24. Học Hỏi Để Sống Đạo

Giải đáp thắc mắc cho người trẻ – Vấn đề “theo đạo rồi mới cho cưới”

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Câu hỏi:

Con hay nghe các bạn không cùng tôn giáo than phiền bên Công Giáo: “Sao cứ phải bắt người ta theo đạo mới cho cưới”. Có phải người Công Giáo bắt buộc người bên lương phải theo đạo khi kết hôn?

Trả lời:

Nhiều người vẫn hay đặt đâu hỏi tại sao đạo Công Giáo cứ bắt người không có đạo phải theo đạo Công Giáo rồi mới cho cưới. Thật ra, Giáo Hội không bắt buộc ai phải theo đạo cả. Thuật ngữ “theo đạo” mà dân gian hay dùng là để ám chỉ đến việc lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy và trở thành thành viên của Giáo Hội. Nói chính xác hơn, nó là việc một người lãnh nhận hồng ân đức tin ngang qua các bí tích và được tháp nhập vào sự sống mới của Đức Kitô. Nhưng vì đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, và đòi hỏi nơi người nhận lãnh một sự tự nguyện, nên sự cưỡng ép hay bắt buộc trở nên vô nghĩa và ấu trĩ. Người nào đó, dù đồng ý lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, nhưng chỉ vì muốn lập gia đình, không hề có một chút ý thức và khao khát sống đức tin thì chỉ mang danh nghĩa là Kitô hữu trên giấy tờ chứ không phải là một Kitô hữu đích thực.

Tại sao các bậc cha mẹ Công Giáo luôn muốn con cái mình lập gia đình với người Công Giáo?

Cha mẹ nào cũng lo cho con cái. Vì xuất thân từ môi trường Công Giáo, cha mẹ sẽ có một sự tin tưởng dành cho những bạn trẻ nào cũng được nuôi dưỡng và lớn lên trong môi trường đó. Họ sẽ yên tâm hơn khi gửi gắm con cái của mình cho một gia đình Công Giáo. Nếu hai bên thông gia đều Công Giáo thì sẽ dễ dàng có cùng quan điểm, lối sống, cách bảo ban, dạy dỗ con cháu.

Ngoài ra, tuy tôn giáo không phải là yếu tố duy nhất quyết định hạnh phúc của lứa đôi, nhưng nếu họ cùng chia sẻ với nhau một niềm tin tôn giáo, đời sống chung cũng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Môi trường Công Giáo là một môi trường rất tốt để nâng đỡ họ. Nếu cả vợ và chồng đều sớm tối cầu nguyện, dâng những lời kinh lên Chúa, tham dự thánh lễ, các bí tích, tham gia các hoạt động của giáo xứ, tích cực sống theo những chỉ dẫn của Giáo Hội… họ sẽ không cảm thấy cô đơn trong cuộc hành trình hôn nhân của mình, con cái của họ cũng sẽ được giáo dục tốt không chỉ về kiến thức nhưng còn về đức tin, nhân bản. Mỗi khi gặp khó khăn, họ có nơi chạy đến để tìm sự nâng đỡ cả về thiêng liêng lẫn vật chất. Những điều này sẽ khó có thể có được khi vợ và chồng thực hành niềm tin của mình ở hai tôn giáo khác nhau.

Ngược lại, cưới một người không Công Giáo sẽ có thể dẫn đến nguy cơ bên Công Giáo lơ là hoặc đánh mất đi đức tin của mình, đặc biệt là khi bên nữ Công Giáo phải về làm dâu bên chồng là người không Công Giáo. Nếu một bên lại theo tôn giáo khác, có những sinh hoạt tâm linh khác, bên Công Giáo có thể sẽ đánh mất điều kiện để thực thi bổn phận Kitô hữu của mình. Con cái sinh ra sẽ khó có điều kiện được giáo dục tốt trong một môi trường tâm linh thuần nhất.

Nói tóm lại, việc các bậc cha mẹ thường đòi hỏi con cái mình phải lấy người cùng theo đạo Công Giáo chỉ là lo lắng cho đời sống đức tin của con cái mình. Nếu trong gia đình, tất cả mọi người đều thờ phượng Thiên Chúa, sớm tối đọc kinh quây quần bên nhau, con cái được giáo dục theo đường hướng đúng đắn, hẳn đó là một gia đình hạnh phúc. Trong khi đó, sự khác biệt trong tôn giáo đôi khi sẽ kéo theo những bất đồng khác trong quan điểm và lối sống, dẫn đến bất hoà, làm ảnh hưởng đến đời sống chung. Vì thế, Giáo Hội khuyến khích bên không có đạo Công Giáo tìm hiểu đạo Công Giáo, học giáo lý để có cùng tôn giáo với người phối ngẫu của mình: khuyến khích chứ không bắt buộc.

Giáo Hội có quy định gì về những hôn nhân khác đạo?

Giáo Hội muốn con cái mình phải luôn được lãnh nhận ơn lành của Chúa. Trong một cuộc hôn nhân, vốn là quãng thời gian quan trọng nhất của đời người, Giáo Hội càng muốn cho hai bên nam nữ được Thiên Chúa chúc lành và thánh hoá cho tình yêu của họ và cho những dự phóng tương lai trong cuộc sống lứa đôi. Ơn lành của Thiên Chúa được ban cho họ ngang qua Bí tích Hôn Phối mà chính cặp đôi là người cử hành, với việc chứng hôn của thừa tác viên Hội Thánh và hai người làm chứng (x.GL 1108 §1). Muốn vậy, cả hai phải là Kitô hữu, nghĩa là đã thuộc về gia đình Giáo Hội. Vì thế, hôn phối giữa một người đã rửa tội và một người chưa rửa tội thì vô hiệu đối với Giáo Hội.

Điều 1086 §1 quy định rằng: Hôn nhân giữa một người đã được Rửa Tội trong Giáo Hội Công giáo hoặc đã được nhận vào Giáo Hội ấy và không rời bỏ Giáo Hội ấy bằng một hành vi dứt khoát với một người không được Rửa Tội, thì bất thành.” Người Kitô hữu nào cố tình thực hiện cuộc hôn phối này sẽ phải chịu hình phạt của Giáo Hội.

Tuy nhiên, trong trường hợp bên kia vẫn nhất quyết không muốn gia nhập đạo Công Giáo vì lý do gì đó, để không cản trở tình yêu chính đáng của cả hai, không gây khó khăn cho bên Công Giáo đồng thời cũng để đảm bảo bên Công Giáo không mất đức tin do cuộc hôn nhân khác đạo này, Giáo Hội vẫn chấp nhận cho họ kết hôn với nhau, với phép của Đức Giám Mục giáo phận. Tuy nhiên, Đức Giám Mục chỉ có thể ban phép này khi họ đáp ứng các điều kiện quy định  ở Giáo Luật, điều 1125:

(1) Bên Công Giáo phải tuyên bố mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin và thành thật cam kết sẽ làm hết sức để tất cả con cái được Rửa Tội và được giáo dục trong Giáo Hội Công Giáo.

Trước hết là bổn phận phải lo cho đức tin của chính mình: bên Công Giáo phải tuyên bố mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin. Những nguy cơ làm mất đức tin có thể là bê trễ chuyện kinh hạt, tham dự thánh lễ, tham dự và lãnh nhận các bí tích… Họ phải tiếp tục chu toàn những bổn phận là người Kitô hữu của mình cách tích cực và xa tránh những điều làm cho họ bị nguội lạnh dẫn đến không còn tin và thực hành những gì đã được dạy liên quan đến Thiên Chúa và Giáo Hội. Ngoài ra, người này còn phải nghĩ đến đức tin cho con cái mình bằng cách cam kết sẽ làm hết sức để tất cả con cái được Rửa Tội và giáo dục trong Giáo Hội Công Giáo. Ở đây, ta chú ý đến cụm từ “làm hết sức”. Có thể có trường hợp là việc rửa tội cho con cái và giáo dục chúng trong Giáo Hội Công Giáo không thể thực hiện được vì sức ảnh hưởng quá lớn từ phía không Công Giáo hoặc vì nguy cơ đổ vỡ hôn nhân chỉ vì chuyện này. Cũng có thể không phải “tất cả con cái” nhưng chỉ một hoặc một vài đứa con được rửa tội. Nhưng bên Công Giáo phải ý thức và cam kết rằng sẽ cố gắng “làm hết sức”. Nghĩa là có cố gắng thuyết phục, tìm mọi cách trong khả năng… để hướng đến mục đích tuyệt vời ấy. Có thành công hay không lại là một chuyện khác.

Thông thường, việc tuyên bố hay cam kết này phải được thực hiện trước mặt vị linh mục (hoặc phó tế được uỷ quyền) bằng văn bản hay lời nói. Nếu các vị này nhận thấy bên Công Giáo không hiểu hoặc không ý thức về những điều mình hứa hoặc nhận thấy người đó không muốn hứa thì có quyền từ chối viết thư giới thiệu để xin phép chuẩn của Đức Giám Mục.

Ta thấy rõ quy định này của Giáo Hội là để nhắm đến việc bảo vệ đức tin của bên Công Giáo và của con cái họ. Giáo Hội không muốn mất đi người con nào của mình, nhưng Giáo Hội cũng không quá đòi buộc để làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hạnh phúc của các Kitô hữu.

(2) Bên Công Giáo phải kịp thời thông báo cho bên không Công Giáo biết những điều bên Công Giáo phải cam kết để họ ý thức thật sự về lời cam kết và nghĩa vụ của bên Công Giáo.

“Phải kịp thời thông báo” không xác định thời điểm rõ ràng và chính xác. Tuy nhiên, được hiểu là diễn ra trước cuộc hôn nhân để cho bên không Công Giáo biết về những gì mà bên Công Giáo phải cam kết và thực thi trong nghĩa vụ và bổn phận của mình. Mục đích nhắm tới là hai bên có thể hiểu và tạo điều kiện cho nhau, hoặc ít là để bên không Công Giáo không gây cản trở. Ở đây nói đến hành vi “thông báo”, dĩ nhiên là cố gắng đạt được sự ưng thuận của bên không Công Giáo, nhưng có vẻ như Giáo Hội chỉ cần yêu cầu việc “họ biết” là đủ rồi.

(3) Cả hai bên phải được giáo huấn về những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân mà không bên nào được phép loại bỏ.

Điều kiện này chắc hẳn có liên quan đến chương trình đào tạo mà giáo phận (hoặc giáo xứ) phải có đối với các cặp đôi chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân. Ít là để bên Công Giáo có thể hiểu và chuẩn bị bản thân cho thật tốt để sống cuộc sống lứa đôi sao cho thật triển nở. Bên không Công Giáo cũng phải “được giáo huấn”, nghĩa là tham dự những buổi học này để hiểu về “mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân”. Người này không cần phải tin nhưng phải biết những đòi hỏi của bên Công Giáo để có thể tôn trọng và muốn kết hôn với người Công Giáo, và cũng với hy vọng là khi hiểu được rồi, họ sẽ giúp bên Công Giáo chu toàn bổn phận của mình, hoặc xa hơn, họ sẽ được cảm hoá và muốn được rửa tội sau đó để cùng người bạn đời và con cái đắp xây một gia đình theo văn hoá Kitô giáo.

Như thế, khi muốn kết hôn với người không phải Công Giáo, phải gặp cha xứ, để xin ngài giúp xin phép của Đức Giám Mục, cùng với một số thủ tục kèm theo tuỳ quy định của từng giáo phận. Giáo Hội quy định những điều này chỉ vì lợi ích đức tin của con cái mình, chứ không hề có ý muốn bắt buộc ai phải theo đạo rồi mới cho cưới.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)

Nguồn: WHĐ

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CHA VƯƠNG

  •  

    https://keditim.net/?p=132506 

    Tại sao trong phụng vụ còn có âm nhạc?

     Hôm qua ăn kẹo Chocola nhiều quá đi… Một ngày zui zẻ, bình an và  yêu thương trong công việc hàng ngày nhé.

     

    Cha Vương

     Thứ 4: 15/02/2023

    GIÁO LÝ: Tại sao trong phụng vụ còn có âm nhạc. Loại nhạc nào thích hợp với phụng vụ? Khi lời không đủ ca ngợi Thiên Chúa, cần âm nhạc trợ giúp chúng ta. (YouCat, số 183)

     SUY NIỆM: Khi ta hướng về Thiên Chúa, ta thường không biết nói gì, hoặc không biết diễn tả làm sao. Lúc đó âm nhạc có thể giúp ta. Trong khi vui sướng hớn hở, lời nói thường biến thành ca hát – do đó mà có ca hát của các thiên thần. Trong cử hành đạo đức, âm nhạc phải làm cho lời cầu nguyện tốt đẹp hơn, đi vào chiều sâu hơn, đánh động trái tim người tham dự, hướng họ lên tới Chúa, và sửa soạn một lễ nhạc cho Chúa.

     

       Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. (Ep 5:19)

     

     Ca hát là cầu nguyện hai lần. (Thánh Augustinô) (YouCat, số 183 t.t.)

     LẮNG NGHE: Suốt cuộc đời, tôi sẽ ca mừng CHÚA, sống ngày nào, xin đàn hát kính Thiên Chúa của tôi. (Tv 104:33)

     

     CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, là Thiên Chúa của con. Thật là chính đáng phải đạo khi con hát vang, ca tụng và tôn vinh Chúa bằng tất cả tâm trí, khả năng và con người con. Xin cho con không ngừng tham dự tích cực vào việc tung hô, đối đáp, luân phiên đọc và ca tụng vinh danh Chúa.

     

     THỰC HÀNH: Bài thánh ca yêu thích nhất của bạn là gì? Nghe đi nghe lại bài đó hôm nay và xin ơn Chúa biết đổi mình một tí để trở nên thánh thiện dễ thương hơn hôm qua nhé.

     

    From: Đỗ Dzũng

     

     
     

     

    CHÚA LUÔN CÒN MÃI. Sáng Tác Phanxicô - Ca Sỹ: Diệu Hiền

     

     

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - PHUNG PHUNG

  •  
    phung phung

    https://keditim.net/?p=131350

     Do đâu con người có linh hồn?

    Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé, ước mong bạn đừng quá bận với công việc phần xác mà quên đi nỗi khắc khoải  của con tim đang khao khát Chúa.

    Cha Vương

    Thứ 4: 8/2/2022

    GIÁO LÝ: Do đâu con người có linh hồn? Linh hồn người ta do Thiên Chúa trực tiếp dựng nên, chứ không phải là "sản phẩm" bởi cha mẹ. (YouCat, số 63)

    SUY NIỆM: Hồn của con người không thể là sản phẩm do tiến trình biến hóa của vật chất, cũng không phải là kết quả của cha mẹ sinh ra. Mỗi con người sinh ra là một ngôi vị độc nhất và linh thiêng, Hội Thánh giải nghĩa mầu nhiệm này như sau: Thiên Chúa ban cho ta một linh hồn không thể chết được, dù khi ta chết ta phải lìa khỏi xác để chờ khi sống lại xác được nhập lại với ta. Nói “Tôi có linh hồn” có nghĩa là: “Thiên Chúa không tạo dựng tôi như một sự vật, nhưng như một ngôi vị và mời gọi tôi có quan hệ không ngừng với Người”. (YouCat, số 63 t.t)

     

      Nhờ có nguồn gốc từ trái đất, con người được liên kết với mọi sinh vật, nhưng chỉ nhờ có linh hồn do Thiên Chúa “thổi vào” họ mới là người. Điều đó ban cho họ một phẩm giá độc nhất, nhưng đồng thời cũng trao một trách nhiệm độc nhất. (Hồng y Christoph Schönborn, 1945, Tổng giám mục Áo)

     

    LẮNG NGHE: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. (Mt 10:28)

     

    CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, xin cho con luôn biết khát khao đi tìm gặp Chúa để nhờ đó tâm hồn được vui vẻ và thảnh thơi.

     

    THỰC HÀNH: Hôm nay mời bạn hãy từ bỏ một nhu cầu vật chất để tâm hồn chỉ biết khát khao ơn Chúa. 

    From: Đỗ Dzũng

     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CHA VƯƠNG

  •  
    phung phung
    Mon, Feb 13 at 11:01 AM
     
     

    https://keditim.net/?p=131960 

    Tại sao các dấu hiệu thánh của phụng vụ cũng cần có những lời nói nữa?

    Chúc bạn một tuần mới thật nhiệt huyết sau trận đấu Super Bowl 2023 hôm qua (giải vô địch bóng bầu dục Mỹ). Ai thắng độ hãy chia sẻ cho kẻ nghèo đói nhé.

    Cha Vương

     Thứ 2: 13/02/2023

    GIÁO LÝ: Tại sao các dấu hiệu thánh của phụng vụ cũng cần có những lời nói nữa? Cử hành phụng vụ có nghĩa là gặp gỡ Thiên Chúa, để cho Người hành động, để nghe Người nói và đáp lời Người. Giống như các cuộc đối thoại luôn cần diễn tả bằng lời nói và cử chỉ. (YouCat, 182 số)

     SUY NIỆM: Chúa Giêsu đã nói với loài người bằng các dấu hiệu và lời nói. Hội thánh cũng làm như thế khi linh mục dâng lễ vật và nói: “Đây là Mình Thầy... Đây là Máu Thầy”. Lời này của Chúa Giêsu làm cho các dấu hiệu trở thành bí tích: dấu hiệu thực hiện cái mà nó có ý chỉ.

     

    Các thiên thần cùng nhau ca lên: “Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, trời đất đầy vinh quang Chúa” (Is 6,3) (YouCat, số 182 t.t.)

    [Khi giảng dậy, Đức Giêsu thường dùng những dấu hiệu trong thiên nhiên để diễn tả mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (x. Lc 8,10). Ngài thực hiện việc chữa lành và củng cố Lời Ngài giảng bằng những dấu hiệu hữu hình hay hành động biểu trưng (x. Ga 9,6 ; Mc 7,33-35 ; 8,22-25).

    Ngài đem lại ý nghĩa mới cho những biến cố và dấu hiệu của Cựu ước, nhất là biến cố Xuất hành và Vượt qua (x. Lc 9,31 ; 22,7-20), vì chính Ngài là ý nghĩa của mọi biểu trưng này GL 1151.

    Trong các cử hành Phụng vụ và Bí tích, một mặt Giáo Hội sử dụng những dấu hiệu và biểu tượng Tân ước hoàn tất các biểu trưng Cựu ước, mặt khác, thanh luyện và tiếp nhận tất cả sự phong phú của những dấu hiệu và biểu tượng trong thiên nhiên và trong đời sống xã hội của nhân loại.] (Nguồn: Phụng Vụ Cử Hành Như Thế Nào?, Lm. Ant Nguyễn Đức Khiết)

     LẮNG NGHE: Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. (Ga 9:6-7) 

    CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, khi tạo dựng con người, Chúa ban cho con có hồn và xác— giác quan và linh thiêng. Và còn phú cho con có khả năng diễn tả và tiếp nhận các thực tại thiêng liêng qua dấu hiệu và biểu tượng vật chất. Xin giúp con biết sử dụng những món quà này cho đúng để cảm nghiệm được Chúa đang hiện diện trong việc cử hành phụng vụ và bí tích, nhất là trong bí tích Thánh Thể. 

    THỰC HÀNH: Tích cực tham dự Thánh Lễ - chú tâm vào lời kinh tiếng hát để hết lòng ca tụng, kết hiệp và tôn vinh Chúa.  

    From: Đỗ Dzũng

     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - TÌM HIỂU VỀ VẠ TUYỆT THÔNG

  •  
    Chi Tran - LEYEN
     
     
     
     


     
    TÌM HIỂU VỀ VẠ TUYỆT THÔNG CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
     
     
    Vạ tuyệt thông (hay dứt phép thông công, rút phép thông công) là một hình phạt của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ dành cho những giáo sĩ và giáo dân phạm trọng tội. Khi một người bị tuyên án vạ tuyệt thông thì về bản chất, người đó bị tách rời ra khỏi sự "hiệp thông" với những tín hữu khác trong Giáo hội, về hình thức là bị khai trừ khỏi tổ chức Giáo hội.
    Theo Giáo luật có hai hình thức vạ tuyệt thông:
    Vạ Tuyệt thông tiền kết và Vạ Tuyệt thông hậu kết.
    1. Vạ tuyệt thông tiền kết: được ấn định cho một số tội. Ngay sau khi phạm, đương sự lập tức bị vạ, không cần Giáo hội phải ra công bố. Theo Bộ Giáo luật hiện hành, hiện nay chỉ còn bảy loại vi phạm bị chế tài Vạ tiền kết:
    1. Qui định của điều 1364, §1: Người bội giáo, lạc giáo hay ly giáo, sẽ bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết.
    2. Qui định của điều 1367: Ai ném bỏ Bánh Thánh, lấy hoặc giữ với mục đích phạm thánh, bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa thánh.
    3. Qui định của điều 1370, §1: Người nào hành hung Đức Giáo hoàng sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa thánh.
    4. Qui định của điều 1398: Ai thi hành việc phá thai, và việc phá thai có kết quả, sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết.
    * Những hành vi hay tội mà một Tư tế hay một Giám mục có thể vi phạm:
    5. Qui định của điều 1378, §1: Tư tế hành động ngược lại các quy định ở điều 977, sẽ bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa thánh.
    6. Qui định của điều 1388, §1: Cha giải tội nào vi phạm trực tiếp ấn bí tích, phải bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa thánh.
    7. Qui định của điều 1382: Giám mục nào không có ủy nhiệm thư Giáo hoàng mà phong chức Giám mục cho người khác, cũng như người nào được thụ phong do Giám mục ấy sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa thánh.
    Trong bảy qui định vạ trên đây, có năm loại Vạ tuyệt thông chỉ được giải do chính Tòa thánh (2, 3, 5, 6 và 7), còn hai loại Vạ kia (1 và 4) có thể được giải do Giám mục giáo phận hay những linh mục được ủy thác.
    2. Vạ tuyệt thông hậu kết: được ấn định cho một số tội. Sau khi phạm, đương sự chưa lập tức bị vạ. Đương sự chỉ bị vạ sau khi Giáo hội ra công bố.
    3. Quyền phạt và tha vạ tuyệt thông
    1. Vạ tuyệt thông hậu kết chỉ ràng buộc phạm nhân sau khi vạ được tuyên án. Một Giám mục có thể ra vạ tuyệt thông hậu kết cho người ngoan cố không chịu sửa lỗi nặng đã được cảnh cáo. Nếu chịu hối lỗi thì Giám mục có thể tha vạ này.
    2. Vạ tuyệt thông là tiền kết nghĩa là đương nhiên bị vạ này khi phạm một trong những tội hay lỗi nghiêm trọng ghi trên đây, chỉ có Giáo hoàng được giải vạ này.
    Tuy nhiên, trong trường hợp nguy tử thì bất cứ linh mục nào cũng được phép tha mọi tội và giải vạ tuyệt thông tiền hay hậu kết.
    Giáo luật nói rõ những hậu quả của vạ tuyệt thông như sau:
    - Không được cử hành hay lãnh nhận mọi bí tích kể cả á bí tích của Giáo hội.
    - Đối với giáo sĩ và tu sĩ: không được hành xử mọi chức vụ, tác vụ hay bất cứ nhiệm vụ nào cũng như bị cấm hưởng dùng các đặc ân đã được ban cấp trước đó.
    Người bị vạ tuyệt thông tạm thời bị tách ra khỏi mọi hiệp thông với Giáo hội cho đến khi vạ được tha bởi người có thẩm quyền trong Giáo hội.
    Vạ tuyệt thông, dù là hình phạt nặng nhất của Giáo hội, nhưng không có nghĩa là lời kết án vĩnh viễn cho ai phải ra khỏi sự hiệp thông với cộng đồng Dân Chúa. Nghĩa là Giáo hội vẫn mở rộng cửa để đón nhận trở lại những ai phạm tội có thiện chí ăn năn và xin được tha tội. Vì thế theo Giáo hội hình phạt này chỉ tạm thời cho những người ngoan cố không chịu ăn năn, sửa lỗi.
    4. Một số vạ tuyệt thông trong lịch sử Giáo hội
    Trong lịch sử Giáo hội đã ra một số vạ tuyệt thông như:
    - Hoàng đế La Mã Frederick II đã bị vạ tuyệt thông 2 lần vào năm 1227 và 1239, vì sự lớn mạnh của vương quốc này vốn đe dọa đến tính chất độc lập của quốc gia Vatican.
    - Năm 1521, Martin Luther người sáng lập ra phong trào cải cách tại châu Âu vào thế kỷ XVI, và giáo phái Tin lành, đã bị Giáo hoàng Leo X ra vạ tuyệt thông. Ông đã chỉ trích việc làm này của Giáo hội, và tấn công vào quyền bính của Giáo hoàng.
    - Vua Henry VIII của Anh quốc đã cố thuyết phục Toà thánh Vatican giải trừ cuộc hôn nhân của ông vào năm 1527 và năm 1533, Giáo hội đã không đả động gì, từ đó vua Henry đã quyết định thành lập ra Giáo hội Anh giáo, tuyên bố ly khai khỏi giáo hội hoàn vũ, Giáo hoàng Clemente VII đã ra vạ tuyệt thông.
    - Vào năm 1949, vạ tuyệt thông được áp dụng cho những cử tri cộng sản tại Ý dưới thời Giáo hoàng Piô XII, người nổi tiếng chống lại Cộng sản, một hành động nhằm vào Đảng Cộng sản Ý. Trong những năm vừa qua, Giáo hội đã không còn đề cập gì nữa đến những người cộng sản hay những người đã từng ủng hộ cho Cộng sản.
    - Juan Peron, tổng thống của Achentina từ năm 1946-1955 và từ năm 1973-1974, đã bị vạ tuyệt thông vào năm 1955 sau khi tiến hành một chiến dịch vận động tranh cử chống lại giới tu sỹ. Sau khi đã hối hận ăn năn, ông đã được cho phép thông công trở lại với Giáo hội.
    - Clemente Dominguez được thụ phong linh mục vào năm 1976 bởi một vị Tổng Giám mục đã phản bội Giáo hội tại Tây Ban Nha, và vài ngày sau đó, ông đã tự phong chính mình lên thành Giám mục. Ông bị vạ tuyệt thông ngay tức khắc. Vào năm 1978, Dominguez lại tự tuyên bố mình là Giáo hoàng, do Đức mẹ Maria hiện ra và báo cho ông ta biết làm như vậy.
    - Vào năm 1988, vị Tổng Giám mục người Pháp là Marcel Lefebvre đã bị trục xuất, vì ngang nhiên coi thường với những cải cách của Công đồng Vatican II (từ năm 1962 – 1965). Toà thánh đã ra vạ tuyệt thông vị Tổng Giám mục này sau khi ông tấn phong 4 vị giám mục mới mà không có sự đồng ý của Toà thánh, các Giám mục mới được phong này, cũng bị vạ tuyệt thông luôn.
    - Tại Washington vào năm 1990, linh mục George A. Stallings và Cộng đoàn Công giáo người Mỹ gốc Phi châu, đã ngang nhiên tách rời ra khỏi Giáo hội Công giáo La Mã, khuyến khích việc phong chức linh mục cho phụ nữ và việc sử dụng thuốc ngừa thai và phá thai, do đó đã bị vạ tuyệt thông.
    - Vào năm 1997, Bộ Giáo lý và Đức tin đã ra vạ tuyệt thông nhà thần học người Srilanca là linh mục Tissa Balasuriya, người mà Toà thánh Vatican cho biết là đã thách thức quyền bính của Giáo hoàng và những giảng dạy của Giáo hội về phép rửa tội, về tội nguyên tổ và sự trinh khiết vẹn toàn của Đức Maria. Balausuriya gọi hành động ra vạ tuyệt thông là độc đoán, và cho rằng đã không được trao cho cơ hội để tự bào chữa.
    - Vào năm 1999, Giáo hội ra vạ tuyệt thông đối với linh mục James Callan, một cựu linh mục người Hoa Kỳ đã cử hành lễ cưới cho những người đồng tính luyến ái và trao cho những người phụ nữ có những vai trò khá nổi bật trên bàn thờ.
    - Ngày 4 tháng 5 năm 2006, Toà thánh Vatican đã thông báo về việc ra vạ tuyệt thông 4 vị Giám mục của Giáo hội Công giáo Trung Quốc được Nhà nước thừa nhận vì đã tấn phong hai vị Giám mục mà không được sự đồng ý của Toà thánh (hai vị được thụ phong và hai vị chủ phong).
    Gần đây nhất, ngày 4-7 và 16-7/2011 Toà thánh đã tuyên bố vạ tuyệt thông với 2 linh mục Lôi Thế Ngân của giáo phận Lạc Sơn và linh mục Huỳnh Bỉnh Chương của giáo phận Sán Đầu (Trung Quốc) đã được tấn phong giám mục ngày 29-6 và 14-7/2011 mà không được Giáo hoàng bổ nhiệm./.
    Sứ Điệp Từ Trời theo thông điệp Bà MDM công khai chống báng Đức Giáo Hoàng Phanxico đương nhiệm theo Giáo luật 1367 triệt 1 là mắc vạ tuyệt thông tiền kiết