24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - GIỚI TRẺ KHÔN NGOAN VÀ THA THỨ

  •  
    Chi Tran

     
     
     
     


     

    GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

    Bài 48: KHÔN NGOAN THÌ THA THỨ

     

    Hỏi: Con thấy đạo Công Giáo luôn dạy người ta yêu thương tha thứ, kể cả với kẻ thù. Nhiều người bạn của con cho rằng ý tưởng đó là cao vời, bất công. Vậy tha thứ có tầm quan trọng như thế nào và làm thế nào để có thể tha thứ?

    Trả lời:

     

    Không có tương quan nào lại không phảng phất “mùi vị” của phiêu lưu, của căng thẳng và của đổ vỡ. Ra khỏi mình để bước vào tương quan với người khác, và mở rộng cánh cửa đời mình cho người khác bước vào căn nhà của mình, là sẵn sàng đi vào một cuộc phiêu lưu, là ý thức và chấp nhận mình có thể bị tổn thương, bị đau đớn. Nhưng nếu chỉ ý thức và chấp nhận những hậu quả tiêu cực xảy ra, thì chưa đủ. Thêm vào đó, cũng cần ý thức để tìm cách chữa lành những vết thương, xoa dịu những khổ đau và xây dựng lại mối tương quan trong hòa bình và tình yêu. Cụ thể hơn, bước đầu tiên cần có là cần phải cảm thông và tha thứ. Tuy nhiên, tại sao lại phải tha thứ và làm thế nào để có thể tha thứ?

     

    Tha thứ là yêu thương và quý trọng chính mình

    Văn hào Nga Leon Tonstoi có kể câu chuyện ngắn ngủi như sau:

    Một người hành khất đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Nhưng mặc cho người khốn khổ van nài, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu được những lời van xin đó, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy viên đá nằm ven đường ném vào người hành khất. Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt hòn đá cho vào bị, rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang viên đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi.”

     

    Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì lừa dối, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó người hành khất cũng chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng. Ông đi theo đoàn người áp tải tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông.

     

    Nhưng cuối cùng nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người ăn xin nhẹ nhàng cất hòn đá vào trong túi của mình rồi tự nhủ: “Tại sao tôi lại mang hòn đá bên mình trong bao nhiêu năm qua. Con người này giờ đây cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”. Sau đó thì anh ta tha thứ cho kẻ thù. Đúng thật, ai khôn thì luôn tha, ai khôn thì mau chóng quên đi lỗi lầm của người khác.

     

    Hòn đá của hận thù cần được để xuống, nỗi đau cuộc sống cần được giải thoát khỏi cái vòng quỷ quyệt gây ra đau khổ. Hận thù được tháo cởi, con người tìm lại được sự thảnh thơi, an bình và nét đẹp trong tâm hồn. Nhưng không chỉ tìm lại nét đẹp bên trong, mà khi tha thứ còn tìm được nét đẹp bên ngoài được diễn tả qua thân xác nữa. Có vài lần bắt gặp những đôi mắt hận thù rực lửa trên khuôn mặt của người sống trong hận thù, chỉ muốn trốn xa họ, vì khi ôm ấp hận thù trong lòng, họ đánh mất đi nét đẹp của đôi mắt và khuôn mặt, dù cho họ có make up biết bao lớp phấn đi nữa. Và từ họ không còn toả ra niềm vui thanh thoát trong sáng nữa, mà một sự trì nặng của tức giận và thù hận đang kéo ghì họ xuống. Người ôm ấp hận thù đang đánh mất vẻ đẹp và niềm vui sống.

     

    Nếu chúng ta cứ “cứng đầu” ôm ấp nỗi đau và nỗi hận trong lòng thì cũng chẳng giải quyết được gì tốt đẹp cả. Walter Kasper đã đặt lại vấn nạn chúng ta sẽ đi về đâu, khi chúng ta không nhân từ và không tha thứ, nếu chúng ta trả thù kẻ gây ra những bất hạnh cho chúng ta, bằng hành động xấu xa của chúng ta – Mắt đền mắt, răng đền răng. Với Kasper, khi nhìn những kinh nghiệm thật đau thương và ghê gớm của những hành động trả thù trong thế kỷ thứ 20, thì giới răn yêu thương cần được cập nhất hoá trở lại, và lòng thương xót nhân từ và tha thứ cần được mọi người nhắc đến như là những hành động khôn ngoan nhất. Chỉ có những ai vượt trên những nấm mồ cũ kỹ, và sẵn sàng đưa tay để bắt tay người khác, để xin được thứ tha, cũng như để sẵn sàng tha thứ, thì những xung đột gây ra nhiều đau thương và làm cho bao dòng máu phải chảy được đặt lại trên bàn để đi tìm hướng giải quyết.

     

    Nói như thế, không phải là chúng ta sẽ giấu nhẹm hay quên khuấy những bất công, những hành động bất nhân. Thật vậy, chúng ta không được phép cất chúng vào trong những ngăn tủ bàn. Chúng ta cần phải thành thật với nhau, đặt những hành động bất nhân và bất công trên bàn, và chúng ta cần phải thú nhận tội lỗi mà chúng ta gây ra với tất cả sự hối lỗi xin thứ tha, cũng như chúng ta mở rộng lòng khoan nhân để tha thứ, để cùng hướng tới một tương lai mới hơn và tốt hơn. Có như thế, thì tinh thần tha thứ sẽ đến, tinh thần này sẽ tẩy trừ nọc độc của thù hận, và làm cho tương quan của chúng ta không còn vướng mắc hai từ ngữ “kẻ thù”. Như vậy, một sự khởi đầu mới sẽ lên đường, và một tương lai mới của chúng ta sẽ tìm thấy lối đi. Trong tinh thần này, thì giới răn yêu thương kẻ thù không còn là một thứ của credo quia absurdum est – một kiểu hành động vô lý, mà là một kiểu của credo quia rationabile est, nghĩa là giới răn yêu thương kẻ thù là một kiểu hành động của lý trí đầy khôn ngoan.

     

    Cũng thế, hận thù như là cỏ dại trong cánh đồng đời mình, nên nếu chúng ta cứ nuôi hận thù, thì cỏ dại có thể lan tràn và theo thời gian sẽ tràn ngập cánh đồng, lấy màu mỡ của đất và lấn át những cây lúa tốt tươi. Vì vậy, nếu còn yêu thương mình và quý trọng cuộc sống của mình, thì chúng ta cần phải thoát ra nỗi khổ đau của hận thù, cần phải nhổ cỏ dại ra khỏi cánh đồng tâm hồn mình và tha thứ thật sự.

     

    Nhớ đến ngày lìa đời và khôn ngoan chấm dứt hận thù

    Trong sách Huấn Ca viết:

    “Hãy nhớ đến ngày tận số
    mà chấm dứt hận thù,
    nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết
    mà trung thành giữ các điều răn” 
    (Hc 28,6).

     

    Một số lần đồng hành với những người đau yếu nặng trên giường bệnh, tôi nhận ra một điều rất đẹp, đặc biệt và khôn ngoan. Người bệnh nặng, trước khi vào cơn hấp hối, luôn khôn ngoan mở lời xin lỗi mọi người trong gia đình, xin lỗi vợ, xin lỗi chồng, xin lỗi con cái, xin lỗi tất cả và xin mọi người trong gia đình và họ hàng cùng bạn bè thân quen tha thứ cho mình. Có lần, một người có mặt đáp lời: “Cháu cũng xin lỗi và cũng xin Cô tha thứ cho cháu về những lời nói, cử chỉ, hành động làm mất lòng Cô”. Hận thù gì nữa, khi chuẩn bị bước vào cõi chết. Thật vậy, cần bước vào cõi chết với đôi mắt thanh thoát từ từ nhắm lại trong an bình, như là bước vào giấc ngủ say của cõi ngàn thu, mà không có hận thù và căng thẳng nào đeo bám. Đó là sự khôn ngoan của đời người.

     

    Tha thứ không chỉ là hành động khôn ngoan, mà còn là một hành động yêu thương bản thân và yêu thương người khác với một tấm lòng bao la, sẵn sàng ban tặng cơ hội cho người mắc lỗi, để họ có thể sửa đổi lại những gì không hay trong quá khứ mà chính họ đã gây ra, để nhờ đó tương lai đời họ được đẹp hơn.

     

    Tha thứ cho người khác là cho họ một tương lai

    “Tha thứ cho người có lỗi với chúng ta, nghĩa là hoàn toàn bỏ qua những chuyện quá khứ. Chấp nhận rằng tương lai vẫn còn trong sáng và chưa bị vẩn đục” (Simon Weil). Ý tưởng của Simon Weil thật mạnh mẽ và rõ ràng. Còn trong thực tế, tương lai thường bị những lỗi lầm “ám ảnh”, đến nỗi khó có thể xây dựng một tương lai cho đẹp. Vì vậy, con người sẽ trao tặng cho nhau “món quà tương lai”, khi con người yêu thương và tha thứ cho nhau.

     

    Qua tha thứ, người ta không để cho sức mạnh tiêu cực của quá khứ ảnh hưởng trên hiện tại và trên tương lai nữa, cả tương lai của người tha thứ lẫn tương lai của người được thứ tha. Ở đây, nếu nhắc đến người được tha, chúng ta lại trở về với dụ ngôn người cha nhân hậu trong Luca. Người con đi hoang được Cha yêu thương, tha thứ và đón nhận trở về cách rộng lượng vô cùng. Cách hành xử của Cha vượt trên tất cả những thành kiến và khổ đau, để vẫn giữ được một cái nhìn thật thanh cao của tình yêu tràn đầy sự cảm thông và tha thứ. Cái nhìn thanh cao này không chỉ trao lại cho người con hoang chiếc nhẫn diễn tả vị thế làm con, mà cái nhìn này còn mở ra cho người con, đã mất nay tìm thấy, đã chết nay sống lại, một chân trời mới, một tương lai với những viễn tượng mới đầy tràn tình yêu thương. Hơn nữa, qua sự tha thứ của người Cha tốt lành khôn ngoan dành cho con mình, bầu khí của gia đình và cộng đoàn cũng tìm lại sức sống mới.

     

    Tha thứ đem lại sức sống mới cho gia đình và cho cộng đoàn

    Tại bàn tiệc của lòng nhân hậu và tha thứ, người con hoang đàng trong Tin Mừng tìm lại vị trí “Cậu” trong gia đình. Niềm vui của “Cậu” chắc là lớn lắm. Niềm vui đó được hòa chung với niềm vui của nhiều người trong nhà. Niềm vui đó cũng chính là sức sống mới mà gia đình và cộng đoàn của “Cậu” nhận được qua sự tha thứ, để mọi người bắt đầu xây dựng lại bầu khí yêu thương.

     

    Trở về với Đức Kitô chúng ta thấy, sau khi tỏ lòng nhân từ và tha thứ cho Gia–kêu, cho Lê–vi, Ngài đã đến gia đình của họ để chia sẻ bàn tiệc với họ, nghĩa là qua sự tha thứ cho một thành viên, Đức Kitô cũng muốn đem lại một làn gió mát cho gia đình và cộng đoàn của họ. Nói cách khác, sự tha thứ không chỉ quan trọng đối với đời sống cá nhân, mà cộng đoàn cũng nhận được những ảnh hưởng rất tích cực từ sự tha thứ cho mỗi thành viên trong gia đình và trong cộng đoàn. Nếu tội lỗi làm đổ vỡ cộng đoàn, thì sự tha thứ nối kết và xây dựng lại cộng đoàn. Vâng, “nếu cộng đoàn là nơi tội lỗi hiện diện, thì chúng ta phải mạnh dạn xin mọi người tha thứ cho chúng ta, và chúng ta cũng cần tha thứ cho mọi người”.

     

    Trong bài giảng trên núi, Chúa Giê–su đã dạy rằng: “Vậy, khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23–24). Sự chia cách và khuynh hướng tạo nên những căng thẳng không được phép “có mặt” trong đời sống cộng đoàn và giữa anh chị em với nhau. Nếu không, thì mọi người trong cộng đoàn sẽ không xứng đáng dâng lễ để thờ lạy Thiên Chúa. Nói khác đi, sự bất hòa của anh chị em với nhau làm rách mối tương quan giữa họ với Thiên Chúa. Lễ tế dâng lên Thiên Chúa của cộng đoàn cần được phát xuất từ những con tim hiệp nhất, yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho nhau.

     

    Thật vậy, chúng ta không thể đi vào cộng đoàn để cầu nguyện, để dâng của lễ lên Chúa, cũng như để sống tinh thần hiệp thông yêu thương, nếu lòng chúng ta nặng trĩu những nỗi đau, những nỗi hận đang trì kéo chúng ta xuống những hố sâu đen đủi. Cộng đoàn của Tin Mừng được thành lập trên tinh thần tha thứ. Cộng đoàn đó chỉ hiện hiện ở nơi mà tất cả các anh chị em, nghĩa là từng cá nhân một trong cộng đoàn có được một chỗ để hiện diện, được góp mặt vào trong một tập thể chung, vượt trên sự khác biệt về tính tình, và bất chấp mặt ưu và mặt khuyết của họ. Trong cộng đoàn đó, anh chị em chấp nhận mỗi người như họ là, chấp nhận tất cả những lỗi lầm và tội lỗi họ gây ra.

     

    Tha thứ thuộc về cuộc sống thường ngày của người Công Giáo

    Là người Công Giáo, chúng ta từ thuở nhỏ ai cũng thuộc làu làu Kinh Lạy Cha. Trong đó có lời cầu nguyện: xin tha thứ cho chúng con, như chúng con tha thứ cho những người có lỗi với chúng con. Lời cầu nguyện này thật đặc biệt, vì nó đưa chúng ta đi vào thực tế đời sống hằng ngày, với biết bao đụng chạm, với biết bao bực dọc, cũng như không thiếu tức tối, ghen ghét và hận thù. Có những người đã chia sẻ rằng, càng đọc lời kinh này, thì càng nhức nhối, vì thật là khó để tha thứ, đặc biệt tha thứ cho những người đã gây ra biết bao đau khổ cho cuộc đời mình. Đó là một thực tế không ai chối cãi được. Thực tế đó cũng chỉ ra giới hạn của con người chúng ta, vì vậy chúng ta cần có ơn Chúa ban, cần được Thánh Thần Chúa hướng dẫn, hoán chuyển mọi nỗi hận thù tức giận trong lòng, để từng bước mặc lấy chính tinh thần của Đức Ki–tô, sống tha thứ thật sự cho kẻ thù.

     

    Cùng cộng tác với ơn Chúa ban, chúng ta liên lỷ tập sống tha thứ, dù khó đến mấy. Đúng vậy, khó thì mới tập, mà càng khó thì càng phải nỗ lực tập mỗi ngày. Một tâm tình có thể giúp chúng ta tập sống tinh thần tha thứ, là chúng ta nên nhớ lại sự tha thứ của Chúa dành cho chúng ta như thế nào. Biết bao lần lầm lỡ, biết bao tội lỗi chúng ta gây ra, làm thương tổn người khác, làm thương tổn đến chính bản thân mình, và xúc phạm đến Chúa, nhưng Chúa đều tha thứ tất cả. Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi, Ngài đã nói lời xin vâng của tình yêu đối với mỗi người chúng ta, thì lời xin vâng đó có giá trị đời đời. Sự tha thứ của Chúa luôn “có chỗ” trong cuộc đời của chúng ta.

     

    Nhưng trong tha thứ có giới hạn về thời gian và không gian không? Có lần Chúa Giêsu đòi phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy (Mt 18,21–22). Đức hồng Y Martini đã làm một con tính, lấy 1440 phút của mỗi ngày để chia với 490 lần là kết quả của 70 lần 7, thì trong một ngày, cứ gần 3 phút cần phải tha thứ một lần. Như thế tha thứ cho nhau là thái độ thường xuyên và cần thiết cho cuộc sống thường ngày. Còn đối với Bonhoeffer, một thần học gia và mục sư bị phát xít Đức giết vào thế chiến thứ hai, thì tha thứ không cần con số. Đừng đếm bao nhiêu lần cần phải tha thứ. Tha thứ không “quen” số lượng và không biết đến “chấm hết”. Tha thứ là thái độ sống hằng ngày và không ngừng nghỉ.

     

    Có một phương cách khác giúp tập tha thứ mỗi ngày, là chúng ta nên dành vài phút ngắn ngủi vào đêm khuya để nhìn lại ngày sống, trước khi đặt mình lên giường nghỉ. Trong cầu nguyện chúng ta xin Chúa Thánh Thần trở thành “nhà tư vấn”, để xin Ngài giúp chúng ta nhận ra những cảm xúc giận hờn, bực tức và hận thù trong ngày chúng ta có. Chúng ta tự hỏi: Cảm xúc tiêu cực đó đến từ đâu vậy? Chúng ảnh hưởng trên tôi trong ngày sống như thế nào và chúng dẫn tôi đến đâu? Sau đó, trong âm thầm và khiêm tốn xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta biết dâng lên Chúa những cảm xúc tiêu cực đó, và nếu có ai đó trong ngày đã làm cho chúng ta giận hờn, tức tối và hận thù, thì xin Chúa dạy chúng ta biết cảm thông mở lòng tha thứ cho họ. Cuối cùng, chúng ta dâng lời cầu nguyện cho người đã làm mất lòng chúng ta.

     

    Chắc chắn khi nhìn lại như vậy xong, thì Chúa sẽ vui lòng và ban lại cho chúng ta bình an và sự thảnh thơi, để lên giường ngủ thật ngon. Nếu mỗi ngày được Chúa Thánh Thần tư vấn và hướng dẫn, và khôn ngoan bước theo đường Ngài chỉ dẫn, thì niềm vui sống luôn hiện diện trên hành trình cuộc đời.

     

    Lời kết

    Khôn ngoan thì tha thứ. Tinh thần tha thứ đóng một vai trò quan trọng và nền tảng trong đời sống làm người, làm Ki–tô hữu.

     

    Ý thức tinh thần tha thứ thật khó đối với phận người, nên chúng ta cùng chạy đến với Chúa. Xin mời bạn cùng bắt đầu tập sống tha thứ với lời cầu nguyện sau đây:

     

    Lạy Chúa Giê–su, cùng với Chúa, con xin tha thứ cho kẻ thù của con.
    Như Chúa, con xin cầu nguyện cho họ và xin Chúa đoái nhìn đến họ,
    để họ cũng được Chúa yêu thương, như Chúa yêu thương con,
    và cuối cuộc đời, Chúa cũng đón nhận cả kẻ thù và cả con
    vào hưởng hạnh phúc bên Chúa, Đấng Yêu Thương và luôn tha thứ. Amen.

     

    (Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 3, Nxb Tôn Giáo)

     

    Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ

     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LỄ LÁ - LM TRẦM THIÊN THU

  •  
    Chi Tran

     
     
     
     
     


    9 điều cần biết về lễ Lá

    Chúa Nhật Lễ Lá khởi đầu Tuần Thánh. Ngày này không cử hành riêng lẻ mà cử hành hai sự kiện rất quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu. Đây là 9 điểm chúng ta cần biết:

    9 điều cần biết về lễ Lá

    1. Chúa Nhật Lễ Lá là gì?

    Chúa Nhật Lễ Lá còn gọi là Chúa Nhật Khổ Nạn. Gọi là Chúa Nhật Lễ Lá phát xuất từ việc tưởng nhớ Chúa Giêsu hiển hách vào Thành Giêrusalem, được dân chúng vừa cầm lá vừa tung hô (Ga 12:13). Gọi là Chúa Nhật Khổ Nạn vì Bài Thương Khó được đọc vào ngày này.

    Theo tài liệu chính thức Paschales Solemnitatis nói về việc cử hành các ngày lễ liên quan Lễ Phục Sinh: Tuần Thánh bắt đầu từ Chúa Nhật Lễ Lá, liên kết việc tiên báo cuộc rước hiển hách với việc công bố cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Việc liên kết giữa hai sự kiện này của Mầu nhiệm Vượt qua được tỏ hiện, được giải thích việc cử hành ngày này và giáo lý về ngày này.

    2. Một điểm quan trọng của ngày này là cuộc rước lá trước Thánh Lễ. Tại sao chúng ta làm vậy?

    Tài liệu Paschales Solemnitatis cho biết: Theo truyền thống, việc tưởng nhớ Chúa Giêsu vào Thành Giêrusalem được cử hành bằng cuộc rước trọng thể, mọi người hát noi gương các trẻ em Do Thái đồng thanh tung hô Đức Giêsu: “Thánh, thánh, thánh! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”.

    Cuộc rước lá được thực hiện trước Thánh Lễ, có thể vào chiều tối Thứ Bảy hoặc Chúa Nhật. Lá được làm phép và mọi người cầm lá trong cuộc rước, tưởng nhớ lúc Chúa Giêsu hiển hách vào Thành Giêrusalem.

    3. Phải dùng lá cọ, lá dừa?

    Không nhất thiết phải dùng lá cọ, lá dừa. Có thể dùng các loại cành lá khác. Cuộc rước lá kỷ niệm việc Chúa Giêsu vào Thánh Giêrusalem là cuộc vui mừng, mọi người cầm lá đã được làm phép, sau đó đưa lá về nhà.

    4. Có cần hướng dẫn giáo dân?

    Rất cần. Giáo dân nên được hướng dẫn về ý nghĩa của cuộc rước để họ hiểu tầm quan trọng của cuộc rước. Đây là dịp họ được nhắc nhở rằng họ cần tham dự cuộc rước để tôn vinh Con Thiên Chúa.

    Lá được làm phép và được giữ lại, nhưng đừng coi lá đó như “bùa hộ mệnh” (amulet), hoặc coi lá đó có thể chữa bệnh, trừ tà, hoặc ngăn ngừa tai họa, vì như vậy là mê tín dị đoan. Lá đó được giữ tại nhà để biểu hiện niềm tin vào Đức Kitô là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Độ, Ngôi Hai Thiên Chúa.

    5. Chúa Giêsu làm gì trong khi vào Thành Thánh?

    Chúa Giêsu là Vua các vua nhưng rất khiêm nhường. Ngài cưỡi lừa con vào Thành Thánh chứng tỏ Ngài là Vua. Từ nay chúng ta hãy chý ý: Chúa Giêsu thực sự xưng vương. Ngài muốn con đường Ngài đi và hành động của Ngài được hiểu rằng các lời hứa Cựu ước được hoàn tất nơi Ngài... Kinh Thánh cho biết rõ: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9). Ngài là Vua nhưng Ngài không có ý thu nạp quân đội hoặc âm mưu lật đổ chính quyền La Mã. Quyền hành của Ngài ở trong sự nghèo khó của Thiên Chúa, sự bình an của Thiên Chúa, sức mạnh đó có ơn cứu độ.

    6. Phản ứng của đám đông biểu hiện điều gì?

    Đám đông tung hô Chúa Giêsu chứng tỏ họ nhận biết Ngài là Đấng Thiên Sai. Họ trải áo cho Ngài đi qua là làm truyền thống Ít-ra-en, như khi dân chúng tôn vinh ông Giê-hu: “Họ vội vàng lấy áo choàng trải lên đầu thềm cấp, dưới chân ông. Họ thổi tù và, rồi hô lên: Giê-hu làm vua!” (2 V 9:13). Hành động của các môn đệ là động thái tôn phong theo truyền thống Vua Đa-vít, chứng tỏ niềm hy vọng vào Đấng Thiên Sai.

    Đoàn người đến Giêrusalem với Chúa Giêsu được bắt gặp trong sự nhiệt thành của các môn đệ. Họ trải áo trên đường khi Chúa Giêsu đi qua, họ bẻ những cành lá vừa vẫy chào vừa tung hô chúc tụng: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mc 11:9-10; x. Tv 118:26).

    7. Chữ “Hosanna” nghĩa là gì?

    ĐGH Benedict XVI giải thích: Nguồn gốc từ này là lời khẩn cầu, chẳng hạn như: “Xin đến cứu giúp chúng tôi!”. Các tư tế lặp lại lời cầu này vào ngày thứ bảy của kỳ Lễ Lều Tạm, trong khi đi vòng quanh bàn thờ bảy lần, như lời khẩn khoản cầu mưa. Lễ Lều Tạm dần dần thay đổi từ lễ cầu xin trở thành lễ ca tụng, là tiếng kêu vui mừng.

    Vào thờ Chúa Giêsu, từ này cũng ngụ ý Đấng Thiên Sai. Khi tung hô “thánh, thánh, thánh”, chúng ta thấy có cảm xúc phức tạp của đám đông theo Chúa Giêsu và các môn đệ vào Thành Thánh: Vui mừng chúc tụng, hy vọng Đấng Thiên Sai đến, mong chờ Vương Triều Đa-vít, đặc biệt là Vương Quốc Thiên Chúa đến để quốc gia Ít-ra-en được tái lập.

    8. Chỉ vài ngày sau, chính đám đông đón rước Chúa lại đòi đóng đinh Chúa Giêsu?

    Cả bốn Phúc Âm đều nói rõ rằng lòng kính trọng Chúa Giêsu khi Ngài vào Thành Giêrusalem được thể hiện nhưng không phải tất cả đều là cư dân Giêrusalem. Thánh Mát-thêu cho biết: “Khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: ‘Ông này là ai vậy?’. Dân chúng trả lời: ‘Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy” (Mt 21:10-11).

    Người ta nghe nói có một ngôn sứ xuất thân từ Na-da-rét, nhưng Chúa Giêsu không mấy quan trọng đối với Giêrusalem, thế nên người ta không biết Ngài là ai. Đám đông tỏ lòng kính trọng Chúa Giêsu tại cửa ngõ vào Thánh Giêrusalem không là đám đông đòi đóng đinh Ngài.

    9. Trình thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu thế nào?

    Tài liệu Paschales Solemnitatis cho biết: Trình thuật cuộc khổ nạn chiếm vị trí đặc biệt. Trình thuật này – tức là Bài Thương Khó – nên được hát hoặc đọc theo truyền thống, nghĩa là có ba người thể hiện Bài Thương Khó: Một người đóng vai Chúa Giêsu, một người kể chuyện, và một người đóng các vai khác.

    Khi đọc Bài Thương Khó, không có đèn nến hoặc xông hương, cũng không làm dấu Thánh Giá. Vì lợi ích tâm linh, Bài Thương Khó nên được công bố đầy đủ.
      
    TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ NCRegister.com)

     

     
     

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO = THẮC MẮC BẠN TRẺ


  •  
    Chi Tran

     
     
     
     
     


    GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

     NGƯỜI CÔNG GIÁO CÓ NÊN ĐI XEM BÓI?

     

    Hỏi: Con hay nghe bạn kể về chuyện đi xem bói, con cũng tò mò và muốn thử xem sao. Không biết quan niệm của Giáo hội Công Giáo về vấn đề này như thế nào?

     

    Trả lời:

    Đây là chủ đề thú vị và gây nhiều tranh cãi trong các tôn giáo[1]. Thú vị vì bản tính con người muốn biết tương lai, số phận của mình sẽ ra sao; tranh cãi vì không chỉ thời nay, từ xa xưa, các tôn giáo đã bàn luận đến hiện tượng này. Cụ thể chúng ta thử xem Thiên Chúa nói gì về xem bói trong Kinh Thánh. Từ đó, chúng ta có thể thấy được giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề này. Sau cùng là cách thực hành đức tin của người tín hữu trước những lôi quấn của mê tín dị đoan, bói toán.

     

    1. Giải thích từ ngữ

    Xem bói nghĩa là muốn thấy trước tương lai của mình sẽ ra sao. Dĩ nhiên chúng ta không có khả năng biết chính xác về tương lai của mình. Thế nhưng, trước giờ có nhiều nhà xem bói về: công danh, sự nghiệp, tình yêu và gia đạo… Họ nói về tương lai tốt xấu của một người. Đồng thời họ cũng giúp giải hạn điềm xấu cho người đó. Tại Việt Nam, chúng ta thường thấy người ta đi xem ngày lành tháng tốt để xây nhà, động thổ, cưới hỏi, v.v.

     

    Hình thức cao siêu hơn là gọi hồn để giải mã tương lai. Người ta kháo với nhau một số người có khả năng gọi được những người thuộc thế giới bên kia về. Khi đó, họ sẽ nói về tương lai của chúng ta. Nghe có vẻ hoang đường dưới cái nhìn của khoa học, nhưng đó lại là truyền thuyết thực hư lẫn lộn.

     

    Tôi biết có nhiều người đi xem bói. Họ chia sẻ với tôi những điều đã xảy ra. Có phần đúng, có khi sai. Một vài kiểu xem bói họ có thể chọn. Chẳng hạn:

     

    - Xem tử vi: đây là hình thức xem bói số phận đời người dựa trên Kinh Dịch, Can Chi, Ngũ Hành…(Vì không phải là thầy bói, nên tôi chẳng thể biết nhiều hơn!)

     

    - Tử Bình Tứ Trụ. Tử Bình là một môn khoa học xem bói dựa trên giờ, ngày, tháng, năm sinh giống như Tử Vi.

     

    - Xem bói chỉ tay. Bói chỉ tay là môn bói dựa trên hình dáng, màu sắc cũng như các đường trên lòng bàn tay để đưa ra luận đoán.

     

    - Nhân tướng học. Nhân tướng học là phạm trù xem bói rộng hơn của bói chỉ tay. Đây là môn bói dựa trên hình tướng, dáng vóc, lời nói, sắc thái…

     

    - Bói dịch (Gieo quẻ). Người xem bói gieo đồng xu, gieo quẻ để nhận được thông điệp. Dịp lễ Tết nhiều người vẫn đi gieo quẻ đầu năm.

     

    Còn nhiều hình thức bói nữa. Nhưng tựu chung, mục đích của xem bói là nhằm biết trước tương lai của mình ra sao.

     

    2. Kinh thánh nói gì về bói toán?

    Ngay chương thứ 3 của sách Sáng Thế, chúng ta thấy con rắn cám dỗ con người. Hắn đã thủ thỉ, thuyết phục Eva ăn trái cấm. Số là Thiên Chúa cảnh báo Ađam và Eva không được ăn trái ở giữa vườn Địa Đàng. Nếu ăn, họ sẽ phải chết. Con rắn nói ngược lại: “Chẳng chết chóc gì đâu!”. Hắn bồi thêm một câu đầy tiên đoán: “Ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” (St 3,5).

     

    Qua câu nói trên, chúng ta biết tà ý của con rắn. Hắn muốn hai ông bà bất tuân Thiên Chúa, kiêu ngạo và muốn vượt lãnh vực của mình. Ăn trái ấy không chỉ không ngang bằng với Thiên Chúa, mà còn bị Thiên Chúa đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng. Đó là thân phận của con người. Một mặt, con người muốn làm chủ cuộc đời mình, có thể đối phó mọi hiểm nguy và trắc trở xảy đến. Mặt khác, con người hằng bất lực trước tương lai của mình. Con người không toàn năng. Do đó, chính khi con người ước mong làm chủ mọi thứ, họ trở nên kiêu ngạo và đánh mất chính mình. Kết quả là đau khổ cứ ôm ghì lấy họ.

     

    Một trường hợp điển hình về việc xem bói là vua Sa–un của Ít–ra–en. Ông là vị vua tài đức, đẹp lòng Thiên Chúa. Tuy vậy, có những lần vua hỏi ý Thiên Chúa về tình hình chiến sự với quân Phi–li–tinh, Ngài vẫn im hơi lặng tiếng. Ông chạy đi xem bói!

    – Hãy tìm cho ta một bà đồng bóng, để ta thỉnh ý bà ấy. 

    Và triều thần đã giới thiệu với Vua một bà đồng bóng ở Ên Đo. Thế là vua Sa–un cải trang, mặc áo khác rồi ra đi, có hai người cùng đi với vua. (1 Sm 28,3–25)

     

    Người đồng bóng là người có khả năng nối kết người sống với những linh hồn thế giới bên kia. Họ tin mình có khả năng gọi hồn để về trình bày những gì sẽ diễn ra. Các nhà nghiên cứu cho thấy hiện tượng này giống với lên đồng tại Việt Nam.

     

    Trong sách Luật, Ðức Chúa cũng cảnh báo người ta không được làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với Ðức Chúa. (Dnl 18,9–20).

     

    Luật Cựu Ước cũng ngăn cấm đi xem bói hoặc lên đồng (Lv 19,31; Đnl 18,11). Điều ấy cho thấy ngay từ thời xa xưa đã có hiện tượng huyền bí này. Sang thời Tân Ước, nhiều lần Chúa Giêsu nhắc con người: “Đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (x. Mt 6,34)[2]. Trong Giáo Hội sơ khai, chúng ta thấy nhiều người từ bỏ trò ảo thuật, bỏ xem bói để chọn Chúa Kitô (x. Cv 19,18–19).

     

    3. Có nên đi xem bói?

    Tiếc là nhiều người đi theo Chúa, nhưng có khi đến với cả thầy bói, phù thủy. Bởi đó có lần Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ:

     

    “Ma thuật không phải là Kitô giáo. Những điều được thực hiện để đoán tương lai hoặc đoán nhiều thứ hoặc thay đổi tình huống cuộc sống không phải là Kitô giáo. Ân sủng của Chúa Kitô mang đến cho bạn tất cả mọi thứ: hãy cầu nguyện và phó thác chính mình nơi Chúa.”[3]

     

    Dĩ nhiên Giáo Hội lên án những trò bói toán và ma thuật. Tương lai luôn thuộc về sự quan phòng của Thiên Chúa. Con người muốn điều khiển tương lai, nghĩa là muốn ngang bằng Thiên Chúa. Vì thế Giáo Lý Công Giáo dạy rằng:

     

    “Phải loại bỏ mọi hình thức bói toán: cậy nhờ Satan hay Ma Quỷ, gọi hồn người chết hay những cách khác ngỡ rằng sẽ đoán được tương lai. (x. Đnl 18,10; Gr 29,8). Coi tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, giải điều mộng, xin xăm, bói toán quá khứ vị lai, đồng bóng, là những hình thức che giấu ước muốn có quyền trên thời gian, trên lịch sử và trên cả con người, cũng như ước muốn liên kết với các thế lực huyền bí. Điều này nghịch lại với lòng tôn kính và thần phục chỉ dành cho Thiên Chúa.” (số 2116).

     

    Bạn thân mến,

    Là con người ai cũng tò mò, như bạn nói về vấn đề xem bói. Chỉ những ai hiểu rõ vấn đề, họ mới đi đúng đường. Thật tốt khi bạn quan tâm đến thực hành phổ biến này ở Việt Nam. Tôi biết nhiều người Công Giáo cũng có lần đi xem bói. Xin đừng theo họ! Nếu ai từng vướng vào điều ấy, xin ăn năn trở về với Thiên Chúa. “Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng.” (Ep 4,27).

     

    Về vấn đề xem bói, rất nhiều người đã đoán được cách các thầy bói muốn trục lợi. Thậm chí nhiều thầy bói giả mạo muốn lừa tình, lừa tiền những ai dẹ nhạ cả tin. Đừng quên, họ có nhiều chiêu trò để đưa người xem bói vào trạng thái hoang mang và phụ thuộc. Từ đó, nhiều người xem bói xem thầy bói như thần thánh và luôn đến tham vấn và làm theo!

     

    Chúng ta chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa, Đấng làm chủ muôn loài, không gian và thời gian. Những điều bí nhiệm chưa bao giờ thuộc về con người. Hẳn là con người có quyền tìm hiểu về những điều ấy. Đừng quên làn ranh giữa tìm hiểu và thực hành nó là rất mong manh. Ước gì người Công Giáo luôn chạy đến với Thiên Chúa trước; sau đó họ sẽ tìm được những câu trả lời hợp ý Chúa.

     

    4. Vài chỉ dẫn tránh xem bói

    Thực tế nhiều chúng bạn cứ tỉ tê, rủ rê tôi đi xem bói. Họ chia sẻ chân thành, thuyết phục và cả mời gọi. Do đó, tôi rất dễ ngã lòng. Trong trường hợp ấy, tôi nghĩ mình cứ nghe với thái độ tôn trọng, nhưng giữ vững lập trường của mình. Bên cạnh đó, hãy trò chuyện với những người khôn ngoan, nhất là với cha giải tội. Linh mục ấy biết cách an ủi và hướng dẫn bạn.

     

    Dường như người đi xem bói khó thể thoát ra. Nghĩa là xem bói được một lần, họ sẽ vướng vào vòng xoáy của nó. Giải hạn, cầu may và tiên đoán luôn ám ảnh, thu hút người ta. Rốt cuộc động chút là đi xem thầy bói. Như thế thì mệt lắm! Ngược lại, người Công Giáo có Thiên Chúa là Đấng biết trước mọi sự. Ngài từ từ hé lộ cho con người những gì chúng ta cầu xin. Hãy chạy đến với Ngài để cầu nguyện. Trong bầu không khí đó, Thiên Chúa cùng với con người khám phá những điều thú vị ở tương lai. Có người nói vui rằng: “Giả như biết trước mọi sự, cuộc sống này sẽ tẻ nhạt vô cùng!” Điều ấy có vẻ đúng. Hơn nữa, “Hãy ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng nơi Người, Người sẽ ra tay.” (Tv 36,5).

     

    Nếu bạn muốn thay đổi tương lai, hãy bắt đầu từ chính khả năng của bạn. Thành công, may mắn hoặc tương lai tươi sáng hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ đúng đắn của chúng ta. Nếu thái độ ấy cộng với ơn của Thiên Chúa nữa, cuộc sống của chúng ta sẽ thật nhiều bình an, hạnh phúc. Hãy làm chủ cuộc đời mình trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Xin đừng đánh cược chính mình vào chuyện xem bói, mê tín dị đoan. Tôi tin bạn không muốn rơi vào bước đường u mê ấy.

    Chào bạn.    

    (Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 3, Nxb Tôn Giáo, 2020)

     

    Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

     
     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM CẨN CHUYỂN XỨ?


  •  
    Chi Tran
     
     
     
     
     


    VÌ SAO LINH MỤC CẦN PHẢI CHUYỂN XỨ ?
     
    (Nhiều người tỏ thái độ hững hờ, buồn hoặc vui trước thông tin thuyên chuyển và bổ nhiệm LM lần này của Giáo Phận. Bài viết này sẽ mở ra cái nhìn mới hơn.)
     
    Nhiều người không hiểu cứ nghĩ rằng, 1 Linh mục nào bị chuyển xứ, là do vị Linh mục đó có lỗi rất nặng nên bị Đức Giám mục phạt, thuyên chuyển đi nơi khác. Rồi người ha hả, kẻ khóc hu hu. Điều đó chỉ đúng ở 1 số trường hợp.
    Còn chuyển xứ là chuyện rất đỗi bình thường trong đời sống Giáo hội. Giáo hội luôn luôn chuyển mình, tươi trẻ và mới mẻ.
    Thường thì các Linh mục cứ 5 năm cần phải chuyển xứ 1 lần.
    Tại sao các Linh mục cần phải chuyển xứ?
    Để hiểu được vấn đề một cách thấu đáo, chúng ta hãy cùng nhau đọc kỹ và ngẫm sâu 3 câu chuyện sau đây:
     
    CÂU CHUYỆN SỐ 1:
    Một cha xứ kia đang coi sóc một giáo xứ lớn ở vùng quê. Tuy giáo xứ đó rất nề nếp đạo đức nhưng lại rất nghèo. Trong thời gian coi xứ, thì Ngài đã kêu gọi cộng đoàn dân Chúa quyết tâm xây dựng 1 ngôi thánh đường nguy nga lộng lẫy.
    Ngài cùng Ban hành giáo vào Nam ra Bắc để kêu gọi ân nhân đống góp cho công trình thế kỷ. Công trình đã tiến hành được gần 5 năm, và chỉ còn 1 tháng nữa là sẽ hoàn thành và ngày khánh thành đã được định liệu.
    Nhưng đùng một cái, Đức Giám mục giáo phận đã quyết định thuyên chuyển vị Linh mục đó đi xứ khác. Và việc thuyên chuyển sẽ thực hiện ngay trong tuần tới.
    Vị Linh mục tuy mặt đượm buồn, nhưng vẫn vui vẻ xin vâng với Bài sai của Đức Cha Giáo phận.
    Còn cộng đoàn giáo xứ thì thất vọng vô cùng. Họ đông đảo kéo lên khiếu nại với Đức Cha rằng:
    Thưa Đức Cha, tại sao giáo xứ chúng con đang yên ổn, nề nếp, mọi sự đều tốt đẹp và chúng con đang bận rộn xây dựng công trình dở dang mà không để cha xứ ở lại? Hoặc nếu có chuyển, thì để cha ở lại cho đến khi khánh thành nhà thờ mới rồi đi đâu thì đi?
    Đức Cha trả lời: Vậy tôi hỏi các ông bà nhé. Như các ông bà biết, tôi còn rất trẻ, lại đang coi sóc giáo phận rất quan trọng và bận rộn, nhưng nếu ngay bây giờ Chúa gọi tôi về đời sau, thì tôi có chối được không?
    Hoặc nếu Chúa gọi các ông các bà về với Ngài ngay lúc này, rồi các ông các bà nói với Chúa rằng, con còn bận việc này quan trọng, việc kia dở dang, rồi có từ chối Chúa được không?
    Chúng ta là con cái Chúa, chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Cứ Chúa gọi là ta lên đường. Chúa sai ta đi đâu, ta vui vẻ đi đấy. Ta không có quyền do dự, không có quyền tính toán.
    Đừng quá lo lắng gì cả. Việc của Chúa, cứ để Chúa lo. Chúa định, rồi Chúa sẽ liệu cho mọi sự trở nên tốt đẹp.
    Các Linh mục là những người luôn vâng lời theo tiếng Chúa gọi mọi lúc, mọi nơi, mọi thời, mọi hoàn cảnh.
    Các Ngài được xức dầu tấn phong để đem Tin Mừng cho người nghèo khó.
    Trước khi thụ phong, các ngài đã thề hứa trước cộng đoàn dân Chúa luôn tôn kính và vâng phục vô điều kiện Đức giám mục thay quyền Chúa ở trần gian.
    Tại Sao Các Linh Mục Cần Phải Chuyển Xứ ?
     
    CÂU CHUYỆN SỐ 2:
    Một Linh mục kia còn rất trẻ, Ngài đang coi sóc 1 giáo xứ giàu có ở vùng thành phố. Ngài có đầy đủ tiện nghi vật chất, nào nhà cao cửa rộng, nào là máy vi tính tân thời, nào laptop xịn, nào ô tô đẹp, nào tủ lạnh đời mới, nào điện thoại thông minh.
    Cuộc sống đang êm đềm yên ổn.
    Đùng 1 cái, Đức Cha giáo phận quyết định thuyên chuyển Ngài đến 1 giáo xứ vùng núi xa xôi hẻo lánh, không điện, không tiện nghi, không internet…
    Ngài mặt mũi buồn bã, tâm trí thẫn thờ lên gặp Đức Cha xin cho đi 1 giáo xứ khác của vùng thành phố, vì Ngài có nhiều thứ quá, mà vào vùng đó lại không sử dụng được.
    Nhưng Đức Cha không đồng ý, Ngài bảo Cha cứ đi. Ngài giải thích rằng, những thứ vật chất đó chỉ là phương tiện để rao giảng Tin Mừng thôi. Mà đã là phương tiện thì có cũng tốt, mà không có cũng chẳng sao. Điều quan trọng nhất để rao giảng là có Chúa trong mình, có Chúa thì cái gì rồi cũng có.
    Cha đó đã buộc phải vâng lời, nhưng trong lòng vẫn ấm ức.
    Nhưng khi Ngài đến ở giáo xứ mới 1 thời gian, thì Ngài đã ngộ ra rằng, bấy lâu nay Ngài đã quá bám víu vào vật chất và của cải thế gian, nên Chúa đã không thực sự ở trong Ngài. Ngài đã quên mất sứ vụ đích thực của mình.
    Rồi sau đó Ngài siêng năng cầu nguyện, phó thác mọi sự cho Chúa. Và Ngài đã phục sinh. Ngài đã thay đổi 180 độ thành con người tốt lành, tín thác, cậy trông, khiêm nhường, thánh thiện. Và quan trọng nhất là tâm hồn Ngài lại tràn đầy niềm vui, hạnh phúc viên mãn và Ngài lại hăng say hăm hở thao thức với sứ vụ như thuở ban đầu, thuở còn son.
    Không điện, không tiện nghi, không Internet, thì lại có Chúa.
    Có điện, có tiện nghi, có Internet, lại không có Chúa.
    Vậy cái nào hơn???
    Vài tháng sau về tĩnh tâm, Linh mục đó đã đến cám ơn và tâm phục khẩu phục Đức Cha về sự sắp xếp sáng suốt của Ngài.
    Những Linh mục do dự không muốn chuyển xứ, thường là những Linh mục không thực sự có Chúa trong mình và là những Linh mục đặt nặng vật chất và của cải thế gian.
    Khi con người ta sở hữu Chúa trong tâm hồn, thì những thứ vật chất lại trở nên không còn quan trọng và rất đỗi tầm thường.
    Khi con người ta có Chúa trong mình, thì người ta sẽ không còn quá coi trọng và bám víu vào danh dự và của cải thế gian nữa.
     
    CÂU CHUYỆN SỐ 3:
    Một giáo xứ kia có vị Linh mục xứ rất tốt lành thánh thiện, rất tài đức và khôn ngoan.
    Ngài giảng rất đã tai mọi người. Ai nấy đều trầm trồ khen ngợi và thán phục.
    Một ngày kia, Đức Cha giáo phận đã thuyên chuyển vị Linh mục đó đi xứ khác.
    Giáo dân biết tin rất buồn bã và đau khổ. Họ đã kéo nhau đông đảo lên gặp Đức Giám mục và phàn nàn tại sao Ngài để linh mục đó ra đi.
    Họ còn nói thêm để gây áp lực là nếu Đức cha không để linh mục đó ở lại, thì họ sẽ không thèm đi lễ và xây dựng Giáo xứ nữa. Họ chẳng còn tâm trí đâu mà đọc kinh cầu nguyện nữa.
    Sau 1 hồi Đức Giám mục giải thích rất êm ái nhẹ nhàng là Linh mục đó chuyển đi vì lợi ích của Giáo phận. Nhưng họ vẫn không chịu nghe.
    Đức cha liền hỏi 1 câu: Vậy bà con theo Chúa hay theo cha? Nếu theo Chúa thì cha nào chả được? Tôi sẽ bổ nhiệm 1 linh mục phù hợp với Giáo xứ của bà con.
    Còn nếu theo cha, thì tôi sẵn sàng đóng cửa nhà thờ và không cần ông bà anh chị em đi lễ nữa. Vì bà con không theo đạo vì Chúa mà vì cha.
    Bấy giờ họ mới hiểu ra và vâng lời Đức giám mục để cha xứ ra đi.
     
    Chúng ta đừng chiều theo tình cảm tự nhiên. Mà hãy chiều theo tình cảm siêu nhiên.
    MỖI NGƯỜI CHÚA BAN CHO CÁC ƠN LÀNH KHÁC NHAU.
    MỖI LINH MỤC CHÚA BAN CHO TÀI NĂNG KHÁC NHAU.
    Giáo hội ngày càng phát triển và biến đổi.
    Việc luân phiên chuyển xứ giúp các Linh mục luôn tỉnh thức, sẵn sàng, luôn sống tinh thần xin vâng, khó nghèo, luôn nhìn lại mình, sám hối, canh tân, luôn sống phó thác, cậy trông, bám chặt vào Chúa…
    Một linh mục ở 1 giáo xứ quá lâu, thì sẽ không tốt cho chính vị Linh mục và giáo xứ đó. Vì rất có thể linh mục đó sẽ trở nên kiêu ngạo và sai lầm.
    Hơn nữa, giáo dân sẽ không có món ăn lạ và luồng gió mới.
    Cha xứ thì nhất thời, giáo dân mới vạn đại.
    Nhiều người trong chúng ta cũng rất buồn vì Linh mục xứ tốt lành của mình ra đi. Nhưng mình cần linh mục đó 1, thì nơi khác cần linh mục đó 10. Nơi khác cũng là con của Chúa. Họ cũng là anh em của ta. Nên lọt sàng xuống nia. Anh em mình chứ ai? Đi đâu mà thiệt?
    Đã đến lúc đức tin của chúng ta cần trưởng thành. Chúng ta đừng quá dựa dẫm vào bất kỳ linh mục nào.
    Linh mục chỉ là người hướng dẫn ta gặp gỡ Thiên Chúa. Tâm hồn ta phải mở thật rộng ra thì ta mới gặp được Ngài.
    Hơn nữa, đời sống đạo của ta muốn trưởng thành, ta cần tự bản thân tìm hiểu và không nên dựa vào bất cứ ai kể cả là Linh mục đạo đức thánh thiện.
    Nếu ta đi lễ chỉ vì Linh mục giảng hay cho đã tai, mà những lời giảng đó không có sức mạnh biến đổi tâm hồn và đời sống của ta nên tốt lành hơn, thì sẽ trở nên hết sức vô nghĩa. Vị linh mục đó chỉ mang lại cho ta niềm vui giải trí rồi ta trầm trồ khen ngợi như một bộ phim hay mà thôi.
    Linh mục giảng đã tai chưa chắc đã nói lên chân lý. Linh mục giảng đã tai rất có thể chỉ như chuyện vui cười.
     
    VỊ LINH MỤC GIẢNG HAY NHẤT KHÔNG PHẢI LÀ 1 NHÀ HÙNG BIỆN TÀI NĂNG. MÀ VỊ LINH MỤC GIẢNG HAY NHẤT LÀ VỊ LINH MỤC CÓ LỜI GIẢNG LÀM BIẾN ĐỔI TÂM HỒN CON NGƯỜI. NGHĨA LÀ TỪ KẺ BẤT LƯƠNG TỘI LỖI TRỞ THÀNH NGƯỜI BỎ ĐÀNG TỘI LỖI HỐI CẢI ĐỂ SỐNG TỐT LÀNH THÁNH THIỆN HƠN.
     
    VỊ LINH MỤC GIẢNG HAY NHẤT KHÔNG PHẢI VỊ LINH MỤC VUỐT VE, TÂNG BỐC ĐỂ LẤY LÒNG GIÁO DÂN BẰNG CÂU TỪ MỸ MIỀU ÊM ÁI. MÀ VỊ LINH MỤC ĐÓ DÁM CHÂN THÀNH THẲNG THẮN CHỈ MẶT ĐẶT TÊN, ĐIỂM MẶT CHỈ TÊN SAI LẦM CỦA GIÁO DÂN ĐỂ HỌ SỬA CHỮA HẦU ĐẸP LÒNG CHÚA.
     
    VỊ LINH MỤC TỐT LÀ VỊ LINH MỤC DÁM CAN ĐẢM LÀM ĐẸP LÒNG CHÚA HƠN ĐẸP LÒNG GIÁO DÂN.
    VỊ LINH MỤC TỐT LÀ VỊ LINH MỤC DÁM NÓI LỜI CHÂN LÝ DÙ BỊ CHỐNG ĐỐI.
     
    Vị Linh mục đích thực và có Chúa trong mình thì luôn sẵn sàng vâng lời vô điều kiện Đức giám mục đi bất kỳ giáo xứ nào, bất cứ thời gian nào, kể cả vùng xâu vùng xa, kể cả là giáo xứ nghèo nàn lạc hậu, vùng ven hẻo lánh, vì linh mục đó xác tín rằng Chúa ở khắp mọi nơi. Mình đi đâu thì đã có Chúa đi đó. Giáo xứ nào cũng được, vùng nào cũng chơi. Xá gì?
    Cha xứ dù có tài giỏi đến đâu đi nữa, thì cũng không phải chỉ do bản thân cha xứ đó, mà tất cả là do hồng ân của Chúa.
     
    Các Linh mục cần luôn ghi khắc trong tim Lời Tuyên Hứa Khi Chịu Chức Linh Mục:
    Đức Giám Mục: Con thân mến, trước mặt Chúa và cộng đoàn dân Chúa, con hãy suy nghĩ thật kỹ, rồi trả lời quyết tâm của con.
    Con có muốn luôn chu toàn nhiệm vụ của con là cộng tác viên trung tín của hàng Giám mục trong việc chăn dắt đoàn chiên Chúa, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần không?
    Tiến chức: Thưa con muốn.
    ĐGM: Con có muốn sốt sắng và trung thành cử hành các mầu nhiệm của Đức Kitô để ngợi khen Thiên Chúa và thánh hóa giáo dân theo truyền thống của Hội Thánh không ?
    Tiến chức: Thưa con muốn.
    ĐGM: Con có muốn chu toàn một cách xứng đáng và khôn ngoan phận sự phục vụ Lời Chúa, là rao giảng Phúc Âm và trình bày Đức Tin Công Giáo không ?
    Tiến chức: Thưa con muốn.
    ĐGM: Con có muốn ngày càng liên kết mật thiết hơn với Đức Kitô Thượng Tế, Đấng tự hiến mình cho Đức Chúa Cha làm của lễ tinh tuyền vì chúng ta, và con có muốn cùng Người hiến thân cho Thiên Chúa để cứu độ loài người không ?
    Tiến chức: Thưa, nhờ ơn Chúa giúp con muốn.
    ĐGM: Con có hứa tôn kính và vâng phục cha cùng các Đấng kế vị cha không?
    Tiến chức: Con xin hứa.
     
    Có 1 câu chuyện ngụ ngôn trong “Cổ Học Tinh Hoa” như sau:
    Con cú mèo gặp con chim gáy.
    Chim gáy hỏi: “Bác sắp đi đâu đấy?”.
    Cú mèo nói: “Tôi sắp sang ở bên phương đông”.
    Chim gáy lại hỏi: “Tại làm sao lại phải đi thế?”
    Cú mèo trả lời: “Ở đây người ta nghe tôi kêu, người ta ghét, cho nên tôi phải chuyển đến nơi khác”.
    Chim gáy nói: “Bác phải đổi tiếng kêu đi mới được. Chứ không đổi, thì sang phương đông, người ta nghe tiếng kêu, cũng lại ghét bác mà thôi, vì nhân tình đâu mà chả thế”…
     
    Thế nên các Linh mục cần phải luôn xem lại bản thân mình.
    Xét xem mình đã giảng đúng Phúc Âm của Chúa và sống đúng tinh thần Tin Mừng Ngài yêu cầu chưa?
    Nói phải, củ cải cũng nghe.
    Nói sai, ai mà nghe nổi ?
    Vậy xin đừng trách giáo dân, hãy tự trách mình.
    Còn chúng ta hãy thần tượng Chúa chứ không phải cha.
    Thần tượng Chúa thì luôn bền vững và không bao giờ sai lầm.
    Còn thần tượng cha thì có thể sai lầm nghiêm trọng, có thể không.
    Nếu Thần tượng cha là ta đang thờ ngẫu tượng. Chúa sẽ phạt nặng.
     
    Người ta có câu:
    Gần cha, thì xa Chúa !
    Hoặc nhìn thấy Cha, thì nhận ra Chúa.
    Các Linh mục có tài giỏi và đẳng cấp mấy đi nữa, thì các Ngài cũng chỉ xuất thân từ bụi đất, từ lòng mẹ và chỉ là tạo vật của Chúa mà thôi.
     
    THEO CHÚA CHỨ ĐỪNG THEO CHA. CHỌN CHÚA, CHỨ ĐỪNG CHỌN LINH MỤC.
    THEO CHÚA & CHỌN CHÚA, CHÚA SẼ HƯỚNG DẪN CÔNG VIỆC CẦN LÀM.
    Giuse Kích.
    (Nếu thấy ý nghĩ cho chính mình và mọi người, thì xin đừng quên chia sẻ cho người khác)
     

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - TÌM BIẾT VỀ THÁNH GIUSE

 
Trang Nhà / ____BÀI VIẾT / Vài điều thú vị liên quan đến thánh Giuse có thể bạn chưa biết

Vài điều thú vị liên quan đến thánh Giuse có thể bạn chưa biết

 
  1. Hoàn toàn im lặng trong toàn bộ Kinh Thánh

Toàn bộ Kinh Thánh không ghi chép lại lời nào của ngài. Tân ước đề cập rất ít đến ngài. Tin Mừng Mathêu mô tả ngài là một người công chính (x.Mt 1,19), và khi biết vợ chưa cưới của mình là Maria chưa về sống với mình mà đã có thai, ngài đã có ý định ra đi cách kín đáo. Tin Mừng Luca thì nói ngài là thuộc dòng dõi vua Davit (x.Lc 2,4) và phải đưa vợ về thành của mình là Bêlem để khai tên tuổi. Tin Mừng Gioan thì chỉ nói về Giuse cách gián tiếp khi mô tả thân thế của Chúa Giêsu: Giêsu là con ông Giuse (x.Ga 1,45; 6,42). Thánh Giuse chủ yếu xuất trong những trình thuật về giáng sinh của Chúa Giêsu. Lần cuối ta thấy nhắc đến Ngài là trong trình thuật lạc mất Giêsu lúc 12 tuổi, lúc đó, mẹ Maria đã nói về Giuse bằng đại từ “cha con” (x.Lc 2,48) khi trò chuyện Chúa Giêsu. Từ đó về sau, ta không hề thấy nhắc gì về ngài. Các sách khác của Tân Ước cũng không đề cập gì đến ngài.

 

  1. Việc tôn kính thánh Giuse xuất hiện khá trễ

Dù vào năm 313 AD, ngài đã được tôn kính đặc biệt trong thánh lễ. Nhưng đến thế kỷ 9, người ta mới quan tâm đến ngài nhiều hơn. Tước hiệu đầu tiên dành cho ngài là “nutritor domini” có nghĩa là “người dưỡng dục Chúa”. Đức Gioan XIII, vào 13.11.1962 đã thêm tên của Giuse vào Kinh Nguyện Thánh Thể I như là Đấng bảo trợ Giáo Hội hoàn vũ. Ngày lễ 19.3 là lễ trọng buộc của Giáo Hội (GL 1246). Vào năm 1955, Đức Pio XII thành lập lễ Giuse Thợ 1.5, nêu gương cho những người lao động và nhấn mạnh đến nhân phẩm của người lao động. Ngoài hai lễ trên, thánh Giuse cũng được nhớ đến trong ngày lễ thánh Gia Thất. Truyền thống cũng dành thứ 4 hàng tuần để tôn kính ngài. Thánh Giuse đã trở thành Đấng Bảo Trợ cho nhiều quốc gia như: Mỹ, Canada, Trung Quốc, Croatia, Mexico, Áo, Bỉ, Peru, Philippines, Việt Nam. Ngài cũng là bổn mạng của những người mong chết lành, các gia đình, các gia trưởng, thai phụ, di dân, công nhân, kỹ sư, lao động chân tay. Ngoài ra, khoảng đầu thế kỷ 20, các nhà thần học bắt đầu suy tư về thánh Giuse và thành lập một môn học về ngài. Từ năm 1950, có 3 trung tâm dành nghiên cứu về ngài: ở Tây Ban Nha, Ý và Canada.

 

  1. Thánh Giuse làm nghề gì để sinh sống?

Lâu nay, chúng ta vẫn thường nghĩ về ngài như một thợ mộc. Từ Hy Lạp tekton  nói đến ở Mt 13,55 và Mc 6,3 có nghĩa cách chung là những nghề lao động chân tay (dĩ nhiên, trong đó có nghề mộc). Nhưng nó cũng có nghĩa là thợ xây, phụ hồ, thợ làm đá… thậm chí là người thành thạo cái gì đó và dạy người khác. Bản Kinh Thánh tiếng Latin thì dùng từ faber có nghĩa là công nhân, thợ thủ công. Một giáo sư Kinh Thánh người Mỹ tên là James D.Talor thì cho rằng có vẻ thánh Giuse làm nghề thiên về xây dựng hơn là gỗ vì hai lý do: thứ nhất, Chúa Giêsu khi giảng dạy dùng rất nhiều hình ảnh về xây dựng (đá góc tường, xây nhà trên nền vững, cá rác cái xà); thứ hai, vào thời Chúa Giêsu, nhà cửa được xây bằng đá hơn gỗ, Israel cũng không thịnh hành về gỗ. Vì thế, ông cho rằng có thể Giêsu đã theo học nghề từ cha Giuse của mình. Nhưng trong bản Bảy Mươi (bản dịch đầu tiên Kinh Thánh từ tiếng Do Thái và Aram sang Hylạp), từ tekton được dùng trong sách Isaia, và trong danh sách các công nhân xây dựng sửa chữa đền thờ Giêrusalem trong sách các Vua quyển thứ hai, phân biệt giữa thợ mộc và các công nhân khác: tekton: thợ mộc; còn lithólogos: thợ đá và laxeutes: thợ nề.

Vì thế, thánh Giustino, một giáo phụ lỗi lạc thời kỳ đầu, trong tác phẩm Đối Thoại với Trypho, 88, và truyền thống Giáo Hội cho rằng Giuse đã làm nghề mộc và truyền nghề này cho Giêsu.

 

  1. Cũng có những giai thoại hư cấu về Giuse

Vì không có nhiều chi tiết nên trong Nguỵ Tin Mừng Giacôbê và cuốn Lịch sử thánh Giuse thợ mộc ghi lại rằng ngài đã từng có một đời vợ và có con riêng trước khi kết hôn với Maria, và ngài sống đến 111 tuổi. Chuyện cho rằng khi ngài 40 tuổi, ngài kết hôn với 1 phụ nữ tên là Melcha (nguồn khác là Escha, hoặc Salome), sau 49 năm chung sống, họ có với nhau 2 gái 4 trai, trong đó có một người tên là Giacôbê (vẫn được gọi là “người anh em của Chúa”). Sau khi vợ qua đời, nghe tin các tư tế ở Giudea muốn chọn chồng cho Maria (lúc đó mới 24 tuổi), còn Giuse khi ấy đã gần 90 tuổi lên Gierusalem để ứng thi. Cây gậy của ngài bỗng dưng nở hoa nên ngài được chọn. Hai năm sau thì biến cố truyền tin xảy ra.

Xuất phát từ câu chuyện hư cấu này nên các tranh ảnh tượng, Giuse thường xuất hiện như một ông già. Nhưng Giáo Hội và nhiều vị thánh khác như Atanasio, Âutinh, Toma Aquino, Phanxico de Sales dạy rằng Giuse khi cưới Maria là một thanh niên trai tráng chưa kết hôn. (dùng từ giới trẻ: ngài còn “gin”).

 

  1. Giuse qua đời khi nào?

Chúng ta không biết chắc chắn Giuse qua đời khi bao nhiêu tuổi. Ở trên, chúng ta đã biết câu chuyện cho rằng ngài qua đời khi 111 tuổi. Một nguồn khác cho rằng ngài qua đời khi Giêsu được 20 tuổi. Nhưng tất cả chỉ là giai thoại. Căn cứ vào một số chi tiết của Kinh Thánh, ta có thể đoán rằng ngài qua đời trước khi Giêsu công khai vì, thứ nhất, không thấy ngài xuất hiện trong thời gian công khai của Chúa Giêsu, tiệc cưới tại Cana lúc khởi đầu sứ vụ của Giêsu cũng không nhắc đến Giuse; thứ hai, trước khi nhắm mắt, Giêsu trao phó Mẹ cho Gioan (như thể Maria chẳng còn người thân nào khác để chăm sóc Mẹ).

Ngoài ra, truyền thống cũng cho rằng ngài qua đời trong sự hiện diện của Maria và Giêsu. Vì thế ngài rất hạnh phúc, và cũng từ sự tích này, ngài trở thành bổn mạng của kẻ mong chết lành.

 

  1. Bố mẹ của Giuse là ai?

Tin Mừng Mathêu nói rằng Giuse là con của Giacob (Mt 1,16), còn Luca thì nói Giuse là con của ông Heli (Lc 3,23). Vậy rốt cuộc thế nào? Người ta thường giải thích bằng hai giả thuyết. Thứ nhất, tên Heli là viết tắt của Eliachim (hay còn gọi là Gioakim) chính là tên của bố Đức Maria. Khi nói Giuse là con của ông Heli, người ta ám chỉ đến việc Giuse được nhìn nhận là đã cưới Maria. Vì là chồng của Maria, nên Giuse cũng là bố của con của Maria. Nhưng còn có cách giải thích thứ hai. Theo nhà hộ giáo Jimmy Akin: sử gia Julius Africanus, sinh quán ở Israel, đã ghi lại thông tin về gia đình của Đức Kitô. Theo đó, Matthan (theo Mt) là ông nội của Giuse, cưới bà Estha và sinh ra Jacob. Sau khi Matthan qua đời, Estha cưới một người bà con của chồng là Matat (theo Lc) và sinh ra Heli. Như thế, Giacob và Heli là anh em cùng mẹ khác cha (bố của cả hai cũng có họ hàng với nhau). Heli qua đời mà không có con, nên Giacob phải cưới vợ của Heli và sinh ra Giuse. Như thế, Giuse là con về mặt sinh học của Giacob, và là con về măt pháp lý của Heli. (Eusebius, Ecclesiastical History 1:6:7).

Mẹ của Giuse là ai? Không có sử liệu chính xác nào ghi lại. Vào thế kỷ 18, Cecilia Baij được cho là nhận thị kiến và được mặc khải cho biết mẹ của Giuse tên là Rachel. Nhiều người tin vào điều này vì có ý nối kết Giuse này với Giuse của cựu ước (St 35). Nhưng đây chỉ là mặc khải tư và không được Giáo Hội công nhận chính thức.

 

  1. Những bé trai có tên Giuse còn được gọi là Pepe

Ở phương Tây, bé trai nào đó được đặt tên Giuse, thì cũng thường được gọi bằng cái tên rất dễ thương là “Pepe” hay “Pepito”. “Pepe” hay “Pepito” là phát âm của hai chữ “p” (pp), là viết tắt của chữ “padre putativo”, có nghĩa là “cha nuôi”, có ý ám chỉ thánh Giuse là cha nuôi của Chúa Giêsu, nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của thánh nhân.

Giuse là vị đại thánh trong Giáo Hội. Ai chạy đến với ngài chắc chắn không bao giờ thất vọng mà về không. Đây có lẽ là điều thú vị nhất trong tất cả những gì người ta cần biết về thánh Giuse – cha nuôi của Chúa Giêsu.

 

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

(tổng hợp từ nhiều nguồn)

 

Kiểm tra tương tự

Thánh Giuse bổn mạng Dòng Tên

Hàng năm, Giáo Hội mừng kính trọng thể Thánh Cả Giuse với hai tước hiệu: …

KHIẾM KHUYẾT

  Nơi bản thân, mỗi người đều thiếu sót, Chưa có ai vô khiếm khuyết, …

2 Bình luận

 
  1.  

    Xin cho con được hoi: co quan he gì giua Giuse bi ban sang Ai-cap va Giuse ban Duc Me ?

     
  2.  

    Con xin có vài suy nghĩ sau:
    Thưa cha! Với bài của cha,con xin có ít chia sẻ sau:
    Đã thành truyền thống, chúng ta cứ chọn nghề mộc cha nhỉ! Cha ơi! Hai cha con làm mộc.tuy nhiều tuổi,hành nghề lâu…nhưng bố việc nào cũng thua con tuy nó mới lên..10 tuổi, chẳng hạn:-bố phải dùng thước để đo các kích cỡ; con hoàn toàn chẳng cần thước bất cứ ở việc gì..mà vẫn chính xác 100%. Bố đóng đinh đôi lúc đinh bị cong,đóng trật..! con đóng không bao giờ trật hoặc đinh cong. Xẻ gỗ, bố phải nẻ “mực tàu”, còn con – chẳng cần cũng thẳng! Mặc bố làm nghề mộc! sao Chúa Giêsu không làm nghề bốc thuốc và chữa bệnh lúc..10..tuổi cha hệ?
    Ở mục 4, kể ra thì chuyện xung quanh chàng Giuse và nàng Mari mà Chúa Cha gán ép lại sinh nhiêu khê quá cha hệ! con ước chi chỉ đơn giản thể này:- Chúa cha chọn từ trước đời đời và để cô Mari sống độc thân đến đúng 80 tuổi thì Truyền tin có thai và sinh Chúa Con; tuổi này thì không còn ai nghi.. con ông này ông nọ mà ai cũng tin do phép tắc của Đức Chúa. Chúa chết được ..10 năm.. thì Mẹ được Chúa Cha đưa về trời.
    Cha ạ! Noãn người nữ phải kết hợp với trùng người nam thì mới có thai,lại phải do X hoặc Y nữa mới được giới tính. Đằng này,có thai nhi Chúa Giêsu hoàn toàn không do kết hợp 2 trong 1; nghĩa là cũng chẳng cần noãn của cô Maria! Vậy rõ ràng Đức Mẹ mang thai hộ cho Chúa Cha! Đã lâu con thấy như vậy đó cha ạ!cha nghĩ sao?
    Ở mục 5,như ở bình luận trước con có nói thì có lẽ Giáo hội nên bảo thánh Giuse chết sau Chúa Giêsu chết kẻo sau này con cháu chúng nó kiện! vì:- chẳng lẽ bố cao trọng vậy mà để bố chết bệnh? Chết rồi lại không cho sống lại? trong khi Ladarô sống lại,lại chẳng chịu theo Chúa,rõ ổng quá tệ bạc! Hai nữa,chẳng lẽ bố cao trọng vậy mà lại bắt linh hồn bố phải vô ngục tổ tông nữa? trong khi chỉ cần Chúa Giêsu cho phép bố mình sống đến..70..80 tuổi là hoàn toàn quyền của Chúa. Con nghĩ vậy.

     
 

Trả lời

 

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.