã hỏi một người phụ nữ họ Straw khi ấy đang ở trên boong tàu rằng: “Bà có muốn tôi đưa bà lên thuyền cứu hộ không?”

     

    Người phụ nữ lắc đầu: “Không, tôi nghĩ vẫn là ở lại trên tàu thì tốt hơn”. Người chồng của bà hỏi: “Tại sao em lại không muốn đi lên thuyền cứu hộ?” Người phụ nữ mỉm cười trả lời: “Không, em vẫn muốn ở bên cạnh anh”. Cũng kể từ đây, Charles không bao giờ còn gặp lại đôi vợ chồng này lần nữa.

     

    Astor đệ tứ (John Jacob Astor IV), một nhà kinh doanh, nhà phát minh, nhà văn nổi tiếng và là một trong những người giàu nhất thế giới lúc bấy giờ. Sau khi đưa người vợ mang thai 5 tháng tuổi lên thuyền cứu hộ, một tay dắt chó, tay còn lại châm điếu xì gà rồi hét to về phía chiếc thuyền cứu hộ đang trôi dần về nơi xa: “Anh yêu hai mẹ con”.

     

    Thuyền phó I đã ra mệnh lệnh cho Astor đệ tứ lên thuyền, nhưng ông kiên quyết trả lời rằng: “Tôi thích cách nói cơ bản nhất (bảo vệ phái yếu)!”. Sau đó, ông nhường chỗ của mình cho một người phụ nữ ở khoang hạng 3.

     

    Vài ngày sau, khi bình minh vươn lên trên mặt biển Đại Tây Dương, đội cứu hộ tìm thấy thi thể ông trong tình trạng đầu bị chấn thương nghiêm trọng do đập vào ống khói. Khối tài sản của ông đủ để chế tạo 10 con tàu Titanic, nhưng Astor đệ tứ đã từ chối tất cả. Ông chọn cái chết để bảo vệ người thân yêu của mình, bảo vệ “phụ nữ và trẻ em” và bảo vệ nhân cách của mình.

     

     

    Ben Guggenheim, một nhà tỷ phú, một nhân vật nổi tiếng trong ngành ngân hàng. Trong giờ phút nguy nan nhất, khi tất cả mọi người đang hối hả và vội vã, ông thản nhiên thay một bộ vest dạ hội sang trọng và tuyên bố: “Tôi phải chết thật trịnh trọng, như một quý ông”.

     

    Trong lời nhắn ông gửi cho vợ viết: “Trên con tàu này, không có bất kỳ một phụ nữ nào vì anh cướp chỗ trên thuyền cứu hộ mà bị bỏ lại trên boong tàu. Anh sẽ không chết giống như một tên khốn, anh sẽ giống như một người đàn ông chân chính”.

     

    Một thủy thủ đề nghị với Strauss, nhà sáng lập công ty bách hóa Macy của Mỹ, cũng là người giàu thứ hai thế giới rằng: “Tôi bảo đảm sẽ không ai phản đối một người già như ngài bước lên thuyền cứu hộ đâu”. Strauss nói: “Tôi sẽ không đi khi những người đàn ông khác còn đang ở lại”. Khi ông cố gắng khuyên giải bà Rosalie vợ của mình lên thuyền cứu hộ thì bà vẫn một mực từ chối. Bà nói: “Bao nhiêu năm qua, anh đi đâu là em theo đến đó, em sẽ cùng anh đi đến bất cứ nơi nào mà anh muốn đi”.

     

    Sau đó, ông choàng lấy cánh tay của bà Rosalie, thong thả bước đến chiếc ghế trên boong tàu, ngồi xuống và chờ đợi giây phút cuối cùng của cuộc đời. Ngày nay, tại Bronx thành phố New York, người ta xây một tượng đài để tưởng niệm vợ chồng ông Strauss, trên đó khắc hàng chữ: “Tình yêu không thể nào nhấn chìm dù có nhiều nước biển hơn nữa”.

     

    Một doanh nhân người Pháp tên Nahuatl đưa hai cậu con trai của mình lên thuyền cứu hộ, nhờ một vài người phụ nữ chăm sóc cho chúng, và mình thì từ chối lên thuyền. Sau khi hai đứa con trai được cứu sống, báo chí khắp nơi trên thế giới đều rầm rộ đăng hình ảnh của hai đứa trẻ này, cho đến khi mẹ của chúng từ hình ảnh nhận ra được chúng.

     

    Trong giờ phút nguy kịch, Lydepas ôm chặt lấy người chồng mới cưới, không muốn thoát chết một mình... Vì bất đắc dĩ, chồng Lydepas phải đấm cô ngất xỉu, khi cô tỉnh lại thì đã thấy mình trên một chiếc thuyền cứu hộ đang trôi lênh đênh ngoài biển. Về sau, Lydepas cả đời không tái giá, sống độc thân để hoài niệm người chồng đã mất của mình.

     

    Trong buổi họp mặt những người may mắn sống sót tại Lausanne nước Thụy Sĩ, bà Smith kể lại: “Lúc đó hai đứa con của tôi được bế lên thuyền cứu hộ. Vì quá tải nên tôi không thể lên thuyền nữa, một người phụ nữ ngồi trên thuyền cứu hộ khi ấy đã đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi, rồi đẩy tôi lên và hét lớn với tôi một câu: "Ngồi đi, những đứa trẻ không thể thiếu mẹ!”. Bà hối tiếc vì lúc đó đã không hỏi tên người phụ nữ đó.

     

    Những người thiệt mạng trong vụ tai nạn này còn có tỷ phú Acid, nhà báo nổi tiếng Stead, Thiếu tá pháo binh Bart, kỹ sư Robble nổi tiếng v.v... Họ nhường chỗ của mình trên thuyền cứu hộ, cho những phụ nữ nông dân không một đồng trên người.

     

    Hơn 50 nhân viên cấp cao trên tàu Titanic, ngoài thuyền phó thứ hai Charles Lightoller chỉ huy cứu hộ may mắn sống sót, toàn bộ đều hết mình cứu người đến chết trong cương vị của mình.

     

    Khoảng 2h sáng nhân viên điện báo số 1 John Philip nhận được mệnh lệnh bỏ tàu của thuyền trưởng, mọi người tự mình cứu mình, nhưng ông vẫn ngồi trong phòng thông báo, vẫn giữ tư thế phát tín hiệu SOS liên tục cho đến phút cuối cùng.

     

    Khi đuôi tàu bắt đầu chìm xuống nước, Charles nghe thấy vào khoảnh khắc cuối cùng, khoảnh khắc của sinh ly tử biệt, những lời yêu thương vang lên: “I love you! I love you!”

     

    Trong bức màn đêm đen tối nhuốm đẫm đau khổ và chia ly, tinh thần quý tộc nổi lên như ngọn đuốc rực sáng, khắc họa nên một tuyệt tác vĩ đại về nhân cách và đạo đức con người. Giáo dục lối sống không chỉ là lý thuyết; mà trong những hoàn cảnh thực tế, những bài học đạo đức ăn sâu vào tâm thức trở thành kim chỉ nam cho hành động của mỗi người.

     

    Phụ nữ và trẻ em, những con người yếu đuối cần được tôn trọng và ưu tiên. Những người đàn ông lịch lãm không chỉ là kẻ nói lời hoa mỹ và tử tế trên bàn tiệc; mà ngay cả khi đối diện với thực tế rằng dù ngày mai tất cả đều trở thành vô nghĩa thì bài học về đạo đức và nhân cách hôm nay vẫn cần được thực hành một cách tuyệt đối.

     

    Nhân sinh như cõi mộng, dù cho người đó giàu có bao nhiêu hay nghèo kém cỡ nào, đứng trước sinh tử cũng đều chỉ là một sinh mệnh bé nhỏ. Quan trọng hơn, khi ấy người ta mới thật sự nhận ra điều quan trọng nhất của cuộc đời: Không phải vật chất, không phải quyền danh càng không phải nhận lại điều gì cho mình mà là cho người khác, là vị tha.

     

    Vị tha hàm chứa một sức mạnh vô tỉ, đã biến những con người xấu số trong cơn “bão biển” kinh hoàng năm ấy trở thành biểu tượng vĩ đại của tấm lòng thiện lương cao cả.

     

    Ps: những câu chuyện thế này theo các bạn có nên đưa vào sách giáo khoa không?

     

     Hoàng Nguyên Vũ

     
    ================================================================

    NHỮNG CÂU TRẢ LỜI THÂM THÚY VỀ NHÂN SINH
    Nhân sinh là một hành trình không ngắn không dài, vừa đủ cho chúng ta
    học tập trưởng thành, nhưng có một số điều không phải ai cũng thấu
    hiểu.

    HỎI:
    1. Vật gì sắc bén nhất?
    2. Nơi nào xa nhất?
    3. Cái gì lớn nhất?
    4. Cái gì khó và nặng nhất?
    5. Cái gì nhẹ nhất?
    6. Cái gì gần với chúng ta nhất?
    7. Cái gì dễ làm nhất?
    8. Chiến thắng nào gian lao và khó thành công nhất?

    1. Vật gì sắc bén nhất?
    Đó là lưỡi của con người. Lưỡi sắc như dao, lời nói như dao đâm có thể
    xuyên thẳng vào tim làm tổn thương người khác.
    Người Do Thái nói: “Thứ tốt nhất trong thiên hạ là miệng lưỡi, mà thứ
    xấu xa nhất cũng chính là miệng lưỡi”.
    Lời nói tốt đẹp có thể động viên an ủi người khác. Ngược lại, lời nói
    độc ác xấu xa có thể khiến người khác đau khổ tuyệt vọng; thậm chí là
    muốn tìm đến cái chết. Vậy nên nhất định phải kiểm soát thật tốt cái
    miệng của mình.

    2. Nơi nào xa nhất?
    Đó là quá khứ. Cho dù bạn là ai, giàu có cỡ nào, quyền cao chức trọng
    ra sao thì cũng không thể quay trở về quá khứ.
    Vậy nên làm người chớ để lại quá nhiều hối tiếc. Hãy cố gắng làm tốt
    nhất những gì có thể ở giây phút hiện tại.
    Nhiều người thất bại cũng bởi hai chữ ‘đợi chờ’. Đợi chờ thời cơ thích
    hợp, đợi chờ tương lai tốt đẹp. Nhưng cơ hội chỉ đến một lần và không
    thể quay trở lại nữa.

    3. Cái gì lớn nhất?
    Đó là ham muốn. Dục vọng của con người là vô tận, không có điểm dừng;
    nếu không tìm cách kìm hãm nó lại, thì thật là hậu quả khôn lường.
    Người hạnh phúc không phải là có được nhiều bao nhiêu mà là trong tâm
    luôn biết đủ. Cổ nhân nói “biết đủ thường vui”, đừng để vật ngoại thân
    chi phối tâm trí của bạn.
    Hạn chế ham muốn thì tinh thần mới thăng hoa, tấm lòng mới rộng mở.
    Hãy để lòng bao dung của bạn lớn dần, chứ đừng để dục vọng vây kín
    thân.

    4. Cái gì khó và nặng nhất?
    Đó là lời hứa. Lời hứa dễ nói mà khó làm. Lời hứa nặng tựa ngàn cân,
    đã hứa rồi là phải có trách nhiệm đi thực hiện lời hứa.
    Người biết giữ chữ tín thì lại càng cẩn trọng với lời hứa của mình. Vì
    chỉ cần một lần thất hứa thì bao uy tín gây dựng trước đó coi như đổ
    sông đổ bể.
    “Người nói thì thầm, Trời nghe như sấm”, “trên đầu ba thước có Thần
    linh”, lời hứa không thể tùy tiện nói ra; đã nói ra thì chính là sợi
    dây ràng buộc lấy số phận; nếu không thực hiện thì có thể bị trời
    trách phạt.

    5. Cái gì nhẹ nhất?
    Đó là sự khiêm nhường. Không ai muốn tranh đấu với một người khiêm
    nhường cả. Khiêm nhường khiến lòng nhẹ thênh thang, mỗi bước đi là mỗi
    bước thanh nhàn.
    Xung đột, mâu thuẫn đa phần cũng vì người ta muốn thể hiện cái tôi của
    mình. Nếu chỉ cần một người có thể khiêm nhường thì chuyện gì cũng có
    thể hóa giải nhẹ nhàng.
    Người càng khiêm nhường lại càng được nhiều người yêu mến, ai cũng
    muốn gần gũi bầu bạn.

    6. Cái gì gần với chúng ta nhất?
    Đó là cái chết. Cuộc sống vô thường, sống nay chết mai không ai nói
    trước được điều gì.
    Có người nói rằng: “Hãy sống như thể hôm nay là ngày cuối cùng”. Có lẽ
    như vậy thì bạn mới biết trân quý thời gian và trân quý cuộc sống.
    Người ta sợ chết đa phần cũng vì vẫn còn nhiều điều tiếc nuối. Vì vậy
    hãy sống hết mình và trọn vẹn từng phút giây, để cho bất kể điều gì
    xảy ra thì cũng có thể vui vẻ đón nhận.

    7. Cái gì dễ làm nhất?
    Đó là làm người khác đau buồn. Chỉ cần một lời nói vô tâm, một cử chỉ
    thiếu tế nhị, bạn cũng có thể khiến cho đối phương suy nghĩ đau buồn
    mãi không thôi.
    Lời nói vô tình mà người nghe hữu ý, mỗi người đều có hoàn cảnh sống
    và tư tưởng khác nhau, vì vậy không thể ăn nói và hành động quá tùy
    tiện.
    Cũng không nên lấy lý do thẳng tính mà làm tổn thương người khác, chân
    thật nhưng cũng cần phải có thiện lương.

    8. Chiến thắng nào gian lao và khó thành công nhất?
    Chiến thắng CHÍNH MÌNH...

    Những câu trả lời ngắn gọn, thâm thúy ở trên hy vọng đã giúp bạn thêm
    thấu hiểu nhân sinh muôn màu.

    Tổng hợp


                LỜI  DẠY VỀ THỜI GIAN

    NGHIỆP BÁO
    Khi con chim còn sống, nó ăn kiến.
    Khi chim chết, kiến ăn nó.
    Thời gian và hoàn cảnh có thể thay đổi bất cứ lúc nào,
    Vì vậy, đừng nhục mạ, đừng làm khổ bất cứ ai trong đời sống này.
    Bạn có thế đầy quyền lực ngày hôm nay,
    Nhưng đừng quên rằng,
    Thời gian còn nhiều quyền lực hơn bạn.
    Một cây có thể làm được hàng triệu que diêm,
    Nhưng một que diêm cũng có thể thiêu hủy được hàng triệu cây.
    Hãy là người tốt và làm những điều tốt.
    Thử nghĩ mà xem  Thượng Đế cấu tạo cơ thể con người một cách rất hợp lý,
    Nhưng sao chúng ta lại không xử dụng nó theo đúng ý của Ngài:

    [[[[

    1-Ngài đặt hai mắt chúng ta ở đằng trước, vì
    Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng
    ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau.

    2-Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía,
    cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một
    phía hoặc
     
    --
    NGUYENG
     

 

SỐNG TỈNH THỨC - LM MINH ANH

  •  
    LM MINH ANH
     


     
     

    NỖ LỰC CHO SỰ THÁNH THIỆN

    “Suốt bốn mươi ngày, Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa và chịu quỷ cám dỗ”.

    Nói về cám dỗ, C. S. Lewis nhận xét, “Sẽ rất ngớ ngẩn khi nói, những người tốt không biết cám dỗ là gì! Đó là một lời nói dối. Chỉ ai cố gắng chống lại cám dỗ, người ấy mới biết nó mạnh thế nào… Chúa Giêsu, người duy nhất không bao giờ khuất phục cám dỗ, người duy nhất biết cám dỗ có nghĩa là gì. Vì thế, Ngài nâng đỡ tất cả mọi ‘nỗ lực cho sự thánh thiện’ của bất cứ ai!”.  

    Kính thưa Anh Chị em,

    “Chúa Giêsu, người duy nhất biết cám dỗ có nghĩa là gì!”. Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay chứng tỏ nhận định sâu sắc của Lewis. Qua đó, chúng ta khám phá một thực tế thú vị, rằng, với Satan, khi chúng ta tầm thường, không có ‘nguy cơ’ trở thành thánh, vốn sẽ làm hỏng kế hoạch của nó… thì nó không quan tâm. Nhưng một khi chúng ta bắt đầu ‘nỗ lực cho sự thánh thiện’, nó sẽ đặt đủ chướng ngại và chúng ta sẽ phải đối mặt với mọi loại hình cám dỗ.

    Một chi tiết khá bất ngờ trong các Tin Mừng là, những lần duy nhất Chúa Giêsu bị cám dỗ là những lần Ngài đang cầu nguyện hoặc ăn chay hãm mình. Chính khi Ngài tịnh tâm, khổ chế như Tin Mừng hôm nay cho biết; hoặc khi Ngài tâm sự với Chúa Cha trong vườn Cây Dầu đêm thứ Năm Tuần Thánh, thì ma quỷ tấn công. Một kịch bản tương tự cũng thường xuất hiện với chúng ta! Khi chúng ta quyết định làm một điều lành, thì rất nhanh chóng, công việc trở nên khó khăn, ‘một ai đó’ đã cản trở. Rõ ràng, ma quỷ sợ chúng ta thành thánh! Nó giăng mắc cạm bẫy; và quyết đánh bại chúng ta cho đến khi nào chúng ta bỏ đi ‘nỗ lực cho sự thánh thiện’ của mình.

    Vậy tại sao Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, lại ở trong sa mạc, chịu đau khổ và bị cám dỗ? Tại sao Chúa Cha lại cho phép điều này xảy ra? Hơn thế nữa, Tin Mừng nói, Chúa Thánh Thần đã đưa Ngài vào sa mạc! Đâu là lý do? Lý do duy nhất là tình yêu! Ngài biết đã là con người thì phải chịu cám dỗ. Ngài chia sẻ phận người với chúng ta; và quan trọng hơn, Ngài chỉ cho chúng ta cách để chiến thắng. Ngài yêu thương chúng ta đến mức sẵn sàng cam chịu mọi đau khổ để có thể nhìn thẳng chúng ta và nói, “Vâng, Ta hiểu những gì con đang trải qua... Ta thực sự hiểu!”. Đây là tình yêu, một tình yêu sâu đậm đến nỗi Ngài sẵn sàng trải qua những yếu đuối và đau đớn của con người để có thể gặp con người ở đó; Ngài an ủi chúng ta giữa những gì chúng ta đang trải qua và nhẹ nâng chúng ta ra khỏi đó. Đau khổ của Ngài có một mục đích, một ý định. Và ý định, là trải nghiệm và nắm lấy những gì chúng ta đang nếm trải; Ngài phải nắm lấy!

    Chiến thắng cám dỗ, Chúa Giêsu trở nên sức mạnh và nguồn cảm hứng cho chúng ta. Vào một ngày, chúng ta có thể cảm thấy sự cô đơn và cô lập của một người bị đẩy vào sa mạc tội lỗi; cảm thấy mình như một con thú hoang dã giữa những đam mê ngổn ngang; như thể Satan, tên xấu xa, đang chung đường với mình… Phải, Chúa Giêsu cũng cảm thấy như vậy, và Ngài cho phép mình trải nghiệm điều này trong nhân tính để có thể cứu thoát và nâng đỡ những ‘nỗ lực cho sự thánh thiện’ của mỗi người. Điều quan trọng, là mỗi người biết tựa nương vào một mình Ngài. Thật thâm trầm lời Thánh Kinh qua thư Rôma hôm nay, “Ai tin vào Ngài, sẽ không phải hổ thẹn”; Thánh Vịnh đáp ca cũng một tâm tình, “Lạy Chúa, lúc ngặt nghèo, xin Chúa ở kề bên!”.

    Anh Chị em,

    “Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa và chịu quỷ cám dỗ”, “Chúa Giêsu là người duy nhất biết cám dỗ có nghĩa là gì!”, là tình yêu và cứu độ! Cũng thế, chúng ta không thể không bị cám dỗ, nhưng chúng ta sẽ mặc cho nó một giá trị và ý nghĩa khi chiến thắng nó, đó là điều Lời Chúa muốn dạy chúng ta. Noi gương Chúa Giêsu, hãy vào sa mạc lòng mình; nơi đó, Ngài đợi tôi, Ngài có thể gặp tôi bên trong sa mạc của tôi. Ngài ở đó, tìm kiếm tôi, gọi cho tôi; Ngài ở đó, giữa mọi thứ mà tôi có thể sẽ trải qua. Chính Ngài, Đấng đã đánh bại cám dỗ của sa mạc này, sẽ nhẹ nhàng dìu dắt tôi ra khỏi đó, đem tôi về cung lòng yêu thương của Cha. Ngài đã chinh phục sa mạc một lần và mãi mãi, Ngài cũng có thể chinh phục bất kỳ sa mạc nào trong đời tôi, hầu chấp cánh cho tôi trong mọi ‘nỗ lực cho sự thánh thiện’ của mình.

    Chúng ta có thể cầu nguyện,

    “Lạy Chúa, Chúa yêu con đến mức trải nghiệm mọi đau khổ kể cả chước cám dỗ. Xin giúp con luôn ‘nỗ lực cho sự thánh thiện’ của mình với bất cứ giá nào, khi chỉ cậy trông vào Chúa”, Amen.

    (Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

    Kính chuyển:

    Hồng

     



     

SỐNG TỈNH THỨC - BÌNH THƯỜNG MỚI MÙA CHAY

  •  
    Chi Tran CHUYỂN

     
     
     
     
     



    "BÌNH THƯỜNG MỚI"

    TRONG MÙA CHAY CỦA NGƯỜI KITO HỮU

     

    Kể từ khi đại dịch Covid-19 xảy ra cách đây hơn hai năm, người ta bắt đầu nói nhiều đến cụm từ “Bình thường mới”, cả ngoài đời lẫn trong đạo. Khi đề cập đến trạng thái bình thường mới, người ta muốn nhấn mạnh đến việc làm mới lại những cái bình thường cũ nhằm thích nghi với hoàn cảnh mới bằng những cái bình thường mới.
     

    binh-thuong-moi.jpg

     

    Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì trạng thái bình thường mới là một thuật ngữ được sử dụng trong kinh doanh để đề cập tới tình hình kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008, đại suy thoái và đại dịch COVID-19. Từ đó, thuật ngữ cũng được sử dụng rộng rãi để nói đến một thứ bất thường nhưng lại trở nên bình thường sau đó. Riêng trong đại dịch COVID-19, cụm từ Trạng thái bình thường mới được dùng để đề cập tới sự thay đổi hành vi con người sau đại dịch.[1]

     

    Nhiều người đã giải thích rằng, Bình thường mới hiểu đơn giản là những điều khác với những cái cũ. Có thể là những điểm mà trước đây mọi người cho là bất bình thường thì nó sẽ trở nên bình thường. Hoặc cũng có thể là những điều mà trước đây, chúng ta đang phấn đấu để thực hiện thì nay, điều kiện mới bắt buộc chúng ta phải thực hiện nó nhanh hơn, vì nếu không thực hiện, sẽ không thể tồn tại trong thời đại mới. Dịch bệnh đã thay đổi về cấu trúc xã hội. Thay đổi này giống như một thời kỳ mới, không phải thay đổi nhất thời. Bình thường mới không phải cái gì cao xa, mà nó là những gì diễn ra xung quanh, từ chính trị ngoại giao, an ninh quốc phòng, kinh tế xã hội, đời sống sản xuất, cách thức tiêu dùng, cách thức sống, y tế, giáo dục… làm sao để thích ứng và phát triển. Khi mình xác định được các yếu tố, sẽ có cách ứng phó.

     

    Kể từ khi dịch bệnh Covid xảy ra, toàn bộ con người, xã hội phải triệt để thay đổi từ bình thường cũ sang bình thường mới, làm sao để thích ứng và phát triển hài hòa. Trước hết, ta thử bàn về thực trạng bình thường mới trong bối cảnh Covid như thế nào.

     

    Thực trạng “Bình thường mới” trong bối cảnh dịch Covid-19

    Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, ta rất dễ hình dung thế nào là bình thường cũ và thế nào là bình thường mới. Sau thời gian hơn một năm xảy ra dịch bệnh Covid (tháng 12/2019), người ta đã phải làm quen với một số trạng thái bình thường mới theo nhận định của một tác giả như sau:

     

    - Việc đeo khẩu trang có thể là bắt buộc khi hoạt động cộng đồng: Đi học, đi chợ, đi du lịch, người trên phương tiện giao thông công cộng, khi gặp gỡ giao lưu với người khác trong một thời gian nhất định (3 tháng, 6 tháng, 1 năm hoặc lâu hơn).

     

    - Người từ các nước đang có dịch hay lây nhiễm Covid- 19 đến Việt Nam phải được thử có virus hay không và cách ly 14 ngày nếu có dấu hiệu đáng nghi ngờ lây nhiễm. Ngay lúc xuống máy bay, rời xe lửa, ô tô có thể phải được thử (xác xuất hoặc tập trung vào một số đối tượng hoặc một thời gian nhất định).

     

    - Khi phát hiện có người bị dương tính với Covid- 19 thì người đó và tất cả những người tiếp xúc (F1, F2, F3) phải được cách ly triệt để, ít nhất 14 ngày.

     

    - Khoảng cách giữa người với người trong các hoạt động thường xuyên (sản xuất, nhà hàng, nhà hát, lớp học, tàu xe…) phải được quy định, có mức tối thiểu.

     

    - Quy mô một số hoạt động đông người bị giới hạn trong một thời gian nhất định (sự kiện văn hóa, thể thao, mitting, du lịch, hội họp…)

     

    - Thường xuyên phải rửa tay sát khuẩn, xe, phương tiện giao thông được sát khuẩn định kỳ. [2]

     

    Chúng ta biết rằng, năm 2021 mọi người phải vật lộn với đại dịch Covid kinh hoàng. Sau khi đã có hàng chục ngàn người phải vĩnh viễn ra đi vì không thể chống chọi với con virus corona quái ác, cả xã hội bắt đầu thức tỉnh. Phải thay đổi hay là chết, đó là thông điệp khẩn nhắc nhở về thái độ sống theo những yêu cầu và đòi hỏi mới. Ngoài thực hành 5K (Khẩu trang-Khử khuẩn- Khoảng cách-Không tụ tập-Khai báo y tế), mọi người hối hả đi tiêm ngừa, nhiều lần trong thời gian thích hợp, đồng thời bắt đầu làm quen với hình thức “trực tuyến” trong nhiều sinh hoạt của đời sống như hội họp, hội nghị, học hành, buôn bán kinh doanh, giao tiếp, thậm chí cả trong những sinh hoạt tôn giáo như thánh lễ trực tuyến, cầu nguyện trực tuyến, tĩnh tâm trực tuyến, dạy và học giáo lý trực tuyến vv.

     

    Như vậy, bình thường mới đòi hỏi chúng ta phải thức tỉnh và thay đổi.

     

    Trong bài viết có tựa đề “Bình thường mới” đăng trên trang web của HĐGMVN ngày 25-9-2021, linh mục Phê-rô Vũ Văn Hài đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi “Bình thường mới có gì mới?” như sau:

     

    Chỉ cần lướt qua các trang báo chính thống, chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều những bài viết, những nhận định về tình trạng xã hội “bình thường mới” mà nhiều người đang mong chờ hiện nay. Lẽ dĩ nhiên “bình thường mới” không phải là “bình thường cũ”. Chúng ta có thể tóm tắt tình trạng này trong một số điểm “mới” sau đây:

     

    - Ý thức trách nhiệm với bản thân và cộng đồng: Hơn lúc nào hết, sự liên đới trong cộng đồng nhân loại lại cần được mỗi cá nhân quan tâm thực hiện như thời điểm hiện nay. 

     

    - Khả năng “tự lực cánh sinh”: Dịch bệnh không chừa một ai, “không có vùng cấm” nào cả. Ai cũng có thể là “F0” và ai cũng phải đối diện với nguy cơ nghèo đói và bệnh tật. Vì thế cần phải biết tự bảo vệ mình, tự chăm sóc cho mình… phải biết vượt qua thái độ ỷ lại, dựa dẫm!

     

    - Tập những kỹ năng cần thiết: tập thói quen tuân thủ 5K, sống lành mạnh, quý trọng môi trường sinh thái và bầu khí quyển, siêng vệ sinh nhà cửa, năng tập thể dục, sắp xếp không gian nhà cửa cho thoáng mát tiện ích…

     

    - Có khả năng thích ứng với thay đổi trong xã hội : thanh toán điện tử, chuyển khoản bằng nhiều hình thức khác nhau (trả thẻ, e-banking, ví điện tử…) thay vì chỉ sử dụng tiền mặt, học hành - trao đổi - làm việc trực tuyến…

     

    - Trở về với mái ấm gia đình: ý thức tình thân và sự liên đới trong gia đình được chú trọng trở lại. Nhiều người có nhiều thời gian sống và chăm sóc nhau trong một mái nhà. Nhiều người cảm nhận và trân quý tương quan yêu thương gắn kết giữa các thành viên trong một gia đình.

     

    Thực ra những điều vừa được nói tới trên đây chẳng hề “mới”, nhưng vì chúng đã bị “quên” do sự tự cao tự đại của con người, nên thiếu khả năng sử dụng “những cái cũ, mới trong kho mình” (Mt 13,52).[3]

     

    Như vậy, dịch Covid đã thức tỉnh Ki-tô hữu chúng ta đừng bao giờ quên canh tân đời sống, trái lại hãy luôn thực hành bình thường mới trong đời sống đức tin của mình. Đó cũng là ý nghĩa của việc hoán cải Ki-tô giáo.

     

    “Lạy Chúa, xin ban cho con một trái tim trong sạch!” (Tv 50,12). Đó là lời nguyện cầu của vua Đavít. Đó cũng là tâm tình của mỗi chúng ta mỗi khi Mùa Chay về. Trái tim sạch là trái tim được canh tân. Nếu không đổi mới từ tâm can, Mùa Chay sẽ trở thành vô nghĩa. Thiên Chúa đang chờ đợi và sẵn sàng ban cho chúng ta một trái tim mới, thay thế trái tim đã già cỗi và chai đá. Khi mang một trái tim được canh tân, chúng ta sẽ thấy cuộc đời này đẹp đẽ và đáng yêu hơn.[4]

     

    “Bình thường mới” trong mùa Chay của người Ki-tô hữu

    Chúng ta biết rằng, trong mùa dịch Covid, đời sống đức tin và những thực hành đạo đức thường ngày của Ki-tô hữu chúng ta thay đổi khá nhiều. Thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh thực tế và nhất là để chúng ta trở vào nội tâm, lắng nghe tiếng Chúa nhắc bảo chúng ta về việc sống đạo trong trạng thái bình thường mới. Nhìn lại, chúng ta có thể rút ra một số bài học thông qua nội dung Bí quyết 5K thiêng liêng, đó là:

     

    Kiếm tìm: Nhận ra được Thánh Ý Chúa qua các dấu chỉ thời đại.

    Không sợ: Giữ tâm trí luôn bình an và tin tưởng luôn có Chúa bên ta.

    Kết nối: Sống tình bác ái, nâng đỡ và cùng nhau vượt qua thử thách.

    Kiên vững: Luôn tin cậy và phó thác vào Chúa ngay cả trong lúc khó khăn nhất.

    Kinh nguyện: Năng kết hiệp với Chúa ngay cả khi không thể đến nhà thờ.

     

    Hơn lúc nào hết, trong mùa Chay thánh này, chúng ta hãy tỉnh thức và sẵn sàng thực hành bình thường mới trong ba việc đạo đức chính thống, đó là ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái.

     

    “Bình thường mới” trong ăn chay

    Ngay khi bước vào mùa Chay, trong ngày thứ Tư Lễ Tro, Hội thánh mời gọi chúng ta giữ chay, kiêng thịt theo truyền thống và theo luật buộc. Tuy nhiên, nói về “Ăn chay, kiêng thịt” trong mùa Chay, có lẽ phần đông chúng ta chỉ lưu tâm tới hình thức do luật định hơn là tập trung vào nội tâm để thực hành hoán cải theo tinh thần Tin Mừng Ki-tô giáo.

     

    Trước hết, ta hãy tìm hiểu về việc chay tịnh. Chay là kiêng; tịnh là sạch sẽ. Chay tịnh là kiêng khem để giữ mình thanh sạch. Chay tịnh là giữ gìn thân xác và tâm hồn trong sạch bằng cách tuân giữ các giới luật tôn giáo và tiết giảm ăn uống. Chay tịnh là một hình thức sám hối, thực hành việc khổ chế để tưởng nhớ Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su Ki-tô, bằng cách hạn chế việc ăn uống và việc thụ hưởng các nhu cầu khác. Chay tịnh cùng với cầu nguyện và bố thí là ba việc đạo đức được khuyến khích (x. Mt 6, 1-18). Chay tịnh gồm hai hình thức: Giữ chay và Kiêng thịt.[5]

     

    Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2022, ĐTC Phan-xi-cô đã nhắn nhủ:

    Đừng quản ngại từ nan khi nhổ bỏ cái ác ra khỏi cuộc sống của chúng ta. Ước mong việc chay tịnh phần xác mà Mùa Chay kêu gọi, làm tinh thần chúng ta thêm vững mạnh để chiến đấu chống trả tội lỗi. 

     

    Đừng quản ngại từ nan khi cầu xin ơn tha thứ trong Bí tích Sám hối và Hòa giải, vì biết rằng Thiên Chúa chẳng bao giờ mệt mỏi khi tha thứ.

     

    Đừng quản ngại từ nan khi chống lại dục vọng. Đây chính là điểm yếu dẫn đến tính ích kỷ và tất cả mọi thói xấu, và theo suốt dòng lịch sử, với những cách thức khác nhau đã mê hoặc con người khiến họ đắm chìm trong tội (x. Fratelli Tutti, số 166). Một trong các thói xấu này là chứng nghiện phương tiện truyền thông kỹ thuật số. Thói tật trên làm cho các mối tương quan của con người hóa ra nghèo nàn. Mùa Chay là thời gian thuận lợi để chống lại những loại cám dỗ này và thay vào đó là vun đắp một hình thức giao tiếp trọn vẹn tình người hơn (x. Fratelli Tutti, số 43), vốn được tạo thành từ “những cuộc gặp gỡ đích thực” (Fratelli Tutti, số 50), trực tiếp mặt đối mặt.”[6]

     

    Vậy đã rõ, khi thực hành bình thường mới trong chay tịnh, chúng ta không loại bỏ hình thức và những đòi hỏi của luật, nhưng đi xa hơn, chúng ta tập trung vào nội tâm và thái độ sao cho phù hợp với Lời Chúa và với Tin Mừng Ki-tô giáo. Ngày nay, nhiều người Công giáo chúng ta còn nói đến những hình thức “Chay” khác, ngoài “Ăn chay”, chẳng hạn như nói chay, nghĩ chay, làm chay, viết chay, đi chay vv.

     

    Trong Thư Mục vụ mùa Chay 2022, ĐTGM TGP Saigon Giu-se Nguyễn Năng đã chia sẻ như sau:

    “Khi tình hình dịch bệnh ngày càng trầm trọng, nhất là trong những ngày giãn cách xã hội, mọi sinh hoạt không cần thiết đã phải dừng lại. Các dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí, liên hoan, nhà hàng… đều ngưng hoạt động. Việc làm, công ty, tự do đi lại, thậm chí cả người thân yêu… , chúng ta đã buông bỏ tất cả, có thể là bất đắc dĩ, để chỉ tập trung vào cái chính yếu. Điều quan trọng lúc đó là mạng sống, là sức khỏe. Để sống, để an toàn, để có tương lai, chúng ta đã tiết chế và buông bỏ. Những thói quen hay lối sống hằng ngày tưởng chừng như không thể bỏ được, trong đại dịch chúng ta đã thay đổi được.

     

    “Trong Mùa Chay, chúng ta hãy tiếp tục kinh nghiệm buông bỏ này. Chúng ta cầu xin Chúa cho đại dịch qua đi, không phải để trở lại với lối sống cũ, nhưng để bắt đầu hành trình mới theo Chúa Giêsu trên con đường tiến tới sự sống vĩnh cửu. Để có được sự sống cao hơn, càng phải buông bỏ nhiều hơn, sống tiết độ hơn. Trong lối sống hiện đại, nhân đức tiết độ đã bị quên lãng: lúc nào người ta cũng muốn thỏa mãn tối đa mọi nhu cầu, mọi ham muốn, lúc nào cũng bị các thèm khát thúc bách mà không bao giờ thấy no đủ, nên rốt cuộc con người bị lạc hướng và không thể vươn lên tầm cao được. Chúa mời gọi các môn đệ buông bỏ chính mình, sống tiết độ, làm chủ những ham muốn lệch lạc, để nhờ đó tiến tới cuộc sống cao cả hơn của một người làm con Thiên Chúa, sự sống của Đức Kitô phục sinh.”[7]

     

    Bình thường mới trong ăn chay là như vậy. Một trái tim được đổi mới. Một tinh thần được canh tân. Một thái độ được điều chỉnh. Một lối sống được thanh luyện. Tất cả hướng tới một mục tiêu cuối cùng, đó là “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thực sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).

     

    “Bình thường mới” trong cầu nguyện

    Song song với việc bình thường mới trong ăn chay/ giữ chay, chúng ta hãy chú tâm tới việc cầu nguyện, đặc biệt trong mùa Chay thánh này. Trong đời sống đạo của mình, có thể chúng ta thích đọc kinh nhiều hơn là cầu nguyện, có thể chúng ta cầu nguyện theo cảm tính, theo ngẫu hứng hơn là việc đạo đức liên tục thường xuyên với lòng tin đầy tràn và đức mến dồi dào.

     

    Thực vậy, phần đông Ki-tô hữu chúng ta coi việc cầu nguyện như một việc đạo đức tùy hứng, tùy hoàn cảnh, tùy tâm trạng... và sự cầu nguyện của chúng ta thường chỉ tập trung vào việc “xin xỏ” là chính! Mặt khác, chúng ta lại đồng hoá “đọc kinh” với “cầu nguyện”. Thực ra đọc kinh là một cách cầu nguyện, nhưng có nhiều người đọc kinh mà không cầu nguyện vì chỉ đọc một cách máy móc mà không đạt được sự hiệp thông với Thiên Chúa. Trong một ngày, có thể chúng ta đọc nhiều kinh, nhưng lại ít cầu nguyện. Có thể khi cầu nguyện chúng ta quy hướng về mình nhiều hơn là hướng tâm hồn lên với Chúa, ca tụng Chúa, kết hợp với Chúa hoặc cầu cho tha nhân...

     

    Chúng ta xác tín rằng, “Cầu nguyện là hiệp thông. Trong Tân Ước, cầu nguyện là sự hiệp thông của con cái với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sống đời cầu nguyện là luôn hiện diện trước nhan Thiên Chúa và hiệp thông với Ngài. Lời cầu nguyện mang đặc tính Kitô giáo khi được hiệp thông với lời cầu nguyện của Đức Kitô, và được triển khai trong Hội thánh là Nhiệm Thể Người. Nâng tâm hồn lên là nâng sự hiểu biết từ việc đặt mình làm trọng tâm đến mức đặt Thiên Chúa làm trọng tâm. Nâng tâm hồn lên là kết hợp với Thiên Chúa, là hiệp thông với Ngài.”[8]

     

    Như vậy, việc cầu nguyện của người Ki-tô hữu không dừng lại như những việc đạo đức lẻ tẻ, nhất thời, mà đó là một đời sống đích thực. Lúc đó việc cầu nguyện bao trùm, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống chúng ta. Nó chính là sự sống và hơi thở của ta vậy. Đức Cố Hồng y Phan-xi-cô xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận đã viết như sau: “Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Ki-tô hữu là cầu nguyện. Ai không cầu nguyện, dù có làm phép lạ, con cũng đừng tin” (Sách Đường Hy Vọng, đề mục Cầu Nguyện). Thánh An-phong-sô cũng đã nói như sau: “Sự giàu có của ta là cầu nguyện và ngày nào không cầu nguyện là ngày vất bỏ. Bỏ cầu nguyện là tự dìm mình vào hoả ngục”.

     

    Ngoài ra, để thực hiện bình thường mới trong cầu nguyện, chúng ta hãy lưu tâm đến thái độ cần có và tâm tình đúng đắn khi cầu nguyện.

     

    Hơn ai hết, chính Chúa Giê-su đã nói và làm gương cho chúng ta về những thái độ và tâm tình cần có khi cầu nguyện. Trước hết, Ngài thúc giục các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không nản chí (x. Lc 18,1-8). Khi cầu nguyện, tránh thái độ giả dối, phô trương. Tốt nhất là vào nơi kín đáo để cầu nguyện (x. Mt 6, 5-6). Khi cầu nguyện, các môn đệ của Chúa cũng đừng bắt chước dân ngoại, họ lải nhải vì họ nghĩ rằng cứ nói nhiều là được nhận lời (x. Mt 6, 7). Một điểm đặc biệt khác mà Chúa muốn nhắc nhở các môn đệ, đó là khi cầu nguyện, phải tuyệt đối vâng theo thánh ý Chúa. Ngài phán, “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21).

     

    Hội thánh cũng đã dạy rằng, “Khi cầu nguyện, chúng ta bắt đầu với tâm tình nào? Với lòng kiêu hãnh và ý riêng ta, hay với tâm tình khiêm nhường và thống hối ‘thẳm sâu’? (Tv 130,14); ‘Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên’ (x. Lc 18,14). Khiêm nhường là tâm tình căn bản của cầu nguyện, ‘vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải’ (Rm 8,26). Khiêm nhường là tâm tình phải có để đón nhận được ơn cầu nguyện: trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là kẻ van xin. ” (x. GLHTCG số 2559).

     

    Bên cạnh đó, thánh Phao-lô cũng nhắc nhở tín hữu phải cầu nguyện luôn với tâm tình vui mừng cảm tạ. Ngài viết: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1Tx 16-18). Riêng thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su thì tâm sự rằng, “Đối với tôi, cầu nguyện là sự hứng khởi của tâm hồn, là cái nhìn đơn sơ hướng về trời, là lời kinh tri ân và yêu mến giữa cơn thử thách cũng như lúc hân hoan ” (Sách Tự Truyện).

     

    Thực vậy, “Khi cầu nguyện, chúng ta không những chỉ xin ơn, mà đến cùng Thiên Chúa như con thảo để tỏ lòng biết ơn Cha nhân lành vì muôn hồng ân Người đã ban. Đồng thời vui hưởng tình yêu của Chúa Ba Ngôi dành cho chúng ta và cùng Đức Mẹ, các Thánh và các tín hữu khác chia sẻ tình yêu ấy. Thực ra xin ơn không cần thiết bằng đạt được sự hiệp thông này, vì một khi hiệp thông như thế, chúng ta được tất cả những gì tốt đẹp nhất mà Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta”[9]

     

    Như vậy, việc cầu nguyện của chúng ta trong mùa Chay thánh này cũng như trong suốt cuộc đời của mình sẽ không dừng lại ở việc đọc kinh theo thói quen, trái lại sẽ phải được canh tân, đổi mới và đi vào chiều sâu nội tâm của chúng ta.  

     

    Đức Thánh Cha Phan-xi-cô trong bài lễ ngày thứ Tư Lễ Tro 02-3-2022 đã chia sẻ như sau:

    “Cầu nguyện, cầu nguyện khiêm nhường, cầu nguyện “nơi kín đáo” (Mt 6, 6), trong phòng của chúng ta, trở thành bí quyết làm cho cuộc sống của chúng ta thăng hoa ở mọi nơi khác. Cầu nguyện là một cuộc đối thoại, ấm áp trong tình cảm và sự tin cậy, là điều an ủi và mở rộng tâm hồn chúng ta.

     

    “Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy cầu nguyện trên hết bằng cách nhìn lên Chúa chịu đóng đinh. Chúng ta hãy mở rộng trái tim mình để đón nhận sự dịu dàng đầy cảm động của Thiên Chúa, và trong những vết thương của Người, hãy đặt những vết thương của chính chúng ta và của thế giới chúng ta. Chúng ta đừng lúc nào cũng vội vàng nhưng hãy tìm thời gian để đứng trong thinh lặng trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Chúng ta hãy khám phá lại sự hiệu quả và đơn giản của cuộc đối thoại chân thành với Chúa. Vì Thiên Chúa không quan tâm đến vẻ bề ngoài. Thay vào đó, Ngài thích được tìm thấy nơi kín đáo, là “bí mật của tình yêu”, tránh xa mọi sự phô trương và ồn ào.”[10]

     

    “Bình thường mới” trong làm việc bác ái

    Trước nay, trong mùa Chay, Hội thánh luôn nhắc nhở chúng ta ngoài việc giữ chay và cầu nguyện, mọi Ki-tô hữu còn cần quan tâm tới việc thực thi bác ái nữa. Việc bác ái trong mùa Chay giống như những bông hoa tươi thắm chúng ta dâng lên Chúa và trao tặng cho anh em.

     

    Một bài báo trên trang web cgvdt.vn ngày 02-3-2022 có tựa “Cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái”, có đoạn viết như sau: Khởi đầu thư mùa Chay gởi Dân Chúa giáo phận Bắc Ninh, Ðức cha Cosma Hoàng Văn Ðạt cũng hồi tưởng giai đoạn đại dịch bùng phát mạnh mẽ. Chính lúc ấy, bà con giáo dân đã sống bác ái, liên đới, chia sẻ yêu thương. Mùa Chay đang diễn ra khi cơn dịch chưa dập tắt hẳn, nhân loại phải sống chung với dịch. Ðây cũng là cơ hội để tín hữu cảm nghiệm: 

     

    “Chúng ta tiếp tục bước vào Mùa Chay thứ ba trong lúc đại dịch vẫn còn diễn biến phức tạp; số người dương tính với SARS-CoV-2 tiếp tục gia tăng. Việc tham dự sinh hoạt đức tin tại không ít xứ họ bị gián đoạn. Thế nhưng, nhìn vào mục đích chính yếu của Mùa Chay, các tín hữu lại nhận thấy đây là cơ hội, nhất là đối với anh chị em nhiễm bệnh thì thời gian cách ly điều trị lại là quãng thời gian tĩnh tâm quý báu cũng như sống đức tin qua việc đọc kinh, cầu nguyện hay dự lễ trực tuyến. Ðối với những người chưa nhiễm bệnh, dịch bệnh lại là lời mời gọi để thực thi bác ái thông qua việc cầu nguyện cũng như quan tâm, giúp đỡ và chia sẻ khó khăn với người nhiễm bệnh. Anh chị em giáo dân ở nhiều nơi đã chủ động tiếp tế lương thực, thuốc men cho các gia đình có người cách ly. Nhiều xứ họ ở miền quê, bà con giáo dân đã giúp đỡ công việc hàng ngày cho các gia đình đang bị nhiễm bệnh. Trong hoàn cảnh khó khăn vì dịch bệnh cũng giúp chúng ta nhận ra thánh ý Chúa và làm cho những sinh hoạt đức tin trở nên sống động giống với hình ảnh đời sống đức tin Giáo hội thời tiên khởi”.[11]

     

    Chúng ta biết rằng, tại VN, trong đại dịch Covid-19 vừa qua, rất nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân đã tình nguyện dấn thân phục vụ các bệnh nhân Covid trong bệnh viện và những cá nhân, gia đình rơi tình cảnh cơ cực do nhiễm virus corona. Từng đoàn tình nguyện viên từ các giáo phận, giáo xứ, dòng tu, cộng đoàn…khăn gói lên đường đi vào vùng dịch mà không chút quản ngại khó khăn, nguy hiểm. Thực tế đã có nhiều tu sĩ nam nữ và giáo dân bị nhiễm virus do việc sống chung với bệnh nhân covid và không ít trong số họ đã phải hy sinh mạng sống mình.  

     

    Cũng có nhiều trường hợp khác, các linh mục chính xứ phó xứ cùng với giáo dân đã lăn xả vào các khu vực nguy hiểm để trợ giúp các gia đình gặp khó khăn vì bị cách ly. Có linh mục hằng ngày phải vượt cả mấy chục cây số để chuyên chở lương thực, thực phẩm về cho dân. Cũng có linh mục đứng ra điều hành các nhóm tự nguyện bất chấp ngày đêm, mưa nắng, đem các nhu yếu phẩm giúp đỡ cá nhân, gia đình đang trong tình cảnh thiếu thốn, khổ sở vì dịch.

     

    Thông thường các cá nhân hay cộng đoàn Ki-tô vẫn thực hiện nhiều hoạt động từ thiện khắp nơi và cho nhiều nhóm đối tượng khác nhau, nhưng từ khi dịch bệnh Covid xảy ra, những công cuộc bác ái đã vượt giới hạn của bình thường cũ để mở ra chiều kích mới, khiến cho công cuộc từ thiện trở nên một sinh hoạt đức tin đầy sống động và ý nghĩa.

     

    ĐTC Phan-xi-cô trong sứ điệp mùa Chay 2022 đã nhắn nhủ tín hữu:

    Đừng quản ngại từ nan khi tích cực làm các việc bác ái đối với những người thân cận. Trong suốt Mùa Chay này, chúng ta hãy vui vẻ thực hành bố thí (x. 2 Cr 9, 7). Thiên Chúa là “Ðấng đã cung cấp giống cho kẻ gieo, và bánh nuôi mình cho họ” (2 Cr 9, 10), ban cho mỗi người chúng ta không chỉ có lương thực để ăn, mà còn để quảng đại làm điều tốt cho người khác. Dù đúng là chúng ta có cả cuộc đời để gieo vãi sự tốt lành, nhưng chúng ta hãy đặc biệt tận dụng Mùa Chay này để quan tâm đến những người thân cận với chúng ta, để làm cho những anh chị em đang bị tổn thương trên đường đời trở thành những người thân cận với chúng ta (x. Lc 10, 25-37).

     

    “Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để tìm gặp, chứ không phải để lảng tránh những người thiếu thốn; để tiếp cận, chứ không phớt lờ những người muốn được lắng nghe và cần một lời nói tử tế; để thăm viếng, chứ không bỏ rơi những người cô đơn. Chúng ta hãy thực hành lời mời gọi làm điều tốt lành với tất cả mọi người, dành thời gian để yêu thương những người nghèo hèn và yếu đuối, những người bị bỏ rơi và khinh miệt, những người bị kỳ thị và bị gạt ra bên lề xã hội (x. Fratelli Tutti, số 193)./.[12]

     

    Aug. Trần Cao Khả

     
     

SỐNG TỈNH THỨC - SỪ ĐIỆP MÙA CHAY

  •  
    DM Tran
     

    SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2013

    Của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI

    Trần Mỹ Duyệt chuyển ngữ

     

    “Tin vào đức bác ái mời gọi lòng nhân ái”

     

    “Chúng ta biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta” (1 Jn 4:16)

    Anh chị em thân mến,

    Cử hành mùa Chay, trong bối cảnh của Năm Đức Tin, cho chúng ta một cơ hội quí báu để suy niệm về mối tương quan giữa đức tin và đức mến: giữa việc tin vào Thiên Chúa – Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô – và tình yêu, chính là hoa trái của Chúa Thánh Thần và để hướng dẫn chúng ta trên con đường tận hiến cho Thiên Chúa và người khác.

    1.Đức tin như lời đáp trả với tình yêu của Thiên Chúa 

    Trong Thông Điệp đầu tiên của tôi, tôi đã đưa ra một số tư tưởng về mối liên hệ chặt chẽ giữa những nhân đức đối thần của đức tin và đức mến. Khởi đi từ xác tính vững vàng của Thánh Gioan: “Chúng ta biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta”  (1 Jn 4:16), Tôi nhận ra rằng “là người Kitô hữu không phải là kết quả của một lựa chọn đạo đức hoặc một ý tưởng cao cả, nhưng là gặp gỡ với một biến cố, một con người, mà nó đem lại đời sống một chân trời mới và một hướng dẫn quyết định… Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (cf. 1 Jn 4:10), tình yêu  giờ đây không chỉ còn là một ‘lệnh truyền’; nó là một đáp trả đối với quà tặng tình yêu, với nó Thiên Chúa đến gần với chúng ta” ((Deus Caritas Est, 1). Đức tin là đòi hỏi cá nhân – nó liên quan tới tất cả những căn bản của chúng ta – đối với việc mặc khải tình yêu ‘thương xót’ và ‘bao dung’ đối với chúng ta, được mặc khải một cách đầy đủ trong Chúa Giêsu Kitô. Sự giao tiếp với Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu giao ước không chỉ bằng trái tim nhưng còn bằng trí phán đoán: “Thừa nhận Thiên Chúa hằng sống là con đường dẫn tới tình yêu, và sự “chấp nhận” của lý trí chúng ta với ý muốn của Ngài kết hợp trí phán đoán của chúng ta, ý chí và tình cảm trong một hành động ôm choàng của tình yêu. Nhưng tiến trình này luôn luôn có cái kết mở rộng; tình yêu không bao giớ ‘chấm dứt’ và hoàn tất” (ibid., 17)).

    Từ đó, đối với tất cả mọi Kitô hữu, và một cách đặc biệt cho “những người xây dựng bác ái”, có một nhu cầu của đức tin, vì “sự gặp gỡ với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu thức tỉnh tình yêu của họ và mở tâm hồn của họ cho người khác. Kết quả là, tình yêu của người cận thân không còn là một lệnh truyền bắt buộc đối với họ, để có thể nói, từ bên ngoài, nhưng một kết quả khởi đi từ đức tin của họ, một đức tin trở thành hành động qua tình yêu (ibid., 31a). Các Kitô hữu là những người đã được chinh phục bởi tình yêu của Chúa Kitô và theo đó, dưới ảnh hưởng của tình yêu ấy -  “Caritas Christi urget nos” ( 2 Cor 5:14) - họ mở rộng một cách không giới hạn cho tình yêu người cận thân của họ trong những phương thức cụ thể (cf. ibid., 33). Thái độ này xảy ra trước hết từ nhận thức được yêu, được tha thứ, và ngay cả được phục vụ bởi Chúa, Đấng đã cúi mình rửa chân cho các Tông Đồ và hiến mình trên Thánh Giá để lôi kéo nhân loại vào trong tình yêu của Thiên Chúa.   

     “Đức nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã ban Con Ngài cho chúng ta và cho chúng ta sự chiến thắng tỏ tường là điều rất thật: Thiên Chúa là tình yêu!... Đức tin, nhìn thấy tình yêu của Thiên Chúa được tỏ hiện trong trái tim bị đâm thâu của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, đem lại sự trổi dậy để yêu thương. Tình yêu là ánh sáng – và cuối cùng, chỉ có ánh sáng – là có thể luôn luôn chiếu soi một thế giới tối tăm bao trùm, và cho chúng ta can đảm cần thiết để tiếp tục sống và hành động” (ibid., 39). Tất cả đều giúp chúng ta hiểu rằng dấu hiệu phân biệt chính của người Kitô hữu một cách chính xác “tình yêu bén rễ trong và hình thành bằng đức tin” (ibid., 7).  

    2. Bác ái là đời sống trong đức tin

    Toàn bộ đời sống Kitô hữu là lời đáp trả đối với tình yêu của Thiên Chúa. Lời đáp trả đầu tiên một cách rõ ràng là đức tin khi nó được đón nhận, tràn đầy với lòng biết ơn và kỳ diệu, của sự khởi động thần linh chưa từng nghe thấy trước chúng ta và mời gọi chúng ta. Và việc “đó nhận” của đức tin ghi khắc bước khởi đầu một câu truyện chói sáng của  tình bạn hữu với Chúa, mà nó đổ đầy và ban cho chúng ta ý nghĩa đầy đủ cho toàn bộ đời sống. Nhưng không phải Ngài chỉ yêu một mình chúng ta, Ngài còn muốn lôi kéo chúng ta về với Ngài, để biến đổi chúng ta trong một cách thức đặc biệt khi đem chúng ta lại để nói như Thánh Phaolô: “không phải tôi sống, nhưng Chúa Kitô sống trong tôi” (cf. Gal 2:20).   

    Khi chúng ta có chỗ cho tình yêu của Thiên Chúa, rồi khi chúng ta trở nên giống như Ngài, chia sẻ trong đức mến của Ngài. Nếu chúng ta mở rộng tâm hồn cho tình yêu của Ngài, chúng ta để Ngài sống trong chúng ta và đem chúng ta tới tình yêu với Ngài, trong Ngài, và như Ngài; chỉ khi đó đức tin chúng ta trở nên rõ ràng “hành động qua tình yêu” (Gal 5:6), và cũng chỉ khi đó, Ngài mới sống trong chúng ta (cf. 1 Jn 4:12).

    Đức tin là nhận biết sự thật và bám trụ vào đó (cf. 1 Tim 2:4); đức mến là “bước đi” trong sự thật (cf. Eph 4:15). Qua đức tin chúng ta bước vào mối thân tình với Chúa, qua đức mến tình thân này sống động và sinh hoa trái (cf. Jn 15:14ff). Đức tin khiến chúng ta ôm lấy mệnh lệnh của Chúa và Thầy của chúng ta; đức mến cho chúng ta hạnh phúc khi đem nó vào hành động (cf. Jn 13:13-17). Trong đức tin chúng ta được sinh ra như những người con của Thiên Chúa (cf. Jn 1:12ff); đức mến khiến chúng ta bền lòng một cách vững vàng trong tình con thánh thiêng của chúng ta, mang lại hoa trái của Chúa Thánh Thần (cf. Gal 5:22). Đức tin khiến chúng ta có thể nhận ra những ân huệ mà sự tốt lành và Thiên Chúa rộng rãi ban cho chúng ta; đức mến làm chúng trở nên hoa trái (cf. Mt 25:14-30).

    3.Mối liên kết vững bền của đức tin và đức mến

    Trong ánh sáng ở trên, thật rõ ràng rằng chúng ta không bao giờ có thể phân rẽ, để mỗi bên đối nghịch nhau giữa đức tin và đức mến. Hai nhân đức đối thần này được liên kết một cách sâu xa, và nó là điều sai lạc khi đặt vào vị trí đối nghịch hoặc “tranh chấp” giữa hai nhân đức này. Một cách khác, như nhấn mạnh tính cách ưu tiên và quyết định của đức tin, hạ giá và khinh rẻ hầu hết những công việc chính xác của đức mến, giảm giá chúng với chủ nghĩa nhân đạo mơ hồ. Mặt khác nữa, đó là không công bằng khi quá nhấn mạnh giá trị tiên quyết của đức mến và hành động nó mang lại, như những việc làm có thể thay thế cho đức tin. Đối với một đời sống tinh thần lành mạnh, điều cần thiết là loại bỏ cả hai chủ thuyết cho rằng sự hiểu biết phải dựa trên đức tin (fideism) và thành quả do hành động (activism).

    Đời sống Kitô hữu bao gồm trong mức độ tiếp tục lên núi để gặp Thiên Chúa và rồi trở xuống, mang theo tình yêu và sức mạnh kín múc từ Ngài, để khi phục vụ anh chị em chúng ta với tình yêu của Thiên Chúa. Trong Sách Thánh, chúng ta nhìn thấy sự sốt sắng thế nào của các Tông Đồ để loan truyền Phúc Âm và đánh thức đức tin của mọi người liên kết một cách chặt chẽ mối quan tâm bác ái của các ngài để được phục vụ cho người nghèo (cf. Acts 6:1-4). Trong Giáo Hội, suy niệm và hành động, biểu hiện hóa trong một cách bằng những hình ảnh Phúc Âm của Maria và Martha, đã cùng hiện hữu và kiện toàn lẫn nhau (cf. Lk 10:38-42). Mối liên hệ với Thiên Chúa luôn luôn phải là ưu tiên, và bất cứ những chia sẻ chính đáng nào, theo tinh thần Phúc Âm, phải được bén rễ trong đức tin (cf. General Audience, 25 April 2012) . Trong thực tế, đôi khi chúng ta làm giảm giá từ ngữ “đức mến” đối với một hành động giúp đỡ có tính cách xã hội hoặc đơn thuần nhân bản. Tuy nhiên, điều quan trọng là nhớ rằng việc làm lớn lao nhất của bác ái là phúc âm hóa, đó là “mục vụ bằng lời”. Không có hành động nào lợi ích hơn – và vì thế bác ái hơn – cho người cận thân hơn bẻ bánh lời Chúa, chia sẻ với họ Tin Mừng của Phúc Âm, giới thiệu với họ mối thân tình với Thiên Chúa: phúc âm hóa là việc làm thăng hoa cao cả nhất và mối thân tình nhất của con người. Như Tôi Tớ Chúa, Giáo Hoàng Phaolô VI đã viết trong Thông Điệp  Populorum Progressio, lời rao giảng của Chúa Kitô là sự cống hiến trước hết và chính yếu để mở mang (cf. n.16). Nó là sự thật đầu tiên của tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, được sống và rao giảng, điều này mở đời sống chúng ta để đón nhận tình yêu này và có thể mở rộng tương quan của con người và mỗi người (cf. Caritas in Veritate, 8).  

    Một cách căn bản, mọi tiến trình từ Tình Yêu và quy hướng tới Tình Yêu. Tình yêu nhưng không của Thiên Chúa được biết đến trong chúng ta qua việc công bố của Tin Mừng. Nếu chúng ta đón nhận nó với đức tin, chúng ta tiếp nhận trước hết và mối liên kết cần thiết với Thiên Chúa, có khả năng làm chúng ta “yêu với Tình Yêu”, và rồi chúng ta sống trong Tình Yêu này, chúng ta lớn lên trong nó và chúng ta rao truyền một cách vui mừng nó cho những người khác.

    Liên quan đến mối liên kết giữa đức tin và những việc làm của đức mến, có một đoạn trong Thư gửi giáo dân Êphêsô đã nói đến một hình ảnh tốt nhất nối kết giữa cả hai: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa;cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (2:8-10). Nó có thể nhìn thấy ở đây toàn bộ sáng kiến cứu độ đến từ Thiên Chúa, từ ân sủng của Ngài, từ sự tha thứ của Ngài nhận được bởi đức tin; nhưng sáng kiến này, vượt xa khỏi giới hạn tự do của chúng ta và sự đáp trả của chúng ta, là những gì làm chúng chắc chắn và hướng chúng tới những việc làm của bác ái. Đó không phải là kết quả đều tiên của nỗ lực con người, mà con người có thể hãnh diện, nhưng chúng sinh ra từ đức tin theo sau những ân huệ của Thiên Chúa ban cho một cách dư thừa. Đức tin mà không có việc làm cũng như cây không sinh hoa trái: cả hai nhân đức bao hàm lẫn nhau. Mùa Chay mời gọi chúng ta, qua những thực hành truyền thống của đời sống người Kitô hữu để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta bằng cách cẩn thận và lắng nghe lời Thiên Chúa và bằng việc lãnh nhận các bí tích, và cùng lúc lớn lên trong đức mến và trong tình yêu đối với Thiên Chúa và cận thân, không được quên sót những thực hành chính của chay tịnh, thống hối và bố thí.

    4.Ưu tiên của đức tin, tiên quyết của đức mến

    Giống như bất cứ ân huệ nào của Thiên Chúa, đức tin và đức mến có nguồn gốc trong hành động của nó cùng một Thánh Thần (cf.1 Cor 13), Chúa Thánh Thần ở trong chúng ta để kêu lên “Aba, Cha” (Gal 4:6), và làm cho chúng ta nói lên: “Giêsu là Chúa!” (1 Cor 12:3) và “Lạy Chúa. Xin hãy đến!” (1 Cor 16:22; Rev 22:20).

    Đức tin, như hồng ân và việc đáp trả, cho chúng ta hiểu biết sự thật về Chúa Kitô như Tình Yêu hóa thân và chịu đóng đinh, khi hoàn toàn và tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha và với lòng xót thương vô biên đối với cận thân; đức tin ươm mầm vào trái tim và trí khôn sự xác tín vững vàng rằng chỉ có duy nhất Tình Yêu này có thể chiến thắng tử thần và sự chết. Đức tin mời gọi chúng ta hướng về tương lai với đức cậy, trong niềm hy vọng vững vàng rằng chiến thắng của tình yêu của Chúa Kitô sẽ đến và kiện toàn của nó. Đối với hy vọng này, đức mến thúc đẩy chúng ta vào trong tình yêu của Thiên Chúa được tỏa sáng trong Chúa Kitô, và nối kết chúng ta trong một cá nhân và đường lối hiện tại tới  hành động tự hiến vô điều kiện và hoàn toàn của Chúa Giêsu cho Chúa Cha và anh chị em của Ngài. Bằng cách đổ đầy tâm hồn chúng ta với tình yêu của Ngài, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên những người chia sẻ trong sự tận hiến của người con nơi Chúa Giêsu cho Thiên Chúa và sự tận hiến huynh đệ cho mỗi người chúng ta (cf. Rom. 5:5).     

    Sự liên kết giữa hai nhân đức này giống như giữa hai bí tích căn bản của Giáo Hội: Bí Tích Thánh Tẩy và Bí Tích Thánh Thể. Bí Tích Thánh Tẩy (sacramentum fidei) có trước Bí Tích Thánh Thể (sacramentum caritatis), nhưng theo thứ tự, Phép Thánh Thể làm đầy đủ cuộc hành trình Kitô hữu. Cũng một cách thế, đức tin đứng trước đức mến, nhưng đức tin chính xác thực khi nó được đội triều thiên bằng đức mến. Tất cả bắt nguồn từ việc đón nhận khiêm tốn của đức tin (“biết rằng con người được Thiên Chúa yêu thương”), nhưng để tiến tới sự thật của đức bác mến (“biết rằng yêu Thiên Chúa và tha nhân như thế nào”), điều này tồn tại mãi mãi, như sự viên mãn của tất cả mọi nhân đức (cf. 1 Cor 13:13).    

    Anh chị em thân mến, trong mùa Chay này, khi chúng ta chuẩn bị cử hành biến cố Thập Giá và Phục Sinh trong đó tình yêu Thiên Chúa đã cứu chuộc thế giới và chiếu sáng ánh sáng của nó trên lịch sử. Tôi cầu mong rằng tất cả chúng ta có thể dùng thời gian quí báu này làm sống lại đức tin của anh chị em trong Chúa Giêsu Kitô, nhờ đó khi bước vào với Ngài tình yêu vĩnh cửu đối với Chúa Cha và với mỗi anh chị em của mình, mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống. Với ước vọng này, tôi cầu xin Thiên Chúa, và ban phép lành của Chúa trên mỗi người cũng như mỗi cộng đoàn!

    From the Vatican, 15 October 2012

    BENEDICTUS PP. XVI

    Nguồn:

    https://www.caritas.org › 2013/02 › message-of-his-holi..