16. Sống Tình Thức

SỐNG TỈNH THỨC - IM LẶNG

 

  •  
    Kim Vu CHUYỂN
     

    IM LẶNG

     

    Tội lỗi xấu xa tách rời thiên chúa

    Tình thương chan chứa che phủ tội nhân

     

    Thánh Mark khổ tu vừa khuyên nhủ vừa giải thích: “Ai đã phạm tội thì đừng thất vọng.  Đừng bao giờ.  Chúng ta không bị đoán phạt vì số lượng tội lỗi đã phạm, nhưng vì chúng ta không muốn sám hối và học biết những phép lạ của Chúa Kitô.”

     

    Một trong các cặp đôi có thái cực đối lập là Tội và Tình.  Trong đó có một khoảng im lặng hoàn toàn, nhưng có khác nhau: Sự im lặng đó nặng nề và ngột ngạt đối với những kẻ lòng lang dạ thú, nhưng lại nhẹ nhàng và thông thoáng đối với những người thiện tâm.

     

    Sự im lặng có thể là vàng – nghĩa là thực sự cần thiết, nhưng cũng có thể là “rác rưởi” vô ích, không cần thiết, thậm chí có thể là “chất độc” vì gây nguy hiểm.  Tội trái ngược với Tình, nhưng Tình liên quan mật thiết với Tha Thứ.  Các mẫu tự T độc đáo, mà cũng thực sự quan trọng trong cuộc đời chúng ta – đặc biệt đối với các Kitô hữu.

     

    Kinh Thánh cảnh báo hai điều quan trọng liên quan tội lỗi: [1] “ĐỪNG tưởng mình là công chính trước mặt Đức Chúa” (Hc 7:5), và [2] “ĐỪNG để tội nào trói buộc con đến hai lần, vì một lần thôi cũng đủ để bị phạt” (Hc 7:8).  Đó là dạng ảo tưởng và không nỗ lực (hoặc cố chấp).  Kinh Thánh cũng đề cập một dạng hệ lụy tất yếu: “ĐỪNG làm điều xấu thì cái xấu sẽ KHÔNG THẮNG được con” (Hc 7:1).  Chắc chắn là vậy, như người Việt cũng nói: “Cây ngay không sợ chết đứng.”

     

    Đối với nhân loại, tội ác luôn trái ngược với tình yêu, tội lỗi luôn đối nghịch với lòng thương xót.  Tốt và xấu, hoặc lành và dữ, là những “cặp đối”, những thái cực hoàn toàn đối nghịch nhau, không thể “chung đường chung lối.”  Thật vậy, có tội ác thì không có tình yêu – và ngược lại.  Nhưng đối với Thiên Chúa thì lại khác hẳn, vì Lòng Thương Xót của Ngài còn lớn hơn tội lỗi của cả nhân loại này, có thể hóa giải mọi thứ.  Đó là Mầu Nhiệm Tình Yêu mà loài người không bao giờ có thể hiểu được với trí óc hữu hạn phàm tục.

     

    Quả thật như vậy, bất cứ điều gì đối với loài người là không thể thì đều có thể đối với Thiên Chúa, vì chính Ngài có thể biến hòn đá thành con cái của Áp-ra-ham (x. Mt 3:9) kia mà.  Như vậy, tư tưởng loài người chúng ta không làm sao có thể hiểu được ý Ngài.  Ngay như một người mẹ xả thân hy sinh vì một đứa con hư hỏng, chúng ta vẫn cho đó là một người mẹ nhu nhược, dại dột, hoặc ngu xuẩn.  Nhưng “yêu như điên” mới là yêu thật, yêu vì người được yêu, yêu vị tha chứ không chút vị kỷ.  Các dạng tình yêu của loài người dù có vị tha bao nhiêu thì vẫn có chút gì đó vị kỷ, chỉ có tình yêu của Thiên Chúa là tuyệt đối vị tha.


    TỘI THỪA – TÌNH THIẾU

     

    Từ thời Cựu Ước xa xưa, ngôn sứ Isaia nói rõ về quyền năng của Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ: “Đức Chúa là Đấng đã vạch một con đường giữa đại dương, một lối đi giữa sóng nước oai hùng, cho xuất trận nào chiến xa chiến mã, nào tướng mạnh binh hùng: tất cả đã nằm xuống, và không còn trỗi dậy, đã bị dập đi, tắt ngấm như tim đèn” (Is 43:16-17).  Thật tuyệt vời, bởi vì chúng ta diễm phúc được tôn thờ một vị Chúa Tể như vậy, mặc dù “những lời chúng ta ca tụng Chúa không ích lợi gì cho Chúa, nhưng lại sinh ích lợi cho phần rỗi của chính chúng ta” (Kinh Tiền Tụng).  Thật là quá kỳ diệu, vượt trên cả sự tuyệt vời!

     

    Rồi chính Thiên Chúa cũng đã căn dặn: “Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước” (Is 43:18).  Cái gì đã qua thì cho qua – Let bygones be bygones.  Bỏ qua chuyện cũ có nghĩa là yêu thương, là tha thứ, là quên cái Tội mà chỉ nhớ cái Tình.  Thiên Chúa sẵn sàng mở “con đường sống” cho dân chúng bằng cách thẩm vấn: “Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao?  Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn” (Is 43:19).  Hỏi thì hỏi nhưng Ngài lại trả lời. Vả lại, chính câu hỏi đó lại là cách trả lời xác định mạnh mẽ hơn.

     

    Thật tuyệt vời về Thiên Chúa của chúng ta, vì chính Ngài minh định: “Loài dã thú, chó rừng và đà điểu, đều sẽ tôn vinh Ta; vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát” (Is 43:20).  Bởi vì Ngài “đã gầy dựng cho dân” nên “chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ngài” (Is 43:21a).  Thế nhưng buồn thay cho con người, chính “Israel bội nghĩa vong ân” (Is 43:21b).  Israel là dân Chúa, mà dân Chúa không chỉ là Israel mà còn là chính chúng ta – nghĩa là chính chúng ta cũng là những kẻ vong ân bội nghĩa.  Thật khốn biết bao!

     

    Vì thế, chúng ta phải mau thức tỉnh mà trở về giao hòa với Ngài, càng sớm càng tốt, vì thời gian chẳng đợi chờ ai, giờ G đã điểm rồi.  Vả lại, Mùa Chay là thời điểm thuận tiện để sám hối, nhờ đó mà được Thiên Chúa thi ân và cứu độ (x. 2 Cr 6:2).

     

    Thời điểm trở về là khoảnh khắc hạnh phúc vỡ òa bất ngờ, vì được chính Thiên Chúa dẫn đưa: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ,” và rồi họ “vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126:1-2).  Người ta ngạc nhiên khi thấy vậy, có những người trong dân ngoại xôn xao bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:2).  Quả thật, “việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại!  Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 126:3).  Chẳng phàm ngôn nào có thể diễn tả hết niềm vui sướng của tù nhân được phóng thích, ai đã ở tù rồi mới cảm nhận được rõ nét, có thể nói rằng chẳng khác chi từ hỏa ngục được bước vào thiên đàng, hoặc niềm hạnh phúc của đứa con hư hỏng được cha mẹ tha thứ và yêu thương như trước.  Khó có thể diễn tả trọn vẹn niềm hạnh phúc lớn lao như thế.

     

    Noi gương Thánh Vịnh gia, chúng ta cùng chân thành cầu xin Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam” (Tv 126:4).  Cầu xin chân thành thì sẽ được xót thương, và niềm hạnh phúc sẽ dâng trào.  Thánh Padre Pio (Piô Năm Dấu) khuyên: “Hãy cầu nguyện, cứ hy vọng, và đừng lo lắng chi cả!”

     

    Thật đơn giản mà kỳ diệu, chính niềm hạnh phúc khôn tả đó được ví như nông dân vất vả khi gieo hạt: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.  Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:5-6).  Hình ảnh rất thực tế và gần gũi với chúng ta – dù dân miền quê hay thành thị.

     

    Cuộc sống bình thường nhưng vẫn luôn có những điều kỳ lạ.  Sau cú ngã ngựa “chí tử”, một Saolê của Tội đã biến thành một Phaolô của Tình.  Với kinh nghiệm bản thân, ông thật lòng tâm sự: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi.  Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.  Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Kitô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3:8-9).  Phải thực sự cảm nghiệm Thiên Chúa sâu sắc lắm mới khả dĩ có quyết định rõ ràng như vậy.  Thật không dễ chút nào, thế nhưng nhờ tín thác và nhờ hồng ân Thiên Chúa, ai cũng có thể hành động như Thánh Phaolô vậy.

     

    Không thể dừng lại, không thể không nói, Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11).  Cảm nghiệm được như vậy nhưng thánh nhân vẫn khiêm nhường bộc bạch: “Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang CỐ GẮNG chạy tới, MONG chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Kitô Giêsu chiếm đoạt.  Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi.  Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3:12-13).  Đó cũng là điều mà ai cũng phải cố gắng – cố gắng triền miên, cố gắng không ngơi nghỉ.

     

    Tuy nhiên, vấn đề không phải là chúng ta chiếm đoạt Đức Kitô, mà là tự nỗ lực hướng thiện để được Đức Kitô chiếm đoạt chúng ta.  Bởi vì mang thân phận phàm nhân, chúng ta quá yếu đuối, chỉ sơ sảy một chút là sa ngã ngay, chẳng ai dám nói khôn.  Vì thế, hãy không ngừng cố gắng học theo “phong cách” của Thánh Phaolô: “Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3:14).

     

    TÌNH THƯƠNG THẮNG TỘI

     

    Trình thuật Ga 8:2-11 ngắn gọn lời kể, nhưng đó là một bộ phim dài và hay, cốt truyện thú vị, tương phản hai cách đối xử – cách đối xử tồi tệ của đám đông (chủ yếu là những tay đầu xỏ) đối lập với cách đối xử khôn khéo và nhân từ của Chúa Giêsu.  Khi tư vấn hôn nhân và gia đình, người ta cũng thường lấy “điển tích” của đoạn Tin Mừng này để trưng dẫn.  Điều này cho thấy người đời, dù không là Kitô hữu, cũng vẫn phải công nhận cách cư xử tuyệt vời của Chúa Giêsu đối với một người yếu thế – một phụ nữ bị người ta bắt quả tang phạm tội ngoại tình và bị kết án tử.

     

    Thánh sử Gioan cho biết: Vừa tảng sáng, Chúa Giêsu trở lại Đền Thờ.  Toàn dân đến với Ngài.  Ngài ngồi xuống giảng dạy họ.  Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.  Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Ngài: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình.  Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.  Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8:4-5).

     

    Đúng là họ đểu thật, vì chính họ gọi Chúa Giêsu là Thầy nhưng lại nói xỏ nói xiên nhằm thử Ngài, đặc biệt là họ muốn có bằng cớ để tố cáo Ngài.  Kinh tởm với những ác nhân có mặt người mà lòng lang dạ thú.  Thế nhưng Đức Giêsu vẫn thản nhiên, Ngài lặng lẽ ngồi xuống rồi lấy ngón tay viết trên đất.  Chẳng ai biết Ngài viết gì, có lẽ Ngài vẽ lên cát như trẻ con chơi đùa vậy thôi.  Tuy nhiên, Ngài làm vậy vừa hay vừa lạ.  Đúng như ca dao Việt Nam: “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo.”  Lúc đó, chắc hẳn các kinh sư và người Pharisêu tức điên lên được, nhưng cũng đành “bó tay” thôi.  Bồ hòn có vị đắng chát cỡ nào thì cũng đành ráng coi như vị ngọt.

     

    Tuy nhiên, lũ ác nhân cứ gạn hỏi mãi, dai như đỉa đói, thế nên Ngài ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8:7).  Ui da, “sốc” ghê đi!  Rồi Ngài lại cúi xuống tiếp tục loáy ngoáy viết trên đất như chẳng có chuyện gì xảy ra.  Ai ngon thì cứ chơi?  Và rồi như kịch bản được viết sẵn, họ nghe Chúa Giêsu hỏi vậy thì cứ từ từ rút lui có trật tự, người trước bước đâu người sau bước đó, bắt đầu từ những người lớn tuổi.  Họ “đau” lắm mà không nói lại được gì.  Kể cũng “căng” dữ nghen!

     

    Tại sao người lớn tuổi đi trước?  Bởi vì người lớn tuổi là người sống lâu năm, mà càng sống thọ thì càng tội nhiều.  Rất minh nhiên.  Nói ít, hiểu nhiều.  Chúa Giêsu chẳng học luật, không làm luật sư, và cũng chẳng làm thẩm phán, thế mà lý lẽ thâm thúy dù cách nói rất đơn giản, ai cũng có thể hiểu.  Chúa Giêsu đúng là thần tượng và vô địch.  Thật tuyệt vời!

     

    Ngay sau đó, chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, còn người phụ nữ vẫn đứng đó.  Có lẽ lúc này chị còn run rẩy và cũng vẫn sợ lắm.  Nhưng Chúa Giêsu ngẩng lên và nhẹ nhàng hỏi: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”  Chị khép nép và run giọng đáp: “Thưa ông, không có ai cả.”  Đức Giêsu nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu!  Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8:11b).  Khi nói lời tha thứ này, có lẽ Chúa Giêsu cười rất hiền từ.  Án tử dành cho ả giang hồ chợt chuyển thành trắng án, hoàn toàn được tha bổng.

     

    Thế là xong.  Chữ Tình đã hóa kiếp chữ Tội.  Nhưng vẫn có dấu hỏi to lớn.  Còn thắc mắc hoặc hỏi han gì nữa?  Còn chứ!  Liệu chúng ta có dám nhận mình cũng đã và đang có cách hành xử như các kinh sư ác ôn và nhóm biệt phái giả hình?  Có lẽ chúng ta không dám hành động rõ ràng như họ, nhưng sự thật là chúng ta vẫn hành xử như họ một cách tinh vi hơn họ đấy!

     

    Chúa Giêsu ghét tội chứ không ghét người có tội.  Ai đã ngã mới biết đau, ai đã lỗi lầm mới biết cần được thông cảm.  Có một hệ lụy mang tính triết lý sống mà chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai được tha thứ nhiều thì yêu mến nhiều” (Lc 7:41-43; Mt 26:6-13; Mc 14:3-9; Ga 12:1-8.  Đó là chuyện cô nàng lấy tóc lau chân Chúa tại nhà ông Simôn cùi (không phải người phụ nữ ngoại tình trong Tin Mừng hôm nay).  Chúng ta cũng như phụ nữ ngoại tình, đã phạm tội, bị người ta ghét bỏ, nhưng lại được Thiên Chúa tiếp nhận và phục hồi cương vị làm con.  Niềm hạnh phúc lớn lao vô cùng!

     

    Lạy Thiên Chúa, mặc dù chúng con là những tội nhân bất xứng, nhưng chúng con vẫn được Ngài tha bổng biết bao lần, mở con đường sống cho chúng con.  Xin cảm tạ Ngài đã không kết án chúng con, xin giúp chúng con biết thể hiện lòng thương xót với bất kỳ ai để minh chứng cụ thể.  Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.  Amen!

     

    Trầm Thiên Thu

    Niệm khúc Tin Mừng TRẮNG ÁN – https://youtu.be/MOzmf4RalQk

     

     

     

    --

 

SỐNG TỈNH THỨC - ĐỪNG TRÌ HOÃN NGÀY MAI

  •  
    Chi Tran

     

    ĐỪNG TRÌ HOÃN NGÀY MAI

    I. Nguy hiểm biết bao khi chỉ chuẩn bị cho số phận đời đời trong chốc lát

    Nên nhớ kỹ rằng mọi người đều phải chết, và chỉ chết một lần mà thôi. Vì thế, không có gì quan-trọng bằng sự chết, vì là lúc định đoạt số phận đời đời của mình: Hoặc đời đời vui sướng, hoặc đời đời khổ-cực. Hơn nữa, chúng ta biết rằng: Sống lành chết thánh, sống dữ chết khốn-nạn. Thế mà không thiếu gì tín-hữu hành-động như không bao giờ chết, hoặc chết lành chết dữ cũng chả sao?

    Sở dĩ họ có cuộc sống xấu xa, vì họ không nghĩ đến sự chết: “Hãy nhớ đến ngày tận cùng của đời mình và chúng ta sẽ không bao giờ dám phạm tội.”

    Nên nhớ rằng đừng để đến giờ chết mới chuẩn bị tính sổ sách, mà phải chuẩn bị một thời gian thật lâu, để đảm-bảo cho việc trọng đại là số phận đời đời. Những công việc tạm thời ở trần thế mà ta còn phải chuẩn-bị thật chu đáo, trong thời gian khá dài như việc cưới hỏi, nghề nghiệp .v.v.. Sức khoẻ con người cũng đòi hỏi thời gian mới bình-phục, không thể trong chốc lát lành mạnh ngay.

    Một người có thể chỉ chuẩn-bị trong chốc lát cho một cuộc thi thật quan trọng được sao?

    Có thể để quân thù vây kín tứ bề, sẵn-sàng trong chốc lát tấn công, nhà chức trách mới ra lệnh động-viên quân đội và sửa soạn súng ống, đạn dược trong khoảng khắc để chống với quân thù được chăng?

    Có thể để đến lúc giông-tố ào-ạt nổi lên, rồi thuỷ-thủ mới chuẩn-bị giây và neo tàu sao? Cũng vậy, người tín-hữu cứ trì hoãn ngày mai, đợi đến giờ hấp-hối với bao đau khổ thể xác và tinh thần, mới sửa-soạn lương-tâm để hối-hả quyết-định số phận đời đời thật nguy-hiểm dường nào?

    II. Hãy chuẩn bị sẵn sàng trước

    Không phải chỉ vội vả lảnh các phép Bí-tích là được, cần hối-cải ăn-năn và yêu Chúa trên hết mọi sự. Mấy người trinh-nữ, mà Chúa chê là dại khờ, vì không lo chuẩn-bị trước, không biết mang theo dầu, khi chàng rể đến mới hớt-hả đi tìm dầu, làm sao tìm kịp? Chàng rể đến, cửa phòng đóng lại rồi, mới gõ cửa van nài thì đã quá muộn!

    Các Thánh thật khôn ngoan, vì biết tính-toán lo-liệu từ bao năm qua, khi giờ chết đến thì mọi sự đã sẵn sàng. Phần chúng ta, chúng ta phải làm gì đây? Chúng ta có nên mạo-hiểm để đến giờ chết cận kề mới sửa-soạn, rủi không kịp thì sao?

    Điều khôn ngoan hơn cả là chúng ta hãy sửa soạn sẵn sàng ngay từ bây giờ, để yên-trí, khỏi lo giờ chết đến bất ỳ ào. Ôi! Chúng con sẽ buồn rầu biết bao khi nghĩ đến số thì giờ đã lãng phí, khi nghe câu: “Từ nay, anh không còn được làm quản-lý nữa!”.

    Từ nay không còn thì giờ để thống-hối, để lãnh các phép Bí-tích, để nghe giảng, để viếng Mình-Thánh, để cầu nguyện nữa. Những gì qua đi là qua luôn. Chúng ta cần có thêm thì giờ yên-tĩnh để xưng tội, để giải quyết một ít vấn đề rắc-rối, cho lương-tâm được yên ổn, nhưng “đâu còn thờì giờ nữa!”

    LỜI NGUYỆN CẬY TRÔNG

    Lạy Chúa, Chúa biết rõ:nếu con chết trong một ít đêm nay, số phận đời đời con sẽ ra sao? Con cám ơn Chúa đã chờ đợi con đến nay. Xin Chúa soi sáng giúp sức cho con, để con nhận biết những lỗi-lầm của con, khi con phí-phạm ơn Chúa. 

    Chúa đã chết trên thánh-giá để chuộc tội cho con. Xin Chúa thứ tha cho con, để đừng bao giờ con lạc xa Chúa nữa. Vì công-nghiệp và máu cực châu báu Chúa đã đổ ra, xin cho con được ơn bền-đỗ và tình yêu Chúa mãi mãi.

    Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ thương giúp con. Mẹ yêu Chúa hết lòng, nên Chúa không nở từ-bỏ những lời Mẹ nguyện cầu cho con.

     (Thánh An-Phong Ligouri do Phêrô Bùi Đắc Hữu chuyển ngữ) 
     
     

SỐNG TỈNH THỨC - VỊ THÁNH Ở NGAY BÊN

CHUYỆN MỖI TUẦN – CHUYỆN VỀ “CÁC VỊ THÁNH Ở NGAY BÊN”…

Đấy là câu kết của Đức Thánh Cha Phanxicô sau khi đã cống hiến cho cộng đồng những người có mặt tại Quảng Trường thánh Phêrô để cùng dâng kinh Truyền Tin trưa CN  V ngày 6/2/2022…  cũng như bà con trên khắp thế giới hai câu chuyện có thật rất cảm động…Hai câu chuyện này được Ngài nhắc lại với hàm ý kêu gọi chúng ta – những người tin Chúa và mọi người thành tâm thiện chí, đặc biệt các bạn trẻ vốn tự hào về tư cách công dân mạng của mình – rằng : quanh chúng ta không ít những con người tốt và những công việc thiện để mà kể cho nhau, nên…thôi, đừng truyền thông quá nhiều điều xấu, tin xấu, tai nạn, án mạng…”  nữa !!! Và dĩ nhiên là… cả chuyện… “thịt thà – dáng vóc – áo quần…” !!!

Câu chuyện thứ nhất là về sự nỗ lực của bà con làng Ighran, tỉnh Chefchaouen, nước Maroc – nhất là đội cứu hộ – đã cố gằng hết mình để cứu cậu bé Rayan 5 tuổi chẳng may bị rơi xuống một cái giếng sâu 30 m…và đường kính của giếng chỉ vỏn vẹn 0,45 m – nghĩa là không đủ chỗ cho chỉ một người có thể chui xuống…Lo lắng cho sự sống còn của cậu bé, họ đã quyết định dùng năm máy xúc ngày đêm đào dọc sườn đồi một đường hầm để có thể tiếp cận cậu bé dưới giếng , bởi họ không dám đụng đến cái giếng, lo sợ thứ đất pha cát sẽ sạt lở và vùi lấp cậu bé…Sau năm ngày miệt mài, họ đã đã tiếp cận cậu bé, nhưng tiếc thay, cậu đã qua đời…

Câu chuyện thứ hai là của anh John – một di dân 25 tuổi người Ghana định cư tại Montferrato, nước Ý…Anh miệt mài làm việc…và không may bị ung thư giai đoạn cuối…Biết rằng mình không thể qua khỏi…nên anh tha thiết muốn được về quê…ôm bố mình lần cuối…Những người thiện tâm thiện chí đã quyết định chích morphin cho anh và đưa anh lên máy bay … để – cùng với một người đồng hành – đưa anh về quê…Anh John đã qua đời trong vòng tay ôm của cha mình…

Và Đức Thánh Cha kết luận : “Điều này cho chúng ta thấy rằng ngày nay, giữa bao nhiêu tin xấu, vẫn có những điều đẹp đẽ, có những vị thánh ở ngay bên chúng ta”…

Tấm ảnh trên kia là con đường hầm dẫn đến chỗ bé Rayan…và câu chuyện chỉ mới xảy ra hôm mùng 5/2 vừa qua…

Thưa bạn đọc,

Chụp ảnh và có được những bức ảnh đẹp là điều vô cùng tuyệt – nhất là trong những khoảnh khắc đoàn tụ của gia đình, của bạn bè…Các nhà sản xuất điện thoại thông minh không ngừng kiếm tìm những chi tiết mới, những nét sắc xảo, những kỹ thuật tinh tế để hình ảnh chúng ta ghi lại cho nhau… ngày càng thật hơn…và – dĩ nhiên – với những mục đích dễ thương…là lưu giữ kỷ niệm, hình ảnh thân thương…Thế nhưng rất sớm Thần Xấu và Thần Dữ đã tận dụng những kỹ thuật ấy để đưa con người đến với những ý đồ đen tối…mà mục đích duy nhất chỉ là để đáp ứng những đòi hỏi muôn thủa của “bản năng thú vật” nơi phần “con” của người…nhằm kiếm càng nhiều tiền càng tốt…Và đồng tiền nhơ bẩn ấy lại cũng chỉ để cho chúng thỏa mãn những đòi hỏi của chính bản thân mình…Từ đấy, những ý đồ tốt đẹp, những mày mò dễ thương, những khám phá tuyệt vời…trở thành “phương tiện”…mà chủ sở hữu phải là những con người vững chãi, biết phân định, có quyết tâm…mới biết và có thể sử dụng cho xứng với phẩm giá con người…mà phần “người” được trân quý để phần “con” có ý nghĩa…vì sống đúng với ý muốn của Thiên Chúa Tạo Dựng…Thiên Chúa đâu có hẹp hòi gì với con người chúng ta đâu…Người sẵn lòng mang lại niềm hoan lạc cho con người vì muốn thụ tạo của mình thẳng lưng, đầu đội trời  –  chân đạp đất…đối với mọi thứ thuộc bản năng : những hỷ – nộ – ái – ố là chuyện rất người trong cuộc sống, nhưng ngay cả trong hỷ – nộ – ái – ố, con người vẫn là “động vật” duy nhất thẳng lưng , đầu đội trời – chân đạp đất…để biết mình vui như thế nào, mình giận làm sao, mình thương đến đâu…và mình xấu ra sao…mà “làm chủ mình”…đồng thời đủ khôn ngoan mà xây dựng cho lẫn nhau…thế hệ này qua thế kia…

Thời gian dịch bệnh, khá nhiều những sáng kiến đẹp và lợi ích được nghiền gẫm và đem ra thực hiện nhằm mang lại niềm vui và sự an ủi cho các bệnh nhân…Người viết rất cảm kích với một sáng kiến đơn giản thôi, nhưng đầy ý nghĩa và cảm xúc : đấy là sáng kiến của một ý tá người Brasil – chị Cunha Semei Aráujo, y tá bệnh viện Vila Prado ở Sao Carlos…Để bệnh nhân nặng luôn được sưởi ấm đôi bàn tay dễ bị lạnh, đồng thời được an ủi vì có cảm tưởng một bàn tay thân thiết đang nắm lấy tay mình ở những giây phút mỏi mệt nhất, chị đã đổ đầy nước ấm vào đôi găng tay y tế, cột các ngón lại và đặt tay người bệnh trong đôi tay “sáng kiến” dịu êm đó…

Sáng nay – trong giờ ăn sáng – một người anh em đồng bàn thông tin về một người anh em cao niên ở Nhà Hưu khác gọi điện hỏi thăm…và than buồn vì không còn “ông bạn yêu bóng đá” để hàn huyên ở những trận đấu sôi nổi dịp Tết vừa qua…Ông bạn ngồi bên buột miệng hỏi : Anh có hay chơi cờ tướng với ngài không ? Ông bạn ngập ngừng : Thời gian đầu thôi…Sau này ngài không chơi nữa…Người viết buột miệng “tố” : Tự anh…Anh chơi toàn thắng thôi…thì đương nhiên…ngài nghỉ chơi vì chán !!! Cứ vài bàn thắng, anh phải “biết” thua một bàn…để ngài thấy hứng !!! Biết thua…dù mình thừa sức thắng…cũng là cách sống từ tâm với lẫn nhau trong cộng đồng con cái Chúa…Không ít những tay cờ tướng đến hầu cờ các Đấng…và luôn thua ở vài bàn cuối gần giờ cơm trưa…để được mời ở lại…Thắng ở những bàn ấy…dễ bị “lờ đi” lắm lắm, và nếu không thì bầu khí cũng chẳng mấy vui…Dĩ nhiên không chỉ “biết thua” cờ tướng thôi…mà – trong các tương quan – tâm tình “biết thua”…để người bên cạnh vui hơn, thoải mai hơn…cũng là điều nên làm và làm thường xuyên…Bởi “biết thua” cũng là một cách “sống thánh” vậy…

Trong tháng giêng/2022, chúng ta nhắc đến quyết tâm sống lời giáo huấn của Đức Thánh Cha : Xây những nhịp cầu chứ đừng dựng các bức tường…Tháng hai này là quyết tâm : Hãy để chính mình được đánh động bởi nỗi khổ đau… rồi làm điều gì đó

Ước mong sao đấy cũng là đề cương cho những hình ảnh và câu chuyện được đăng tải trên mạng xã hội từng ngày, bởi lúc nào cũng “có những vị thánh ở ngay bên” – những vị thánh không cần triều thiên…

 

Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp

Chia sẻ Bài này:
 

FacebookTwitterLinkedInPinterestViber

Related posts

 

n

 
00:00
 
04:47
 
 
 

Bài Giảng Chúa Nhật 5 Thường Niên C

Video Player
 
00:00
 
39:00
 
 
 

 

 
 
 

Chuyên Mục

 
 
 
 

SỐNG TỈNH THỨC - BẠN MƠ - CN6TN-C

  •  
    Mo Nguyen
     
    Sun, Feb 13 at 2:31 AM
     
     

    CN 6C : NGẪM VỀ CHỮ PHÚC.

     

    Nhiều chữ “phúc” vang lên trong bài Tin Mừng hôm nay, lại là liền ngay sau Tết Nhâm Dần, nên suy tư về chữ “phúc” quả là xứng hợp.

    Khổng Tử một ngày kia đi dạo núi Thái Sơn, gặp ông Vĩnh Khải Kỳ cũng đang ngao du tại đó. Ông này mặc áo da cừu, lưng thắt dây đai, tay gảy đàn cầm, vừa đi vừa hát. Khổng Tử hỏi: Tiên sinh làm thế nào mà thường xuyên vui vẻ thế ?

    Vinh Khải Kỳ trả lời : Trời sinh muôn vật muôn loài, mà loài người là quy nhất. Ta được làm người đó là một điều quý, đáng vui. Trong loài người, đàn ông quý hơn đàn bà, mà ta được làm đàn ông, đó là hai điều quí, đáng vui. Người ta sinh ra có người đui người què có người sống yểu chết non, còn bọc trong tã mà đã chết rồi, mà ta đây hoàn toàn khoẻ mạnh, nay đã 90 tuổi, thế là ba điều quý, đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là sự hết của đời người, ta nay xử cảnh thường như nhiều người, đợi lúc hết như mọi người, thì có gì là lo là buồn.

    Đức Khổng Tử nói: Phải lắm, tiên sinh thế là biết cách hưởng sự vui sướng ở đời.

    Vinh Khải Kỳ quả đang sống những cái phúc ở đời.

     

    Bài Tin Mừng hôm nay của Luca tuy chỉ vang lên 4 chữ phúc, chứ không như của Matthêu đến 8 chữ phúc, nhưng như thế cũng là phúc lắm rồi, bởi có kẻ được phúc này, có kẻ được phúc kia, có kẻ hai ba bốn phúc, có kẻ nửa chữ phúc cũng tìm không ra.

    Trong cuộc sống thường ngày ta cũng dễ thấy cái Phúc nằm ở nhiều lớp người, nhiều hoàn cảnh. Lm Cao Siêu ghi :

    “Chẳng có gì dễ hiểu như hai từ hạnh phúc.
    Nhưng định nghĩa hạnh phúc lại là điều không dễ.
    Mỗi người có một quan niệm về hạnh phúc,
    và nơi mỗi người, quan niệm này cũng biến đổi theo thời gian.
    khi thì hạnh phúc là cái này lúc thì hạnh phúc là cái kia.
    Đói, hạnh phúc là cơm canh. Đau, hạnh phúc là chạy nhảy
    Thường ta hay chạy theo những cái bóng của hạnh phúc,
    để rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta dần dần hiểu hơn
    thế nào là hạnh phúc đích thật.
    Hạnh phúc không nằm nơi của cải, kiến thức, quyền uy.
    Hạnh phúc không do chiếm được những gì mình muốn,
    nhưng do trao hiến điều quý nhất của mình.
    Hạnh phúc là sự ổn thỏa giữa tôi với Chúa,
    giữa tôi với anh em, giữa tôi với chính tôi...”
     (Lm Cao Siêu)

    Có những lúc hạnh phúc thật đơn sơ dễ thấy nhưng mà cũng khó đạt :

    Nhà kia có người con ngoan ngoãn hiếu đễ – ta khen : ông bà là người có phúc.

    Gia đình nọ, vợ chồng chí thú làm ăn, nuôi dạy con cái nên người, ta khen : anh chị là người hạnh phúc.

    Nhà nọ, đầm ấm sum vầy, ta bảo : họ có phúc.

    Và cũng có cái phúc thật giản đơn: Ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo, tức là mất phúc !

    Vậy là cái phúc ở đời nằm trong tay nhiều hạng người, nhiều hoàn cảnh chứ không giới hạn ở một vài dăm ba. Thì cái phúc của người theo Đức Kitô, (Kitô hữu) cũng nằm trong tay nhiều hạng, chứ không chỉ 4 như Luca, hay 8 như Matthêu, hay thêm cái phúc tin không có trong bộ tứ, bộ bát trên, như trong Gioan, không thấy mà tin cũng phúc. “Phúc cho ai không thấy mà tin,” “phúc cho bà là người đã tin,” “phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa”.… Do đó cái chính không phải là xem hạng người nào có phúc, nhưng xem coi : người có phúc thì họ được gì.

    Cả 4 mối Phúc của Luca lẫn 8 mối Phúc của Matthêu cũng đều nhắc tới cái được. Gom tất  cả các cái được đó lại và nhại theo câu chuyện giữa Khổng Tử và Vĩnh Khải Kỳ mà chúng ta nghe đầu bài, ta có thể thuật như sau :

    “Một ngày kia, Đức Khổng Tử đi chu du thiên hạ, gặp một nhóm người ngực mang khổ giá nhưng nét mặt vẫn tươi vui. Bảng tên của họ ghi “Kitô hữu.” Đức Khổng Tử hỏi một người trong nhóm: Này anh, kẻ hậu sinh, nhóm của anh tìm được cái gì mà sao anh và họ vui tươi hớn hở như thế ? Nét mặt các anh biểu lộ tâm hồn của những phúc nhân, những chân phước.

    “Chàng Kitô hữu trả lời:

    “Chúa trời sinh muôn vật muôn loài mà loài người là quý nhất. Chúng tôi được làm người, đó là một điều phúc.

    “Chẳng những chỉ là người bình thường mà chúng tôi còn được làm người con của Trời, con của Chúa, làm thiên tử. Về điều phúc này lớn lao quá, đến nỗi khổ mấy để đạt được cũng không quản, đạt được rồi, vui mấy cũng không vừa. Không bút nào tả cho xiết, không lời nào nói cho cùng. Chúng tôi là thiên tử, là con trời. Đó là 2 điều Phúc.

    “Là con trời nhưng Trời không là vị Chúa tể oai phong cho bằng Trời là Cha, Chúa là mẹ. Chúa là Cha, cũng không phải là cha nghiêm khắc công thẳng mà là Cha nhân từ. Cha chúng tôi nhân từ đến độ có người cho là nhu nhược, nhưng Ngài vẫn cứ giữ nhân từ vô cùng như thế. Dù chúng tôi có tội lỗi bao nhiêu, dù chúng tôi có xúc phạm Ngài thế nào, chỉ cần một tiếng khóc ăn năn: Phúc cho kẻ than khóc, thì Ngài liền quảng đại thứ tha. Cha chúng tôi quyền phép vô cùng nên mới nhân từ vô hạn được như vậy. Đó là 3 điều phúc.

    “Rồi khi cái chết là sự hết của đời người, chúng tôi sẽ được về cùng Cha, không phải chỉ mãi là tâm linh là khí phách sống trong nhà Cha, mà cả xác của chúng tôi cũng được phục sinh trong ngày sau hết để vui hưởng hạnh phúc trong nhà Cha như nhà mình : đó là 4 điều phúc.”

    Nghe chàng Kitô hữu trả lời, Khổng Tử liền nói: “Được 4 chân phúc như các anh các chị, làm sao các anh các chị không vui, không mừng được. Lời của các anh chị nghe là lời phúc: Phúc âm. Tin mà các anh chị nhận là Tin Mừng : Tin Mừng Đức Giêsu Kitô.”

     

    Cứ đón, cứ nhận những Tin Mừng mà Đức Kitô loan báo,

    Cứ nghĩ tới cứ nhớ về những cái Phúc mà chúng ta được đó :
    -phúc làm người,
    -phúc làm người con Chúa,
    -phúc làm người con Chúa mà Chúa là Cha nhân từ,
    -phúc được về nhà Cha cả hồn lẫn xác,

    Chúng ta sẽ đủ sức mạnh đủ nghị lực để sống vui sống hạnh phúc chẳng những đời sau mà đời này nữa, cho dù có nhiều nghịch cảnh vây quanh ta, ta vẫn vang lên những lời chúc phúc mà chắc chắn Chúa đã hứa và Chúa sẽ thực hiện. Amen.

     

    Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

     

     

SỐNG TỈNH THỨC - GM XUÂN LỘC

  •  
    Chi Tran

     
     
     
     


    TỪ BỎ VÀ TỰ THỂ HIỆN

     

    Mang lấy thập giá đời mình có nhiều cách thức. Sau đây chúng ta đề cập tiêu biểu hai cách. Trước nhất là chấp nhận bị thất bại, được ‘tỉnh ngộ’, bởi cuộc sống. 

     

    Có lẽ nên nói đôi điều về tầm quan trọng ‘tâm lý’ ngay cả không nói ‘tâm lý học’. Một số điều được diễn tả rất trừu tượng có thể trở thành cụ thể bởi vì nó diễn tả rõ hơn điều có giá trị phổ quát nhưng lại dễ dàng ra mờ ảo bởi những điều thứ yếu. Ngày nay ai đó đôi khi có cảm tưởng người ta hầu như không hạnh phúc vì họ muốn được hạnh phúc bất cứ giá nào. Họ đau khổ vì nỗi giằng co gây vỡ mộng: Họ nghĩ họ hụt mất điều ấy đến nỗi điều ấy vuột đi trước khi họ phải ra đi. Đồng thời họ biết rất sớm họ phải ra đi mà chẳng còn nhiều thời giờ đủ cho bất cứ điều gì có thể mang lại hạnh phúc. Đó là lý do họ nghĩ rằng điều quan trọng nhất là cẩn trọng không để lỡ bất cứ cơ hội nào. Nhưng trong thực tế nỗi sợ không lĩnh hội tất cả mọi thứ trải ra trên mặt bàn cuộc đời có nghĩa là chẳng thưởng thức được điều gì cả: Đơn giản là ‘nhồi nhét’ mọi chuyện, nhưng ‘tiêu hóa’ không nổi. Suy cho cùng mọi sự trôi qua nối tiếp nhau, và chẳng nghiệm được điều nào vì người ấy muốn trải nghiệm tất cả.

     

    Thật dễ dàng để thấy đó không phải là phương thức đạt yêu cầu. Mọi người thực sự đã biết. Một người chỉ mang trong tâm trí, ở đây ta dùng từ ngữ trừu tượng để chúng ta có thể thấy rõ hơn, những khả thể hữu dụng cho hành động tự do luôn luôn lớn hơn thực tại ta làm được. Người ta không bao giờ hiện diện mọi nơi trong một lúc. Tiếp thu một khả thể luôn luôn là để sang một bên những cái khác, trừ phi người ta bao trùm cả đời vô giới hạn. Một người luôn ước quá điều mình có thể làm, và cái người ấy thấy, không chỉ là cái hứa hẹn một điều chưa đến, nhưng còn là sự từ bỏ nhiều điều, mà cuối cùng từ bỏ mọi sự, trừ khoảng phút giây đang trải qua. Có nhiều điều sẽ không trở lại, vì nó chỉ có thể ở đây bởi điều thực sự được thực hiện. Thực tại hạn hẹp là cái chết trước những khả thể vô tận. Cái khả thể vô tận chết yểu trong ‘bụng’ của thực tại. Tất cả điếu ấy, như đã nói, thì dễ thấy. Hậu quả cũng rõ ràng, nghĩa là, khả năng để cho các sự việc êm đềm trôi vào dĩ vãng là một trong các nghệ thuật sống quan trọng cần thiết làm cho hiện sinh chúng ta tự do và chấp nhận được.

     

    Tuy nhiên trong thực tế, sự khôn ngoan cổ xưa này về sự thiết yếu phải ‘tiết chế’ không xóa đi nỗi lắng lo gây hụt hẫng. Trong ta trỗi dậy nghi vấn tại sao chúng ta phải lặng lẽ cho qua đi cái có thể, và chỉ bám vào cái tối thiểu? Có lẽ chúng ta đã giữ lại cái sai và cho trôi đi cái đúng, cái có thể cởi trói chúng ta, cái cứu chúng ta? Người ta không thể thử nghiệm một cách nghiêm túc mọi khả thể. Người ta chỉ có thể thử nghiệm những cái người ta đã thực sự khảo sát. Vì vậy người ta không bao giờ biết được, nói cách khiêm tốn chừng mực, liệu người ta đã đặt cược vào cái lầm hay không.

     

    Vì vậy, thay vào đó, ‘mọi sự’, nghĩa là ‘mọi sự mức nào có thể’, phải được thử nghiệm, ngay cả người ta biết thực sự là không thể. Lắng lo gây hụt hẫng tiếp tục gặm nhấm giày vò. Người ta biết nỗi lắng lo gặm nhấm là ngớ ngẩn nhưng người ta không khử trừ được nó. Sự khôn ngoan ‘tiết chế’ chỉ còn như một phương tiện tinh thần của nỗi lo gây chưng hửng, trong nỗ lực tách ra bao nhiêu có thể, khỏi ‘cái đầy’ trống rỗng của những cái có thể. Như vậy sự khôn ngoan ấy một cách sâu xa là vô hiệu. Tất cả còn lại là niềm xác tín gây thất vọng rằng như thế cũng không ổn. Không chỉ có nỗi lắng lo gây chưng hửng mà nó còn chiếm hữu một con người. Nó không những kích hoạt cuộc sống mà còn hướng cuộc sống đi, đi vào cái trống không vô nghĩa.

     

    Vậy có phải chúng ta chỉ còn tuần tự từ bỏ khát vọng hiện hữu, từ bỏ ý chí, ‘nhìn thấu’ bất cứ cái khởi sự nào của hành động là như cái bắt đầu của cái vô nghĩa? Nhưng có thể như thế không? Có lý không? Đó chẳng phải là ‘nghệ thuật’ sống trá hình, đó lại chẳng phải đơn giản là một hình thức khác của xung lực sống mù quáng, cố gắng tới đích bằng cách đó, trong trường hợp này ít nhất là hạnh phúc ‘bịt miệng’ được những khát vọng riêng? Có thực sự khả hữu nơi cõi riêng tư của một người, một toan tính mâu thuẫn một cách bí mật quay ngược lại về toàn bộ những cái ‘thuận’ bằng cách đem toàn bộ những cái ‘thuận’ thành toàn bộ những cái ‘không’? Vì hoạt động của ý muốn được sống tự nó cũng vẫn là một hành động, và kết quả nó xác nhận cái nó muốn đầu hàng. Liệu một người có thể cho trôi đi khỏi mình tất cả, để có thể đạt được khả năng êm đềm cho trôi đi mọi cái có thể của cá nhân, nếu người ấy không được kéo ra khỏi chính mình? Nhưng được kéo ra bởi ai?      

             

    Nếu cái chết cũng là cái sống, nghĩa là, từ bỏ cái tư riêng thực sự là không đánh mất nhưng được lại mọi sự, thì lo lắng gây chưng hửng bị đánh bại. Nếu như cái trống rỗng tự nó không thực sự là cái ‘tròn đầy’, chúng ta không thực sự nghiêm chỉnh tin vào mánh khóe chơi chữ biện chứng ‘rẻ tiền’ ấy. Cái ‘tròn đầy’ không phải là chập tất cả thành một, từ tổng số các khả thể riêng biệt, nhưng cái ‘tròn đầy’ có đó trước chúng ta như một Đấng duy nhất, toàn thể, tương lai ‘tuyệt đối’, mà trong ngôn từ Kitô chúng ta thường gọi là ‘Thiên Chúa’. Thiên Chúa sẵn lòng ban tặng chính mình cho chúng ta nếu chúng ta ‘buông tất cả’.

     

    Quả thực chúng ta không đạt được cái tròn đầy này ngay khi tương lai tuyệt đối (bao hàm cái tròn đầy như còn sẵn đó và muốn ban tặng chính mình cho chúng ta) làm chúng ta có khả năng để buông trôi đi. Khi nào điều kỳ diệu này diễn ra, và một cách đơn giản chúng ta buông  trôi đi, hòa hợp một cách êm thắm với nó, nỗi lắng lo chưng hửng  được chinh phục tận gốc rễ. Thực tại tầm thường được tôn lên như lời hứa về một tương lai vô tận, chứ không như điều nào đó mang nghĩa là cái chết của tương lai. Chúng ta không thể chắc rằng tất cả những điều ấy xẩy đến cho chúng ta trong hiện tại, chúng ta chỉ có thể làm điều ấy như hành động chung cuộc, hành động tự nó chẳng thích thú gì, cũng chẳng cố ý khẳng định nó, một hành động xẩy ra cho ta tựa như một hành động tư riêng.

     

     

    ‘Thiên Chúa’, ‘ân sủng’, ‘ơn công chính’, ‘tự do’, ‘lòng tin’, ‘ân huệ’, ‘bổn phận’, và tất cả những ý niệm Kitô căn bản khác là những thực tại trong biến cố của sự lặng lẽ từ bỏ này, và chúng được hiểu một cách riêng tư như thế. Mọi sự hàm ẩn nơi những từ ngữ ấy, sự bỏ mình trong hy vọng tìm ra cái tròn đầy không thể hiểu nổi, diễn ra trong nơi sâu thăm thẳm không thể thấu đạt của sự tự do, khi cái tự do này để ‘buông trôi’ lặng lẽ, nghĩa là để cái tư riêng chết đi, mà tin trong hy vọng rằng bằng cách đó (và một cách thâm sâu chỉ bằng cách đó), cái toàn thể, cái tròn đầy, ‘Thiên Chúa’ sẽ được tiếp nhận. Điều này được thực hiện không chỉ để tiếp nhận cái toàn thể, vì cái tư riêng cũng có thể và phải được mong muốn trong tinh thần thầm lặng.

     

    Trong từ ngữ Kitô loại từ bỏ bằng để cho sự việc chết đi trong lòng tin và lòng cậy được gọi là mang lấy thập giá của mình. Như một hành vi chấp nhận trong tự do, đó là thêm một bước trong chiều hướng cái chết không thể tránh được và đó là một bài tập luyện sơ khởi để chấp nhận cái chết của riêng mình, là phần không thể tránh thoát của mỗi chúng ta. Kinh Thánh gọi đó là ‘bỏ mình và vác thập giá đời mình’

     

    Khi những phẩm hạnh nhân văn phát triển đầy đủ, cả khi những phẩm hạnh đó không được suy tư cụ thể tương xứng, sự tiếp nhận (thập giá) không chỉ xẩy ra trong cõi sâu thẳm của tự do (cùng với sự thể hiện khách quan thường xuyên hàm hồ trong lịch sử mỗi cá nhân), nó không đơn giản là ‘xẩy ra’, nó cũng biết về chính nó, dù trong hy vọng, không trong cách suy tư. Từ khi một người là một hữu thể thông hiệp qua lại với người khác và chỉ có thể nhận biết mình rõ rệt nhờ người khác, sự tiếp nhận này biết về mình nhờ tiếp nhận người khác, tiếp nhận người khác là đang vác thập giá mình như thực tại của cuộc sống. Trong người ấy sự tiếp nhận đó có thể được nhận thấy. Là Kitô hữu chúng ta tin chúng ta gặp Đức Giêsu Nazareth là ‘chính người khác ấy’, người đang mang thập giá mình. Sống như vậy, chúng ta không tin Người chỉ là một trường hợp ‘cung cấp gương lành’ cho chúng ta, mà thực sự cũng có thể không cần có đó. Đúng hơn chúng ta tin rằng Thiên Chúa đặt thập giá trên chúng ta, và hàm ẩn trong thập giá, là sự tròn đầy của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa muốn Đức Giêsu Nazareth, đã chấp nhận và hoạt động trong Thiên Chúa như chính hiện hữu của Thiên Chúa trong thời gian và lịch sử.

     

    Sự ‘cung cấp gương lành’ là thực tại thật sự ban sức mạnh và tăng khả năng cho chúng ta. Vì lẽ đó Đức Giêsu đích thực là ‘nguồn sức cứu độ’, là Đấng cứu độ. Là Kitô hữu, chúng ta nhận biết Người là Đấng chịu đóng đinh, tuyên xưng Người là ‘Đấng Phục Sinh’, và nhờ sự hiệp nhất trong kinh nghiệm của Chúa Thánh Thần, Đấng tạo nên trong ta sự tự do vác lấy thập giá, và các Tông đồ chứng thực, chúng ta tin rằng trong cái chết này, chính sự sống của Thiên Chúa sẽ đến thay cho toàn bộ ‘thực tại người’ của chúng ta.

     

    Một người mà trong hy vọng chẳng tìm khẳng định mình, ‘buông bỏ’ chính mình trong chiều sâu mầu nhiệm hiện hữu, qua đó sống và chết chẳng còn có thể phân biệt vì chúng chỉ được đón nhận làm một, thực sự tin vào Đấng đã chịu đóng đinh và đã sống lại, cả khi người ấy không biết điều ấy (biết bằng ngữ nghĩa). Tuy nhiên, ‘cái biết’ với người ấy hiển nhiên là tốt và đem lại lời hứa cứu độ. Bảo đảm là người được trao thập giá mà mang lấy như của riêng mình, đó là hành động tự do sâu xa.

     

    Mang lấy thập giá đời mình có nhiều cách thức. Sau đây chúng ta đề cập tiêu biểu hai cách. Trước nhất là chấp nhận bị thất bại, được ‘tỉnh ngộ’, bởi cuộc sống. Điều ấy xẩy ra vào phút chót trong cái chết, miễn là người ấy thực sự không cố lừa dối mình về điều ấy, là điều không bao giờ hoàn toàn tiêu tan. Liên hệ đến điều ấy, phải không được quên rằng ‘cái đang chết’ vẫn diễn ra trong đời, vì như Thánh Grêgôriô Cả nói, cuộc đời chính là ‘ngập tràn cái chết’. Cách thức thứ hai, có lẽ là trường hợp gây thất vọng triệt để nhất, được ‘tỉnh ngộ’, xẩy ra khi một người yêu thương, dù tình yêu này không hay không còn ‘trang trải nổi’, cũng chẳng cố gắng tìm hài lòng trong chính nó như sự xả thân dũng cảm. Nỗ lực tạo ra loại hài lòng này, ở đáy cùng của sự bất khả, là đích nhắm của tất cả những cuộc tôn vinh cuộc sống, có thể gặp thấy trong những câu truyện tình cảm của tạp chí ‘Reader’s Digest’, trong đó mọi sự kết thúc có hậu, hạnh phúc và chẳng có bất cứ cái đắng đót trăn trở chân thực nào. Phải chăng không thật, là nhiều nhà tâm lý trị liệu dùng cũng phương thức điều trị này? Phải chăng người ta không có thể tránh đối diện sự kiện cuộc sống là một cuộc hấp hối, dù người ta biết khéo léo thu xếp các sự việc?

     

    Hẳn nhiên có hai lối sống: Bị cuốn hút bởi nỗi trăn trở gây chưng hửng, và chấp nhận thập giá, mà thập giá ấy, được nhận thức rõ ràng hoặc không, là thập giá Chúa Kitô. Thật lạ lùng, mỗi cách sống ấy có thể học theo cách sống kia. Hầu như phải là như vậy, nếu không thì chúng ta có thể ‘đánh giá’ chính mình. Điều các nhà tâm lý sử dụng trực tiếp thì không bao giờ là một trong các lối sống này, nhưng theo nhận xét khách quan nhất, lối sống ấy luôn bấp bênh. Xem chừng nỗi trăn trở gây chưng hửng mang tính chất thần kinh, ngay cả xẩy ra một cách đáng khiển trách, có thể là chính sự hấp hối này, bởi đó, với sự thầm kín chấp nhận, thập giá cuộc đời phải mang lấy trong khổ sở. Điều cho thấy sự biểu lộ ‘khỏe khoắn’, ‘có cân nhắc’, có thể là hiệu quả của sự trăn trở gây chưng hửng, lôi kéo người ta tránh mang lấy thập giá.

     

    Một người cơ bản không cần phải sợ rằng tiếp nhận thập giá đời mình thiết yếu gây ra thụ động và cam chịu, khi đối diện những phận vụ cụ thể của cuộc đời. Một người không sợ chết, hay đúng hơn, chấp nhận nỗi sợ chết cố hữu, có thể vui hưởng những điều tốt cụ thể của cuộc sống xẩy đến cho mình, vì chúng là lời hứa chân thực về một tương lai tuyệt đối. Người ấy có thể đánh liều trọn cả đời mình. Người ấy tự do yêu thương mà không màng đến chính mình. Người ấy không cần đòi hỏi quá nhiều hạnh phúc đời này và như thế chiếm được nó.

     

    Linh mục Karl Rahner

    Giám mục Gioan Đỗ Văn Ngân chuyển ngữ

    Nguồn: giaophanxuanloc.net