24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

ĐỨC  KHIÊM NHU VÀ KHÓ NGHÈO NỘI TÂM QUAN TRỌNG VÀ CẦN THIẾT RA SAO ĐỂ MỞ MANG NƯỚC CHÚA VÀ MỜI GỌI THÊM  NHIỀU NGƯỜI NHẬN BIẾT CHÚA QUA GƯƠNG SỐNG  NHÂN CHỨNG CỦA MÌNH ?

 Khó nghèo là một bất hạnh lớn cho  người đời , vì  xét theo khôn ngoan của con người ,  thì  đa số  chỉ  biết quí trọng giầu sang về vật chất,và chỉ đi tìm danh lợi chóng qua ở đời này, nên người ta  khinh thường mọi giá tri tinh thần và đạo đức trong đó có giá trị của sự khó nghèo nội tâm.

 Nhưng với người có niềm tin Thiên Chúa, tin có sự giầu sang vĩnh cửu trên Nước Trời,  thì khó nghèo lại là một nhân đức cần  phải có để xứng đáng là những môn đệ lớn nhỏ của Chúa Kitô, Đấng đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra  trong hàng bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá.

Thế giới ngày nay đang chìm đắm trong đam  mê  về tiền bạc và của cải vật chất,tôn thờ khoái lạc ( hedonism) khiến dửng dưng – hay   lãnh cảm ( numb, insensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao triệu người là nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội, đầy rẫy ở khắp nơi trong thế giới tôn thờ vật chất, tục hóa  và suy thoái thê thảm về luân lý, đạo đức và lòng  nhân đạo..

Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ , đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng  “ tôn thờ tiền bạc ( cult of money ) và dửng  dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu và Á Châu.

Không nói gì đến các nước vốn nghèo sẵn ở Á và Phi Châu, ngay ở Hoa Kỳ là nước được coi là giầu có nhất nhì thế giới mà cũng có biết bao người vô gia cư ( homeless) nghèo  đói, sống vất vưởng trên  hè phố ở các đô thị  lớn như Los Angeles, Houston, Chicago, Nữu Ước… Họ nghèo đến nỗi không có nhà để ở và hàng ngày phải  đến xin ăn ở các cơ sở từ thiện, trong khi những người triệu phú , tỉ phú không hề quan tâm đến họ.  Chính quyền liên bang cũng như  tiểu bang , cho đến nay,  vẫn không có biện pháp tích cực nào để giúp những người nghèo vô gia cự này.Nhưng mỉa mai và nghịch lý  là chánh quyền Mỹ cứ thi nhau đem tiền ra giúp các nước như Irak. Afghanistan, Pakistan, Ai Cập, Syria...vì quyền lợi chiến lược của Mỹ, chứ không phải vì thương giúp gì dân nghèo , nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội ở các quốc gia đó;  nhưng đáng buồn hơn nữa   là  dân các nước nói trên vẫn chống Mỹ và muốn đuổi quân đội Mỹ ra khỏi đất nước họ ! ( Irak và Afghanistan)!

Trước thực trạng  trên của Thế giới,  Đức Thánh Cha Phanxicô, từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng,  đã tỏ mối quan tâm sâu xa đối với người nghèo khó ở khắp nơi trên thế giới và luôn kêu gọi Thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng phải  làm gì cụ thể để thương giúp những người nghèo khó mà Chúa Kitô đang đồng hóa với họ và thách đố chúng ta nhận ra Chúa  nơi những người xấu số  này để thương giúp họ cách thich hợp theo khả năng của mình.( x Mt 25)

Đức Thánh Cha đã nghiêm khắc phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì người thấy rõ sự chênh lệch quá to lơn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này.Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng ( Pontificate) của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phan xicô khó khăn Thành Assisi,  và  nhất là tình thần và đời sống  khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “ Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh  em  để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh  em trở nên giầu có.” ( 2 Cor 8:9)

Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô  muốn thực hành   phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi  noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để  nên  nhân chứng dích thực  cho Chúa , “Đấng đã  đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để  phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20: 28).

Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y  ngày  13 tháng 1năm 2014 , Đức Thánh Cha Phanxicô  đã nhấn mạnh như sau :

   “  cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng( promotion)  một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài( decoration) mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó  xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới  này với lòng khiêm cung,  giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bất cứ cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ ( austerity) tiết độ ( sobriety) và khó nghèo ( poverty)”.

                           Tai sao phải sống khiêm nhu và khó nghèo  ?

Trước hết, phải nói ngay là khó nghèo  ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người trong gia đình  có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như  nhà ở, cơm ăn  áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ ,vì  ở Mỹ không ai có thể đi bộ hay xe đạp để đi làm hay đi học được..Nghĩa là không nên  “lý tưởng  thiếu  thực tế” để chỉ  chú trọng  đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.

Nhưng  điều quan trọng nhất  là phải có  nhân đức khiêm  nhường  và thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô   đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “ Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn)  nghèo khó vì Nước Trời là của họ. ( Mt 5:3; Lc 6 : 20)

Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây không có nghĩa là phải đói khát , rách rưới  về phần xác như  đã nói ở trên   mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi sa hoa, danh vọng phù phiếm  chóng qua ở đời này    đến độ vô tình làm nô lệ cho chúng khiến  không còn chú tâm  vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ  và  săn sóc về mặt thiêng liêng.

Người tông đồ mà không có nhân đức khiêm nhu và  khó nghèo, để  khinh chê tiền bạc , của cải  vật chất và danh vọng hào  nhoáng ở đời ,  thì không thể rao giảng sự khó  nghèo của Phúc Âm cho ai được. Không có  và không  sống khiêm nhu và khó nghèo thực sự , mà lại rao giảng nhân đức khó nghèo   và khiêm tốn  thì sẽ làm trò cười mỉa mai cho người nghe mà thôi. Chắc chắn như vậy.

Mặt khác,  sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những  giáo đường,  nhà  xứ , Tòa Giám mục được xây cất sang trọng , lộng lẫy để  khoe khoang với du khách mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi tín hữu  để giúp họ sống đạo có chiều xâu thực sự, chứ không phô trương  bề ngoài với  số con số đông tân tòng được rửa tội mỗi năm, đông người đi lễ hàng tuần, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố,  trong khi rất nhiều người ( giáo sĩ, tu sĩ)  vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.

Lại nữa,, người tông đồ lớn nhỏ - nam cũng như nữ-  mà ham mê tiền bạc ,  thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành được  tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư đến nỗi có thể nói được về mình là “ con trồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có  chỗ tựa đầu.” ( Mt 8: 20)

Thử hỏi Chúa có đóng kich “ khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không ?  

Ai dám nói là không ?  Nếu vậy, thì Chúa quả  thực  đã  sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế  để nêu gương  nghèo khó trong tâm hồn  và trong cuộc sống cho hết mọi người chúng ta. Nghĩa là  các tông đồ của Chúa nói riêng và toàn thể dân Chúa nói chung phải thi hành  lời Chúa để đi tìm và  “ tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” ( Mt  6: 20)

 Nếu người tông đồ  mà chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng, thay vì  xây dựng cho mình và cho những người mình phục vụ một lâu đài nội tâm hoành tráng,  thì mọi lời rao giảng về khó nghèo của Phúc Âm  sẽ trở nên trống rỗng và không có sức thuyết phục được ai  tin và thực hành, nếu không muốn nói là làm trò cười cho người nghe..

 Muốn thuyết phục thì chính mình phải sống và  xa tránh hay chống lại  những cám dỗ về  tiền bạc và của cải vật chất để không đôn đáo đi tìm tiền, làm thân với người giầu có để trục lợi.Và  nhiên hậu, cũng sẽ  không hơn gì bọn Biệt phái  và luật sĩ  xưa kia, là   những kẻ chỉ dạy người khác sống nhưng chính họ lại không sống điều họ dạy bảo người khác, khiến Chúa Giêsu đã nhiều lần phải nghiêm khắc lên án họ là :“quân giả hình”, bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta , nhưng chính họ lại không buồn động ngón  tay vào.”( Mt 23: 4).

Nói rõ hơn, giảng  tinh thần khiêm nhu và  khó nghèo của Chúa cho người khác,  mà chính mình  lại sống phản chứng  bằng cách chạy theo tiền của,  dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các loại  xe đắt tiền như  Lexus, BMW, Mercedes, Ìnfinity, Volvo… đeo đồng hồ longines, Omega …làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo,vì có bổng lễ thấp, mà  chỉ nhận  lễ có bổng lễ cao, nhất là bày chuyện “lễ đời đời”, một hình thức buôn thần bán thánh (simonia), để lấy nhiều tiền  của giáo dân không am hiểu về giá trị  thiêng liêng của việc xin lễ..

  Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi  linh mục, giám mục  nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ, thì  cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể  nói chung vì “ con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam  đã dạy.

Như vậy, Giáo Hội của Chúa phải thực sự khiêm nhu và nghèo khó  theo gương  Mẹ Maria , Thánh Giuse và nhất là Chúa Giêsu, Người đã thực  sự sống và chết cách khiêm nhu nghèo khó để dạy mọi người chúng ta  coi khinh , coi thường sự sang giầu, danh vọng  phù phiếm ở đời này, để đi tìm sự giầu sang, vinh quang  đích thực là chính Thiên Chúa,  cội nguồn  của mọi vinh phúc giầu sang  vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải và  hư  danh  ở đời này không thể mua hay đổi chác được.

Chỉ có nghèo khó, và khiêm nhu  thực sự trong tâm hồn,  thì Giáo Hội mới có thể  lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền,  của cải vật chất,danh vọng trần thế,  để không  làm tay sai cho thế quyền mà  trục lợi cá nhân. Lại nữa, nếu quá yêu chuộng tiền bạc và  hào nhoáng bề ngoài,  để nay tổ chức mừng 10 năm,mai  15 năm, ngày khác  20 năm thụ phong.., để kiếm tiền mừng của giáo dân. Mà Kiếm để làm gì mới được chứ ? Cách riêng linh mục làm việc ở Mỹ,được ưu đãi về lương bổng  nhiều hơn các linh mục làm việc ở Á ,Âu Châu, nhất là ở ViệtNam, nên không cần thiết phải kiếm thêm tiền bằng cách chỉ nhận làm lễ với  bổng lễ cao, nhất là tổ chức mừng sinh nhật, mừng kỷ niệm thụ phong 5 năm, 10 năm, 15 năm nhiều lần như vậy để kiếm tiền mừng của giáo dân, nhưng lại  là một trở ngại  cho linh mục sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô-và mặt khác-làm phiền cho giáo dân cứ phải mừng cha xứ, cha phó trong những dịp như vậy  !

Tóm lại, muốn   thi hành có hiệu quả  sứ  mệnh thiêng liêng của mình là  rao giảng Tin Mừng  Cứu Độ  của Chúa Kitô, thì người Tông đồ lớn nhỏ  phải là mẫu gương sáng chói về  sự chê nghét của cải và  hư danh trần thế ,  để cứ dấu này  “ người ta sẽ nhận biết anh  em là môn đệ của Thầy,( Ga 13: 35) như Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ xưa.

Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này,  không hề phục vụ cho  nhu cầu  tìm kiếm tiền bạc , danh vọng  trần thế  và của cải vật chất hư hèn,   mà  chỉ cho mục đích hướng dẫn con người đi   tìm kiếm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời mà thôi.  Lại nữa, không có  giáo sĩ và tu sĩ nào  có lời khấn sang giầu vật chất  mà chỉ có lời khấn khó nghèo, vì Có khó nghèo thực sự trong tâm hồn thì mới dễ vươn mình lên cùng Chúa  là chính nguồn vui, và vinh quang hạnh phúc vĩnh cửu .  Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có  kia  là  “ hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo , anh sẽ được một kho tàng trên trời , rồi hãy đến mà theo tôi.” ( Mc  10:  21)

Lời Chúa trên đây phải là đèn sáng  soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội- cách riêng cho hàng giáo sĩ và tu sĩ-  bước đi qua  bóng tối đen dầy đặc  của   tiền bạc,  của cải vật chất,và danh vọng trần thế hư hão,  là những quyến rũ  đã và  đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê  đi tìm kiếm và  tôn thờ,  thay vì  tìm kiếm và tôn thờ  một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi  phú quý  giầu sang và vinh quang đích thực mà thôi.Amen.

Chúa nói: “ ai có tai nghe thì nghe” ( Mt 13:43; Mc 4: 23; Lc 8:8)

Ước mong những giải đáp trên đây thỏa mãn câu hỏi đặt ra

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn, MDiv, MA. DMin. (Doctor of Ministry=Tiến Sĩ Sứ Vụ)

                                

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

CÔNG ĐỒNG ĐẠI  KẾT HAY CÔNG ĐÔNG CHUNG LÀ GÌ TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO ?

Hỏi :

  • xin cha giảithíchvềCôngĐồngĐạiKết hay CôngĐồng Chung trongGiáoHộiCôngGiáo.
  • Có bao nhiêuCôngĐồngchungđượctriệutậptừxưađến nay..?

Trảlời :

  • TrongGiáoHội , khinóiđếnCôngĐồng Chung hay CôngĐồngĐaiKết ( Ecumenical Council) lànóiđếnviệctriệutậptấtcảcácthànhphầnlãnhđạotrongGiáoHộihoànvũvàgiáohộiđịaphương; cụthểlàcácgiámmụcvàcácBềTrênDòngtrongtoànGiáoHộivề Roma họpvớiĐứcThánh Cha đểbànvềnhữngvấnđềcóliênquanđếntínlý, ( dogma) giáolý ( doctrine)  luânlý ( moral) vàkỷluật  (  disciplines)( x giáoluậtsố 338-341)

Từngữđạikết =Ecumeticalxuấtpháttừtiếng Hy lạp-  “oikoumene” cónghĩalà

Toàndiện, toànthếgiới. Do đó, khiđạiCôngĐồngchung hay ĐạikếtđượctriệutậpthìchủyếulàtấtcảcácgiámmụctrongtoànGiáoHộiđượcmờivềgiáođôRômatheolệnhĐứcThánh Cha làngườitriệutậpvàcũnglàngườitrụtrì –tứcchủtọacácphiênhọpcủaCôngĐồng.

Từxưađến nay, mỗikhiGiáoHộicónhucầuquantrọngphảibànbạcvàquyêtđịnh,thìĐaiCôngĐồngchungđượctriệutậpđểcácvịcótráchnhiệmtrongGiáoHộihoànvũ (The Universal Catholic Church)vàđịaphươngngồilạivớiĐứcThánh Cha làThủlãnhGiáoHộiCôngGiáohoànvũvàcũnglàThủlãnhGiámmụcđoàn ( College of bishops) đểthảoluậnvàquyếtđinhnhữngvấnđềcóliênquanđếnSứvụvásứmệnhcủaGiáoHộilàThânThểnhiệmmầu ( Mystical Body) củaChúaKitôtrongtrầnthế.

NgoàicácGiámmụclàthànhphầnchính, còncóđạiđiệncácDòng Tu lớn, cácthầnhọcgianổitiếng, cácchuyênviêngiáoluậtvàphụngvụcũngđượcmờiđểđónggóp ý  kiếnchuyênmônchoCôngĐồng.   CácHồng Y cũnglàgiámmụcnênđềuđượcmờithamdựCôngĐồng. Cầnnóithêmở đâylàcácHồng Y cóvaitròlớnhơncácgiámmục, vìlànhữngcốvấnchoĐứcThánh Cha, vàđươngnhiênlànhữngcử tri ( elector)đibầuGiáiHoàngmớivàcókhảnăngđượcbầulênngôiGiáoHoàng ( dùkhông ra ứngcử)  nếudưới 80 tuổi.  Khi đươngkimGiáoHoàngtừtrần hay từchức ( ĐứcThánh Cha Bênêdictô XVI từchứcnăm 2012)thìcácHông Y dưới 80 tuổisẽhọpMậtnghị ( Conclave ) đểbầuGiáoHoàngmớichoGiáoHội.

 Theo giáoluật, thìCôngĐòngchungphảiđượcchínhĐứcThánh Cha triệutập, chủtọa, phêchuẩncácsắcluậtđượcthông qua vàgiảitánCôngĐồng ( x giáoluậtsố 338)

Tuynhiên, tronglịchsửGiáoHội, thìtámCôngĐồngchungđầutiênđươctriệutậpở ĐôngphươngtheolênhcủacácHoàngĐế ( Emperor) chứkhông do ĐứcThánh Cha triệutập . TuyĐứcThánh Cha  khôngđichthânthamdựnhưngngàicũngphêchuẩncácquyếtđịnhcủacácCôngĐồngnày.

Sau đâylàdanhsáchcácĐạiCôngĐôngchungđãđượctriệutậptừxưađến nay:

  • CôngĐồng Nicaea ( Nicene) I, A,D 325 lênánbèrối Arianism sailầmvềbảntínhcủaChúaGiêsuvàtuyênbốChúa Con cùngbảnthểvớiChúa Cha.

CôngĐồngcũngchấpthuậnKinh Tin KínhđượcđọctrongcácThánhLềngàyChúanhậtvàcácngàylễtrọngtừđóđến nay trongtoànGiáoHội

  • CôngĐồng Constantinople I, A.D 381 lênánbèrối Macedonians vàtuyên

bốChúaThánhThầnđồngbảnthểvớiChúa Cha vàChúa Con

  • CôngĐồng Ephesus, A.D 431 lênánbèrối NestoriansvàPelagiansvàchínhthứctuyênbốĐức Trinh Nữ Maria là  “ MẹThiênChúa=Theotokos” vìlàMẹthậtcủaChúaGiêsucũnglàThiênChúađồngthểvới

Chúa Cha vàChúaThánhThần.TừđóGiáoHộicólễbuộckínhMẹ Maria làMẹThiênChúangày 1 tháng 1 mỗinăm.

 4-Công ĐồngChalcedon,A.D 451lênánbèrốiMonophysitism

5-Công Đồng Constantinople  II, A,D 553,  lênán Ba Kinhhội ( Three

             Chapters)

        6-Công Đồng Constantinople III, A, D 680. Lênánngụythuyết

           Monothelitism

  7-Công Đồng Nicaea II, A,D 787, lênánviệcđậppháảnhtượng( Iconoclasm)

8-Công Đồng Constantinople IV,869:chấm dứt ly giáo Hy-Lạp và

,

truẤt  phẾ thưỢng phỤ Photius

        9- Côngđồng  Lateran I, 1223, ban hànhcácsắclệnhvềtộimạithánh

             ( Simony,) vàluậtđộcthâncùahànggiáosĩ.

        10- CôngĐồng Lateran II, 1139,  chấmdứtlygiáovềngôivịGiáoHoàng

             (Papal schism) và ban hànhnhữngcảicáchmới.

         11-Công Đồng Lateran III, 1179, lênáncácbèrối Albigenses và Waldenses

Và qui địnhviệcbầuGiáoHoàng.

   12- CôngĐồng Lateran IV, 1215, chuẩnbịchocuộcThậptựchiến( Crusade)

SắclệnhvềviệcRướcLễhàngnăm, vànhắclạiviệclênáncácbèrối

củaCôngĐồng Lateran III

          13- CôngĐồng Lyons I, 1245,  hạbệFrederick II vàchuẩnbịcuộcThậptự

Chinh( Crusade)

          14-Công Đồng Lyons II, 1274, nốikếtGiáoHộivớiphía Hy lạpvàcôngbố

nhữngcảicáchvềkỷluật

           15-Công Đòng Vienne, 1311-1312 bãibỏKinhsĩ Templarsvà ban hành

nhữngcảicáchmới.

            16-Công Đồng Constance, 1414-1418, chấmdứtcuộcĐạilygiáoTây

Phươngkéodàitừnăm 1378đến 1414mànguyênnhânchínhlàvấnđề

tranhchấpngôivịGiáoHoàngcủacácphengườiPháp, Ý vàĐức

             17- CôngĐồng Florence , 1431-1445, vấnđềhiệpnhấtvớiphía Hy Lạp

Và ban hànhnữngcảicáchmới.

             18- CôngĐồng Lateran V, 1512- 1517đóiphóvớinhómTânAristote

                ( Neo-Aristotelians) và ban hànhnhữngcảicáchmới

              19- CôngĐồng Trent, 1545-1563, lênánnhómThệphản ( Protestantism)

Vàđóngthư qui (canon) KinhThánh

               20-Công ĐồngVaticanô I, 1869-1870).lênánnhữngsailầm,vàcôngbố

ơnbấtkhảngộ ( infallibility) củaĐứcThánh Cha

                21-Công ĐồngVaticanô II, do ĐứcThánh Cha Gioan XXIIItriệutập

Vàkhaimạcngày 11 tháng 10 năm 1962.Khóa 1 chấmdứtngày 8

Tháng 12,1962 , saukhiĐứcThánh Cha Gioan qua đờingày 3-6-1963

ĐứcThánh Cha Phaolô VI đượcbầulênthaythếvàtiếptụccôngviệc

CủaCôngĐồngthêmbakhóahọpnữavàonhữngngàysauđây:

Từ   26 tháng 9  đến 4 tháng 9  năm 1963 

Từ 14-đến 21 tháng11 năm 1964

Từ 14 tháng 9 đến 8 tháng 12 năm 1965 làngàykếtthúc

CôngĐồngvới 16 tuyênngônvàsắclệnhđượcĐứcThánh Cha

Phaolô VI kýcho ban hànhtrongtoànGiáoHội .

 (source : Catholic Encyclopedia)

ĐâylàĐạiCôngĐông Chung lớnnhấtđượctriệutậptrongGiáoHộitừtrướcđến nay, vớisựthamdựcủatrên 2000 giámmụcđếntừkhắpnơitrênthếgiới

đemlạithànhquảlớn lao làcanhtân hay  đổimớiGiáoHộivềmọiphươngdiện. đặcbiếtlàphụngvụ, bítích . Cụthể : ThánhLễTạƠn ( The Eucharist) vàcácbítíchtừ nay đượccửhànhbằngngônngữcủacácdântộcthayvìbằng La ngữthốngnhấttừtrướcchođênnăm 1965,lànămkếtthúcCôngĐồngVaticanô II.  

Dầuvậy , vẫncósựbấtđồngtrongGiáoHộivềnhữngcảicáchcủaCôngĐồng. Cụthể: TổngGiámmục Marcel Lefebvre ( Pháp) đãlykhaikhỏiGiáoHộihậuCôngĐồngđểtiếptụclàmlễbằngtiếng LatinvàbácbỏmọicảicáchcủaCôngĐồng. Ôngcũnglôikéođượcmộtsốngườicókhuynhhướngbảothủđitheo.Naynhómnàyđã tan rã, saukhiTổngGiánmuc Lefebvre qua đờinăm 1991.

Sau cùng,  mộtđiềuđángchú ý làĐứcGiáoHoàngBê-nê-đich-tô XVI ( đãvềhưunăm 2012) đãchotáilậplại Nghi ThứccũcửhànhThánhLễbằngtiếngLatinh,song song vớinghithứcmớibằngcácngônngữđịaphương, theođótừ nay  nơinàocónhucầuvàcólinhmucđọcđượctiếngLatinh, thìkhỏiphảixinphépTòaThánhđểlàmlễLatinhnhưtrước.

Ướcmongnhữnggiảiđáptrênthỏamãncâuhỏiđặt ra.

LmPhanxicôXaviêNgôTônHuấn.MDive..MA,  DM (Doctor of Ministry=TiếnSĩSứVụ)

 

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO -

 

  •  
    BBT CGVN
     


    Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới

    Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity  

    (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39)

    www.conggiaovietnam.net       This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

     

    Chuyên mục:

    Tôi Tin, Chúng Tôi Tin!

     Tại sao lại “hoan hô” Chúa trên các tầng trời?

     

     

     

    Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

    Giáo Sư Phụng Vụ

    Kính mời theo dõi video tại đây:

    https://bit.ly/3q4Nhzi

     

      

    Khi tham dự Thánh Lễ, trong phần Phụng Vụ Thánh Thể, cuối kinh Tiền Tụng, cộng đoàn tham dự đồng thanh cất tiếng ca tụng Chúa bằng lời kinh Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, trời đất đầy vinh quang Chúa, hoan hô Chúa trên các tầng trời... Đây là lời kinh mà có lẽ mỗi người Công Giáo Việt Nam chúng ta đều thuộc nằm lòng và trở nên quen thuộc như kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng... Nhưng đã bao giờ có ai trong chúng ta đặt vấn đề tại sao lại hoan hô Chúa?

    Chúng ta biết rằng, trong ngôn ngữ Việt Nam, động từ hoan hô thường được dùng để khen ngợi, tán thưởng một người nào đó khi họ làm việc tốt hoặc nói điều gì hay, đúng. Như khi một vị bề trên tuyên bố điều gì hợp lý, chúng ta hoan hô vỗ tay tán đồng. Ngày xưa, trước mặt vua hay hoàng đế, nếu quan thần nào hét to hoan hô vua, thế nào cũng bị trừng phạt vì tội khi quân!

    Vậy tại sao, đối với Thiên Chúa là Đấng mà chúng ta tôn thờ, Chúa của các chúa, Vua của các vua, chúng ta lại hoan hô Ngài? Dưới góc nhìn văn hóa Việt Nam, chúng ta có bất kính, vô lễ với Chúa không? Sách lễ Rôma tiếng Việt có dịch đúng nguyên bản của Giáo Hội không?

    Trong Sách lễ Rôma, ấn bản mẫu bằng tiếng La Tinh, chúng ta thấy kinh Thánh Thánh, Thánh được viết như sau:

    Sanctus, Sanctus, Sanctus Dominus Deus Sabaoth.

    Pleni sunt cæli et terra gloria tua.

    Hosanna in excelsis.

    Benedictus qui venit in nomine Domini.

    Hosanna in excelsis.

     

     

     

    - Ấn bản tiếng Anh:

    Holy, Holy, Holy Lord God of hosts.

    Heaven and earth are full of your glory.

    Hosanna in the highest.

    Blessed is he who comes in the name of the Lord.

    Hosanna in the highest.

     

     

     

    - Ấn bản tiếng Pháp:

    Saint! Saint! Saint, le Seigneur, Dieu de l'univers!

    Le ciel et la terre sont remplis de ta gloire.

    Hosanna au plus haut des cieux.

    Béni soit celui qui vient au nom du Seigneur.

    Hosanna au plus haut des cieux.

     

     

     

    - Ấn bản tiếng Việt:

    Thánh! Thánh! Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh.

    Trời đất đầy vinh quang Chúa.

    Hoan hô Chúa trên các tầng trời.

    Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa.

    Hoan hô Chúa trên các tầng trời.

     

    Chúng ta nhận thấy ấn bản mẫu cũng như ấn bản tiếng Anh và Pháp đều dùng từ Hosanna. Ngoài ra, nhiều ngôn ngữ khác, và ngay cả ngôn ngữ của các nước Á Châu như Nhật, Hàn, Trung, cũng để nguyên từ Hosanna. Vậy từ Hosanna có nghĩa là gì?

    Hosanna là tiếng Do Thái, được ghép bởi động từ hoshi’ah, ở mệnh lệnh cách, (có nghĩa là cứu), và từ na’ (xin). Hoshi’ah na’ hiểu sát nghĩa là xin cứu.

    Từ này được thấy trong thánh vịnh 117, câu 25, khi mô tả quang cảnh đón rước Đấng Mêsia dịp lễ đăng quang của Ngài (câu 19-27):

    Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ,

    lạy Chúa, xin thương giúp thành công. (Bản dịch của Nhóm PDCGKPV)

    Vì thế, không có gì lạ khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân Do Thái dùng bài ca này để chào đón Ngài như một Đấng Mêsia: Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời. (Mt 21, 9). Bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn không dịch hoan hô mà vẫn dùng Hosanna: Muôn chúc lành cho Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hôsanna trên chốn cao vời. Bản dịch Anh và Pháp (chỉ nêu hai bản dịch chính) cũng dùng Hosanna.

    Sau này, từ Hosanna đã trở thành một câu tung hô hân hoan biểu dương Thiên Chúa và các vị vua.

    Phụng vụ Giáo Hội dùng Hosanna trong Kinh nguyện Thánh Thể, trong kinh Thánh Thánh, Thánh như lời tung hô, thờ lạy, biểu dương sự vĩ đại và thánh thiện của Thiên Chúa Cha. Bài hát này kết hợp hai đoạn Kinh Thánh: lời chúc tụng của các thiên thần trong thị kiến của Isaia (Is 6, 2-3) và những lời tung hô của dân chúng khi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem (Mt 21, 9).

    *****

    Câu hỏi và kiến nghị

    1/ Trở lại vấn đề được đặt ra ở phần đầu bài viết: trong văn hóa Việt Nam, dùng cụm từ hoan hô để tung hô, ca tụng Thiên Chúa Cha có thích hợp hoặc bất kính hay không? Trước mặt vua (thực ra, không ai được nhìn mặt vua), ta tung hô Vạn tuế! Vạn tuế! Đối với Thiên Chúa, có từ nào cao trọng và xứng đáng hơn không?

    Thay vì: Hoan hô Chúa trên các tầng trời”,

    Chúng ta có nên nói: Vạn tuế Chúa trên các tầng trời”?

    Hoặc: Tung hô Chúa trên các tầng trời”?

    2/ Tại sao bản mẫu Sách lễ Rôma bằng tiếng La Tinh không dịch Hosanna ra tiếng La Tinh? Tại sao nhiều ngôn ngữ quốc tế không dịch Hosanna ra ngôn ngữ của nước họ? Phải chăng từ Hosanna khó dịch? Hoặc vì có nhiều nghĩa như từ Amen? Hoặc vì từ này quá quen thuộc trong phụng vụ Giáo Hội, nhất là Giáo Hội Âu Châu, nên muốn giữ lại từ này, như trường hợp của từ Halêluia (hoặc Alleluia)? (Trong Sách lễ Rôma, bản mẫu, cũng như trong nhiều ngôn ngữ quốc tế, ba từ Do Thái được sử dụng trong phụng vụ Thánh Lễ: Amen, HalêluiaHôsanna. Sách lễ Rôma tiếng Việt chỉ dùng Amen và Halêluia.)

    Nếu thế, có lẽ ta phải dịch như sau: Hôsanna trên các tầng trời (theo bản văn phụng vụ), hoặc: Hôsanna trên chốn cao vời (theo bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn), để dịch đúng theo bản gốc của sách lễ Rôma: Hosanna in excelsis! Đa số các nước khác họ cũng dịch như thế!

    Vậy tại sao Hosanna in excelsis lại được dịch là “Hoan hô Chúa trên các tầng trời”?

    *****

    Trên đây là một vài suy tư cá nhân. Người viết xin các nhà chuyên môn chỉ giáo và góp ý. Xin đạ tạ!

     

    Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

    Hẹn gặp lại

     

     

     

 

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

XIN GIẢI THÍCH  RÕ THÊM VỀ  NHỮNG KHÁC BIỆT CĂN BẢN GIỮA CÔNG GIÁO, CHÍNH THỐNG GIÁO, ANH GIÁO VÀ TIN LÀNH

 

Hỏi:

Trong bài trước cha đã nói  đến các Đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng khác nhau về nhiều mặt thần học, tín lý, giáo lý, bí tích,  phụng vụ .v.

Xin cha nói rõ hơn về những khác biệt này giữa Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo và Tin Lành.

 

Trả lời:

Như đã giải thích trong bài trước, Đạo Thánh  của Chúa Kitô  và Giáo Hội duy nhất  của Chúa xây trên Đá Tảng Phểrô,qua thời gian,   đã bị rạn nứt hay ly giáo ( schisms) phân chia thành  ba Nhánh Kitô Giáo là Công Giáo Roma (The Roman Catholicism )  , Chính Thống Giáo Đông Phương ( Eatern Orthodox Churches)  và Tin Lành ( Protestantism).Đây là hậu quả của những cuộc cải cách tôn giáo xảy ra vào thế kỷ XVI ở Tây Phương đã ,làm phát sinh các Giáo giáo trên đây.

Thật vậy,  từ đầu,  chỉ có Đạo Thánh của Chúa Kitô gọi chung là KitôGiáo (Christianity). Nhưng theo dòng thời gian,  đã có những biến cố gây ra tình trạng rạn nứt hay ly giáo (schisms) trong Giáo  Hội nói chung. Ngoài ra, còn một nhánh Kitô Giáo nữa là Anh Giáo ( Anglican Communion) do vua Henri VIII (1491-1547) của nước Anh  chủ xướng năm 1534 để lập một Giáo Hội riêng cho Nước Anh, tách khỏi Rôma chỉ vì Tòa Thánh La Mã ( Đức Giáo Hoàng Clement VII) đã không chấp nhận cho nhà vua ly di để lấy vợ khác.

Cho đến nay, các nhóm ly khai trên vẫn chưa hiệp thông được với Giáo Hội Công Giáo vì còn nhiều trở ngại chưa vượt qua được.. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng giới hạn trong câu hỏi được đặt ra,  tôi chỉ xin nên sau đây những dị biệt căn bản giữa bốn Nhánh Kitô Gíáo lớn trên đây mà thôi.

 

 

  I-Chính Thống  (orthodoxy) khác biệt với Công Gíáo La Mã ( Roman Catholicism) thé nào ?

 

Trước hết, danh xưng Chính Thống "Orthodoxy", theo ngữ căn (etymology) Hy lạp là " orthos doxa", có nghĩa là  "ca ngợi đúng (right-praise), "tin tưởng đúng " ( right belief) . Danh xưng này được dùng trước tiên để chỉ lập trường của các giáo đoàn Kitô đã tham dự các Công Đồng đại kết (Ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và nhất là Chalcedon (451) trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân chính( sound doctrines) , tinh tuyền của KitôGíáo để chống lại những gì bị coi là tà thuyết hay lạc giáo (heresy).Do đó,trong bối cảnh này, từ ngữ  "orthodoxy" được dùng để đối nghịch với từ ngữ " heresy" có nghĩa là tà thuyết hay lạc giáo.

 Nhưng  sau biến cố năm 1054 khi hai Giáo Hội  Kitô Giáo Hy Lạp ở Constantinople ( tượng trưng cho Đông Phương) và Giáo Hội Công Giáo LaMã ( Tây Phương) đã xung đột và ra vạ tuyệt thông cho nhau ( anthemas=excommunications) ngày 16 tháng 7 năm 1054  giữa Michael Cerularius, Thượng Phụ Constantinople và Đức cố Giáo Hoàng Leo IX vì có những bất đồng lớn về tín lý, thần học  và quyền bính, thì  danh xưng "Chính Thống" ( orthodoxy) lại được dùng để chỉ Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople đã tách ra khỏi  hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã. Sau này, Giáo Hội "Chính Thống" Hy Lạp ở Constantinople đã lan ra các quốc gia trong vùng như Thổ nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Cyprus, Finland, Latvia,  Lithuania,  Rumania, Bulgaria, Serbia, Ukraine...Vì thế,  ở mỗi quốc gia này cũng có Giáo Hội Chính Thống nhưng độc lập với nhau về mọi phương diện.Nghĩa là không có ai là  người lãnh đạo chung của các Giáo Hội này, mặc dù họ có tên gọi chung là các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) tách khỏi khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã.(Tây Phương)

Tuy nhiên, hiện nay Thượng Phụ ( Patriarch) Giáo Hội Chính Thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul  được coi là Thượng Phụ Đại Kết ( Ecumenical Patriarch) của các Giáo Hội Chính thông Đông Phương.Cách nay 7 năm Đức Thánh Cha Bê-nê-đich tô XVI ( đã về hưu năm 2013) đã sang thăm Đức Thượng phụ Giáo Chủ Chính Thống Thổ để tỏ thiện chí muốn đối thoại, đưa đến hiệp thông giữa hai Giáo Hội anh  em. Riêng Giáo Hội Chính Thống Nga, cho đến nay, vẫn chưa tỏ thiện chí muốn xích gần lại với Giáo Hội Công Giáo La Mã, vì họ cho rằng Công Giáo muốn "lôi kéo" tín đồ Chính Thống  Nga vào Công Giáo sau khi chế độ cộng sản ở Nga tan rã, tạo điều kiện thuận lợi cho Giáo Hội Chính Thông Nga hành Đạo. Dầu vậy, một biến cố mới xẩy ra trong năm  2016 là Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp Thượng Phụ Giáo Hội Chính Thông Nga tại MỄ TÂY CƠ (Mexico), nhưng kết quả của cuộc gặp gỡ lịch sử này giữa hai vi lãnh đạo Công Giáo và Chính Thống Nga không được công bố sau đó.Nhưng đây là một dấu chỉ tích cực giữa hai Giáo Hội anh  em muốn hiệp nhất với nhau trong cùng một niềm tin vào Chúa Kitô.

Trước khi xẩy ra cuộc ly giáo năm 1054, hai Nhánh Kitô giáo lớn ở Đông và Tây phương( The Greek Church and the Holy See=Rome)  nói trên vẫn hiệp thông trọn vẹn với nhau về mọi phương diện vì cả hai Giáo Hội anh  em  này đều là kết quả truyền giáo ban đầu của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô đã rao giảng Tin mừng ở vùng  đất nay là lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roma) trong khi em ngài, Thánh Anrê (Andrew)  sang phía Đông để rao giảng trước hết ở Hy lạp và sau đó phần đất nay là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế, cả hai Giáo Hội KitôGiáo Đông Phương Constantinople và Tây Phương Rôma đều có nguồn gốc Tông đồ thuần túy ( Apostolic succession).

Sau đây là những điểm gây bất đồng khiến đi đến ly giáo (schism) Đông Tây năm 1054.

 

 1- về tín lý, Giáo Hội Chính Thống Đông Phương- tiêu biểu ban đầu là  Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople- đã  bất đồng với Giáo Hội Công Giáo La Mã về từ ngữ “ Filioque” ( và Con) thêm vào trong Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “Chúa Thánh Thần bởi  Chúa Cha, và Chúa Con mà ra”.

Giáo Hội Chính Thông Đông Phương cũng không công nhận các tín điều về  Đức Mẹ  Vô Nhiễm  Thai (Immaculate Conception) và Lên Trời cả hồn xác (Assumption) mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Sở dĩ thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng công bố  với ơn bất khả ngộ (Infallibility) mà Công Đồng Vaticanô I (1870) đã nhìn nhận.

Chính vì họ không công nhận quyền và vai trò lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma, nên đây là trở ngại lớn nhất cho sự hiệp nhất (unity) giữa hai Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lịch sử  năm 1966 giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinople khi đó là Athenagoras I.

Giáo Hội Chính Thống có đủ bảy bí tích hữu hiệu như Công Giáo. Tuy nhiên, với bí tích rửa tội  thì họ  dùng  nghi thức dìm xuống nước (immersion) 3 lần để nhấn mạnh ý nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi Giáo Hội Công Giáo chỉ dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để vừa chỉ sự tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân ( đối với người dự tòng) và tái sinh vào sự sống mới, mặc lấy Chúa Kitô.

Chính vì Giáo Hội Chính Thống có đủ các bí tích hữu hiệu như Công Giáo, nên giáo dân Công Giáo được phép tham dự Thánh lễ và lãnh các bí tích hòa giải và sức dầu của Chính Thống nếu không tìm được nhà thờ Công Giáo hay linh mục Công giáo khi cần..

 

2-Về phụng vụ, Giáo Hội Chính Thống dùng bánh có men (leavened bread) và ngôn ngữ Hy lạp  khi cử hành phung vụ  trong khi Giáo Hội Công Giáo dùng bánh không men (unleavened bread) và tiếng Latinh trong phụng vụ thánh trước Công Đồng Vaticanô II, và nay là các ngôn ngữ của mọi tín hữu thuộc  mọi nền văn hóa, chủng tộc khác nhau, trong đó có tiếng Viêt Nam.

 

3-Sau hết, về mặt kỷ luật giáo sĩ:  các Giáo Hội Chính Thông cho phép các phó tế và linh muc được kết hôn trừ Giám mục, trong khi kỷ luật độc thân (celibacy) lại  được áp dụng cho mọi cấp bậc trong hàng giáo sĩ và tu sĩ Công Giáo, trừ phó tế vĩnh viễn (permanent deacons).

Đó là những khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo                                                                                                                                         La Mã cho đến nay.

Tuy nhiên, dù có những khác biệt và khó khăn trên đây, Giáo hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc tông đồ và về nền tảng đức tin, giáo lý, bí tích và Kinh thánh. Vì thế,  giáo lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính thống, sự hiệp thông này sâu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy đủ để có thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô” (x.SGLGHCG, số 838).

Vì Chính Thống Giáo có đủ bảy bí tích hữu hiệu, nên giáo dân Công Giáo được phép tham dự Thánh Lễ và lãnh các bí tích hòa giải và sức dầu ở  nhà thờ và các linh mục Chính Thống, nếu không tìm được nhà thờ và linh mục Công Giáo nơi mình cư ngụ.

 

II- Tin lành ( Protestantism)Anh Giáo ( Anglican Communion) và những khác biệt với Công Giáo.

 

Như đã nói trong bài trước, Tin lành, nói chung, là Nhánh KitôGíáo đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo sau những cuộc cải cách tôn giáo do Martin Luther, một linh mục Dòng thánh Augustinô, chủ xướng vào năm 1517 tại Đức và lan sang Pháp với John Calvin và Thụy sỹ với Ulrich Zwingli  và các nước Bắc Âu sau đó.Hiện nay có hàng chục ngàn giáo phái này ở Mỹ, hoạt động với nhiều danh xưng khác nhau, nhưng cùng ít nhiều có liên hệ đến nguồn gốc thệ phản ( protestantism)nói trên. Một đặc điểm của các giáo phải Tin Lành là họ không có hệ thống giáo quyền ( Hierachy) chung như Giáo Hội Công Giáo có hàng giáo phẩm tối cao từ trung ương Roma cho đến các giáo hội địa phương ở mỗi quốc gia.Các nhánh Tin Lành hầu như độc lập với nhau về quyền bính, nhân sự, tài chính  và phương thức hành đạo.

 

 1-Ở góc độ thần học,

Những người chủ trương cải cách (reformations) trên đã hoàn toàn bác bỏ mọi nền tảng thần học về bí tích và cơ cấu tổ chức giáo quyền (Hierachy) của Giáo Hội Công Giáo. Họ chống lại vai trò trung gian của Giáo Hội trong việc hòa giải con người với Thiên Chúa qua bí tích tha tội hay hòa giải (reconciliation) vì họ không nhìn nhận bí tích truyền chức thánh (Holy Orders) qua đó Giám mục, Linh mục được truyền chức thánh và có quyền tha tội nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi) cũng như thi hành mọi sứ vụ (ministry) thiêng liêng khác. (rửa tội, thêm sức, thánh thể,  Xức dầu thánh, chứng hôn).

Điểm căn bản trong nền thần học của Tin Lành là con người đã bị tội tổ tông phá hủy mọi khả năng hành thiện rồi (làm việc lành), nên mọi nỗ lực cá nhân để được cứu rỗi đều vô ích và vô giá trị.Do đó, chỉ cần tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô dựa trên Kinh Thánh là được cứu rỗi mà thôi. (Sola fide, sola scriptura).

Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo tin rằng con người vẫn có trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi. Nói khác đi, muốn được cứu độ, con người phải cậy nhờ trước hết vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, nhưng cũng phải có thiện chí công tác với ơn thánh để sống và thực thi những cam kết khi được rửa tội. Nếu không, Chúa không thể cứu ai được như Chúa Giêsu đã nói rõ:

 “không phải bất cứ ai thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ có ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7:21).

Nói khác đi, không phải rửa tội xong, rồi cứ hát Alleluia và kêu danh Chúa Kitô là được cứu độ. Điều quan trong hơn nữa là phải sống theo đường lối của Chúa, nghĩa là thực thi những cam kết khi được rửa tội: đó là mến Chúa, yêu người và xa lánh tội lỗi. Nếu không, rửa tội và kêu danh Chúa thôi vẫn  ra vô ích.

 Anh em tin lành không chia sẻ quan điển thần học này, nên họ chỉ chú trọng vào việc đọc và giảng Kinh Thánh nhưng không nhấn mạnh đến phần đóng góp của con người như Chúa Giêsu đòi hỏi trên đây. Ngoài phép rửa và Kinh Thánh, họ không tin và công nhận một bí tích nào khác.Điển hình

Là bí tích hòa giải mà các giám mục và linh mục Công Giáo được phép tha tội cho các hối nhân nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christi).

,

Lại nữa, vì không công nhận phép Thánh Thể, nên họ không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong hình  bánh và rượu, mặc dù một số Giáo phái Tin lành có nghi thức bẻ bánh và uống rượu nho khi họ tụ họp để nghe giảng Kinh thánh., Nhưng đó không phải là cử hành Bí Tích Thánh Thể ( Eucharist) như trong Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo Đông Phương.. Sứ vụ quan trọng của họ chỉ là giảng Kinh Thánh  vì họ chỉ  tin có Kinh Thánh ( Sola Scriptura) mà thôi.

 

2-  Nhưng Kinh Thánh được cắt nghĩa theo cách hiểu riêng của họ, nên có rất nhiều mâu thuẫn hay trái ngược với cách hiểu và cắt nghĩa của Giáo Hội Công Giáo.

Thí dụ, câu Phúc Âm trong Matthêu 22 : 8-9 trong đó Chúa Giêsu dạy các tông đồ “ không được gọi  Ai dưới đất là Cha, là Thầy .”. anh  em Tin Lành  hiểu lời Chúa trong ngữ cảnh (context)  câu trên hoàn toàn theo nghĩa đen (literal meaning) nên đã chỉ trích Giáo Hội Công Giáo là ‘lạc giáo=heretical” vì đã cho gọi Linh mục là “ Cha” (Father, Père, Padre)!.

Thật ra, Giáo Hội cho phép gọi như vậy, vì căn cứ vào giáo lý của Thánh Phaolô, và dựa vào giáo lý này,  Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Tín lý Lumen Gentium đã dạy rằng; “ Linh mục phải chăm sóc giáo dân như những người cha trong Chúa Kitô  vì đã sinh  ra họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn.” (1 Cor 4: 15; LG. số 28).

Một điểm sai lầm nữa trong cách đọc và hiểu kinh thánh của Tin lành là câu Phúc Âm Thánh Marcô

kể lại một ngày kia Chúa Giêsu đang giảng dạy cho một đám đông người thì Đức Mẹ cà các môn đệ

của Chúa đến. Có người trong đám đông đã nói với Chúa rằng: “Thưa Thầy có mẹ và anh em, chị em của Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy.” (Mc 3:32). Anh em tin lành đã căn cứ vào câu này để phủ nhận niềm tin Đức Mẹ trọn đời đồng trinh của Công Giáo và Chính thống, vì họ cho rằng  Mẹ Maria đã sinh thêm con cái sau khi sinh Chúa Giêsu. Nghĩa là họ chỉ tin Đức Mẹ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi. Thật ra cụm từ “anh chị em “trong ngữ cảnh (context) trên đây chỉ là anh chị em theo nghĩa thiêng liêng (spiritual brotherhood, sisterhood)  và đây là cách hiểu và giải thích Kinh Thánh của Công Giáo và Chính Thống, khác với Tin lành và Anh giáo.

Sau hết, về mặt quyền  bình, các giáo phái Tin lành và Anh giáo  đều không công nhận Đức Giáo Hoàng là Đại Diện (Vicar) duy nhất của Chúa Kitô trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Người trên trần thế.

Chính vì không công nhận Đức Giáo Hoàng là Thủ Lãnh Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô nên đây là trở ngại lớn cho các nhánh Tin Lành và Anh giáo  muốn hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo.

 

3- về bí tích:

Tất cả các nhóm Tin Lành và Anh Giáo đều không có các bí tích quan trọng như Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Sức Dầu bệnh nhân và Truyền Chức Thánh vì họ không có nguồn gốc Tông Đồ ( Apostolic succession)-  và quan trọng hơn nữa,  người sáng lập của họ là người thường dân  ( Martin Luther, John Calvin..Henry VIII)  chứ không phải là chính Chúa Giêsu-Kitô, Đấng đã lập Giáo Hội của Chúa trên Đá Tảng Phêrô.( Mt 16: 18-19)  và Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phê rô và các Giám mục hiệp thông với Ngài điều khiển” như Thánh Công Đồng Vaticanô II đã tuyên bố. ( x. LG. số 8). Cho nên các nhánh Tin Lành và Anh giáo  đều  không có chức linh mục và giám mục hữu hiệu để cử hành các bí tích trên.

 Đa số các nhóm Tin Lành và Anh Giáo  chỉ có phép rửa ( Baptism) mà thôi. Nhưng nếu nhóm nào không rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi (The Trinitarian Formula) như nhóm Bahai HullahMarmonites ở Mỹ ,  thì không thành sự ( invalidly) . Do đó, khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo, tín hữu Tin Lành nào không được rửa tội với nước và công thức trên thì phải được rửa tội lại như người dự  tòng.(catechumens). Nếu họ được rửa tội thành sự thì chỉ phải tuyên xưng đức tin khi gia nhập Công Giáo mà thôi

III-Anh Giáo ( Anglican Communion)

Nhóm Kitô Giáo này do Vua Henry VIII của Nước Anh tự tách ra khỏi hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo Roma từ năm 1534 vì  nhà vua bất mãn với Đức Thánh Cha Clemente VII, đã không cho phép ông li dị để lấy vợ khác.Nhóm này khác biệt với Giáo Hội Anh Quốc ( The Church òf England) Là Giáo Hội hiệp thông và vâng  phục Giáo Hội Công Giáo Roma do Đức Thánh Cha làm Thủ Lãnh với sự hiệp thông và vâng phục trọn vẹn của các Giáo Hội Công Giáo địa phương ở khắp nơi trên thế giới.Người lãnh đạo Nhóm Anh Giáo nói trên là Vua  Nứớc Anh ( nay là Nữ Hoàng Elizabeth II).Vì không có nguồn gốc Tông Đồ, nên Anh Giáo không có các Bí Tich hữu hiệu như Công Giáo, trừ Phép Rửa mà Anh Giáo có chung với các nhóm Tin Lành và với Công Giáo.Vì  không có các Bí Tích Thánh Thể và Hòa Giải hữu hiệu  nên các linh mục Anh Giáo không thể cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn ( The Eucharist) hữu hiệu như Công Giáo được. Cho nên,  các tín hữu Công Giáo không được tham dự Lễ của các linh mục Anh Giáo để thay cho lễ của Công Giáo, cũng  như không  thể  đi xưng tội với các linh mục Anh Giáo vì họ không có Bí Tich hòa giải ( Reconciliation) hữu hiệu như Công Giáo.Sau hết, nếu các linh mục và giám mục Anh Giáo trở lại Công Giáo thì họ phải được huấn luyện lại và  chiu chức lại trong Giáo Hội Công Giáo, vì Công Giáo không nhìn nhận các bí tích của Anh giáo trừ Phép Rửa.Chỉ có một đặc ân cho các linh mục Anh Giáo là họ được phép giữ vợ con sau khi được chịu chức linh mục trong Giáo Hội Công Giáo.Các tín hữu Anh Giáo thì phải tuyên xưng đức tin khi họ gia nhập Giáo Hội Công Giáo.Họ không cần được rửa tội lại vì Công Giáo nhìn nhận Phép Rửa của Anh Giáo.Chỉ có những ai không được rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi ( Trinitarian Formula) như nhóm Bahai HulladMarmonites  bên Mỹ  thì mới phải được rửa tội lại khi họ gia nhập Giáo Hội Công Giáo mà thôi.

Đó là những khác biệt căn bản giữa Công Giáo,Chính Thống Giáo,  Tin Lành và Anh Giáo nói chung. Tuy nhiên, Giáo Hội Công Giáo vẫn hướng về các anh em ly khai này và mong ước đạt được sự hiệp nhất với họ qua nỗ lực đại kết (ecumenism) mà Giáo hội đã theo đuổi và cầu nguyện  trong nhiều năm qua.

Chúng ta tiếp tục cầu xin cho mục đích hiệp nhất này giữa những người có chung niềm tin vào Chúa Kitô nhưng  chưa hiệp thông (communion) và hiệp nhất ( unity) với Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội duy nhất Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng  Tông đồ Phêrô, do Đức Thánh Cha, cũng là Giám Mục Roma, người kế vị Thánh Phêrô  trong trách nhiệm  coi sóc  và lãnh đạo Giáo Hội  với sự cộng tác và vâng phục trọn vẹn của Giám Mục Đoàn. (College of Bishops) hay của các Giáo Hội Công Giáo địa phương ở các quốc gia trên thế giới.Amen.

Ươc mong những giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.

 

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

DMin( Doctor of Ministry=Tiến Sĩ Sứ Vụ),Ph.D ( Tiến sĩ Triết Học )

 

 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CHỦ TẾ CỨ ĐỨNG?

  •  
    BBT CGVN
     


    Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới

    Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity  

    (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39)

    www.conggiaovietnam.net       This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

     

    Chuyên mục:

    Tôi Tin, Chúng Tôi Tin!

     

    Tại sao vị chủ tế cứ đứng tại bàn thờ

    trong suốt Thánh lễ?

     

     

     

     

    Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

    Giáo Sư Phụng Vụ

    Kính mời theo dõi video tại đây:

    https://bit.ly/3mgM0D6

     

     

    Khi tham dự Thánh lễ tại các nhà thờ hay nhà nguyện, thường chúng ta chỉ chú ý đến vị trí của giảng đài (1) là nơi cử hành «phụng vụ Lời Chúa», và nhất là vị trí của bàn thờ, nơi cử hành «phụng vụ Thánh Thể», nhưng có một vị trí cũng cần quan tâm trong khi cử hành Thánh lễ, đó chính là ghế chủ tọa. Vậy vị trí này có ý nghĩa gì đối với vị chủ tế và những người tham dự phụng vụ? Chúng ta có thể nhận thấy tại một số nhà thờ khi cử hành Thánh lễ, sau khi hôn bàn thờ, vị chủ tế đến ghế chủ tọa để cử hành nghi thức đầu lễ, còn ở nhiều nhà thờ khác, vị chủ tế lại đứng tại bàn thờ. Hoặc có những vị chủ tế đứng giảng tại giảng đài, nhưng một số khác lại đứng giảng ngay tại bàn thờ. Vậy theo quy chế phụng vụ, các vị chủ tế có được tùy tiện thay đổi vị trí giảng không? Quy chế phụng vụ nào nói về vị trí của vị chủ tế? Tại sao không có sự thống nhất chặt chẽ giữa các nơi trong phụng vụ Thánh lễ? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu vấn đề này.

    Trong sách lễ Rôma, ấn bản mới nhất (2002) (2), phần Quy Chế Tổng Quát (QCTQ) có nói đến «ghế chủ tọa». Vị trí của ghế này thường được đặt ở bên (phải hoặc trái) bàn thờ (như trong sơ đồ) và được nói đến như sau:

     

     

     - QCTQ 50: «Dứt ca nhập lễ, Linh mục đứng tại ghế, cùng toàn thể cộng đoàn làm dấu Thánh Giá trên mình. Tiếp đó, Linh mục dùng lời chào biểu thị cho cộng đoàn biết sự hiện diện của Chúa. Lời chào của Linh mục và câu đáp của cộng đoàn nói lên mầu nhiệm của Hội Thánh được quy tụ.»

    - QCTQ 136: «Linh mục đứng giảng tại ghế hoặc tại chính giảng đài hoặc tuỳ nghi tại nơi nào khác thích hợp. Giảng xong, có thể giữ thinh lặng một lát.»

    - QCTQ 138: «Sau Kinh Tin Kính, Linh mục đứng tại chỗ, chắp tay, nói mấy lời vắn tắt, mời gọi tín hữu đọc lời nguyện chung» (lời nguyện tín hữu).

    Như thế, sau bài hát nhập lễ, vị chủ tế không đứng tại bàn thờ mà «đứng tại ghế», tức là ghế chủ tọa, để cử hành nghi thức đầu lễ, nơi đó có để một giá sách, một micro và sách lễ Rôma cho ngài. Ngài đến giảng đài để công bố Tin Mừng (nếu có phó tế thì vị này sẽ công bố Tin Mừng (QCTQ 94); nếu là Thánh lễ đồng tế, thì một linh mục đồng tế sẽ công bố Tin Mừng chứ không phải vị chủ tế (QCTQ 59). Sau bài giảng (tại giảng đài hoặc tại ghế chủ tọa hoặc ở một nơi nào khác, ngoài bàn thờ), vị chủ tế trở về ghế chủ tọa để xướng Kinh Tin Kính và mở đầu phần lời nguyện tín hữu.

     

     

     

    - QCTQ 310: «Ghế của Linh mục chủ tế phải nói lên nhiệm vụ của ngài là chủ toạ cộng đoàn và điều hành kinh nguyện. Vì thế, chỗ thích hợp nhất là phía đầu cung thánh, nhìn xuống cộng đoàn, trừ phi kiến trúc thánh đường hoặc những hoàn cảnh không cho phép, ví dụ: khoảng cách quá xa làm cho việc hiệp thông giữa Linh mục và cộng đoàn trở nên khó khăn, hoặc nếu nhà tạm đặt chính giữa phía sau bàn thờ. Phải tránh các loại ngai toà...»

    Theo đoạn trên, trong Thánh lễ, ghế chủ tọa nhấn mạnh vai trò và chức vụ của vị chủ tế là «chủ tọa cộng đoàn và điều hành kinh nguyện». Giám mục hay linh mục chủ tế Thánh lễ là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người. Vị chủ tế chứng thực rằng trong việc quy tụ các tín hữu, chính Chúa Kitô là Đấng quy tụ, Người nói, Người trao ban Mình Người, Người xây dựng Giáo Hội.

     

     

     

    Ghế chủ tọa trong các nhà thờ lấy mẫu của nhà thờ chính của giáo phận, là nhà thờ của giám mục, gọi là nhà thờ chính tòa, trong đó có tòa (cathedra) hoặc ghế giám mục. Tại nơi đây (chứ không phải tại bàn thờ), giám mục cử hành nghi thức đầu lễ.

    Ghế chủ tọa của giám mục biểu tượng quyền bính của ngài cũng như dấu chỉ hiệp thông giữa ngài với Đức Giáo Hoàng và với các giám mục khác trên toàn thế giới. Chính tại ghế chủ tọa mà giám mục chất vấn các tiến chức linh mục và phó tế trong nghi thức phong chức. Ghế chủ tọa trong mỗi nhà thờ được coi như là đại diện cho quyền giảng dạy của giám mục giáo phận khi vị linh mục chủ tế ngồi vào đó.

    Trong câu «Chỗ (của ghế) thích hợp nhất là phía đầu cung thánh, nhìn xuống cộng đoàn», cụm từ «phía đầu cung thánh» không xác định rõ ràng vị trí trong cung thánh. Vì thế, chúng ta cũng có thể hiểu «đầu cung thánh» là phía sau bàn thờ: vị chủ tế có thể chủ tọa ở ghế đặt sau bàn thờ (có giá sách và micro), nhưng không có nghĩa là ngài chủ tọa tại bàn thờ!

    Như thế, chỉ sau phần Phụng vụ Lời Chúa, vị chủ tế mới tiến lên bàn thờ để bắt đầu cử hành Phụng vụ Thánh Thể. Lúc này, các thừa tác viên mới mang lên bàn thờ sách Lễ và những yếu tố phụng vụ khác. Nói cách khác, bàn thờ chỉ là nơi dâng hiến hy lễ và chia sẻ bàn tiệc thánh, nên những gì diễn ra trước đó (nghi thức đầu lễ, Phụng vụ Lời Chúa), vị chủ tế không được đứng tại bàn thờ! (3)

    Để hiểu rõ hơn các vị trí khác nhau trên cung thánh, ta có thể so sánh một bữa tiệc gia đình với Thánh Lễ hoặc bữa tiệc Thánh Thể.

    Bữa tiệc gia đình và Thánh Lễ có nhiều điểm tương đồng. Cả hai hành động này cũng diễn ra theo bốn giai đoạn.

    1. Trước tiên là giai đoạn đón tiếp. Khách đến gõ cửa, chủ nhà mở cửa đón họ. Hai bên chào hỏi vui vẻ. Thánh Lễ cũng diễn tiến như thế: linh mục đón tiếp các tín hữu; các tín hữu chào hỏi nhau. Và Thiên Chúa, qua trung gian vị chủ tế, đón tiếp con cái mình. Đó là chặng đầu tiên của Thánh Lễ, gọi là nghi thức đầu lễ.

    2. Sau khi đón tiếp khách mời, chủ nhà mời họ vào phòng khách. Đó là giai đoạn trò chuyện. Trong Thánh Lễ, sau nghi thức đầu lễ là phần Phụng vụ Lời Chúa. Qua các bài đọc Cựu Ước và Tân Ước, Thiên Chúa nói với dân Người; cộng đoàn đáp lại bằng thánh vịnh (hoặc các bài thánh ca Kinh Thánh), bài hát Halêluia, Kinh Tin Kính và lời nguyện tín hữu.

    3. Khi đã nói chuyện xong, và nhất là các món ăn đã chuẩn bị xong, chủ nhà mời mọi người vào bàn. Đó là lúc nhập tiệc. Trong Thánh Lễ cũng vậy, sau phần Phụng vụ Lời Chúa là đến giai đoạn bữa tiệc được diễn ra tại bàn thờ. Bữa tiệc bao gồm ba thời điểm: lúc mang bánh và rượu tới, lúc đọc Kinh nguyện Thánh Thể, lúc chia sẻ bánh và rượu thánh. Tất cả được gọi là Phụng vụ Thánh Thể.

    4. Thế rồi, sau một bữa tiệc ngon là đến lúc chia tay trở về nhà mình. Trong Thánh Lễ, ta cũng có nghi thức kết lễ (nghi thức sai đi); chủ tế hoặc phó tế nói: «Chúc anh chị em đi bình an», và cộng đoàn thưa: «Tạ ơn Chúa».

    Chào hỏi, hàn huyên, ăn tiệc, chia tay. Đây là bốn giai đoạn của bữa tiệc gia đình, và cũng là bốn giai đoạn của Thánh Lễ.

    ****

    Tại tư gia, ta không tiếp đón khách ở nhà bếp hay ở bàn ăn bao giờ, cũng không nói chuyện hỏi thăm nhau ở bàn ăn trong lúc người nhà đang dọn thức ăn lên.

    Vậy tại sao ở nhà thờ, nhà của Chúa, nơi linh thiêng và trang trọng, ta không tôn trọng những nơi đặc biệt trong gian cung thánh?

    Nếu QCTQ 309 nói rõ: «Tại giảng đài chỉ đọc các bài đọc (Kinh Thánh), thánh vịnh đáp ca và bài công bố Tin Mừng Phục Sinh. Cũng tại đó, có thể giảng và đọc lời nguyện chung, tức là lời nguyện tín hữu», tại sao người ta lại thấy linh mục lên giảng đài, là nơi để công bố Lời Chúa, để thông tin, thông báo...?

    Nếu bàn thờ chỉ được sử dụng từ phần Phụng vụ Thánh Thể, tại sao người ta lại thấy vị chủ tế cử hành nghi thức đầu lễ tại bàn thờ, lại còn giảng tại bàn thờ nữa?

    Công đồng Trentô ở thế kỷ XVI, với Sách lễ Đức Piô V ra đời năm 1570, qui định rằng tư tế chỉ đứng tại bàn thờ trong suốt Thánh Lễ, sau khi đọc những lời nguyện ở trước bàn thờ. Vì thế, thói quen này vẫn tồn tại đến hôm nay. Nếu luật phụng vụ sau Công đồng Vaticanô II đã sửa đổi các vị trí và đối tượng trên cung thánh, tại sao từ QCTQ (1969) của ấn bản I của Sách lễ Rôma cho đến nay (2021) là 52 năm, hơn nửa thế kỷ, ta vẫn chưa sửa đổi, vẫn chưa áp dụng đúng đắn và nghiêm túc luật phụng vụ của Giáo Hội?

    Nếu mỗi nhà thờ đều có ghế chủ tọa, dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Kitô trong Giáo Hội qua vị chủ tế sẽ được nổi bật hơn, ý nghĩa Thánh Lễ sẽ phong phú hơn, phụng vụ Thánh Lễ của Giáo Hội hoàn vũ sẽ thống nhất và hài hòa hơn, đó là một trong những dấu chỉ sự hiệp nhất của Giáo Hội. Mong thay!

    ---------------

    (1) Giảng đài (dịch từ tiếng Hi-lạp ambôn - đỉnh nhỏ - qua tiếng Anh Ambo, tiếng Pháp Ambon) là đài để giảng? Nếu trước tiên đó là nơi «để Lời Chúa được loan báo» (QCTQ 309), tại sao ta không dịch là: bục Lời Chúa, tòa Lời Chúa, đài Lời Chúa...? Mong các chuyên viên ngôn ngữ học kiếm ra từ thích ứng và đúng nhất!

    (2) Từ Công đồng Vaticanô II (1962-1965), có ba ấn bản mẫu Sách lễ Rôma: ấn bản I (1970), ấn bản II (1975), ấn bản III (2002).

    (3) Chỉ trong một vài trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn khi không gian cung thánh quá nhỏ hẹp, hoặc trong Thánh Lễ chỉ có một người giúp lễ, vị chủ tế mới được cử hành nghi thức đầu lễ ở bàn thờ.

    Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

    Hẹn gặp lại

    --------------------------------